|
CHƯƠNG V
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC BÀ CẢ
Khi đến viếng Đền Thờ Đức Bà Cả, thánh đường dâng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhà thờ kính Đức Mẹ đầu tiên và lớn nhất được xây cất ở Tây Phương, cũng được coi là “Hang đá Bêlem ở Roma”. Tín hữu hành hương được mời gọi nhớ đến sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ, thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của tất cả chúng ta. Tình mẫu tử của Mẹ Maria, đối với chúng ta, không chỉ giới hạn vào sự bảo bọc và chuyển cầu, nhưng đồng thời cũng là lời liên tục khích lệ chúng ta hãy làm tất cả những gì Chúa Con chỉ dạy; luôn nhắc nhớ về sự cao cả Chúa đã làm cho chúng ta.
Đền thờ Đức Bà Cả cũng được coi là biểu tượng tột đỉnh lòng sùng kính của dân Chúa, đặc biệt là dân Roma, đối với Mẹ Maria. Thực vậy, lòng sùng kính Đức Mẹ là một trong những lòng đạo đức của dân Roma ngay từ thời nguyên thủy. Năm 1853, người ta đếm được 1.421 nhà tạm hoặc những khám nhỏ có chứa đựng các hình ảnh của Đức Mẹ, được xây trên tường hoặc những góc trên tường nhà trong thành phố Roma. Tuy nhiên, những biến đổi trong thành Roma đã giảm bớt rất nhiều con số các nhà tạm hoặc các khám nhỏ đó và vào năm 1939, chỉ còn lại 530. Khách hành hương có thể thấy các khám hoặc nhà tạm có trang điểm bằng những bó hoa nhỏ, đặc biệt tại các khu phố cổ của Roma, như Campo Marzio và Trastevere. Điện Pantheon cũng được dâng hiến Đức Mẹ các thánh tử đạo.
I. LỊCH SỬ ĐỀN THỜ
Đền thờ Đức Bà Cả được xây trên đồi Esquilino để thay thế việc thờ phượng nữ thần Cibele, mẹ các thần minh của dân ngoại bằng việc tôn kính Mẹ Thiên Chúa.
1. Ban đầu, đền thờ này được gọi là đền thờ Liberiana, do tên của ĐGH Liberio (352- 366), là vị đã cho xây đền thờ sau phép lạ xảy ra trong đêm 5 tháng 8 năm 365, giữa mùa hè nóng nực ở Roma. Theo tương truyền, một nhà quý tộc ở Roma tên là Giovanni và vợ, đã cao tuổi rồi mà không có con. Họ quyết định dâng hiến tài sản để xây một đền thờ dâng kính Đức Mẹ Thiên Chúa. Trong đêm mùng 4 rạng ngày 5 tháng 8 năm 325, Đức Mẹ hiện ra trong giấc mơ với ông Giovanni và bảo ông hãy xây đền thờ tại nơi xảy ra một biến cố lạ thường. Cũng trong đêm đó, Đức Giáo Hoàng Liberio có cùng một thị kiến như vậy.
Sáng hôm sau trên đỉnh đồi Esquilino, dân Roma thấy có một lớp tuyết phủ, mặc dù bấy giờ là những ngày nóng bức nhất giữa mùa hè ở Roma. Đó thực là một biến cố lạ thường đã được Đức Mẹ loan báo. Và vì thế Đức Giáo Hoàng Libeno cho xác định khu vực và tài trợ ông Giovanni, cho khởi công xây cất đền thờ Đức Bà.
Thánh đường này được ĐGH Sisto III (432-440) tái thánh hiến dâng kính Đức Mẹ vào ngày 5 tháng 8 năm 432, tức là một năm sau khi Công Đồng Chung tuyên bố tín điều Đức Maria là “Theotókos”, Mẹ Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là “Christotókos”,Mẹ Đức Kitô, mà thôi. Thực vậy, ngày 22 tháng 6 năm 431, 160 Giám Mục Ai Cập, Palestine và Tiểu Á khai mạc Công Đồng chung tại Epheso, một thị trấn tại lãnh thổ nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Chỉ sau một ngày tranh luận, Công Đồng đã tuyên bố cách chức Nestorio, thượng phụ thành Costantinople, kèm theo 12 đề tài tuyên vạ tuyệt thông do thánh Cyrillo Giám Mục thành Alexandria bên Ai Cập đề nghị, vì Nestorio phủ nhận Đức Mẹ không phải là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos), nhưng chỉ là Mẹ Đức Kitô mà thôi. Chính đêm hôm đó, toàn thể giáo dân thành Epheso chào mừng Công Đồng chung bằng một cuộc rước đèn vĩ đại tung hô Mẹ Thiên Chúa: Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội. Kinh đó đã được soạn ra trong dịp này, rồi được tháp vào kinh Kính Mừng như chúng ta vẫn đọc ngày nay. Đức Giáo Hoàng Clelestino I đã phê chuẩn việc này.
