|
Cô nhi viện Bùi Chu, nơi nuôi dưỡng hồn trẻ
Từ hơn một trăm năm nay, có một cô nhi viện vẫn ngày ngày thu nhận, nuôi dưỡng những trẻ em khuyết tật, bị bỏ rơi không nơi nương tựa bởi tấm lòng từ bi của các cha, sự yêu thương của những “người mẹ” đã cống hiến đời mình nơi nhà Chúa. Từ ngôi nhà này, nụ cười hồn nhiên đã bung nở trên khuôn mặt một số em nhỏ. Nhưng cũng ở đây, những người này còn chịu trách nhiệm nuôi dưỡng cả những em không bao giờ biết đứng lên, chẳng bao giờ biết mỉm cười. Đó là Cô nhi viện Thánh An Bùi Chu, thuộc xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, Nam Định.
Sự ra đời đầy tính nhân văn
Chúng tôi tìm về Cô nhi viện Bùi Chu trong những ngày hè nóng nực. Những ánh mắt ngây thơ ngơ ngác nhìn vì lạ. Có những em có đôi chân lành lặn bình thường thoải mái chơi đùa, nhưng lại có em chỉ ngồi mãi một chỗ, quan sát trong sự thèm khát và bất lực. Tôi hiểu rằng, chúng sẽ vui sướng biết bao, nếu một ngày nào đó, một đôi chân lành cứng cáp xuất hiện, nâng cho cơ thể chúng đứng dậy, để được tự do sống, tự do chơi bời, và lớn lên có mơ ước, có khát vọng. Chợt hiểu rằng, số phận chúng phải lãnh nhận, và sẽ mãi mãi gắn với sự tàn phế này, chẳng thể nào khác được. Và chúng sống, lớn lên, may ra có một nụ cười hiếm hoi, là nhờ tình yêu thương giúp đỡ của người khác.
Vì là ngày thứ bảy, cha Giuse Phạm Ngọc Oanh, giám đốc Cô nhi viện ở nhà thờ để làm lễ cho giáo dân, nên chúng tôi đã được cha tiếp đón. Cha nói:
-Cô nhi viện Bùi Chu thuộc phần đất của nhà thờ Bùi Chu, được thành lập vào năm 1852, do Đức cha Diaz Sanjurjo-người Tây Ban Nha, khi mới bắt đầu sứ vụ rao giảng tin mừng nước Chúa. Lấy tên nhà Nhà Dục Anh, cũng là Nhà Thiên thần, nhận nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật từ 12 tuổi trở xuống không phân biệt lương giáo. Các đấng bậc về sau này không ngừng mở mang Cô nhi viện, phát triển đến ngày hôm nay.
Hiện nay, Cô nhi viện đang chu cấp sinh hoạt hằng ngày cho khoảng 120 người. 80 em từ một vài tháng tuổi trở lên trong đó có một nửa các em là bệnh bại liệt, thần kinh, bệnh đao, và các dạng khuyết tật khác. Phần còn lại các em được đi học văn hóa và học nghề. 10 người già yếu đã phục vụ ở đây nhiều năm hoặc lớn lên từ Cô nhi viện, và 30 chị em thiện nguyện phục vụ, đảm trách các công việc như cấy lúa, trồng hoa, nấu ăn, nuôi gia súc, chăm lo cuộc sống, nuôi dạy các em. Từ ngày thành lập đến nay, Cô nhi viện đã trải qua biết bao thăng trầm cùng với lịch sử của giáo phận Bùi Chu. Nhất là sau biến cố năm 1954 đất nước phân đôi, điều kiện hoạt động khó khăn, nhiều cơ sở hạ tầng bị phá dỡ, nhiều cơ sở bị xuống cấp. Đến năm 1993, Đức cố Giuse Vũ Duy Nhất đã cử linh mục Phạm Ngọc Oanh làm giám đốc trông coi Cô nhi viện đang xuống cấp trầm trọng.
