|
HỘI NHẬP TIN MỪNG VÀO VĂN HÓA
CON ĐƯỜNG KHỔ ẢI
Linh Mục Giuse Trịnh Tín Ý
Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa”[1]. Và do những gãy đổ trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với nhau, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người bị méo mó. Nhưng dù phai lạt hình ảnh Thiên Chúa, con người vẫn còn đó nét cao đẹp phản ảnh Thiên Chúa. Nét cao đẹp này là tâm chất, thiện căn của con người hòa nhập với nhau, toát ra phong cách sống, hình thành nề nếp, phong tục, trở nên các giá trị được xã hội chọn lựa. Đó là văn hóa. Đức Giêsu làm người đã nhận lấy một gia đình, làm con cháu trong một dòng họ, hòa mình giữa dân tộc, tháp nhập vào một nền văn hóa. Nói khác Đức Giêsu đã hội nhập vào một nền văn hóa và giảng dạy Tin Mừng Cứu Độ qua một nền văn hóa. Theo mẫu hội nhập văn hóa của Người, Giáo Hội đòi chúng ta hội nhập văn hóa để loan báo Tin Mừng đến các nền văn hóa.
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, khi dọc ngang khắp những nẻo đường truyền giáo, Thánh Phaolô đã xác nhận, “Với người Do Thái, tôi đã trở nên Do Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật... Để chinh phục những người sống theo Lề Luật”[2]. Không phải vì lợi ích rao giảng, Phaolô chỉ muốn cải trang để thay đổi hời hợt một nếp sống kiểu đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy! Nhưng Phaolô muốn hội nhập tận căn như Huấn Thị Đi Tìm Đường Hướng Mục Vụ Cho Văn Hoá (ĐTHMV) của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Văn Hóa giải thích: “Vấn đề là Phúc Âm hóa Văn hóa và các nền văn hóa của con người (không phải chỉ hời hợt theo kiểu trang trí hoặc như một lớp dầu bóng bên ngoài, nhưng còn sống chết biến đổi tận gốc rễ)”. Theo nghĩa rộng và phong phú của từ ngữ Phúc Âm hóa được đề cập trong Hiến chế Gaudium et Spes, Phúc Âm hóa bao giờ cũng lấy con người làm khởi điểm và luôn trở về với các mối tương quan của con người với nhau và với Thiên Chúa. Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, Đức Gioan Phaolô II cũng xác định, hội nhập văn hóa là “biến đổi sâu đậm những giá trị văn hóa chân thực nhờ hội nhập các giá trị. Trong đường hướng mục vụ về văn hóa, quan trọng là làm sao khôi phục con người toàn vẹn vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa[3] bằng cách kéo họ ra khỏi cơn cám dỗ lấy mình làm tâm, khi thấy mình hoàn toàn độc lập với Đấng Tạo Dựng”. Lời khẳng định này như đã tiên đoán những thách thức cam go của cuộc loan báo Tin Mừng giữa dòng hội nhập khi đối diện với những nền văn hóa.
Có thể nói, đường đi loan báo Tin Mừng đúng là đường vào hội nhập văn hóa. Trên đường hội nhập, Tin Mừng có thể gặp những con người lấy mình làm tâm, thấy mình hoàn toàn độc lập với Đấng Tạo Dựng[4]. Giữa môi trường văn hóa, người loan báo Tin Mừng có thể nóng lòng hội nhập, muốn tránh va vấp, sợ mích lòng người nên đành nhượng bộ nề nếp văn hóa, chịu sứt mẻ bản chất Kitô Giáo. Nhiều trường hợp người rao giảng còn thừa nhận chủ trương tương đối hóa Tin Mừng, hoài nghi quyền năng và nội dung Lời Chúa. Như thế “cần chuẩn bị kỹ để cuộc đối thoại (với văn hóa) không làm suy yếu lòng mình gắn bó với Đức Tin”[5]. Khởi từ Lời Chúa, từ giáo huấn của Giáo Hội và kinh nghiệm của các nhà loan báo Tin Mừng, chúng ta đi tìm một nẻo hội nhập trong môi trường văn hóa Việt Nam hôm nay.
I/ Loan báo Tin Mừng cho các nền văn hóa
“Hãy đi khỏi xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho ngươi”[6]. Abraham được lệnh ra đi đến một vùng trời khác, một mảnh đất khác, nghĩa là Thiên Chúa muốn ông đoạn giao với nền văn hóa xưa cũ đã băng hoại do lầm lỗi của con người, “Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ. Họ nói, ‘Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất’”. Đây là nền văn hóa “tường gạch” (St 11,3) lấy mình làm tâm, thấy mình hoàn toàn độc lập với Đấng Tạo Dựng[7]. Sáng Thế đã dùng kiểu nói rất tượng hình ‘làm xáo trộn tiếng nói’ để làm dở dang kế hoạch của xã hội loài người tự mãn, chối từ Chúa. Nói khác, Thiên Chúa đã hội nhập văn hóa để giáo hóa con người. “Đây tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng... Nào ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”[8].
Và suốt dòng lịch sử Dân Chúa “Lịch sử Giao Ước cũng chính là lịch sử của việc khai sinh một nền văn hóa mà chính Thiên Chúa đã khơi nguồn trong Dân Ngài”[9]. Thuở đầu, với trình độ chẳng hơn gì dân Ninivê ‘không phân biệt tay trái với tay phải’[10], nhóm dân bé nhỏ lang thang đi tìm “Đất Hứa”, dân sống nền văn hóa du mục, nền văn hóa mang tính bảo tồn nòi giống trước kẻ thù là bệnh tật, hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên và những bất trắc trên đường hành trình, nên bàng bạc trong sách Lêvi, Đệ Nhị Luật những hướng dẫn trần trụi về vệ sinh, y tế, trao đổi hàng hóa, lương thực. Sau nền văn hóa du mục là văn hóa chiến tranh với nét đặc trưng “mắt thay mắt, răng đền răng”. Những năm tháng thời chiến còn để dấu vết tương tàn không chỉ về cơ sở vật chất nhưng còn ngay trên tương giao con người. Trong một hoàn cảnh chinh chiến cụ thể, với tầm hiểu thiển cận, luật tương giao đành dừng lại mức độ “mắt thay mắt, răng đền răng”. Nghĩa là đạo lý tình thương còn bị bó hẹp trong nền văn hóa không cao hơn ngọn lau! Dần dần nền văn hóa tình thương tỏ dạng như một bình minh mới cho Dân Chúa. Nền văn hóa tình thương được khẳng định từ ngày người dân đủ tầm với tới mức “yêu anh em như chính mình”. Nền văn hóa này sẽ nở hoa với Tin Mừng của Đức Kitô: “Anh em hãy yêu nhau như Thày yêu thương anh em” và Thày đã liều mạng vì anh em.