Công đồng chung Epheso xác quyết rằng trong Chúa Kitô có hai bản tính Thiên Chúa và nhân loại, cả hai kết hiệp với nhau trong một ngội vị duy nhất, như mạc khải đã dạy và truyền thống Kitô đã tin và đã quả quyết. Công Đồng tuyên dạy rằng: Chúa Kitô cũng là chính Ngôi Hai Thiên Chúa có tự đời đời, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa: trong tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài được Chúa Cha “sinh ra” từ thuở đời đời; trong tư cách phàm nhân, Ngài được Đức Trinh Nữ Maria sinh ra trong thời gian. Và bởi vì Chúa Kitô là một chủ tể duy nhất, nên Đức Maria có toàn quyền được gọi bằng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”.
2. Ngày nay, để ghi nhớ sự tích Đức Mẹ xuống tuyết, vào ngày 5.8, lễ cung hiến Đền thờ Đức Bà Cả, trong thánh lễ trọng thể, người ta vẫn thả từ trần nhà trhờ những hoa hồng màu trắng trên các tín hữu. Trong thánh lễ ngày hôm đó, kinh tổng nguyện có nội dung như sau: “Lạy Chúa, xin thứ tha tội lỗi và ban ơn cứu độ cho chúng con, không phải bởi chúng con đã làm nên công trạng, nhưng chính là nhờ lời chuyển cầu của Thánh Mẫu Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”.
Lời nguyện này nhắc lại kinh nguyện cổ thời ĐGH Gregorio nhân lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời và hoàn toàn quy hướng về mầu nhiệm Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, một mầu nhiệm cổ liên hệ đặc biệt tới gốc tích của đền thờ Đức Bà Cả được thánh hiến một năm sau Công Đồng chung Epheso năm 431. Kinh nguyện nhắc nhớ sự phù trợ và chuyển cầu của Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa.
Ngoài ra, bài đọc 2 trong giờ kinh sách của ngày lễ 5 tháng 8 là một đoạn trích từ bài giảng của thánh Cirillo Giám Mục thành Alexandria trong đền thờ Epheso trước các Nghị Phụ Cộng Đồng năm 431: “Ước gì cho chúng ta được bảo tồn sự hiệp nhất, tôn kính và thờ lạy Chúa Ba Ngôi duy nhất, trong lúc chúng ta chúc tụng Đức Maria trọn đời đồng trinh, là đền thờ thánh thiên của Thiên Chúa và của Đấng là Con Chúa và là Hôn Phu Tinh Truyền”.
3. Đến thế kỷ thứ VII, Đền thờ này được gọi là Đền thờ “Đức Mẹ Hang Đá”, vì có hang đá Belem được dựng trong nhà nguyện dưới tầng hầm, với 5 mảnh gỗ máng cỏ và vài viên đá trong hang đá được đưa từ Thánh Địa về đây vào năm 642 dưới thời ĐGH Teodoro I (642- 649), vốn sinh trưởng tại Giêrusalem. Thánh tích quí giá này được lưu trữ trong một hòm bằng bạc do vua Filippo II của Tây Ban Nha tặng và nay được đặt dưới bàn thờ chính của đền thờ.
Nhà nguyện đựng thánh tích trở thành nơi đặc biệt để cử hành các lễ nghi vào dịp lễ Giáng Sinh.
Các vị Giáo Hoàng tiếp tục tu bổ và tô điểm thêm Đền thờ này. Đặc biệt Đức Piô 12 (1939- 1958), đã từng dâng lễ mở tay sau khi chịu chức linh mục, nên khi mừng 50 năm linh mục, ngài đền đội triều thiên cho ảnh Đức Maria là phần rỗi dân Roma (Salus Populi Romani) trong nhà nguyện Borghese. Đức Gioan 23 và Phaolô 6 đã cùng với các nghị phụ đến đây để cầu xin Đức Mẹ cho công việc của Công Đồng được thành công. ĐGH Gioan Phaolô 2 đã công bố Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo tại đây năm 1992.
