CHƯƠNG III
CHỨNG QUỶ NHẬP
Chúng ta vừa đọc thấy những thí dụ điển hình nổi tiếng nhất về việc ma quỷ quấy nhiễu con người. Trước khi đề cập đến những trường hợp quỷ nhập khác hẳn với những quấy nhiễu đó, chúng tôi nghĩ cần phải trình bày một vài cách giải thích có tính cách lý thuyết về sự kiện quỷ nhập.
MỘT SỰ KIỆN LẠ THƯỜNG
Có lẽ không có sự kiện nào lạ thường hơn chứng quỷ nhập. Vô số kinh nghiệm của con người đã chứng tỏ một sự kiện như thế là có thực. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, chắc chắn từ lâu đã có những người bị quỷ nhập rồi. Chính Chúa Giêsu đã từng gặp rất nhiều trường hợp quỷ nhập, sách Tin Mừng bảo đảm với chúng ta điều đó. Giáo Hội thời nguyên thuỷ cũng gặp rất nhiều trường hợp quỷ nhập. Trong số các chức thánh của hàng giáo sĩ có thiết lập chức trừ quỷ, đó là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ điều ấy. Trong các chương kế tiếp, chúng tôi dự định sẽ đưa ra những thí dụ đáng kinh ngạc, càng mới càng tốt, về những hiện tượng quỷ nhập. Vả lại, thần học Công giáo đã đặt nặng vấn đề này, đến nỗi đã nghiên cứu thành một lý thuyết hoàn chỉnh về sự kiện quỷ nhập, còn sách Các phép của Giáo Hội La Mã, một bộ phận chính thức trong tác vụ giáo sĩ đã cho biết những dấu hiệu giúp nhận ra những hiện tượng nào là quỷ nhập thực sự, và đưa ra những phương cách chữa trị, được gọi một cách đơn giản là các phép trừ quỷ mà chúng ta sắp bàn tới.
Về những gì liên quan đến bản chất và nguyên nhân của chứng quỷ nhập, chúng tôi không thể chọn được một cuốn sách chỉ nam nào khác chắc chắn và chính xác hơn tác phẩm của Đức Cha Saudreau: L'État mystique... et les faits extraordinaires de la vie spirituelle (Tình trạng thần bí... và những sự kiện lạ thường trong đời sống thiêng liêng) (xb lần 2, Paris, Amat, 1921, chương 22, tựa đề Những sự kiện ngoại nhiên có tính ma quỷ).
BẢN CHẤT CHỨNG QUỶ NHẬP
Đôi khi người ta so sánh chứng quỷ nhập với việc Nhập Thể chỉ vì có một tương tự nào đó. Chứng quỷ nhập là một bắt chước, và theo từ ngữ mà chúng ta đã dùng, là một "trò khỉ" của Satan, có thể nói là một hình thức méo mó của mầu nhiệm Nhập Thể. Đức Cha Saudreau nói: "Chứng quỷ nhập không bao giờ tới mức độ hoá hồn", nghĩa là ma quỷ không bao giờ thay thế được linh hồn của người bị quỷ nhập, nó không làm cho thân xác người đó sống động được, nhưng không biết bằng cách nào nó lại xâm chiếm thể xác, cư ngụ trong thân xác, hoặc tại não bộ, hoặc ở trong lòng của nạn nhân. Vì thế nó làm cho linh hồn của nạn nhân không còn làm chủ được thể xác và tay chân mình nữa. Nó làm cho nét mặt nạn nhân có những biểu lộ kì dị tương ứng với việc làm của nó, nghĩa là nó biểu lộ sự điên dại, giận dữ, đầu óc kiêu căng, ý đồ của nó, hoặc biểu lộ đau khổ khi bị người ta dùng phép trừ quỷ! Dường như ma quỷ dùng mắt nạn nhân để nhìn, dùng miệng nạn nhân để nói, đến độ dẫu nạn nhân là một người tế nhị, có giáo dục đàng hoàng, vẫn thốt ra một thứ ngôn ngữ thường là tục tĩu, bỉ ổi, thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với nạn nhân ấy. Vì ma quỷ rất đông, mà mỗi con quỷ có một tính nết riêng, nên chúng biểu lộ trên nạn nhân những tính nết riêng biệt của từng con quỷ, đến độ khi có nhiều quỷ trong nạn nhân, thì người ta có thể đoán được con quỷ nào đang hoạt động.