1/ Thánh Kinh, con đường hội nhập văn hóa
Kinh Thánh là phương tiện Thiên Chúa muốn và đã sử dụng để tự mạc khải mình, nên đã được nâng lên một bình diện vượt trên cả văn hóa[11]. Nếu ngôn ngữ được coi là sản phẩm đắc dụng của mọi nền văn hóa, Thánh Kinh chuyển tải Lời Chúa qua ngôn ngữ trong văn hóa. “Để biên soạn các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn một số người, nhưng khi được Thiên Chúa dùng để làm công việc này, họ vẫn được tận dụng mọi khả năng và tài sức của họ”[12]. “Lời Thiên Chúa được diễn tả trong lời con người, hoàn toàn giống như ngôn ngữ của loài người”[13]. Trong một nền văn hóa, ngôn ngữ không chỉ mang ý nghĩa văn từ nhưng qua văn từ, kiểu thức diễn tả, bối cảnh văn hóa, xã hội, người đọc còn khám phá thấy nội dung người viết muốn diễn đạt theo ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn. Ở đây văn hóa trở thành chiếc đò độ người vượt bến mê về cõi giác.
Thực tế với công trình chuyển dịch Thánh Kinh sang Việt Ngữ, tại Việt Nam trước khi Dei Verbum ra đời, đã có hai bản dịch Thánh Kinh trọn bộ do các tác giả Công Giáo thực hiện: Bản dịch của Cố Chính Linh xuất bản năm 1913 và bản phỏng dịch Thánh Kinh của Linh Mục Gérard Gagnon (CSsR) xuất bản năm 1963... Ngoài hai bản dịch toàn bộ Thánh Kinh này còn có những bản dịch một vài phần trong bộ Kinh Thánh của ông Mai Lâm Đoàn Văn Thăng, của Linh Mục An Sơn Vị, Linh Mục Trần Văn Kiệm; chưa kể những bản dịch của anh em Tin Lành. Trong vòng bốn mươi năm nay, sau khi Dei Verbum ra đời, có bốn bản dịch toàn bộ Thánh Kinh: Bản dịch của Linh Mục Đaminh Trần Đức Huân, dịch từ bản Phổ Thông (La Tinh), xuất bản năm 1970; của Linh Mục Giuse Nguyễn Thế Thuấn CSsR, dịch từ nguyên bản Do Thái, Hy Lạp, Aram, xuất bản năm 1976; của Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn xuất bản năm 1985; của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch từ nguyên bản tiếng Do Thái, Hy Lạp, Aram, xuất bản năm 1998. Ngoài ra Ủy Ban Phụng Vụ, Mỹ Thuật và Thánh Nhạc cũng đã dịch các bài đọc trong Phụng Vụ được sử dụng trước 1975[14]. Nhờ những công trình dày công sức đó tín hữu Việt Nam đã quen đọc và thấm nhuần Lời Chúa trong cuộc sống.
Ngoài ra tại Giáo Phận Kon Tum, ngay từ thuở các Linh Mục Thừa Sai, Giáo Phận đã nỗ lực chuyển dịch bản văn Thánh Kinh sang tiếng bản địa. Đáng chú ý nhất là bộ Cựu Ước bằng tiếng Bahnar dày 640 trang và bộ Tân Ước Bahnar 603 trang. Cả hai bộ sách này do công sức của Linh Mục Den (người Bahnar), Cha Marty, Rannou, Bonnet, Clément và được năm yao phu Bahnar cộng tác. Và Giáo Phận còn xuất bản một sách lễ thường ngày (tiếng Bahnar) và bốn Kinh Nguyện Thánh Thể[15]. Nhờ những bộ Thánh Kinh này bằng tiếng bản địa, Lời Chúa thấm đẫm văn hóa Bahnar và in dấu trong lòng người dân bản địa.
Chúng ta thấm cảm “Lời Thiên Chúa được diễn tả trong lời con người, hoàn toàn giống như ngôn ngữ của loài người”[16]. “Sứ điệp Mạc Khải, được khắc ghi trong lịch sử thánh, bao giờ cũng được diễn tả trong phong cách của nền văn hóa, luôn gắn kết với, và trở thành một thành phần trong toàn bộ nền văn hóa ấy. Kinh Thánh, Lời Thiên Chúa được diễn tả trong lời con người, tạo nên một nguyên mẫu cho việc gặp gỡ hiệu quả giữa Lời Thiên Chúa và nền văn hóa”[17]. “Niềm vui và hãnh diện được lắng nghe Lời Chúa trực tiếp bằng tiếng mẹ đẻ và đáp trả Lời Chúa bằng những lời kinh tiếng hát phù hợp với tinh thần của nền văn hóa chúng ta đã củng cố thêm chân tính của nền văn hóa này, và góp phần thật sự vào cuộc phát triển con người toàn diện. Chúng ta đang đi lại con đường tổ tiên đã đi cách nay ba bốn trăm năm. Là Dân Thiên Chúa trong lòng dân tộc Việt Nam, Giáo Hội Việt Nam cảm tạ Thiên Chúa vì từ bao đời nay đã được nuôi dưỡng bằng Lời Ban Sự Sống và hằng được nhìn thấy Lời ấy không ngừng trổ sinh hoa trái, đem lại những mùa gặt phong phú dồi dào”[18].
