|
Chương IX THÁNH THẦN VÀ
NGƯỜI KITÔ HỮU TRÊN THẾ GIỚI
Món quà lớn nhất mà người Kitô hữu có thể trao tặng nhân loại, đó là đem lại cho thế giới một ý nghĩa và thực hiện điều ấy trong Đức Giêsu. Marcel Légaut 1. TÌNH TRẠNG XUNG ĐỘT
Kitô hữu cần sống trung thực với bản chất của mình trước Thiên Chúa, không những ở giữa một cộng đoàn huynh đệ mà còn ở giữa thế gian, liên đới với mọi người. Tình trạng nầy đúng là căng thẳng! Đức Giêsu đã yêu cầu những ai theo Ngài phải làm muối đất. Ngài chưa bao giờ hứa hẹn rằng họ sẽ thuộc thành phần chiếm đa số. Vả lại, chính hình ảnh muối đất cũng chẳng gợi lên một cái gì vĩ đại cả. Ngài còn bảo họ phải là men trong bột, mà đặc tính của men thì thật hết sức mâu thuẫn: nó vừa phải lẫn trong bột, mà vừa phải khác với bột, thậm chí đối lập với bột; có như thế, bột mới dậy lên
được. Vừa ở trong, vừa đối lập, vừa siêu vượt, đó là những tính cách mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài thực hiện. Ngài yêu cầu họ vừa ở trong thế gian, ở cùng thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, vừa phải giúp thế gian vượt qua những chật hẹp nơi nhân tính của họ. Nhập thể, đối đầu và siêu vượt, đó là những khía cạnh của cùng một bổn phận.
Khi tìm cách hòa nhập với thế gian, người Kitô hữu phải xem chính Đức Giêsu đã từng ở trong thế gian như thế nào. Nhờ nhập thể, Ngài đã đến thế gian: «Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi». Chưa từng có ai trọn vẹn nhân tính như Ngài. Ngài là người anh chung cho tất cả mọi người, và chỉ một mình Ngài mới đáng mang danh hiệu ấy. Thánh Thần đã phủ bóng trên Đức Maria như là dấu chỉ và điềm báo trước một sứ mạng: là thực hiện sự hiện diện giữa nhân loại và liên đới hoàn toàn với nhân loại. Ngoại trừ tội lỗi, «không gì con người có mà Ngài lại không có». Ngài đã đến hoàn tất công cuộc cứu chuộc, cứu độ, giải thoát chúng ta khỏi lỗi lầm, khỏi đau khổ và sự chết. Cuộc sống của Ngài phải đụng chạm với quyền lực sự Ác và với tội lỗi nhân loại. Cuộc chiến chống thế gian của Ngài lên tới cao điểm vào thứ Sáu tuần thánh trên đồi Gôn-gô-tha. Vì môn đệ hẳn không thể hơn Thầy, nên họ phải theo chân Thầy và hiện diện nơi trần gian bằng việc sống theo ánh sáng Tin Mừng, Tin Mừng toàn diện. Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần Ngài cho chúng ta để giúp chúng ta thực thi điều ấy, cho đến ngày tận thế.
Những căng thẳng
Không có gì phải ngạc nhiên khi thấy xuất hiện những căng thẳng phát sinh do việc phối hợp những đòi hỏi khác nhau, tùy theo chọn lựa ưu tiên của người Kitô hữu, khi họ muốn mình chỉ là một người như bao người khác, hay muốn mình là người mang một phận vụ đặc biệt. Câu hỏi sau đây sẽ giúp từng người chúng ta bén nhạy với vấn đề hơn: một Kitô hữu làm thợ, làm ký giả, hay làm nhà công nghiệp là một Kitô hữu thợ, một Kitô hữu ký giả, một Kitô hữu doanh gia, hay là một người thợ theo Kitô giáo, một ký giả theo Kitô giáo, một nhà công nghiệp theo Kitô giáo? Cách chọn từ ngữ để gọi – hoặc dùng chữ Kitô hữu như danh từ (substantif), hoặc chỉ như một hình dung từ (adjectif) – nói lên cách thức xác định vai trò người Kitô hữu trong thế gian. Phải coi chữ «Kitô hữu» là danh từ hay là hình dung từ? Phải nhấn mạnh vào phẩm tính Kitô hữu hay phẩm tính nghề nghiệp? Từ đó phát sinh câu hỏi: trong hai phẩm tính liên đới với nhau và không đối kháng nhau ấy, phẩm tính nào định hướng lối nhận định của ta? Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nhấn mạnh rằng một mối liên hệ siêu nhiên hiện hữu với Ngài và trong Ngài, siêu vượt mối liên hệ tự nhiên hay các quan hệ huyết nhục. Có khi đến mức mối liên hệ siêu nhiên đòi hỏi phải hy sinh mối liên hệ tự nhiên. Ta đọc lại trong Tin Mừng đoạn tường thuật việc người ta đến báo cho Đức Giêsu biết mẹ và các anh em Ngài muốn nói chuyện với Ngài. Đức Giêsu trả lời: «Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,19-21).
