|
Biết Người
-----------Việc loan báo đấng chịu đóng đinh được liên kết với một sự hiểu biết không theo kiểu khai tâm hay ma thuật. Nó lật đổ những con đường đi tới Thiên Chúa mà từ nay được mở ra cho mọi người. Sự hiểu biết không còn là sở hữu mà lần hồi những người Do Thái và Hy Lạp tự tạo ra cho họ (1 Cr 1,21-25), như vậy là bắt Thiên Chúa phải đi qua các lối đường của họ. Thập giá có một nhiệm vụ mặc khải bởi vì thập giá mở ra một sự hiểu biết mới về Thiên Chúa. Bằng cách làm nổ tung những nền văn hoá khi chúng mưu đồ nắm chắc sự hiểu biết của mình và áp đặt nó, thập giá giới thiệu một ngôn ngữ mới, nghịch với mọi hệ thống và mọi khôn ngoan.
-----------Bởi đó cho nên làm chứng về thập giá không phải là cười nhạo các nền văn hoá, nhưng đó là vượt qua chúng trên cây gỗ thập giá: cây gỗ này được trồng xuống đất nhưng sự cao cả của nó sẽ vươn cao hơn chúng. Sự làm chứng đạt được mức độ của nó trong biến cố Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh thập giá chứ không phải trong kinh nghiệm của thế gian, bởi vì kinh nghiệm của thế gian, do đã chất đầy ý nghĩa, chỉ có giá trị qua kinh nghiệm của thập giá. Thiên Chúa có khinh chê các nền văn hoá không? Chắc chắn là không, bởi Thiên Chúa đáp ứng sự tìm kiếm của chúng, nhưng một cách bất ngờ. Ðối với những người Do Thái tìm kiếm những dấu chỉ, thì họ được thấy một kẻ bị treo. Ðối với những người Hy Lạp quan niệm sự khôn ngoan theo hình ảnh của một lý trí xơ cứng, Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra, nơi thế giới này, trong sự nghịch thường của siêu việt tính của Người.
Chịu đóng đinh với Ðức Kitô
-----------Trong Rm 6,6, Phaolô công bố rằng "con người cũ đã bị đóng đinh thập giá với" Ðức Kitô. Thập giá là một điều khó hiểu đến nỗi phải có sự táo bạo của ngôn ngữ để diễn tả. Phaolô luôn mô tả đời sống kitô hữu bằng những từ ngữ sự sống, ân ban, ân sủng, sự dồi dào, sự kết hợp với Ðức Kitô (Rm 5-8) hơn là bằng những từ ngữ phán xét mà người ta đã gán cho một tầm quan trọng quá lớn khi tách những từ ngữ ấy ra khỏi bối cảnh của sự nhưng không và của sự sống, trong bối cảnh này chúng như thể là bị chìm ngập. Người kitô hữu là kẻ nhận lãnh ân huệ được ban cho họ trong sự chết của Ðức Kitô, một lần cho tất cả và mãi mãi.
-----------Như vậy người Kitô hữu nhận ra căn tính cá nhân (identité personnelle) của mình trong Ðức Kitô, bởi vì với tư cách là con người mà Người là Con. "Bị đóng đinh thập giá với" không có nghĩa là hành hạ thân xác để đạt tới một lý tưởng - bởi trong trường hợp này, người ta trở lại với lề luật - nhưng đây là sống trong một tương quan kết hiệp với đấng chịu đóng đinh, bởi vì đấng chịu đóng đinh "đã hủy diệt thân xác tội lỗi" (Rm 6,6) một lần cho tất cả. Những từ ngữ này không diễn tả cái gì khác hơn là tình yêu được Ðức Chúa bày tỏ trên thập giá mà người tín hữu được mời đáp trả trong cùng một đà yêu thương và dâng hiến.
Vác thánh giá của mình hay
"mang những thương tích của Ðức Giêsu"?
-----------Không có văn bản nào của Phaolô đòi hỏi người kitô hữu phải vác thập giá mình như những lời của Ðức Giêsu được các sách Tin Mừng thuật lại (Mc 8,34; Mt 10,38). Ngược lại, Phaolô mời các tín hữu "đóng đinh vào thập giá xác thịt và những ham muốn xác thịt của mình" (Gl 5,24), "mang những thương tích của Ðức Giêsu" (Gl 6,17). Phải chăng điều đó có nghĩa là xác thịt tự nó là xấu xa phải quăng đi để cứu vớt tinh thần? Thực ra, tình yêu đối với Ðức Kitô phải in sâu trong xác thịt (chair), trong xác thể tính (corporéité), nếu không đó là thứ tình yêu ý thức hệ và mất đi sự qui chiếu về ngôn ngữ của thập giá. Có một cách loan báo Tin Mừng và sống Tin Mừng biến thập giá của Ðức Kitô thành hư vô (1 Cr 1,17); đó là cách tách riêng lời nói và hành động. Bởi đó cho nên sự qui chiếu về xác thịt là chủ yếu.