2/ Loan Báo Tin Mừng Cho Các Nền Văn Hóa
Khi Thày lên trời, Thày đã lệnh cho môn đệ lên đường, “Thày đã được trao quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”[19]. Thày đã không lệnh cho anh em đến với những con người vô gia đình, vô tổ quốc nhưng đến với “muôn dân”, nói khác đến với những con người cụ thể thuộc về một sắc dân, một nền văn hóa nào đó. Thuở đầu tiếp cận với các nền văn hóa, có vẻ anh em môn đệ bối rối thấy Giáo Hội Sơ Khai trăm hoa đua nở các sắc thái văn hóa: có nơi nam giới nhập Kitô Giáo vẫn phải làm nghi thức cắt bì[20], có giáo đoàn phụ nữ vào giữa cộng đoàn phải mang mạng che mặt. Có nơi anh em nan giải về chế độ nô lệ (Phaolô đã khuyên nô lệ Onêsimo về lại với ông chủ Philêmon) và khắt khe với tương quan vợ chồng: vẫn một xương một thịt như Thày dạy nhưng người vợ xuất giá cứ phải tòng phu: người chồng là đầu của vợ![21]. Nhưng để hoạt động loan báo Tin Mừng hội nhập vào văn hóa nơi môi trường rao giảng, anh em đã nỗ lực vượt qua những khó khăn về ngôn ngữ, nề nếp gia đình, thói tục xã hội, lập trường chính trị, niềm tin tôn giáo để hòa nhập vào cuộc sống người dân địa phương, để biết “ăn những thứ người ta dọn cho, vào nhà nào hãy ở lại cho tới lúc ra đi...”. Dần dà các môn đệ Đức Kitô với kinh nghiệm dầy dạn, anh em nhìn nhận, “Nhờ hội nhập văn hóa, Giáo Hội làm cho Tin Mừng nhập thể trong các nền văn hóa khác nhau đồng thời cũng đưa các dân tộc cùng với nền văn hóa của họ vào trong cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội chuyển giao cho họ những giá trị riêng của mình, đồng thời cũng thu nhận những yếu tố tốt đẹp đã tồn tại trong các nền văn hóa đó và đổi mới chúng từ bên trong. Về phần mình, nhờ hội nhập văn hóa, Giáo Hội trở nên dấu chỉ sáng tỏ hơn về bản chất của mình, và thành khí cụ thích ứng hơn cho sứ mạng”[22].
Giáo Hội Việt Nam mấy trăm năm hành trình truyền giáo đã không ngừng nỗ lực hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam. Chỉ nói riêng trong lãnh vực ngôn ngữ như biểu tượng cuộc hội nhập văn hóa, chúng ta ngưỡng phục các nhà truyền giáo ban đầu, các ngài cố công khai thông trở ngại lớn nhất cho công trình loan báo Tin Mừng: sự khác biệt ngôn ngữ. Trong những năm đầu tiếp xúc với văn hóa Việt Nam, Linh Mục Thừa Sai Girolomo Majorica (1591-1656) là người đầu tiên có sáng kiến quy tụ xung quanh mình một số giáo dân người Việt giúp ngài biên soạn tài liệu bằng Hán-Nôm để truyền giáo... Thường những người giúp cũng có một số vị am tường nho học. Trong số đó có Thày Phanxicô (-1640)... Một trong những sáng tác chữ Nôm của ông là Phục Dĩ Chí Tôn, giúp cộng đoàn giáo dân ban đầu biết nguyện kinh chung... Trong số những tác phẩm chữ Nôm đáng chú ý nhất Linh Mục Majorica biên soạn là cuốn Các Thánh Truyện Khải Mông. Ngoài ra người ta còn chú ý tới một số tác phẩm chữ Nôm như Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan (1670), năm bia tích tử đạo Hán Nôm (1794-1860) tại Phát Diệm, Tự Vị của Taberd (1838). Đặc biệt Sấm Truyền Ca là cuốn giáo lý Kinh Thánh Cựu Ước được viết tay truyền miệng thể hiện hội nhập tinh thần văn hóa Á Đông”[23]. Về chữ Quốc Ngữ La Tinh hóa. “Trong những nước thuộc khối chữ vuông ngoại vi Trung Hoa, chỉ có Việt Nam là quốc gia duy nhất sáng lập và duy trì chữ Quốc Ngữ La Tinh Hóa... Khi tiếp xúc với Tây Phương qua nhân tố Công Giáo, các nhà truyền giáo sáng tạo chữ Quốc Ngữ La Tinh Hóa và phát triển có phần âm thầm, lẻ loi, xa lánh xã hội, giới hạn trong hoàn cảnh Công Giáo thời cấm cách, đã được phổ cập cho toàn dân qua giáo dục và hành chính, ...”[24]. Những tác phẩm chữ Quốc Ngữ La Tinh Hóa thuở đầu như Dictionarivm Annamiticvm của Linh Mục Đắc Lộ, Dictionarium Anamitico-Latinum Taberd xuất bản, Phép Giảng Tám Ngày...[25]. Hôm nay các nhà nghiên cứu đều đồng tình, Linh Mục Đắc Lộ là người có công đầu trong việc soạn thảo chữ Quốc Ngữ La Tinh Hóa nhưng công trình này còn được nhiều nhà truyền giáo và giáo dân Công Giáo thuở đầu đóng góp, cải tiến, bổ sung. Công trình này đã trải dài mấy trăm năm qua và đang là gia sản quý giá không chỉ cho những công trình truyền giáo nhưng cho cả dân tộc Việt Nam hôm nay.
