Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Chủ đề: Học Hỏi Về Thánh Phaolô Phần III

Threaded View

  1. #3
    Totus Tuus's Avatar

    Tham gia ngày: May 2011
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 60
    Cám ơn
    260
    Được cám ơn 258 lần trong 58 bài viết

    Default Học Hỏi Về Thánh Phaolô Phần III

    Bài 14: Thánh Phaolô bắt bớ Kitô hữu khi nào, và tại sao?


    Sự kiện thánh Phaolô gặp Chúa Giêsu trên đường Damascus có thể đã xảy ra chừng ba năm sau khi Chúa Giêsu sống lại, nhưng việc thánh Phaolô tham gia quấy nhiễu, gây khó khăn cho Kitô hữu chắc chắn đã bắt đầu trước đó.

    Trong Công Vụ Tông Đồ ghi lại là khi Stephanô bị ném đá chết, Phaolô có mặt ở đó, và “các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô” (Cvtđ 7:58). Không chỉ tham gia một cách thụ động, Phaolô còn “tán thành việc giết ông Têphanô” (Cvtd 8:1). Sau này, khi rao giảng trước triều đình vua Acrippa, Phaolô đã tự nhận: “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giêsu người Nadarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cvtđ 26:10-11).

    Câu hỏi “tại sao Phaolô bắt bớ các kitô hữu?” có nhiều lí do để cắt nghĩa. Về phương diện tôn giáo, Phaolô là một tín đồ Do Thái giáo nhiệt thành, theo gương cha ông, muốn bảo vệ đạo mình và chống lại tất cả những tổ chức gây nguy hại cho Do thái giáo (Gal 1:13-14; Phil 3:6). Về phương diện chính trị (mà chính trị không thể tách ra khỏi tôn giáo với nhiều người Do thái thời đó), Phaolô tỏ ra yêu dân tộc Do Thái qua việc bảo vệ Do Thái giáo chống lại ảnh hưởng của một giáo phái mới (là Kitô giáo) chấp nhận sự có mặt của người ngoại (Roma, Hi Lạp…) sinh hoạt chung với người Do Thái. Phaolô cũng như những người yêu nước khác sợ rằng nếu nhiều người Roma theo giáo phái mới này, dần dà ảnh hưởng của Kitô sẽ mạnh hơn, vì về chính trị người Roma là những kẻ nắm quyền đô hộ.

    Phaolô, cũng như nhiều thanh niên nhiệt thành Do Thái đương thời, đề cao gương sống anh hùng của 3 vị: Pinkhát (cháu Aharon), tiên tri Elia, và tư tế Mattítgia. Ba vị này ảnh hưởng đời sống Phaolô cũng như nhiều thanh niên đương thời.

    Pinkhát, vì nhiệt thành với đạo của Giavê Thiên Chúa, giết chết Dimri vì Dimri tuyên truyền tà thần khác ngoài Giavê và quảng bá đời sống sa đoạ cho dân Do Thái (Dân số 25:7-13). Việc ông giết Dimri được xem là đẹp lòng Chúa (Dân số 25:10-13), và được dân Do Thái khen tặng (Tv 106:30-31).

    Tiên tri Elia, vì lòng nhiệt thành với Giavê, đã thách thức hơn 450 ngôn sứ của thần Baal trong cuộc đấu sức trên núi Carmen để xem Giavê hay Baal đích thực là thần. Sau khi thắng cuộc thi, Elia đã ra lệnh giết chết các tiên tri này (1 Các Vua 18:17-40; 19: 10).

    Theo chân của Elia và Pinkhát, Mattítgia “nhiệt tình với luật Chúa” nên đã giết một người đồng hương Do Thái khi người này dám nghe theo vua Antiochus IV để cúng ngoại tà thần (1 Macabê 2:23-28). Như những cha ông này, Phaolô có lòng nhiệt thành với Chúa Giavê, với dân Israel, và với Luật Môisê.