Dưới Đền thờ Đức Bà Cả, giống như các đền thờ khác, gần đây đã có những cuộc khai quật để biết rỏ hơn về kịch sử quá khứ. Cuộc khai quật từ năm 1966 đến 1971 đã thực hiện 6 mét chiều sâu dưới nền đền thờ hiện nay, và đã đưa ra ánh sáng khu vực khảo cổ từ hậu cung đền thờ nguyên thủy và giữa các gian chính hiện nay. Đó là một tòa nhà hùng vĩ với nhiều phòng nối tiếp nhau, và có lối vào từ phía hậu cung, có một khuôn viên rộng lớn. Một số học giả cho rằng đây có thể là một khu chợ to lớn do hoàng đế Augusto xây để tặng bà vợ Livia, nhưng cũng có nhiều học giả khác cho rằng khu vực ấy đồng nhất với di tích còn lại của đền thờ cũ xây thời ĐGH Liberia, và sách Giáo Chủ có làm chứng chắc chắn về sự hiện hữu của đền thờ này.
II. VIẾNG THĂM
- Tại quảng trường đền thờ, có cột cao 14 mét bằng cẩm thạch trắng, được ĐGH Phaolô 6 (1605- 1621) cho đưa tới đây. Bệ cột được trang trí bằng những hình chim phượng hoàng và rồng. Đây là cột duy nhất của 8 cột của đền thờ Massenzio (cũng gọi là đền thờ Hòa Bình) thời Trung Cổ. Tượng Đức Mẹ bồng Chúa Con bằng đồng trên cột là tác phẩm của Guillaume Berthelot người Pháp.
- Tháp chuông theo kiểu Romanico do Đức Gregorio XI cho dựng lên năm 1377 cao nhất Roma với 75 mét. Trên tháp có treo 4 quả chuông được coi là hòa hợp nhất tại Roma. Tháp này được tu bổ năm 1983.
- Mặt tiền bằng cẩm thạch do kiến trúc sư Femando Fuga (1743) kiến thiết gồm cổng chính với 5 cánh cửa. Ban công chính bên trên của mặt tiền là phần duy nhất còn lại của đền thờ ĐGH Sisto III. Từ ban công này, ĐGH thường ban phép lành cho các tín hữu.
- Bước và cổng đền thờ và tiến vào bên trong, ở bên trái có Cửa Thánh và trong gian tiền đường, phía bên phải, có tượng bằng đồng của vua Philipo IV Tây Ban Nha, để nhắc nhớ những công nghiệp của các vua nước này đối với đền thờ Đức Bà Cả. Thực vậy, khi còn sống, hằng năm nhà vua vẫn dâng cúng 4 ngàn đồng tiền vàng cho đền thờ. Khi vua băng hà vào năm 1665, lễ cầu hồn đã được cử hành trọng thể tại đền thờ Đức Bà Cả. Năm 1692, pho tượng vua bằng đồng được dựng lên, theo dự án của Bernini. Ban đầu tượng được đặt trong tiền đường của nhà thánh, trước khi được đặt ở vị trí hiện nay. Nối tiếp công nghiệp của vua Philipo IV, các vua Tây Ban Nha vẫn tiếp tục nâng đỡ và bảo vệ đền thờ Đức Bà Cả. Vì thế sau khi được phong vương, vua Tây Ban Nha cũng trở thành kinh sĩ đền thờ Đức Bà Cả. Trong thực tế, nhà vua thường bổ nhiệm một linh mục thay ngài trong nhiệm vụ này. Hiện nay là Đức Ông Juan Esquerda Bifet, cũng là giám đốc trung tâm quốc tế linh hoạt truyền giáo (CIAM) thuộc bộ truyền giáo.
Bước qua cửa tiến vào trong nhà thờ, tín hữu hành hương thấy quang cảnh thật là rộng rãi: đền thờ dài 86,5 mét, rộng 29,13 mét, và cao 18 mét 43. Có 36 cột bằng đá, theo thứ tự mà người Hy Lạp vẫn dành cho các thần của họ, phân chia 3 gian của đền thờ. Ngày nay, có 40 cột, vì vào thế kỷ 18, khi tu bổ đền thờ, kiến trúc sư Fuga cho dựng thêm 4 cột bằng cẩm thạch xám, để chống đở các vòng cung. Nền đền thờ gồm nhiều tấm đá đứng ghép lại như bức tranh khảm, và do hai nhà quí tộc Roma tặng cho ĐGH Eugenio III (1145- 1153). Hai nhân vật này được diễn tả đang cưỡi ngựa, với binh giáp và gươm.