Ta cũng gặp sự căng thẳng như thế trong hai cách nhìn về Giáo Hội : Kitô hữu ưu tiên nhìn Giáo Hội như một thực thể sâu kín, một mầu nhiệm của Thiên Chúa, hay như một cơ năng phục vụ con người, phát xuất từ con người. Cần quân bình hai khía cạnh quan trọng ấy trong một tổng hợp linh động.
Công Đồng Vatican II đã trình bày mầu nhiệm đặc thù làm nên Giáo Hội trong Hiến Chế Lumen Gentium; và trình bày Giáo Hội sinh hoạt giữa thế giới trong Hiến Chế Gaudium et Spes. Tôi tin rằng tuy không diễn tả thần học một cách cô đọng như Hiến Chế Lumen Gentium, Hiến Chế Gaudium et Spes đã mở ra được một con đường mà chúng ta sẽ phải tiếp tục khám phá, đặc biệt trong việc tổng hợp hai khía cạnh của Giáo Hội, vừa ở trong thế giới vừa siêu việt đối với thế giới. Kỳ thực việc giải thích hai khía cạnh ấy là điểm gay cấn thường gây nên nhiều bất đồng và tranh cãi.
Những hình ảnh về Giáo Hội
Trong Công Đồng Vatican II, tôi đề nghị phân biệt Hội Thánh nội tại «hướng nội = ad intra» và Hội Thánh ngoại tại «hướng ngoại = ad extra». Kiểu nói này có lợi điểm là thuận tiện cho việc diễn tả và giúp phân chia công việc một cách thực tiễn; nhưng lối trình bày theo sơ đồ như thế có những giới hạn, vì hai chiều kích nói trên lại đan lồng vào nhau.
Dĩ nhiên người ta có thể nhấn mạnh hai khía cạnh trên theo những cách khác nhau. Một số người nghĩ Giáo Hội hiện hữu là vì nhân loại, dựa vào nhân loại, nên có khuynh hướng định nghĩa Giáo Hội khởi từ quan điểm đó. Số người khác nhìn thấy và nghĩ Giáo Hội hiện hữu phụ thuộc vào Đức Giêsu và Thánh Thần, Đấng làm Giáo Hội sinh động; nên định nghĩa Giáo Hội trước tiên khởi từ chính bản chất của Giáo Hội là men, trước khi coi Giáo Hội là men trong bột. Lối trình bày nầy vẫn còn dựa trên sơ đồ phân đôi thành hai khía cạnh của Giáo Hội; công việc của thần học trong tương lai là phải hài hòa các cách nhìn bổ sung ấy, hay ít ra phải xác định các tương quan linh hoạt đôi bên. Thật vậy, Giáo Hội có thể phục vụ được gì cho nhân loại nếu Giáo Hội không còn là chính mình nữa, và nếu Giáo Hội đánh mất mình khi tan biến trong thế giới lấy cớ là để phục vụ nó?
Hình ảnh nào về Giáo Hội mà người ta quyết định đề cao, thì mối căng thẳng và những tranh luận đa dạng liên hệ sẽ bị chi phối theo phương cách nhìn đó. Một đàng, Giáo Hội theo mẫu «tự khép kín» sẽ rất dễ đi đến việc thúc đẩy một lối sùng đạo «phi nhập thể», biến Kitô hữu thành những con người xa lạ với mọi người. Đàng khác, Giáo Hội theo mẫu cởi mở đón gió muôn phương; cố tình biến mình thành sinh hoạt thuần nhân loại, nên sẽ chìm ngập trong thế gian và có nguy cơ chỉ còn là một tổ chức phục vụ xã hội, một bộ phận bổ túc và nối dài của các hoạt động xã hội và chính trị con người; cũng vì thế nên có thể bị thay thế hoặc dẹp bỏ một cách dễ dàng. Đó là bi kịch trường kỳ của Giáo Hội. Giáo Hội ở trong thế gian và vì thế gian, nhưng đồng thời lại không thuộc về thế gian. Có những lãnh vực mà Giáo Hội phải chấp nhận đối nghịch với thế gian nếu muốn trung thành với Tin Mừng. Đó chính là tình trạng nghịch lý của chất men: vừa phải lẫn trong bột chứ không phải ở bên cạnh bột, nếu không sẽ chẳng có tác dụng; vừa phải vẫn là men, giữ được trọn vẹn bản chất của mình, để không bị chất bột làm ngộp, làm mất tác dụng và trở nên vô ích.