Dẫn chúng tôi đi thăm các em là một vị linh mục hiền từ, phúc hậu, mái tóc bạc phơ và nước da hồng hào. Người nói:
-Nhờ có sự giúp đỡ nhiệt tình của các nhà hảo tâm và đội ngũ những anh chị em thiện nguyện phục vụ, nên điều kiện đã ngày càng được củng cố. Cô nhi viện vẫn thực hiện mục đích của đấng sáng lập là đón nhận, nuôi dưỡng, giáo dục các em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật từ 12 tuổi trở xuống, không phân biệt lương giáo. Những trẻ ốm yếu, Cô nhi viện chăm sóc, nuôi dưỡng đến hơi thở cuối cùng. Những em có khả năng học được, chúng tôi tạo điều kiện để các em học văn hóa và nghề nghiệp, nhằm giúp các em tự lập và hòa nhập với cộng đồng. Lớn lên, các em có thể lập gia đình đi ở riêng, hoặc tiếp tục ở lại Cô nhi viện phục vụ noi gương Đức thánh Tổ phụ.
Chúng tôi đã thực sự thấy được cách thức tổ chức rất khoa học ở đây. Từ nơi ăn chốn ở, đến không gian chơi bời của trẻ. Những người trực tiếp ngày ngày chăm sóc cho trẻ không ngừng chân tay. Họ niềm nở nói chuyện với chúng tôi khi đến thăm, và đùa rằng rất muốn được chụp ảnh, nhưng khi tôi chĩa ống kính vào thì các chị lại lấy tay che, cản lại, đồng thời giấu khuôn mặt của mình đi.
Từ năm 1995, Ban lãnh đạo đã tiến hành nâng cấp, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, để có đủ tiện nghi nuôi dưỡng các em, tuần tự theo thời gian là: Đào ao, xây nhà bếp, xây nhà nguyện, nâng cấp nhà khách, xây nhà Thánh An, xây khu chăn nuôi...
Cha Phạm Ngọc Oanh chỉ vào nhóm các em mắc bệnh bại liệt, rưng rưng cảm động:
-Thật tội nghiệp chúng quá, có lẽ, chúng chỉ nằm được thế cho tới chết, chẳng bao giờ biết đứng dậy.
Những người mẹ nuôi dưỡng nụ cười.
Trên tay chị Trần Thị Cúc là bé Hồng Ngọc tí hon, thi thoảng em nói được một câu như tiếng chim. Đã bảy tuổi rồi nhưng em chỉ nặng 8 kg và hầu như suốt ngày phải bế ẵm. Em sinh ra được mấy ngày, bé tí tẹo bằng nắm cơm đã bị cha mẹ nhờ người đưa vào Cô nhi viện, giờ cũng chẳng ai biết cha mẹ em ở đâu. Nhờ sự chăm sóc của các mẹ, em đã sống, lớn lên được, và thi thoảng có biết làm trò vui cho mọi người.
Chị Trần Thị Cúc, đã vào Cô nhi viện, nuôi nấng các em từ khi còn bé. Giờ chị đã hơn 50 tuổi, vẫn là một người mẹ hiền, giàu lòng nhân ái. Chị nói rằng, việc nuôi dưỡng các em là công việc vất vả, và phải thực sự yêu trẻ, có tấm lòng nhân đạo, coi các em như máu mủ của mình. Bao nhiêu năm, tình thương của các chị, các mẹ dành cho các em chẳng thể tính được bằng tiền. Các chị làm việc chăm chỉ, dâng những việc làm sốt sắng đó cho Chúa, đó là những việc làm sáng danh Chúa để mai này được hưởng phúc nơi Thiên đàng.