Trần đền thờ mạ vàng, số vàng đầu tiên đưa từ Mỹ châu về đây cụ thể là từ Peru, và do vua Femando và hoàng hậu Tây Ban Nha tặng cho Đức Giáo Hoàng Alexandro VI (1492- 1503). Ông Giuliano da Sangallo đã dùng vàng đó tán thành những lá mỏng để trang trí trần đền thờ, và mang huy hiệu của gia tộc Borgia của Đức Alexandro Vi (người Tây Ban Nha). Hai mươi bảy tranh khảm ở hai bên tường gian giữa mô tả những cảnh tượng rút ra từ Kinh Thánh Cựu Ước Abraham, Giacop, Giosuê, báo trước Chúa Giêsu, cùng với những cảnh về cuộc đời Chúa Giêsu. Ở giữa vòng cung, có diễn tả ngai Chúa, mặc hoàng bào được trang điểm bằng ngọc quí, tay cầm thánh giá và sách Khải Huyền. Chung quanh là hình thnáh Phêrô và Phaolô, cùng với biểu hiện của 4 thánh sử Phúc Âm. Cạnh đó là cảnh tượng Chúa Giêsu giáng sinh. Bên trái có cảnh truyền tin cho Đức Mẹ.
- Bàn thờ chính của đền thờ, hay cũng gọi là bàn thờ tuyên xưng đức tin (confession) do Vespignani trang trí vào năm 1874, bằng cách dùng những đá cẩm thạch quí và hiếm nhất. Trên bàn thờ có tán cao, Được 4 cột vòng bằng đồng chống đở, cũng do kiến trúc sư Fuga thực hiện. Tại khu bàn thờ chính này có hòm giữ thánh tích của thánh Mathêu tông đồ và các vị tử đạo khác.
- Ở khu hậu cung đền thờ, có bức tranh diễn tả cảnh Chúa Giêsu đang đội triều thiên cho Đức Mẹ, có ca đoàn 18 thiên thần và các thánh hầu quanh, đặc biệt là thánh Gioan Tẩy Giả, thánh Phêrô, Phaolô, Gioan, Phanxico Assisi và Antôn thành Padova. Đây là kiệt tác của tu sĩ Jacopo Torriti dòng Phanxico năm 1295.
- Bên dưới, giữa các cửa sổ hình bầu dục, bên cạnh bức tranh Đức Mẹ an nghỉ, có những cảnh về các mầu nhiệm khác như: Truyền Tin, Giáng Sinh, Ba Vua đến thờ lạy Chúa Hài Đồng, Dâng Con, và hai cảnh trong cuộc đời thánh Gieronimo và Mathia.
Nhà nguyện Sistina, ở bên phải đền thờ, đối diện với nhà nguyện Paolina, tại đây có đặt Mình Thánh Chúa, và có tượng của Đức Sisto V dòng Phanxico và Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V dòng Đaminh, vị đã cải tổ sách lễ, sách nguyện, sách giáo lý Công Đồng Trento, cũng như đã thiết lập lễ Đức Mẹ Mân Côi, sau khi thập tự quân chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lepato. Cũng trong nhà nguyện này, ở phía trên gian bên phải đền thờ, có hang đá được đặt tại đây năm 1585. Hang đá rất cổ, có lẽ từ thế kỷ thứ VI, chứng tỏ lòng sùng mộ của dân Roma, tưởng nhớ hang đá Belem.
- Ảnh Đức Mẹ “Salus Populi Romani” (Phần Rỗi của dân Roma), trên bàn thờ trong nhà nguyện Paolina ở bên trái đền thờ, gần bàn thờ chính. Theo tương truyền, ảnh này bắt đầu với thánh Luca, và được một thiên thần hoàn tất, vì thế không do tay người làm nên. Nhiều tranh luận, không đưa tới nguồn gốc và tác giả. Người ta biết đến từ Đông Phương hoặc được vẽ tại Roma theo kiểu Đông Phương, thế kỷ 9 tới 13.
Lưu truyền rằng, ảnh tự động tới từ Costantinople, tránh nạn phá ảnh tượng 3 thế kỷ trước đó và hiện được đặt tại nhà nguyện Paolina từ năm 1613. Ảnh Đức Mẹ hiện diện trong buổi canh thức 19 tháng 8 và lễ bế mạc 20 tháng 8 năm 2000, Ngày Quốc Tế Giới Trẻ thứ XV ở Tor Vergata, ngoại ô Roma, với ĐTC và với 2 triệu người trẻ trên thế giới cùng quây quần.
- Nhà nguyện Paolina được thiết lập theo lệnh Đức Phaolô V và do kiến trúc sư Flaminio Ponzio vẽ kiểu, mô phỏng nhà nguyện Sistina ở Vatican. Đây là nhà nguyện phong phú và đẹp nhất tại Roma. Và có thể nói tất cà sự huy hoàng của đền thờ Đức Bà Cả tập trung trong nhà nguyện này, với những bức bích họa tuyệt vời do Guido Reni, Cav. d’Arpino, Cigoli, và nhiều người khác thực hiện, tất cả đều nhắm tôn dương vinh quang Mẹ Thiên Chúa.