Tuy nhiên, hành động của ma quỷ vẫn bị lệ thuộc vào bản chất và tính nết của nạn nhân. Nó cũng phải dùng những cách nói, cách xử sự, cách hành động quen thuộc của nạn nhân nữa.
Không phải lúc nào ma quỷ cũng hiện diện trong người của nạn nhân. Nó muốn ở trong nạn nhân lúc nào thì ở. Nó gây nên những rối loạn bệnh hoạn nơi nạn nhân. Nhờ các phép trừ quỷ, một người bị quỷ nhập có thể được khỏi bệnh tạm thời, để rồi sau đó lại bị ma quỷ chiếm lại. Khi ở tình trạng bình thường, người bị quỷ nhập cũng giống y như mọi người. Người ta không cho rằng người bị quỷ nhập là chủ thể tạo ra những biểu hiện dị thường như người ta thấy trong một cơn khủng hoảng của nạn nhân. Chính các cơn khủng hoảng cũng luôn luôn mãnh liệt như nhau. Trong một số trường hợp, nạn nhân vẫn giữ được trọn vẹn lương tâm mình. Nhưng y không thể giữ được những điệu bộ vặn vẹo, khoa chân múa tay hay những lời nói mà một "kẻ" khác làm hoặc nói trong y, và những cái đó vẫn là xa lạ đối với y. Nhiều khi ma quỷ làm nạn nhân ngủ để y không biết gì về những chuyện xảy ra nơi y, do đó, y không còn nhớ gì cả. Ma quỷ ra vào rất thường xuyên nơi thân xác nạn nhân, một cách nào đó nó đi dạo từ đầu đến chân y, làm cho một cánh tay hay chân cứng đơ như một thanh sắt mà không làm cho tay hay chân kia bị gì cả.
Mặt khác, không phải mọi con quỷ đều hành động theo cùng một cách, vì bọn chúng không con nào giống con nào. Người viết tiểu sử của thánh Martin - một người trừ quỷ tài ba của thế kỷ thứ 4 - đã nhận xét như thế.
Không phải là phi lý mà người viết tiểu sử thánh Martin tin rằng tất cả các thần linh của dân ngoại đều là ma quỷ, nhưng ông cho rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa thần Mercure, là một con quỷ hoạt bát, nhanh nhẹn, láu lỉnh, kiên trì, và thần Jupiter mà ông đánh giá là thô kệch và đần độn: Jovem brutum et hebetem esse dicebat. Cũng vậy, theo Jean Cassien thì cha Serenus có nói: "Không phải con quỷ nào cũng độc ác như nhau, điên dại như nhau, mạnh mẽ và tinh quái như nhau". Về sau, chúng ta sẽ thấy quỷ kiêu ngạo là Satan, quỷ hà tiện có lẽ là Belzebuth, và quỷ ô uế có tên là Isacaron, trong một trường hợp quỷ nhập mà chúng ta sẽ tìm hiểu. Và còn có những con quỷ lười biếng, vô độ, phạm thượng... Không có gì ngăn cản các con quỷ có những "chuyên môn" này hay "chuyên môn" kia trong chiều hướng ác, hay trong những tật xấu khác. Không phải con quỷ nào cũng có một quyền lực như nhau. Có những con quỷ bị phép trừ quỷ đuổi đi dễ dàng, hoặc không trở lại nữa. Có những con cầm cự lâu dài, ngoan cố trở lại, hoặc trở đi trở lại hoài. Đức Cha Saudreau nhận xét: "Khi những con quỷ thuộc loại 'bét' quấy phá, thì chỉ cần đọc một vài kinh, làm một vài việc đạo đức hay nói một vài lời cầu nguyện thì cũng đủ khiến chúng phải chấm dứt".
Trái lại, trong những trường hợp quỷ nhập nổi tiếng nhất, vị trừ quỷ phải kiên trì chiến đấu, có lẽ là lúc phải chiến đấu với những tên đầu sỏ của hoả ngục.
Chúng tôi sẽ dành ra một chương đặc biệt để kể về một trường hợp quỷ nhập, mà sau khi nỗ lực trừ quỷ trong 6 năm trường, với rất nhiều biến chứng hồi hộp, tới đầu năm 1959 này vẫn chưa trừ được (tác giả viết cuốn này vào năm 1959).