-----------Trong khi ngày trước phép cắt bì là dấu giao ước thì ngày nay toàn bộ xác thịt được kêu gọi nhận lãnh "dấu" của Ðức Chúa để bày tỏ Người. Trong Ðức Kitô, có sự mặc khải về Thiên Chúa mà tình yêu là vô cùng, trong người kitô hữu, có sự hiển linh (épiphanie) của Ðức Kitô: "Tôi bị đóng đinh vào thập giá, không phải tôi sống, chính Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Và đó không phải là những từ ngữ: Phaolô trình bày cho các kitô hữu bắt chước, không phải do kiêu căng, nhưng bởi vì ngài cảm thấy cần thiết phải loan báo Tin Mừng và một sự loan báo như thế chỉ mặc lấy đầy đủ chiều kích rộng lớn mà nó phải có trong sự mạch lạc (cohérence) giữa một lời được định hình bởi dấu thập giá của Ðức Kitô với một sự sống được đánh dấu bởi tính nghịch thường của Ðức Kitô đấng là sự sống qua cái chết. (x. 1 và 2 Cr).
-----------Người Kitô hữu chiếm hữu một sự tự do đích thực đối với thế gian. Tuy vẫn ở trong thế gian, người kitô hữu làm cho thế gian đi vào trong chuyển động dâng hiến (mouvement doblativité) của Ðức Kitô. Do đó, đối với Phaolô, người kitô hữu có thể nói rằng những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức (Cl 1,24). Không còn thiếu gì trong cuộc thương khó của Ðức Kitô và tất cả các bản văn của vị Tông đồ đều minh chứng điều này. Nhưng trong người tín hữu, tất cả không phải là sự trong sáng tinh ròng của tình yêu mà họ được yêu. Chính sự ao ước cho hoàn thành này thúc đẩy Phaolô nói rằng những thử thách liên kết với thân phận làm người - kể cả thử thách lớn nhất là sự chết - cho phép ngài ghi trong xác thịt mình sự sống của Ðức Kitô.
Giáo Hội
-----------Ðiều gì đúng cho trường hợp cá nhân thì cũng đúng cho trường hợp cộng đoàn. Thập giá có một vai trò giáo hội bởi vì thập giá hoà giải những nhóm đối nghịch, Do Thái và Lương Dân, thành một khối duy nhất, triệt để mới mẻ, đó là Giáo Hội (Ep 2,16). Muốn làm điều này, cần phải hủy diệt hận thù là bức tường chia rẽ. Ðó cũng là công trình của Ðức Kitô trên thập giá bởi vì thập giá hủy diệt tham vọng của lề luật hay của sự khôn ngoan là đối chọi người Do Thái và Hy Lạp trong một ngoại giới tính (bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Cộng đoàn những kẻ tin là một cộng đoàn những người được kêu gọi (église= ek kalein=kêu gọi), theo hình ảnh của đấng kêu gọi (1 Cr 1,26). Cũng như cá nhân, cộng đoàn phải phản chiếu sứ điệp mà cộng đoàn có trách nhiệm loan báo; nếu không, diễn từ của mình sẽ thành vô ích và bất nhất.
Ngôn ngữ của thập giá
-----------Ngôn ngữ của thập giá là ngôn ngữ của Thánh Thần về nội dung cũng như về các phương cách. Ngôn ngữ này phê bình tất cả mọi nền văn hoá đi tìm kiếm một sự khôn ngoan chủ trương không cần đến Thiên Chúa. Với tư cách là ngôn ngữ của Thánh Thần, ngôn ngữ của thập giá chỉ có thể diễn tả qua những nghịch lý, như những nghịch lý của sức mạnh và yếu đuối hay là qua những cách diễn tả có thể xem ra đối nghịch nhau.
-----------Ngôn ngữ của thập giá là một ngôn ngữ mặc khải, vừa của Con vừa của Cha, bởi vì thập giá là nội tại đối với biến cố phục sinh và là thập giá của Đức Chúa vinh hiển. Thập giá có tính thần hiển (théophanique) đối với Cha, có tính hiện sinh (existentielle) đối với Con và có tính tâm linh (spirituelle) đối với kitô hữu. Phaolô không có ý định đề cao cái chết hay sống trong ảo tưởng nhưng chỉ muốn rút ra những hệ lụy của biến cố phục sinh trong lịch sử, trong lịch sử của mỗi người, những hệ lụy đi ngang qua cuộc Vượt Qua một cách tất yếu. Ðó là sức mạnh trọng yếu và sinh động của ngôn ngữ thập giá được hiểu dưới ánh sáng của cuộc phục sinh, ngoài nó ra thì ngôn ngữ của thập giá không có nghĩa gì cả.
Chantal Reynier |
|