- Mặt sau đền thờ Đức Bà Cả, hướng về quảng trường Esquilino, nổi bậc trên nhiều bậc thang, do kiến trúc sư Rainaldi thực hiện vào năm 1673.
III. MỘT SỐ SỰ TÍCH CỦA ĐỀN THỜ
Cũng như nhiều đền thờ lớn ở Roma, đền thờ Đức Bà Cả cũng có nhiều sự tích lưu truyền lại:
1. Theo một lưu truyền cổ xưa, một ngày kia, Olimpo, một quan tổng trấn, giận dữ, hầm hầm chạy vào đền thờ Đức Bà Cả với mục đích sát hại ĐGH Marino (882- 884) trong lúc ngài cử hành thánh lễ. Nhưng vừa bước qua ngưỡng cửa thánh đường, đột nhiên ông bị mù và không thể thi hành ý định gian ác đó. Sự tích này được ghi nhớ trong một bức hình nổi cẩm thạch do điêu khắc gia Lironi tạc bên trên Cửa Thánh vào năm 1730.
2. Một sự tích khác: lễ Giáng Sinh năm 1705, trong lúc ĐGH Gregorio VII (1073- 1085) cử hành thánh lễ nửa đêm tại đền thờ Đức Bà Cả, ngài bị một kẽ gian ác tên là Cencio, con của tỉnh trưởng Stefano bắc cóc. Tên này đã từng xây một tháp cạnh cầu thánh Phêrô (ngày nay là cầu thánh Thiên Thần), và đòi những người đi qua đó phải trả tiền mua đường. Chủ tâm của Cencio là giam Đức Giáo Hoàng trong tháp đó, với mục đích giao nạp cho hoàng đế Enrico IV của Đức để trả thù những biện pháp cải tổ can đảm của Đức Giáo Hoàng. Trong số các biện pháp đó, có việc tước quyền của hoàng đế trong việc phong thế quyền cho Giám Mục trước khi trao quyền thiêng liêng.
Tên Cencio giam cầm Đức Giáo Hoàng, nhưng dân Roma nổi dậy tức khắc, và ngày hôm sau, họ giải thoát ngài, rồi long trọng rước ngài trở lại đền thờ Đức Bà Cả. Như thể không có chuyện gì sảy ra, Đức Gregorio VI điềm nhiên mặc áo lễ vào và cử hành tiếp thánh lễ từ chỗ bị cắt ngang.
3. Tại đền thờ Đức Bà Cả có mộ của Đức Giáo Hoàng Clemente IX (1667- 1669). Khi sinh thời, ngài đã từng này tỏ mong ước tại đền thờ này chứ không phải tại đền thờ thánh Phêrô. Nhưng vì ĐGH qua đời mà mộ ngài do kiến trúc sư Girolamo Rainaldi vẽ kiểu chưa hoàn tất, nên quan tài của Đức Clemente IX được chôn tại đền thờ thánh Phêrô. Ngay sau đó, có tin về các phép lạ do Đức cố Giáo Hoàng làm. Tin này được một tu sĩ Phanxico ở tu viện Aracoeh xác nhận. Thầy bị mù và cho biết đã được khỏi nhờ cầu xin Đức Clemente IX cứu giúp. Dân chúng bắt đầu lũ lượt kéo đến mộ của ngài để xin ơn và những người được ơn, thì gắn các bảng tạ ơn gần mộ tạm. Lòng nhiệt thành của dân chúng đến độ họ tháo gỡ cả những mảnh gạch quanh mộ, như thể sức mạnh đặc biệt của Đức cố Giáo Hoàng lan tỏa ra đó.
Các vị hữu trách đền thờ thánh Phêrô lo ngại vì lòng nhiệt thành quá độ của các tín hữu, nên phải hối thúc và yêu cầu các vị hữu trách ở đền thờ Đức Bà Cả hoàn tất mau lẹ mộ của Đức Clemente IX tại đây, và họ vội chuyển thi hài của ngài về an táng trong nhà nguyện Paolina. Từ đó ngài không còn làm phép lạ nữa.