    Về phương diện thần học, lí do Phaolô cưỡng bức Kitô giáo vì: (1) những người theo Đức Giêsu Kitô coi nhẹ Luật Môisê; (2) họ có thái độ coi thường Đền Thờ vì họ không còn thờ phượng Thiên Chúa trong đền thờ; (3) họ (Kitô hữu) dám nhận người ngoại vào trong cộng đoàn chung với những người Do Thái. Vì thế người Do Thái lúc này ngồi ăn cùng bàn với những người không chịu phép cắt bì; (4) và điều khó công nhận nhất là trong khi những nhà lãnh đạo tôn giáo (thượng tế, luật sĩ, biệt phái…) kết án Đức Giêsu là người phạm thánh, và bị giết chết treo như một ác nhân (mà theo Do thái giáo, Thiên Chúa lên án chết cho kẻ phạm tội – xem Đệ Nhị Luật 21:23), thì những Kitô hữu tôn thờ và công bố Đức Giêsu được Thiên Chúa cho chỗi dậy từ cõi chết, là Đấng Mêsia của Israel. Đây là điều phạm thánh không chấp nhận được.

    Tóm lại, có thể có lí do này quan trọng hơn lí do kia, nhưng tính tổng hợp của tất cả những lí do trên đã khiến con người Phaolô nhiệt thành trở nên người bắt bớ Kitô hữu.

    Bài 15: Thánh Phaolô được xem là người thành lập nhiều cộng đoàn Kitô hữu, vậy Ngài đi rao giảng và thành lập những cộng đoàn ấy thế nào?

    Sách Công Vụ Tông đồ (Cvtd) và những thư thánh Phaolô cho ta ấn tượng Phaolô là một nhà thuyết giảng di động và một người xây dựng nhiều cộng đoàn trên đường Ngài đi truyền giáo. Ngài cũng thường xuyên liên lạc, lo lắng đến đời sống mục vụ và tinh thần những cộng đoàn này bằng những thư từ hay gởi lời hỏi thăm khi có điều kiện, nhất là sau khi Ngài rời khỏi những cộng đoàn này.

    Về địa lí, thường thì thánh Phaolô tập trung rao giảng tin mừng ở những thành phố lớn vùng Tiểu Á và Hi Lạp như Antiokia, Cilicia, Athens, Corintô, Galata, Thessalonica…. Về thời gian, có nơi Ngài ở lại chừng vài tuần lễ, có nơi Ngài ở lại lâu hơn như hơn 2 năm ở Ephêsô và chừng 18 tháng ở Corintô. Về mục vụ, thánh Phaolô quan tâm đến những cộng đoàn Ngài thành lập (như Corintô, Galata…) cũng như cộng đoàn Ngài không thành lập (như Roma).

    Khi nói đến những cộng đoàn thánh Phaolô thành lập, chúng ta cũng không bỏ qua những cộng đoàn nhỏ, bắt đầu với vài ba gia đình họp nhau, việc thờ phượng và giảng dạy được tiến hành trong các nhà ở của họ.

    Các nhà Kinh thánh cho rằng những cộng đoàn tiên khởi sinh hoạt trong hai hình thức. Vì một số những Kitô hữu đầu tiên là người Do Thái nên họ họp nhau với những tín hữu Do thái giáo mộ đạo khác trong các Hội Đường để nghe các thầy Rabbi đọc và nghe giải thích Thánh Kinh (thường là Ngũ Kinh hay Luật Môisê). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng kể chuyện Phaolô đến giảng ở các Hội Đường (Cvtđ 14:1; 17:1-2).

    Sau đó, họ về nhà riêng để cử hành Bữa Ăn Của Chúa, mà chúng ta hiểu là Thánh Lễ ngày nay. Trong thư thứ nhất Corintô, thánh Phaolô miêu tả cho ta thấy Bữa Ăn (Thánh Lễ) trong nhà có những chia rẽ của người giàu kẻ nghèo, và thánh Phaolô quở trách như thế là làm nhục Hội Thánh Chúa, không xứng đáng để ăn Bánh và uống Chén của Chúa (1 Cor 11:17-22; xem thêm Cvtđ 18:7-8).