3/ Kể Chuyện Chúa Giêsu Cho Người Á Châu
“Có người nói lịch sử Giáo Hội chính là lịch sử truyền giáo. Dòng lịch sử nhiều tầng, nhiều màu sắc này, khởi nguồn từ thời Tân Ước, bằng nhiều phương cách đã chứng minh, Giáo Hội từng thông hiểu và thực hiện sứ vụ truyền giáo”... Đức Gioan Phaolô II xác nhận trong Redemptoris Misso (RM) lối nhìn căn bản của Ad Gentes: sứ vụ truyền giáo, là thực tại đơn lẻ nhưng phức tạp và phát triển đa phương. Để tiếp tục cuộc tìm kiếm năng động những phương cách truyền giáo của Giáo Hội thích hợp với một thời điểm và nơi chốn nhất định nào đó, hội nghị này đề nghị một lối hiểu và thực hiện truyền giáo chú trọng trên Truyện Đức Giêsu tại Á Châu”[26]. Đại Hội Về Truyền Giáo Á Châu họp tại Chiang Mai, Thái Lan từ ngày 18 đến 22 tháng 10 năm 2006 đã chọn đề tài Kể Truyện Chúa Giêsu (KTCG). Những điểm nhấn của tài liệu Đại Hội này đáng chúng ta suy nghĩ rất nhiều về cuộc loan báo Tin Mừng cho nền văn hóa Á Châu hôm nay:
Giáo Hội kể truyện Chúa Giêsu bằng cảm nghiệm về Thầy. Câu truyện kể về Giêsu tại Á Châu sẽ thuyết phục hơn nếu kể bằng cảm nghiệm. Ngày nay, thế giới, nhất là Á Châu, tin vào nhân chứng hơn những lời thuyết giảng (Evangelii Nuntiandi). Các tông đồ tiên khởi gốc Á Châu đã nói bằng cảm nghiệm. Họ nói về Lời Sự Sống sau khi chính tai nghe, chính mắt thấy, chính tay sờ chạm[27]. Thiếu cảm nghiệm sâu sắc về Đức Giêsu Cứu Thế, làm sao có thể kể về ngài với sức thuyết phục? Thánh Phaolô chia xẻ: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi; hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi”[28]. Kể truyện Giêsu tại vùng đất Á Châu đòi Giáo Hội giao tiếp với Thầy trong cầu nguyện và thờ lạy, tương tác với anh em, đặc biệt là người nghèo, và liên đới với những biến cố tạo nên “dấu chỉ thời đại”.
Truyện về Giêsu biểu tỏ căn tính Giáo Hội giữa người nghèo, giữa các văn hóa và tôn giáo Á Châu. Người kể chuyện Giêsu không thể, không nên che dấu căn tính môn đệ Đấng Cứu Thế. Có điều, liên hệ dằng díu giữa con người, văn hóa, chiều hướng xã hội... tạo nên câu chuyện và bản tính nhân vật. Truyện về Chúa Giêsu kể tại Á Châu luôn liên đới căn tính và truyện kể của các văn hóa, tôn giáo khác. Người kể truyện Giêsu lên tiếng trước tín đồ các tôn giáo khác.
Giáo Hội là tiếng nói của những câu truyện bị dấu nhẹm. Tại mọi phần đất Châu Á, việc che giấu các câu truyện là tình trạng tệ hại diễn ra hàng ngày. Người nghèo đói, những em bé gái bị bán làm nô lệ tình dục, các phụ nữ, di dân, tỵ nạn, dân thiểu số, người bản xứ đang là nạn nhân của nhiều loại bạo động như bạo động trong gia đình, chính trị, sắc tộc, môi trường... Đó mới chỉ là thiểu số so với nhiều truyện bị ém nhẹm. Giáo Hội kể truyện Giêsu, Đấng đã nói nhưng “lời rơi vào tai kẻ điếc”, rồi bị kết án để không thể tiếp tục kể truyện của mình. Vì thế tại Á Châu, Giáo Hội tỏ lòng kính trọng Thầy bằng cách chính mình làm người kể chuyện thay kẻ không có tiếng nói trong xã hội, để lời Thầy vang lên trong chính những câu truyện bị dấu nhẹm kia. Truyện về Giêsu nếu chỉ đem canh giữ như báu vật trong bảo tàng sẽ không trở nên nguồn ban sức sống. Trong Ecclesia In Asia (EAs 19-20,22), Đức Gioan Phaolô II gợi lên thử thách đi tìm lối giảng huấn có thể mang Chúa Giêsu đến gần hơn với dòng tri thức Á Châu. Thử thách này đặc biệt dành cho các nhà thần học. Đức Thánh Cha tin, cũng câu chuyện ấy có thể được kể trong chiều hướng mới và trong ánh sáng tình huống mới.
Giáo Hội lưu giữ ký ức về Đức Giêsu sống động. Tại Á Châu, Giáo Hội kể truyện Giêsu để giữ ký ức về Thầy sống động. Nuôi sống truyện về Thầy, không thể cất dấu truyện trong lãnh địa bất khả xâm phạm. Truyện Giêsu được gìn giữ khi được chia sẻ. Giáo Hội Á Châu sẽ can đảm khám phá những phương cách mới để kể về Thầy, để giữ truyện về Thầy sống động, và trao gửi tiềm lực của truyện đến làm mới các thực tế Á Châu. Giáo Hội Á Châu lên đường khám phá với niềm tin nơi Thánh Linh và lòng trung thành cùng Truyền Thống Giáo Hội hoàn vũ. Nếu bẻ bánh trong Thánh Thể không được cảm nghiệm qua thái độ sẻ chia, quan tâm và hiệp thông, bẻ bánh chỉ còn là lễ nghi thiếu ý nghĩa. Chiếc nhẫn giám mục phải là câu chuyện về một cuộc sống phục vụ cộng đồng, nếu không nhẫn chỉ là trang sức. Hình ảnh một linh mục hiện thân Đức Kitô phải là chuyện đời một con người luôn sẵn sàng đến với anh chị em, nếu không linh mục chỉ còn là tước vị mà không là thiên chức.
Khi tìm về cội rễ truyện Đức Giêsu, Giáo Hội có thể chấn chỉnh những ấn tượng sai lạc về tính vọng ngoại nơi các giáo điều, nghi lễ và biểu trưng (EAs 20). Tìm về cội rễ để không sai lạc, và không kể câu truyện lạ lẫm với chính Thầy. Cộng đồng Kitô Hữu sẽ đánh mất căn tính nếu không kể được câu truyện là chính căn tính của mình. Toàn thể Giáo Hội được mời gọi truyền giáo. Giáo Hội địa phương tại Á Châu cần nhận biết và phát triển những quà tặng được Thánh Linh cảm hứng để đóng góp vào cuộc kể truyện Giêsu. Toàn thể Giáo Hội, hoa trái của cuộc kể truyện Chúa Giêsu, cũng trở thành người kể truyện.