CHƯƠNG VI
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG
THÁNH PHAOLÔ NGOẠI THÀNH Đền thờ thánh Phaolô gọi là “ngoại thành” vì tọa lạc bên ngoài tường thành do hoàng đế Aureliano xây cất năm 271 để bảo vệ thành Roma chống lại các cuộc tấn công của các lực lượng man di. Thánh đường hùng vĩ chúng ta thấy ngày nay thật là đền thờ được tái thiết hoàn toàn sau khi trận hỏa hoạn dữ dội trong đêm 15 rạng ngày 16.7.1823 thiêu hủy toàn bộ đền thờ huy hoàng được kiến thiết 15 thế kỷ trước đó. Khi đi tới đền thờ ở ngoại ô Roma, tín hữu hành hương nhớ đến những thăng trầm của vị đại Tông Đồ dân ngoại (sinh năm 35 sau Chúa Kitô), các cuộc hành trình truyền giáo của ngài trong toàn vùng Địa Trung Hải, những lá thư đầy nnhiệt huyết ngài gởi tới cộng đoàn Kitô mới được thiết lập bấy giờ, đặc biệt là thư gửi giáo đoàn Roma được thánh nhân viết vào khoảng năm 57- 58, trong đó nổi bậc các đề tài ơn cứu chuộc, sự tiền định và ơn công chính hóa. Toàn thể đời sống Kitô giáo của chúng ta thấm đượm những tổng hợp đạo lý quan trong nhất của thánh nhân: cuộc sống của chúng ta trong Chúa Kitô, hướng về Chúa Cha cùng với Thánh Thần của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, là Chúa Phục Sinh và là Đấng Cứu Độ chúng ta.
I. THÁNH PHAOLÔ ĐẾN ROMA
Người ta không thể tách rời hai thánh Phêrô và Phaolô vì Giáo Hội Roma được thiết lập trên hai Tông Đồ cột trụ này. Cả hai đều chịu tử đạo tại đây. Và các tài liệu cổ kính nhất đã nói đến những cuộc hành hương của các tín hữu về Roma để viếng mộ của hai thánh nhân. Lịch sử đền thờ thánh Phaolô Ngoại Thành, tuy không phức tạp như lịch sử đền thờ thánh Phêrô, nhưng cũng không kém thăng trầm, như hồi thế kỷ thứ 8, đền thờ bị cướp phá, sau đó đến lượt những người Hồi giáo Sarrasins hồi thế kỷ thứ 9 cướp bóc, nhưng đền thờ được trùng tu ngay.
Thánh Phaolô thuộc một gia đình Do Thái, định cư tại đảo Tarso, và có quốc tịch Roma. Sau các cuộc hành trình truyền giáo, ngài mang số tiền lạc quyên được tại các giáo đoàn về Jerusalem để trợ giúp Giáo Hội tại đây. Thánh nhân bị những người Do Thái bách hại, nên bị bắt và dẫn giải tới Cersarea, trước quan tổng trấn Felice. Ông này giam thánh Phaolô 2 năm. Ngài khiếu nại lên hoàng đế Cesar vì là công dân Roma. Mãi đến năm 60, thánh Phaolô mới tới Roma được, sau cuộc đắm tàu ở ngoài khơi đảo Malta. Từ năm 61 đến 63 ngài được tự do tạm, và có thể rao giảng, viết nhiều thư từ (thư gửi tín hữu thành Colossê, Êphêsô và gửi Philomene). Từ năm 63 đến 66, ngài có đi giảng tại Đông Phương hay Tây Ban Nha, không có gì chắc chắn. Điều chắc chắn là năm 66, ngài lại bị cầm tù ở Roma và bị xử trảm tại nơi gọi là Aquas Salvias, trên đường từ Roma tới Ostia năm 67. Thánh nhân không bị đóng đanh như Chúa Giêsu hay thánh Phêrô, nhưng bị chém đầu vì chém đầu là hình phạt “ưu tiên” dành cho công dân Roma.