-Nhiều em đã lớn lên và trưởng thành, chúng tôi tự hào vì đã giúp đỡ được chúng. Tôi làm ở đây lâu năm, thấy những đứa trẻ lớn lên, khoẻ mạnh, và vui tươi là mừng lắm. Nhưng đã có những em vì bệnh hiểm nghèo, đã không sống nổi. Lúc ấy, tôi thấy từng khúc ruột mình đứt ra.-chị Cúc ngậm ngùi nói.
Tôi tiến lại gần chị N T Cậy, 42 tuổi, là người bị bại liệt nhiều tuổi nhất. Chị luôn nở những nụ cười thoải mái đến hồn nhiên, nhưng chị chẳng ý thức được mình cười vì cái gì. Đầu óc chị vô ưu, không lo lắng, giống như một người sống đời thực vật. Nhưng chị vẫn còn may mắn hơn một số em khác, chị còn có thể ngồi được, còn cười được, còn được hưởng không khí và ánh sáng bên ngoài. Có những em mãi mãi nằm liệt trên giường, và không ít em vì quá yếu, đã không qua khỏi, nằm sâu dưới đất đen, đầy xót thương.
Lúc chúng tôi đang đứng trước chị Cậy bệnh bại liệt thì chị Ngô Thị Hoa đang giặt giũ quần áo, chăn chiếu cho các em. Chị là những người trực tiếp nuôi dạy, chăm lo đời sống cho các em. Với nụ cười hiền từ, nhân hậu, chị nói:
-Chị em chúng tôi coi các em như những con đẻ của mình. Nhìn chúng xót thương lắm, nhiều lúc tôi đã chảy nước mắt. Nhưng biết làm thế nào được, chỉ còn cách là chăm lo cho các cháu thật tốt.
Khi được hỏi về sự khó khăn ở Cô nhi viện, chị Hoa chỉ nói: chúng tôi là những người cộng tác, còn kinh phí thì cha Oanh lo. Một phần cũng là do bàn tay lao động của những người như chúng tôi ở đây, nên cuộc sống cũng được cải thiện. Chị hướng về phía những em bị bệnh thần kinh, đang ngồi ghế, ngơ ngác:
-Chúng hầu như vô tri, bảo làm gì làm nấy, thậm chí nếu không nắm được lúc nào chúng đi vệ sinh thì chúng có thể đùn ra quần. Nên mình phải hướng dẫn cho chúng theo một thời gian nhất định để chủ động.
Bên kia, một vài em đang í ới gọi nhau ra chụp ảnh, làm cho không khí ở Cô nhi viện nhộn nhịp hẳn lên.
Sự hoạt động của Cô Nhi viện không chỉ bó hẹp ở tỉnh Nam Định mà lan sang cả nhiều tỉnh của đất nước. Các em được trợ cấp về tiền mặt, sách vở để có thể sinh hoạt, học tập. Ngoài ra, Cô nhi viện còn chu cấp, giúp đỡ những người già, những người có hoàn cảnh khó khăn không nơi nương tựa. Đến đâu, Cô nhi viện và đặc biệt là cha Giám đốc cũng thể hiện tình yêu thương của những người có đạo Chúa, làm việc thiện, tích đức. Nhưng trước thời buổi kinh tế hiện tại, Cô nhi viện vẫn còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và những điều kiện khác. Cha Phạm Ngọc Oanh đi đến đâu, ra nước ngoài cũng kêu gọi lòng hảo tâm của cộng đồng người Việt, người nước ngoài.
Rời Cô nhi viện Bùi Chu, tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của các em nhỏ, những em nằm liệt và chỉ có hai bàn tay hơi ngọ nguậy, những em bệnh thần kinh ngồi bất động, và cả tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những em lành lặn trong ngôi nhà tình thương. Thầm cầu chúc cho chúng sống khỏe, khỏi bệnh tật, luôn có những nụ cười hồn nhiên, tươi mới. Chợt thấy lòng những người mẹ nuôi ở đây, thật bao la rộng lượng vô cùng.
Nguyễn Văn Học (theo báo GDvàTĐ
|
|