Đức Gioan Phaolô II chia sẻ trong Ecclesia In Asia (EAs), tín hữu chia món quà từ Đức Giêsu không để kết nạp, nhưng vì vâng lời Thiên Chúa, và đó là hành động phục vụ các dân tộc Á Châu (EAs 20). Hãy để câu truyện được nên lời và có sức cảm hóa. Hãy để Thánh Linh gõ cửa trái tim và ký ức người nghe, rồi mời gọi họ thay đổi. Rất nhiều các sắc tộc nghèo khổ của Á Châu sẽ tìm thấy nét đồng cảm và niềm hy vọng trong truyện về Giêsu. Cũng có thể các nền văn hóa khác nhau của Á Châu sẽ chạm phải thử thách trước ý niệm tự do thực sự trong truyện về Thầy. Có thể nhiều tôn giáo khác nhau của Á Châu sẽ ngỡ ngàng trước lòng kính trọng những ai biết tìm Thiên Chúa, kiếm nét thánh thiện thực sự trong truyện về Thầy.
Là người kể truyện của Thánh Linh, Giáo Hội Á Châu sẽ bước vào thế giới và ngôn ngữ của người nghe, và từ giữa anh chị em, kể truyện về Thầy như truyện đã từng được kể ngày Phục Sinh xưa. Tuy nhiên, điều đó cũng là Giáo Hội Á Châu sẽ tìm tiếng Thánh Linh, lắng nghe người nghèo cùng các nền văn hóa và tôn giáo khác nếu muốn lên lời một cách ý nghĩa. Giáo Hội kể truyện phải là Giáo Hội biết lắng nghe[29].II/ Bi kịch hội nhập
Vùng Châu Đốc gần biên giới Việt Nam-Campuchia có loài cây chà là với thân cành rất đẹp. Nhiều nhà đẹp vùng phố thị muốn có cảnh đẹp đi đặt nhà vườn vài ba cây chà là về trồng cho rủ bóng bên thềm. Họ phải trả giá cho mười cây để có được một cây, vì loài chà là quen với khí hậu, thổ nhưỡng biên giới. Về với môi trường phố thị, mười cây chỉ sống một. Đó là bi kịch sinh thái loài cây cỏ. Con người cũng có nỗi buồn tương tự: bi kịch hội nhập văn hóa. Theo lệnh Thiên Chúa “Hãy đi khỏi xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho ngươi”[30], Abraham bỏ quê cha đất tổ, bỏ cha mẹ anh em, đưa vợ và đứa cháu họ (Lot) lên đường đi Canaan. Ông và gia đình dựng lều sống ở đây, nhưng liên tục di dời lều này đến lều khác[31], lang bạt từ Sichem đến Négeb, quá cảnh sang Ai Cập[32] tránh cơn đói rồi về lại Canaan sống ở Bethel[33]. Sau đó gia đình cư ngụ ở Mambré gần Hébron. Sống lang thang du mục, Abraham thấm thía tâm sự làm khách lạ sống cảnh nhập cư[34]. Đời nhập cư của Abraham biểu trưng bi kịch hội nhập văn hóa. Nghe Chúa, ông bỏ lại quá khứ ra đi, đức tin lại đòi ông hội nhập với môi trường nhập cư. Lầm lũi hội nhập với dân bản địa nhưng văn hóa lại muốn chia cắt vì cõi tâm ông luôn hướng về quê cha đất tổ. Đời Abraham lúc nào cũng thấp thoáng thấy mình làm khách lạ trong làng mình. “Lịch sử của dân Thiên Chúa bắt đầu bằng thái độ gắn bó với đức tin, nhưng gắn bó với đức tin cũng là chia cắt với văn hóa...”[35].
Chiều dài của Tin Mừng đi vào một nền văn hóa cũng là chiều dài bi kịch hội nhập. “Việc đoạn giao Tin Mừng với văn hóa chắc chắn là bi kịch của thời đại chúng ta, cũng như từng là bi kịch trong các thời đại khác. Vì thế phải hết sức nỗ lực bảo đảm cho văn hóa hoặc chính xác hơn là các nền văn hóa được Phúc Âm hóa trọn vẹn. Các nền văn hóa ấy cần được tái sinh nhờ gặp gỡ Tin Mừng. Nhưng nếu Tin Mừng không được loan báo, sẽ chẳng có cuộc gặp gỡ này”. Để làm được việc đó, cần phải loan báo Tin Mừng theo ngôn từ và văn hóa của con người”[36].
Ở đây kinh nghiệm loan báo Tin Mừng tại Tây Nguyên đặt ra vấn đề, nếu “loan báo Tin Mừng theo ngôn ngữ và văn hóa”[37] của các anh em Dân Tộc Thiểu Số, nhà truyền giáo vừa phải nỗ lực gìn giữ vừa ra sức đầu tư phát triển ngôn ngữ, văn hóa này cho ngang tầm nền văn hóa của anh chị người Kinh xung quanh. Nếu chỉ nhất định ta về ta tắm ao ta, chúng ta sẽ đụng mặt với thực tế phũ phàng là cả ngôn ngữ, văn minh, khoa học, kỹ thuật bản địa không đủ ổn định, không đủ tầm để giao dịch và phát triển. Tin Mừng có cho phép chúng ta một mực “gìn vàng giữ ngọc”, mà vô tình cản đà phát triển của dân bản địa? Nhất nữa trong thời điểm chủ trương toàn cầu hóa đang phát triển tốt đẹp, nếu như vừa cố giấy rách giữ lấy lề, vừa cố đi lại từ bước đầu, đầu tư để phát triển trên mọi lãnh vực với người ta, như người ta, chọn lựa này có khả thi? Và nếu lơ là với phát triển, để cho dân bản địa quẫy quật trong một rừng những nỗi khó của cảnh chậm tiến, chúng ta có yên lòng loan báo Tin Mừng? Đức Phaolô VI nhắc chúng ta, “Phát triển là tên gọi mới của hòa bình”.