Vấn đề này chẳng mới mẻ gì. Đó là cuộc chiến luôn luôn xảy ra giữa một bên là khuynh hướng duy tự nhiên muốn tháp nhập Giáo Hội vào trần thế tới mức sẵn sàng hy sinh bản chất của mình, làm tổn hại sự siêu việt của Tin Mừng; và một bên là khuynh hướng duy siêu nhiên muốn đặt thế giới ân sủng xa rời khỏi tầm mức đời sống thường ngày, để tránh làm phương hại đến thế giới ân sủng ấy, mà quên đi bổn phận nhập thể của Giáo Hội, coi nhẹ việc trung thành với đòi hỏi cụ thể đương nhiên của đức tin. Hẳn nhiên không ai minh nhiên tuyên dương chủ nghĩa duy tự nhiên hoặc duy siêu nhiên cả, mỗi người đều ít nhiều nghiêng về phía này hoặc phía kia. Một chủ trương Kitô giáo quá nhân hóa hay chính trị hóa sẽ luôn luôn xung đột với một chủ trương Kitô giáo quá xa rời với trần thế, quá chú tâm tới bàn thờ mà quên đi những người tới dự lễ.
2. MỘT ĐIỀU MƠ HỒ CẦN GIẢI TỎA
Người ta thường trách cứ Giáo Hội định chế là mải lo vấn đề điều hành tổ chức nội bộ và vị kỷ, không chịu mở ra với thế giới, và sao lãng việc liên đới thiết yếu với mọi người. Sở dĩ người ta có ấn tượng về một Giáo Hội chủ trương “chỉ biết nồi cơm của mình”, là vì thông tin đại chúng cứ ầm ĩ loan tin về những thay đổi dù nhỏ nhặt nhất về lễ nghi, về lịch phụng vụ, và làm nổi bật quá đáng rất nhiều điều phụ thuộc, bên ngoài.
Mặt khác, chủ trương chối bỏ hay thờ ơ với cuộc sống bên trong của Giáo Hội lại ngầm hiểu rằng những gì liên quan tới cuộc sống ấy thì chẳng tác động gì hay ảnh hưởng gì tới sự hiện diện tại thế của Giáo Hội. Và như thế là quên rằng kỳ thực những gì liên can đến nội bộ Giáo Hội thì luôn có tầm quan trọng sinh tử đối với chính sứ mạng tại thế của Giáo Hội. Một số định hướng tâm linh trong khuôn khổ nội bộ đã giúp Giáo Hội cởi mở hơn và hiện diện nhiều hơn trong đời sống con người.
Người ta thấy rõ như thế khi Công Đồng Vatican II nhóm họp: nếu báo chí thế giới đã chú ý đặc biệt đến Công Đồng như thế – nói chung là có thiện cảm –, chính vì họ hé thấy rằng các vấn đề Giáo Hội ảnh hưởng đến đời sống con người, sứ điệp Kitô giáo có giá trị đối với nhân loại. Không ai quên được tầm ảnh hưởng của thông điệp «Pacem in Terris» (Hòa bình trên trái đất) của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII; với lời lẽ đơn sơ và trực tiếp, Ngài nhắc lại cho nhân loại sứ điệp vĩnh cửu của Tin Mừng.
3. ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC GỬI ĐẾN NHÂN GIAN BỞI VIỆC LÀM CỦA THÁNH THẦN
Để nhận định rõ hơn sứ mệnh người Kitô hữu trong thế giới, chúng ta hãy hướng nhìn về Đức Giêsu Kitô ngay khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai. Thánh Lu-ca mô tả cảnh trước tiên Chúa chịu phép rửa tại sông Giô-đan: Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Và thánh sử cho chúng ta hay «Đức Giêsu – tràn đầy Thánh Thần – từ bờ sông Giô-đan trở về và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa» (Lc 4,1). Sau đó, Đức Giêsu trở lại Galilê trong quyền năng của Thánh Thần. Sau khi về Na-da-rét, vào một ngày Sa-bát nọ, Ngài vào hội đường Do Thái và đứng dậy đọc Thánh Kinh. Người ta trao cho Ngài sách ngôn sứ I-sa-i-a. Mở sách ra, Ngài gặp thấy đoạn văn then chốt mô tả về Ngài một cách chính xác; nên ở phần kết luận, Ngài nói với các cử tọa: «Hôm nay những gì tai các người nghe trong đoạn Kinh Thánh này đã được ứng nghiệm». Và đây là đoạn văn ấy trong sách I-sa-i-a:
«Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,
«vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
«để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
«Người đã sai tôi đi công bố
«cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
«cho người mù biết họ được sáng mắt,
«trả lại tự do cho người bị áp bức,
«công bố một năm hồng ân của Chúa».
(Lc 4,16-21)
Điều đáng chú ý nhất trong các bản văn của thánh Lu-ca là việc Ngài nhấn mạnh sự kiện Đức Giêsu đến với con người dưới tác động của Thánh Thần. Hẳn nhiên chúng ta biết Thánh Thần đã phủ bóng Ngài trên Mẹ Maria và đổ xuống quyền năng của Ngài trên Mẹ; nên ngay từ lúc nhập thể Đức Giêsu đã được Thánh Thần xức dầu. Đây chính là trọng tâm của đức tin.