Việc thánh Phaolô đến Roma là do Thánh Thần Chúa thúc đẩy như lời sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: “Sau khi những sự kiện ấy xảy ra, Phaolô được Thánh Thần Chúa thúc đẩy, đi ngang qua miền Macedonia và Acaia, và đi Jerusalem. Ông nói: “Về đó rồi, tôi còn phải đi thăm Roma nữa” (TĐCV 19,21). Thánh Luca trong sách này cũng ghi lại sự tích thánh Phaolô từ đảo Malta đến Roma: “Ba tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu này là của thành Alexandria và mang huy hiệu hai thần Dioscuri. Chúng tôi ghé vào thành Syracura và ở lại đó 3 ngày. Từ nơi ấy chúng tôi đi men theo bờ biển và tới thành Regio. Ngày hôm sau có gió nam thổi lên, và hai ngày chúng tôi tới cảng Pozzuoli. Ở đây, chúng tôi gặp được những người anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ 7 ngày. Chúng tôi đến Roma như thế đó.” (TĐCV28,11-14)
“Các anh em ở Roma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appio và Ba Quán đón chúng tôi. Thấy họ, ông Phaolô tạ ơn Chúa và thêm can đảm. Khi chúng tôi vào Roma, ông Phaolô được ở nhà riêng cùng với người lính canh giữ ông”. Ba ngày sau, Phaolô mời các thân hào Do Thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với họ: “Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta, hay các tục lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Jêrusalem và bị nộp vào tay người Roma. Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng vì người Do Thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên hoàng đế Cesar; tuy vậy, không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. Đó là lý do khiến tôi xin gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này”. Họ nói với ông: “Về phía chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Giuđêa nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh em đến đây báo cáo hoặc nói gì xấu về ông, vì chúng tôi biết rằng phái của ông đến đâu cũng bị chống đối.” Họ hẹn ngày với ông, và hôm đó, đến gặp ông tại nhà trọ đông hơn. Ông trình bày cho họ và long trọng làm chứng về nước Thiên Chúa; từ sáng tới chiều, ông dựa vào luật Môisê và các ngôn sứ mà nói về Đức Giêsu, để cố thuyết phục họ. Nghe ông nói, người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin. Khi giải tán, họ vẫn không đồng ý với nhau; ông Phaolô chỉ nói thêm một lời: “Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ Isaia mà phán với cha ông anh em rằng: “Hãy đến gặp dân này và nói: Các ngươi có lắng tai nghe cũng không hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành”. Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gởi đến cho dân ngoại; họ nghe thì sẽ nghe”. Ông nói thế rồi thì người Do Thái đi ra, tranh luận với nhau sôi nổi.” Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (TĐCV 28,11-30).
Trong dịp bạo chúa Nêro đốt thành Roma vào năm 64 và đổ tội cho các tín hữu Kitô, thánh Phaolô cũng bị tố cáo là thủ lãnh một phong trào tập thể làm phương hại cho nhà nước. Ngài lại bị bắt và giam tại nhà tù, rồi sau đó bị kết án sử trảm. Theo chứng từ của Eusebio, thánh Phaolô tử đạo giữa tháng 7 năm 67 tới tháng 6 năm 68. Truyền thống nói rằng đầu thánh nhân nhảy lên ba lần trên sườn xuống và làm nảy sinh ba dòng suối, đó là Tre Fontane hiện nay. Huyền thoại này được thánh Gregorio Cả chấp nhận (năm 604).
II. LỊCH SỬ ĐỀN THỜ THÁNH PHAOLÔ
Thi hài thánh Phaolô được đặt trong ngôi mộ cạnh đường Ostiense, cũng như nhiều tội nhân bị kết án tử hình khác. Nhưng chẳng bao lâu mộ thánh Phaolô trở thành nơi hành hương và tôn kính của các tín hữu kitô. Trên mộ ngài, người ta thiết lập một nhà tưởng niệm nhỏ (cella memoriae).
Theo sách Giáo Chủ (Liber Pontificahs), chính hoàng đế Costantino đã khởi công xây dựng một thánh đường trên mộ thánh Phaolô và được thánh hiến ngày 18.11.324 dưới thời ĐGH Silvestro I (314- 335). Kích thước của thánh đường nguyên thủy này tương đối nhỏ bé. Thánh đường to lớn hơn được xây cất tại nơi đó vào năm 386, tức là nửa thế kỷ sau khi hoàng đế Costantino qua đời. Các hoàng đế Valentiniano II, Teodosio và Arcadio bấy giờ viết cho đô trưởng Roma Sallustio để được sự phê chuẩn của Thượng Viện và nhân dân Roma về dự án xây một đền thờ lớn, thay thế nhà thờ dâng kính thánh Phaolô, trước trình trạng các tín hữu kéo tới hành hương ngày càng đông đảo.
Công trình bắt đầu năm 390 và được hoàn thành dưới thời hoàng đế Onorio vào năm 395. Thánh đường đó có 5 gian, có 4 hàng cột phân ra, gồm 80 cột bằng cẩm thạch. Đó là thánh đường lớn nhất của Kitô giáo trước khi đền thờ thánh Phêrô được kiến thiết. suốt trong 15 thế kỷ, vương cung thánh đường này không ngừng được săn sóc cẩn thận. Chẳng hạn, vào giữa thế kỷ thứ 5, thánh Giáo Hoàng Leo Cả cho khởi sự một loạt các tu bổ và trang điểm đền thờ.