1/ Khuynh Hướng Tục Hóa Trong Văn Hóa
Đức Phaolô VI đã điểm mặt nền văn hóa tục hóa đang rộ lên. Theo đó Thiên Chúa trở thành phù du, cồng kềnh. Vì muốn đề cao quyền lực con người, khuynh hướng tục hóa nhất định gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời. Như thế thường ngày chúng ta phải đối mặt với một xã hội tiêu thụ, với con người luôn chạy theo khoái cảm, tràn đầy khát vọng quyền lực, thống trị. Tất cả được coi là những giá trị mới lên ngôi. Hôm nay Đức Bênêđitô XVI lại báo động, tại nhiều môi trường văn hóa, đang xuất hiện khuynh hướng tục hóa len lỏi vào mọi ngõ ngách cuộc sống, muốn xóa bỏ tương quan thế giới, con người với Đấng Siêu Việt để xây dựng não trạng Thiên Chúa vắng mặt trong đời sống và ý thức con người. Theo Ngài, khuynh hướng này không chỉ là mối đe dọa hời hợt nhưng có lúc đã xâm nhập ngay trong lòng Giáo Hội, bóp méo niềm tin Kitô Hữu và từ đó tác động trên lối sống, cách ứng xử Kitô Giáo[38].
Đáng buồn, khi rời ghế nhà trường, ra đời bước sang môi trường nghề nghiệp, vì cầu mong chức vị, thăng tiến nghề nghiệp, nhiều bạn trẻ đã giã từ nhà thờ, công khai phủ nhận tư cách Kitô Hữu, dứt khoát với niềm tin trong quá khứ. Các bạn làm như xa lạ, chưa từng biết Đức Kitô, chưa bao giờ gặp Đức Kitô, Thần Tượng các bạn tôn thờ, đeo đuổi. Trong một cuộc trắc nghiệm về Thần Tượng Tuổi Sinh Viên ở một Câu Lạc Bộ Trẻ (Sàigòn), có 310 bạn trẻ tham dự. Trong số có 215 người chọn Bill Gates làm thần tượng, 32 chọn chính trị gia, 7 người chọn giới ca sĩ, 5 người chọn người thân như cha mẹ hay người yêu, còn lại 59 là phiếu trắng. Đáng tiếc, không ai chọn Đức Kitô hoặc muốn chọn nhưng không dám viết ra! Chuyện cũng dễ hiểu, ngay từ nhỏ, năm bảy giờ mỗi ngày các em sống chung và học hành trong bầu khí “vắng Chúa”, về nhà may ra được ít phút buổi tối nguyện kinh “có Chúa”. May mắn hơn mỗi tuần có vài giờ đi lễ và dự lớp giáo lý “bên Chúa”. Nếu gia đình không trân trọng Chúa, cha mẹ không thiết tha với đạo lý Chúa, bận tâm với Lời Chúa, tuổi trẻ sẽ dễ chia tay với Chúa lúc nào không hay. Một lần trong lớp học, em học sinh lớp ba, theo lời cô giáo khuyến khích đã giơ tay hát cho cô và các bạn nghe. Nhưng chỉ hát được câu đầu rồi em bị cô giáo tới bịt miệng không cho hát tiếp, vì em đã hát bài hát em từng thuộc lòng, bài hát lớp giáo lý hay hát: Giêsu Kitô Con Người tuyệt diệu, Giêsu Kitô, Người Anh dấu yêu...”(bài hát của Cha Tiến Lộc khá phổ biến ở đây). Cô giáo biết rõ, chúng ta biết rõ Giêsu Kitô có thể gây hệ lụy không nhỏ cho cả cô và trò!
Giáo Hội nhắc các gia đình, đặc biệt gia đình trẻ: “Vì là chiếc nôi của tình yêu và sự sống, gia đình cũng là cội nguồn của văn hóa. Đó chính là nơi đón nhận sự sống và là trường dạy nhân bản, là nơi những vợ chồng tương lai được đào tạo cách tốt nhất để nên những cha mẹ có trách nhiệm”[39].
Mặt khác, chúng ta không quên khuynh hướng tục hóa đã sẵn chủ ý gạt bỏ Thiên Chúa trong đời, nên dành quyền ứng xử với mầm sống, bào thai. Theo đây sự sống được coi như sản phẩm con người tạo ra, và người tùy tiện ứng xử. Ngày xưa cùng lắm tương quan bố mẹ với con cũng chỉ tới mức, bố mẹ đặt đâu, con ngồi đo. Hôm nay khác, bố mẹ cho sống, con được sống, bố mẹ bắt chết, con phải chết! Đường hướng giáo huấn của Giáo Hội đã rõ, “Để Tin Mừng có thể sâu đặm cảm hóa môi trường văn hóa, Tin Mừng sẽ thấm nhuần mọi tầng lớp người, biến đổi con người từ bên trong để đổi mới lòng người. Đây không chỉ là rao giảng Tin Mừng cho những vùng địa lý ngày càng rộng thêm và tăng số người đón nhận Tin Mừng ngày càng đông hơn. Tin Mừng còn tác động mạnh mẽ để biến đổi triệt để các tiêu chuẩn xét đoán, các giá trị khẳng định, các mối bận tâm, cách suy nghĩ, nguồn cảm hứng và đặc biệt thay đổi những lối sống ngược dòng với Lời Chúa và kế hoạch cứu độ”[40]. Vấn đề là mọi người đều nỗ lực nhưng theo phương cách nào, với phương tiện nào để đạt mục đích đó. Chúng ta vẫn cần suy nghĩ, thực nghiệm và góp phương thế, góp sáng kiến với nhau và với những vị có trách nhiệm về vấn đề này.