Cũng cần lưu ý rằng người ta không gọi các môn đệ Đức Giêsu là «Giêsu hữu» mà gọi là «Kitô hữu», tức không quy chiếu về danh hiệu Giêsu mà về danh hiệu Kitô, nghĩa là Đấng được Thánh Thần xức dầu. Nhân tính Đức Giêsu được Thánh Thần thâm nhập và hướng dẫn qua mọi quãng đời Ngài cho đến ngày Ngài tận hiến làm của lễ tối thượng. Và Đức Kitô đã hứa ban chính Thánh Thần ấy cho các môn đệ để họ tiếp nối công việc Ngài: «Nếu ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào tôi thì đến mà uống! Như Thánh Kinh đã nói: từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống». Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thần mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận, bởi «bấy giờ họ chưa nhận được Thánh Thần vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh» (Ga 7,37 –39).
Lời nói trên đây của Đức Giêsu trở nên sáng tỏ khi chúng ta đọc sách Công Vụ Tong Đồ. Và Lời ấy soi dọi toàn bộ đời sống Kitô hữu. Nhờ tái khám phá vai trò của Thánh Thần chúng ta sẽ gần gũi con người hơn bao giờ hết.
Có nghịch lý chăng? Người ta dễ quên câu đầu tiên của đoạn văn của I-sa-i-a mà Đức Giêsu đọc trong hội đường Do Thái. Câu ấy như sau: «Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu thánh hiến tôi». Tất cả những gì Đức Giêsu làm cho nhân loại đều được thực hiện dưới tác động của Thánh Thần, dưới sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Sự kết hợp thiêng liêng ấy chẳng những không làm Đức Kitô xa cách những cảnh cùng khốn của con người, trái lại còn thúc đẩy Ngài cúi mình xuống trên những cùng khốn ấy. Mầu nhiệm nhập thể, kể từ ngày Truyền Tin đến ngày cuối được hoàn tất trên thập tự, tất thảy đều thấm nhuần sức sống mãnh liệt của Thánh Thần.
4. NGƯỜI KITÔ HỮU Ở GIỮA THẾ GIỚI DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN
Chúng ta đã được «rửa tội trong nước và Thánh Thần», nên phải sống tại trần gian theo cách thức của Đức Giêsu, nghĩa là: tuy hiệp thông với trần gian, nhưng vẫn đối lập và siêu vượt lên trên. Người Kitô hữu phải vừa ở với, vừa đối lập, vừa siêu vượt khỏi thế gian. Thánh Thần tác động Kitô hữu từ trong nội tâm để họ sống bổn phận Kitô hữu của họ trong mọi trạng huống.
Hiện diện giữa thế giới
Thánh Thần không chỉ nói khi chúng ta yên lặng cầu nguyện. Ngài nói với chúng ta qua suốt dòng lịch sử của nhân loại. Với mỗi thế hệ, Ngài lại dùng một lối nói riêng. Với thế hệ chúng ta, Thánh Thần nói qua những hiểu biết phong phú và kỳ diệu của nhân loại; qua sự tìm kiếm khắc khoải và dò dẫm của con người đối đầu với những vấn đề không còn nằm trong tầm vóc nhân loại nữa; qua những vấn nạn mà chính tiến bộ khoa học gợi lên, những vấn nạn làm con người phải sợ hãi vì những hệ quả bất chừng có thể xảy ra.
Dù có được con người nhận biết hay không, Thánh Thần vẫn hoạt động trong bất cứ nỗ lực nào nhằm đem lại nhiều điều minh bạch hơn, chân thành hơn, gần gũi hơn, bình an cho nhau hơn. Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Phi-lip-phê: «Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em» (Pl 4,8-9). Đây là mặt sáng của trần gian. Thánh Thần Sáng Tạo luôn hiện diện trong mọi kỳ công của Ngài. Ngài không chỉ là linh hồn của Giáo Hội, Ngài còn là linh hồn của thế giới, luôn tác động trong mọi nỗ lực canh tân thế giới. Có người nói: có lẽ chúng ta đang còn ở vào ngày đầu của công cuộc sáng tạo.
Dấu chỉ thời đại
Công Đồng Vatican II nhắc lại rằng: Thánh Thần mời gọi chúng ta «thăm dò những dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng theo Tin Mừng». Nhà thần học K. Barth đã trả lời như sau khi có người hỏi xem ông đã chuẩn bị các bài giảng chủ nhật thế nào: «Một tay tôi cầm Thánh Kinh, tay kia tôi cầm tờ báo và tôi đọc báo dưới ánh sáng lời Chúa». Đây chính là lối giải thích hằng ngày về các biến cố xảy ra: Thiên Chúa đang ở đó, Ngài ra dấu cho chúng ta dưới hình thức một lời mời gọi, một bổn phận, một việc khẩn cấp phải làm.