Thời Phục Hưng, đền thánh Phaolô vẫn được để nguyên. Nhưng ngày 15 và 16 tháng 7 năm 1823, do sự bất cẩn của một người thợ, đền thờ bị hỏa hoạn thiêu rụi gần như hoàn toàn. Hai kiến trúc sư Bosio và Belli khuyên nên xây lại hoàn toàn mới đền thờ, họa lại mô hình của đền thờ cũ. Giới văn hóa, chính trị ủng hộ Đức Leo 12 để ngài khởi công xây cất lại và vào ngày 25.1.1825, ngài gửi thư “An plurimas easque gravissimas” mời gọi các giám mục mở cuộc lạc quyên nơi các tín hữu cho công trình tái thiết. Lời kêu gọi được các nơi hưởng ứng và nhiều người đã gửi tiền về Roma. Phó vương sứ Ai Cập tặng các cột bằng đá trắng và Nga hoàng Nicola I tặng các khối đá làm hai bàn thờ ở hai gian bên.
Thánh đường mới được khánh thành năm 1854, nhưng trong thực tế công trình tái thiết kéo dài 100 năm, và vào năm 1928, với việc xây cất 4 cổng 100 cột, do kiến trúc sư Guglielmo Calderini, đền thờ mới được hoàn thành như ta thấy hiện nay. Khuôn viên bên ngoài nhà thờ có 150 cột, tất cả đều là một khối duy nhất. Cửa đồng của đền thờ là một kiệt tác nghệ Bizantine do Giovanni VII đặt làm ở Constantinople. Đền thờ dài 136 mét, rộng 665 mét, và cao 29,7 mét. Thánh đường có 5 gian, được phân chia bằng 24 cột, có chân dung 264 vị Giáo Hoàng, từ thánh Phêrô cho đến Đức Gioan Phaolô II, nhắc nhớ sự liên tục của huấn quyền Giáo Hoàng. Bức tranh khảm ở hậu cung đền thờ do các nghệ sĩ miền Venezia hồi thế kỷ 13 thực hiện, diễn tả Chúa Kitô đang ngồi trên một ngai, giữa thánh Phêrô và Anrê ở bên phải, và thánh Phaolô và Luca bên trái. Ở dưới chân Ngài, ta thấy có hình nhỏ ĐGH Onorio III đang quì, cùng với vị tiền nhiệm Innocenzo III và người kế vị Gregorio IX, là những vị cho thực hiện bức tranh khảm ấy. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng khánh thành đền thờ thánh Phaolô ngoại thành năm 1854, trước sự hiện diện của 185 vị Giám Mục đến Roma để dự lễ tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội.
Dưới bàn thờ chính hiện nay 1,37 mét, có một tấm đá bằng cẩm thạch mỗi chiều 2,12 x 1,27 mét, có ghi hàng chữ: “Paolo Apostolo Mart” (Dâng kính Phaolô Tông Đồ tử đạo). Theo một số người, bia này có từ thế kỷ thứ I, một số khác cho là nửa sau của thế kỷ thứ IV. Nhưng tấm bia này gồm nhiều miếng hợp thành. Đây chính là mộ của thánh Phaolô Tông Đồ. Bên trên bàn thờ chính là một cái tán (ciborio) do nghệ sĩ Amolfo di Cambio ở Roma thực hiện năm 1282. Cái tán này chỉ bị hư hại sơ sau trận hỏa hoạn năm 1823 và được trùng tu sau đó. Tại 4 góc của cái tán có 4 tượng nhỏ diễn tả các thánh Phêrô, Phaolô, Luca và Biển Đức.
Tóm lại, khi viếng đền thờ thánh Phaolô được tái thiết, chúng ta hiểu hai sự huy hoàng của phụng vụ Roma thời cổ xưa. ở cuối hậu cung, có Đức Giám Mục Roma ngồi, chung quanh có tất cả hàng giáo sĩ, các giám mục, linh mục và các phó tế. Trong gian dài có 4 hàng cột bao quanh, hướng cái nhìn của chúng ta về bàn thờ, dân Chúa, sau khi phụng vụ Lời Chúa với những bài thánh ca, đi rước tiến đến trước nặt Đức Giáo Hoàng và trao cho ngài với cộng sự viên bánh và rượu trong phần dâng lễ. Lễ vật ấy, theo thói quen cổ kính, được dùng để nuôi hàng giáo sĩ và người nghèo. Sau đó, dân Chúa lại tiến về bàn thờ để rước Mình, Máu Thánh Chúa Kitô, trước bàn thờ được xây dựng tại mộ của thánh Phaolô: một Chúa, một đức tin, một phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha. |
|