2/ Di Căn Của Chứng Thờ Ngẫu Thần
Ngay từ thời Cựu Ước, các tiên tri đã quyết liệt chống lại khuynh hướng thờ ngẫu thần. Và dân vừa thờ Thiên Chúa vừa dan díu với ngẫu thần sẽ bị coi là “ngoại tình”. Trong vụ Aaron đúc bò vàng cho dân thờ, Chúa đã nói với Maisen: “Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập’... Bây giờ cứ để mặc ta, cứ để cơn thịnh nộ của ta bừng lên phạt chúng...”[41]. Với dân Do Thái, trong thời chiến tranh, họ dễ bị cám dỗ thờ thêm các thần lương dân đã bị họ khuất phục. Suốt thời các vua, luôn có những cuộc chiến tôn giáo chống lại chuyện thờ cúng các thần lương dân để khẳng định dân chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Cựu Ước cũng ghi nhận, “Vua Hôsê đã làm điều ngay chính trước mắt Đức Chúa, đúng như Vua Đavid tổ phụ Vua đã làm. Chính Vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông Maisen đã làm. Vì cho đến thời đó con cái Israel vẫn đốt hương kính nó”[44]. Hôm nay trong cuộc hội nhập văn hóa, Giáo Hội còn đang phải đối mặt với khuynh hướng thần hóa. Thuở trước người ta bị cám dỗ tôn thờ các thần thánh lương dân, hôm nay người ta lại thấy con người là thần thánh. Trong công trình của các khoa học gia về sinh học, nhiều người đang hứng chí thấy con người như đang tiến lên “làm trời”, giật lấy khỏi tay Chúa quyền “tạo ra sự sống!”. Những bài báo đăng tải các phát minh sinh học, từ chuyện cừu Dolly ra đời (Dolly ra đời đã dẫn tới bao nhiêu con cừu khác, “cừu sinh sản vô tính” và cừu được sinh sản vô tính!) tới những công trình sinh học tạo ra phôi, sinh con trong ống nghiệm..., tất cả như tiềm ẩn thách thức, thách thức con người đứng lên làm trời! Chuyện tưởng như tới nơi rồi. Thời nay, nhiều tín hữu đã “vô tư” chấp nhận hướng nghiên cứu tạo phôi người để chữa bệnh chức năng cho con người, chấp nhận hay vận động thụ thai nhân tạo khi hiếm muộn, dù Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã nói rõ, “Cùng một sự lên án về mặt luân lý (việc phá thai) đó cũng liên quan đến phương pháp khai thác các phôi và các thai người còn sống, đôi khi được sản xuất cho mục đích đó bằng sự thụ tinh trong ống nghiệm hoặc như ‘vật tư sinh học’ để sử dụng, hoặc như kẻ cho cơ quan hay cho mô để đem ghép nhằm chữa trị một số bệnh. Giết chết những hữu thể người vô tội, dù có vì lợi ích của người khác, thực tế là một hành động tuyệt đối không thể chấp nhận”[42]. Theo Ngài, “Từ trong dạ mẹ, con người thuộc về Thiên Chúa là Đấng dò xét và thấu biết tất cả, là Đấng hình thành và tác tạo nó từ tay Ngài, đã nhìn thấy nó khi nó còn là một phôi nhỏ không có hình dạng xác định và đoán thấy nơi nó con người trưởng thành nó sẽ trở nên ngày mai, mà ngày giờ đã được đếm và ơn gọi đã được ghi vào ‘Sách Sự Sống’”[43]. Thực tế ở Việt Nam không nhiều trường hợp lấy quyền làm người lên làm trời nhưng ngược lại, bị di chứng của nền văn hóa ngẫu thần không ít các vợ chồng hiếm muộn đi cầu thai. Dĩ nhiên với lòng tin, tín hữu vẫn sốt sắng cầu xin Chúa ban cho mình ơn sinh con. Đó là nguyện ước với Chúa và vẫn phó thác thực hiện ý Chúa hơn theo ý riêng. Nhưng đi cầu thai là khác. Khi ước muốn sinh con được trao gửi trọn vẹn cho lời cầu và lời bảo đảm của ai đó để đi tới những lời hứa hẹn minh thị như thần thánh, trường hợp này người đi cầu thai và người hứa hẹn thành thai đều liên đới trong thái độ lấy quyền làm người lên làm trời! Và cũng đáng ngạc nhiên, khi tín hữu đi gặp thày bói toán xin chọn cho ngày lành tháng tốt để cử hành hôn lễ, để chọn giờ an táng, định ngày xuất hành..., nhiều những lời bói toán đã gây rạn nứt hạnh phúc gia đình. Chẳng hạn hai vợ chồng bị thày bói “định liệu” cho là kỵ tuổi, khắc mệnh, khắc khẩu! Lời bói đã thành nỗi ám ảnh và gây ra mặc cảm bất hòa nên dễ cãi vã nhau, chống đối nhau, dễ xa nhau. Có phải chứng thờ ngẫu thần từ thuở nào trong bối cảnh một nền văn hóa tăm tối sơ khai đã để di chứng ngẫu thần trong đời người, đời tín hữu. Ở đây các nhà truyền giáo và tái truyền giáo hẳn có thể trị liệu hậu quả di chứng này bằng chứng từ sống động của đời sống như một cách gột rửa bối cảnh đen tối của nền văn hóa xưa cũ. Khi kỷ niệm lần thứ 25 Hiến Chế của Công Đồng về Phụng Vụ, Đức Gioan Phaolô II đã nhắc lại: “Việc thích nghi với các nền văn hóa cũng đòi tín hữu hoán cải tâm hồn và thậm chí, khi cần, đòi họ đoạn giao với các tập tục của tiền nhân không còn thích hợp với đức tin Công Giáo. Để đáp ứng đòi hỏi đó tín hữu cần được đào luyện nghiêm túc về thần học, lịch sử và văn hóa cũng như cần một phán đoán lành mạnh trong việc phân biệt những gì cần thiết và ích lợi với những gì không cần thiết hoặc có hại cho đức tin”[44].