Thánh Thần sử dụng những chuyện xảy ra trong đời sống chúng ta để cho chúng ta biết hoạt động của Ngài. Ngài yêu cầu chúng ta hiểu các bổn phận Kitô hữu của mình theo mọi góc độ, không chỉ góc độ cá nhân hay gia đình mà còn cả góc độ nghề nghiệp, xã hội, chính trị, trên bình diện địa phương lẫn toàn cầu. Như J. M. Domenach từng viết: «Trong thế giới hôm nay những chọn lựa quan trọng để thực thi bác ái có tầm vóc tập thể được thể hiện qua các quyết định chính trị». Mỗi chọn lựa đều có thể khó khăn vất vả vì các hoàn cảnh rất phức tạp, và vì có những bổn phận liên quan khác nhau gây xung đột. Nhưng trong bất cứ chọn lựa cụ thể nào – và không quyết định cũng đã là một chọn lựa – thì chúng ta cũng cần có một Kitô giáo cởi mở với Thiên Chúa ngay từ nơi Ngài, và lắng nghe Thiên Chúa nơi tha nhân. Phải kết hợp giữa cầu nguyện và chính trị, cầu nguyện và hoạt động xã hội, cầu nguyện và hòa bình, cầu nguyện và hòa giải với mọi người.
Chúng ta vừa phải hy vọng vào đời sau, vừa phải làm việc để Nước Chúa đến trước ở ngay đời này. Đức trông cậy Kitô giáo không làm con người mất đi hy vọng vào cuộc sống này. Nếu đức trông cậy Kitô giáo được hiểu cho đúng, nó sẽ là động lực thúc đẩy tốt nhất.
Garaudy đã viết:
«Nếu người Kitô hữu cho rằng để quay về với Thiên Chúa thì phải quay lưng lại với trần thế, nếu người Kitô hữu nhân danh đời sau như thực tại duy nhất tràn đầy giá trị để hạ giá việc hành động hoặc coi nhẹ những cuộc đấu tranh trong lịch sử trần gian nhằm biến đổi thế giới, làm như thể người ta có thể vào được “Nước Thiên Chúa” mà chẳng cần phải biến đổi thế giới loài người, thì khi ấy đức trông cậy Kitô giáo chắc chắn là một hình thức vong thân. Một thái độ như thế ngày càng lui dần vào quá khứ. Ngày nay nhiều Kitô hữu ý thức rằng “đời sau” không khai trừ mà trái lại còn đòi hỏi phải đổi mới thế giới; và trái với mọi quan điểm nhị nguyên về đời này đời sau, họ cho rằng Thiên Chúa đã không dựng nên một vũ trụ đã hoàn tất hết cả rồi».
Và Garaudy lên án:
«Giấc mơ Mác-xít cũng làm con người vong thân, nếu ảo tưởng rằng cứ thay đổi hệ thống tư hữu hay thậm chí thay đổi toàn bộ các tương quan xã hội là nhất thiết phải nảy sinh ra “con người mới”». 46
Một lá thư bàn về chiều kích xã hội của Kitô giáo
Cha André Charlier, một trong những linh mục tận tụy nhất của chúng tôi, đã qua đời trong lúc thi hành trách vụ công tác xã hội trong Giáo phận. Trước khi qua đời ít lâu, ngài có viết cho tôi lá thư sau. Đối với chúng tôi, là những bạn hữu của ngài, lá thư này có giá trị như một di chúc:
«Tôi cho rằng cần phải nói lại chiều kích xã hội của Kitô giáo. Chắc chắn người ta đã từng nhấn mạnh tương quan cá nhân của mỗi người với Thiên Chúa, rồi tương quan chiều ngang giữa cá nhân với cá nhân, nhưng theo tôi, người ta quá ít khi đề cập đến chiều kích xã hội, đến khía cạnh “chính trị” của đức ái và của việc dấn thân Kitô giáo. Tôi nghĩ đó quả là một thiếu sót nghiêm trọng, vì cho đến nay người Kitô hữu vẫn còn tham gia rất ít vào đời sống chính trị, vào các vấn đề ma túy, khiêu dâm, tương lai nghề nghiệp của giới trẻ, tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc làm mới, cải đổi kinh tế, v. v... Quá nhiều Kitô hữu đã coi tất cả những vấn đề ấy như không can dự gì tới Nước Trời. Một số Kitô hữu rất ít ỏi sốt sắng với những việc ấy thì lập tức bị coi là có khuynh hướng đi với mác-xít. Trái lại, tôi nghĩ: cần nói lại với người Kitô hữu rằng họ phải luôn luôn xét lại việc dấn thân của mình trên nhiều bình diện khác nhau, và phải dám sống sứ điệp Tin Mừng của mình, nhất là tám mối phúc thật.
«Tôi xin diễn tả tư tưởng của tôi một cách vắn gọn là thời nay có hai sai lầm mà các Kitô hữu có nguy cơ mắc phải nhiều nhất: một là thứ Kitô giáo phi nhập thể.., hai là thứ Kitô giáo không có Đức Kitô».
Cũng trong lá thư này, phần sau, cha Charlier tuyên xưng niềm tin của mình vào sự sống lại và vào Thánh Thần như sau:
«Chúng ta phải “nói”, phải cho mọi người thấy được sự hiện diện lặng lẽ của Đức Kitô phục sinh đang thực sự linh hoạt như một “lực phát động” trong nhân loại đang khổ đau, đang chiến đấu, đang hy vọng…... Ngài hiệp thông với họ (những người đồng thời với chúng ta), và mong mỏi họ cư ngụ trong sự sống của Ngài, “hiện hữu trong Ngài và với Ngài”... đến độ Ngài muốn cho họ trở thành dân của Ngài và Ngài là Thiên Chúa của họ… ..., để Ngài hướng dẫn họ đến một thực tại vượt lên trên bản thân họ, thực tại đó chính là Ngài...»
Sự hiện diện đặc biệt
Sự hiện diện thật sự của Kitô giáo tại trần gian không thể là một hiện diện đầy tự ti hay vô bổ: chúng ta phải mang đến cho trần gian điều tuyệt hảo nhất của chúng ta, đó là thứ quyền năng và khôn ngoan vượt khỏi chúng ta nhưng đem lại sự giải phóng và cứu độ toàn diện. Chúng ta nhớ lại cảnh tượng thánh Phêrô và Gioan nơi cửa đền thờ ở Bét-sai-đa. Gã ăn xin xin các ngài bố thí, nhưng Phêrô nói: «Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây, đó là: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Na-da-rét, anh hãy đứng dậy mà đi» (Cv 3,6). Đối với chúng ta, những người tin vào sự sống lại, thì đó chính là câu trả lời tối hậu của Kitô giáo.
Đối với người tín hữu, Đức Giêsu chính là câu trả lời dứt khoát cho mọi vấn đề trần thế. Chính bản thân Ngài là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúng ta cậy dựa vào chính Ngài chứ không chỉ dựa vào những nguyên tắc và giá trị Tin Mừng của Ngài. Chúng ta phải xin chính Ngài đích thân dạy cho chúng ta biết cách áp dụng quyền năng và sự khôn ngoan Thiên Chúa vào những vấn đề cốt tử của chúng ta.
Người Kitô hữu phải phục vụ thế giới theo cách của mình, nhưng không vì thế mà từ chối những sáng kiến hợp tác với tất cả mọi người. Về vấn đề này, không hiếm Kitô hữu còn hồ đồ: khi cùng làm việc với người khác, người Kitô hữu bị cám dỗ tạm để tôn giáo mình qua một bên, hoặc tạm quên tôn giáo mình đi một chút để hoàn thành tốt hơn bổn phận mình. Họ quên rằng họ phải thực hiện tinh thần của bí tích rửa tội khi liên kết với tha nhân.
Người Kitô hữu đôi khi có khuynh hướng hy sinh niềm tin Kitô giáo khi thực thi liên đới với tha nhân, và chỉ dùng những phương tiện thuần túy nhân loại. Thời đại nào cũng thế, Giáo Hội luôn bị cám dỗ sống khác với bản chất của mình, viện cớ là để hoạt động hiệu quả hơn. Đây chính là cám dỗ muốn cậy vào những phương tiện giàu có để chinh phục thế gian, đang khi Tin Mừng công bố sức mạnh vô song của những phương tiện nghèo khó. Câu đáp trả của Đức Giêsu ngỏ với tên cám dỗ trong hoang địa chính là lời nhắc nhở chúng ta chớ để mình bị chìm đắm. Giám mục Matagrin có viết:
«Hãy coi chừng cơn cám dỗ muốn ta lẫn lộn việc canh tân Giáo Hội với việc biến cải xã hội. Càng ngày càng có nhiều người đặt lại vấn đề về những xã hội được xây dựng trên tiền bạc, uy thế và quyền lực, và dấn thân chiến đấu xây dựng một xã hội tôn trọng con người hơn, được xây dựng trên tự do, công lý và đoàn kết. Các thành viên của Giáo Hội được mời gọi thực hiện bổn phận ấy nhân danh những đòi hỏi của đức ái và đức cậy. Nhưng nếu hoạt động để biến đổi não trạng, để thay đổi cách hành xử và các cơ cấu cho thấy một cách hiệu quả những hoa trái của Thánh Thần, thì hoạt động ấy chỉ có thể bắt nguồn và có ý nghĩa trong Thánh Thần. Chữ “giải phóng” mà người ta thường sử dụng là một cạm bẫy, vì nó vừa có nghĩa là một biến đổi chính trị vừa có nghĩa là việc hoán cải theo Tin Mừng». 47
Cần phải phân biệt giữa ơn gọi tôn giáo và ơn gọi xã hội: mọi lẫn lộn giữa hai bình diện này đều làm sai ý nghĩa và việc cảm nhận các lời mời gọi tôn giáo; vì động lực của ơn gọi tôn giáo này cao vượt lên trên lời mời dấn thân tận tụy trong lãnh vực thuần túy xã hội.