3/ Lòng Đạo Đức Bình Dân
“Lòng đạo đức bình dân là một cách thức con người diễn tả đức tin và tương quan của họ với Thiên Chúa, với ơn quan phòng của Ngài, với Đức Mẹ và các Thánh, với đồng loại mình và những người đã chết hoặc với tạo vật, và biết chắc rằng lòng đạo đức ấy hoàn toàn thuộc về Giáo Hội. Thanh tẩy và làm cho việc diễn tả lòng đạo đức bình dân theo đúng giáo lý, tại một số nơi, có thể là yếu tố quyết định cho việc loan báo Tin Mừng cách sâu rộng để nâng đỡ và phát triển ý thức cộng đoàn đích thực trong việc chia sẻ đức tin, đặc biệt nhờ việc thể hiện lòng đạo đức của dân Thiên Chúa trong các dịp lễ lớn”[48]. Tại Việt Nam hôm nay, có vẻ càng ngày càng đông đảo tín hữu, vì lòng mộ mến Đức Mẹ, lòng ngưỡng phục các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nên thường xuyên lặn lội đi hành hương khắp nơi. Giáo phận nào cũng có những điểm hành hương và tổ chức các cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ hay suy tôn các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc tổ chức thánh lễ, chầu Thánh Thể, lần chuỗi Mân Côi và các giờ kinh nguyện, viếng Đức Mẹ, suy niệm về cuộc đời các Thánh Tử Đạo tại các điểm hành hương rất chu đáo và sốt sắng. Gần như mỗi dịp hành hương đều có linh mục ngồi tòa ban bí tích Hòa Giải. Lạ là trong số khách hành hương không ít các lương dân cũng sốt sắng tham gia hành hương chung với các tín hữu. Rõ ràng bầu khí, khung cảnh hành hương, những lời kinh, ánh nến cháy sáng, thái độ quỳ gối chắp tay cung kính bái lạy trước bàn thờ Chúa, trước ảnh tượng Đức Mẹ và các thánh đã nên lời giục giã lòng người sốt mến, mừng vui muốn làm con thảo của Chúa. Không thể phủ nhận đường hành hương đã gợi nhớ con đường đời khổ ải, và khích lệ lòng người về nép mình nơi bàn tay Chúa che chở, bàn tay Mẹ đỡ nâng. Hành hương cũng là dịp cho bao nhiêu người con xa lạc trở về làm lành với Chúa và làm hòa với anh chị em mình.
Huấn Thị Tìm Một Hướng Mục Vụ Cho Văn Hóa từng nhắc nhớ, lòng đạo đức bình dân là cách cảm nghiệm đức tin trong đời tín hữu nhưng đang bị khuynh hướng tục hóa đe dọa, cần được lưu tâm giữ gìn, “Trong các quốc gia mà ta vẫn gọi là ‘Kitô Giáo’, từ thế hệ này đến thế hệ kia, đã phát triển một lối hiểu biết và sống đức tin toàn diện, đến độ ít nhiều đã thấm sâu vào đời sống cá nhân và xã hội: các ngày lễ địa phương, các truyền thống gia đình, các lễ mừng khác nhau, việc hành hương, v.v.. Điều này tạo nên nền văn hóa toàn diện, tác động đến hết mọi người, một nền văn hóa được xây dựng và tổ chức trên đức tin. Nhưng nền văn hóa ấy dường như đang bị phong trào tục hoá đe dọa trầm trọng. Quan trọng là nâng đỡ những cố gắng lớn lao hơn nhằm làm sống lại những truyền thống này”.
Tiếp đây là huyền thoại Một Chuyến Đi[45] thay lời kể truyện về lòng tin của những ai từng hành hương. “Một trong ba nhà đạo sĩ nhìn thấy ngôi sao trời đông, ông nhất định lặn lội đi gặp mặt người Con của Đấng Chí Tôn. Hôm trước ngày lên đường, Đạo Sĩ báo cho cô tỳ nữ nhỏ nhất của mình, nàng được tháp tùng đi theo, dù nàng không được chỉ định phải thi hành một phần vụ gì cụ thể và quan trọng. Theo lời Đạo Sĩ, nàng chỉ cần lanh tay, lẹ mắt, thấy gì cần thì làm. Đêm hôm ấy lục lọi mãi, nàng mới tìm được trong rương của mình ba vật dụng làm đồ chơi cho Hài Nhi Chí Tôn, theo như cách gọi của nàng. Vật thứ nhất là một vòng giây lục lạc. Vật thứ hai là chiếc áo bằng lông cừ, mẹ nàng đã đan cho nàng hồi còn bé. Vật thứ ba là một bao hạt sen. Theo ý nàng, nàng sẽ nấu chè mời mẹ Hài Nhi ăn cho mát.
Vừa ra khỏi thành và đi vào rừng biên giới, Đạo Sĩ gặp một đoàn người ăn xin. Ông phân chia một ít lương thực cho họ. Trước khi ra đi nàng tỳ nữ bắt gặp đôi mắt nài nỉ của một em bé ngửa tay xin nàng bố thí. Nàng đành lòng đưa bao hạt sen cho em bé. Đi được nửa đường, tại một nơi nghỉ chân nàng thấy em bé mù ngồi ở vệ đường ăn xin. Nàng lại gần đeo vào tay em bé cái vòng giây lục lạc.
Sau khi đã vào trong xứ Do Thái, thời tiết ngày càng trở lạnh. Tại làng Belem, nhiều trẻ em đi ăn xin, vừa đi vừa run lẩy bẩy. Một em nhỏ nhất đã đến và đứng lẩn quẩn bên nàng. Cô tỳ nữ mở gói quà cuối cùng, lấy ra chiếc áo lông mặc cho em bé. Ngay lúc ấy có tiếng gọi lớn, “Đây là nhà của Đấng Chí Tôn”. Mọi người sụp lạy và Đạo Sĩ bảo gia nhân đem lễ vật vào. Cùng lúc hai đạo sĩ khác cũng đến nơi. Mọi người tấp nập, rộn ràng, chen lấn. Cả Thánh Giuse và Mẹ Maria, ai ai cũng bận rộn chào hỏi, tiếp rước... Thấy người tỳ nữ đứng vẩn vơ, không có việc gì, cả hai tay đều rảnh rỗi, lập tức Mẹ Maria giao Chúa Hài Nhi cho nàng, “Con bồng giùm mẹ để mẹ đi đun trà các vị uống kẻo lạnh”. Nàng không ngờ Con Đấng Chí Tôn bỗng nhiên đến trên tay nàng và đang tìm hơi ấm trong cõi lòng nàng!
Hành hương là những chuyến đi tìm gặp gỡ Chúa, Đức Mẹ và các vị linh thánh mà tôi yêu mến. Nhưng trong đời, những chuyến đi tìm gặp gỡ anh chị em mình cũng là anh chị em của Chúa để biểu lộ lòng thương mến như nàng Tỳ Nữ đây cũng đúng là hành hương. Và đời còn biết mấy những chuyến hành hương, những chuyến đi của lòng tin yêu và hy vọng đang chờ chúng ta thực hiện. |
|