Marcel Légaut có nói:
« Các nhóm Công Giáo theo chiều hướng xã hội bị cám dỗ nặng nề về việc muốn thay thế Tin Mừng bằng ý thức hệ đương thời, biến ý thức hệ này thành trọng tâm cuộc sống, mặc dù vẫn còn dùng lối nói của Kitô giáo trong một thời gian». 48
Ngược đời
Một đoạn bí nhiệm trong Phúc Âm của Gioan nói rằng Thánh Thần sẽ đến xét xử thế gian và buộc thế gian phải nhận tội: «Và khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử» (Ga 16,8). Giải thích đoạn này rất khó, nhưng ý nghĩa tổng quát của nó thì khá rõ ràng: Thánh Thần mạc khải Đức Kitô, đồng thời cho thấy tất cả những gì chống lại Ngài. Thánh Thần nêu lên sự gian ác của thế gian; Ngài kết án thế gian và phơi bày sự ác cho mọi người biết rõ. Hơn nữa, Ngài sẽ cho thấy thủ lĩnh của thế gian này, vì kết án Đức Giêsu, nên đã tự hủy.
Thánh Thần không những thăm dò những chiều sâu thẳm của Thiên Chúa, mà còn thăm dò cả những chiều sâu thẳm của con người. Ánh sáng của Thánh Thần dẫn dắt chúng ta giữa lòng thế gian, một thứ thế gian mà Đức Giêsu «đã không cầu nguyện cho» (Ga 17,9), thứ thế gian phản nghịch chống lại Thiên Chúa, ngụp lặn trong tối tăm. Than ôi, thế gian ấy cũng có thật : phủ nhận hay không biết về thế gian nầy là điều hết sức thiếu thực tế.
Xã hội học có phận vụ phân tích các nguyên nhân gây ra những rối loạn xã hội, đồng thời đề ra những cải tổ cần thiết về cơ cấu. Đó là công việc của bộ môn ấy. Tuy nhiên chớ quên rằng mọi cải tổ, mọi chế độ được thiên hạ đề xuất vẫn luôn mỏng dòn và luôn bị đe dọa vì sự ác nơi tâm hồn con người.
Căn nguồn sự ác
Hận thù vì chủng tộc và vì phe phái, ích kỷ cá nhân hay tập thể, bạo động đẻ ra bạo động, luân lý đồi trụy hay buôn gian bán lận, giả hình hay dối trá..., tất cả đều làm suy thoái các định chế, bất kể loại nào, và ngăn chặn mọi nỗ lực cải cách. Những tệ trạng ấy không thể chữa lành ngay tức khắc bằng những sắc chỉ và đạo luật. Sự ác tối hậu mà chúng ta phải đối đầu không nằm trong các cơ chế hay trong các sự vật mà ở ngay trong chúng ta, trong ý chí, trong tâm hồn chúng ta. Sự dữ nội tại và sâu xa này đẻ ra những nhũng lạm xã hội không ngừng tái xuất hiện dưới mọi chế độ. Không tấn công vào sự dữ ấy thì người ta chỉ có thể di dời những bất công, thay hình đổi dạng chúng, chứ không thể tiêu diệt chúng.
Làm sao nói hết việc tội lỗi tác hại xã hội tới mức nào! Nó lung lạc một cách tai quái các mối tương giao huynh đệ và biến thế giới thành bất nhân. Ngoài ra, đức tin cho chúng ta biết: tội lỗi che mờ Nhiệm thể Đức Kitô, âm thầm tăng cường quyền lực Satan trên thế gian này. Thảm kịch thế giới bén rễ từ thảm kịch tâm linh được thể diễn trong lương tâm con người. Thảm kịch bên trong thế nào rồi cũng sẽ biến thành hành động bên ngoài. Tội lỗi tự bản chất là một nhân tố gây hư hoại, làm thế giới lung lay tận nền tảng; trong khi ân sủng Chúa làm thế giới tái sinh và đưa thế giới đến đỉnh hoàn thiện cao nhất, cho cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Khi phân tích tận căn, chúng ta nhờ đức tin biết được rằng không một danh nào ngoài danh Đức Giêsu có thể thực sự đem lại ơn cứu độ. Không có Ngài, chúng ta chỉ dừng lại ở bề mặt các sự vật. Kitô giáo có phương cách của mình để thăng tiến con người, trong các lãnh vực giáo dục, y tế hoặc phát triển Thế Giới Thứ Ba. Điều ấy không hề ngăn trở Kitô hữu cộng tác với với người khác là những anh chị em của mình, đặc biệt trong một xã hội đa nguyên như xã hội chúng ta hiện nay. Người Kitô hữu không nên tách biệt khỏi xã hội như thể sống trong những biệt cư, mà phải biết rằng, ở bất cứ nơi nào, nhờ phép rửa, họ vẫn luôn luôn được Thánh Thần tác động. Dù phải đương đầu với bất cứ vấn đề gì, người Kitô hữu nên tin rằng thần trí và quyền năng Thánh Thần vẫn luôn soi sáng, hướng dẫn họ. Phụng vụ không dư lời khi bảo chúng ta thốt lên câu: «Lạy Thánh Thần, xin ngự đến và đổi mới bộ mặt trái đất». Thánh Thần trong chúng ta giống như ngọn hải đăng ban đêm chiếu ánh sáng dọc bờ biển, để chúng ta thấy được những hiểm nguy khó thấy, những đá ngầm ẩn khuất. Thánh Thần giúp chúng ta nhận định rõ hơn những gì phi nhân trong môi trường xã hội. Ngài thúc đẩy chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa xu thời xã hội vốn che đậy những vực thẳm của hèn nhát, nể vì, sợ hãi. Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra những ngẫu tượng của thời đại, và tố giác những ngẫu tượng đa dạng mà chúng ta liên tục tôn thờ. Các ngẫu tượng thời nay không còn mang tên Ba-al hay As-tar-tê, mà mang tên xã hội tìm lợi nhuận, xã hội tiêu thụ, hay hơn nữa xã hội phóng túng luôn chiều theo những thị hiếu của thời đại. Mỗi lần người ta chấp nhận những hình thức độc tài phi nhân, những cuộc chiến tranh bất công, những kỳ thị chủng tộc viện cớ là «để tránh những điều tệ hại hơn» là mỗi lần người ta thờ phượng những ngẫu tượng ấy. Ngày xưa, người Kitô hữu chấp nhận bị tử hình vì đã không chịu dâng hương cho một ngẫu tượng nào đó. Còn «Xê-da» thời nay thường không có tên riêng, nhưng «Xê-da» ấy chính là bầu khí chung của thời đại, là môi trường bị ô nhiễm đang vây bọc chúng ta. Bàn về tình trạng quá nhiều Kitô hữu rút lui bỏ cuộc trong xã hội hôm nay, Rose-Mary Haughton đã mô tả thật chính xác:
«Nếu nước Chúa bị Thủ Lãnh thế gian nầy chiếm ngự, khi ấy có thể chúng ta sẽ không còn được coi là những công dân tốt của Nước Trời được nữa. Có thể chúng ta sẽ phải phản kháng và bực tức. Tình trạng ấy từ lâu nay như không xảy ra, nhưng có thể đang tái diễn. Chúng ta cần lưu ý về hoàn cảnh thay đổi nầy, nếu không, một ngày nào đó, có thể chúng ta thức dậy và khám phá ra mình chẳng còn là Kitô hữu nữa, mà chỉ là những công dân được coi là tốt và đáng trọng vọng». 49
Vượt trên thế gian
Bộ mặt của thế gian này đang qua đi: chúng ta biết rằng chúng ta đang trên đường tiến về thời cánh chung, về ngày gặp gỡ cuối cùng với Chúa, Đấng sẽ lau sạch mọi dòng lệ, ngày mà chết chóc không còn nữa, ngày mà Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong mọi người. Chúng ta là một Giáo Hội lữ hành hướng về ngày Thiên Chúa tự biểu lộ trọn vẹn, về thời điểm mà chúng ta «sẽ không còn đêm tối nữa, sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên chúng ta» (Kh 22,5).
Chúng ta vừa phải giữ trong tim mình niềm hy vọng tha thiết đưa chúng ta về với vinh quang Thiên Chúa, vừa phải làm việc ở trần gian này với hết năng lực của mình để biến cõi người ta ngày càng tình nghĩa tốt đẹp hơn. Cái nhìn về tương lai phải làm cho giá trị của hiện tại tăng lên chứ không giảm đi: bất kỳ nỗ lực nào làm thăng tiến con người đều có giá trị và đều giúp ta tham dự trước vào «trời mới đất mới» đang hình thành. Chúng ta vừa phải hướng về đời sau là nơi tốt đẹp vượt mọi mơ ước của chúng ta, vừa phải chân thành dấn thân vào hiện tại là ngày hôm nay của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Nhưng tránh đừng nhìn những dấu chỉ hôm nay như điềm báo cho ngày tàn nhân loại. Sách vở của những người hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen (fondamentaliste) nầy thường phổ biến những tiên đoán và tính toán chẳng có nền tảng Thánh Kinh đích thực. Giáo Hội nhắc chúng ta hãy khôn ngoan và cẩn trọng noi gương Đức Giêsu; Ngài đã xác định rõ ràng với những kẻ đến hỏi Ngài về ngày tận thế rằng ngày ấy sẽ mãi mãi là bí mật của Cha Ngài. Tránh nhẹ dạ hấp tấp và tiên báo hồ đồ về ngày tận thế. Chúng ta không thể nắm bắt được tư tưởng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại nhận ra được ý muốn đích thực của Ngài. Ngài muốn chúng ta tiến bước trên con đường đến gặp Ngài «cho đến khi Ngài lại đến», và muốn chúng ta hướng về Ngài trong niềm vui của Thánh Thần, Đấng thầm thì trong chúng ta câu: «Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến» (Kh 22,17-20). Tuy nhiên Ngài cũng muốn chúng ta hiện diện và liên đới trọn vẹn vào nỗi khốn khổ của nhân loại cũng như vào việc xây dựng thế giới. |
|