    Thường những nhà này là của những người khá giả, rộng lớn đủ để dung nạp chừng 50-60 người. Trong thư gởi Roma, Phaolô gởi thư từ nhà của “anh Gaiô, người tiếp rước tôi và tiếp rước cả Hội Thánh trong nhà của anh” (Rom 16:23). Trong thư thứ nhất Corintô, Phaolô viết: “Aquila và Priscilla cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa” (1 Cor 16:19; xem thêm 16:5). Khi viết thư trong tù để gởi đến thăm Philêmon, thánh Phaolô nhắc đến “Hội Thánh họp tại nhà anh” (Phile 1:2). Cuối cùng, trong thư gởi tín hữu Côlôsê mà có lẽ Phaolô viết trước khi chịu chết, Ngài “gửi lời chào các anh em ở Laođikia, chị Nympha và Hội Thánh vẫn họp tại nhà chị ấy” (Col4:15).

    Nhiều nhà Kinh Thánh cho rằng thánh Phaolô thành lập nhiều cộng đoàn Kitô hữu, nhưng không thành lập những “Hội Thánh họp trong nhà” tại vùng Colôsê và Laodicea, kể cả “Hội Thánh họp trong nhà” của Philêmon và Nympha. Còn hai vợ chồng Priscilla và Aquila ở Roma có “Hội Thánh họp trong nhà” họ thời gian khá lâu trưóc khi Phaolô đến Roma.

    Tóm lại, chúng ta khó nói chính xác con số bao nhiêu cộng đoàn Phaolô đã thành lập hay đã thăm viếng, một phần vì hình thái thành lập của các cộng đoàn tiên khởi thường có tính cách gia đình, một phần ta không có những tài liệu chính xác để làm việc này.

    Bài 16: Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô có nhiều bạn đồng hành và cộng tác với Ngài, những ai là người đáng chú ý?

    Khi đi rao giảng Tin Mừng, thánh Phaolô không đi một mình mà thường là có những bạn đồng hành. Vì Ngài đi rao giảng nhiều nơi và nhiều lần khác nhau nên con số những người đi theo thánh nhân cũng thay đổi tùy theo chuyến đi.

    Có hơn 30 tên của những người có liên hệ đến công việc truyền giáo với thánh nhân được kể lại trong những thư Ngài viết. Họ là những người cùng đi rao giảng với Phaolô, hoặc những người đưa thư đến các cộng đoàn, hoặc những người xây dựng cộng đoàn điạ phương, hoặc thư ký v.v.…

    Điều chắc chắn là những người này đã hổ trợ Phaolô cả tinh thần lẫn vật chất, thăm viếng, an ủi khi bị cầm tù, giúp Phaolô vượt qua những khó khăn trong việc rao giảng tin mừng.

    Trong số hơn 30 tên được nhắc tên, một số tên đáng chú ý nhất là: Timôtê, Titô, Barnabas, Silvanus hay Silas, vợ chồng Priscilla và Aquila, và Appôlô. Trong những người này, Timôtê và Titô đóng vai trò quan trọng đặc biệt vì những lá thư nhắc riêng đến họ.

    Timôtê: Phaolô gọi “Timôthê, người cộng tác với tôi” (Rom 16:21), và coi ông là “người con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa.” (1 Cor 4:17), “Timôtê đã chứng tỏ mình là người có giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha.” (Phil 2:22).

    Phaolô cũng kể tên Timôtê như một cộng sự viên cùng gởi lời chào thăm đến các tín hữu Côrintô và cho Philêmon (2 Cor 1:1; Phlm 1:1), và nhắc đến những chia sẻ trong tư tưởng và công việc mục vụ với Phaolô. Timôthê trở thành Kitô hữu ở Lystra (Tiểu Á) trước khi gặp Phaolô. Ông là con một người mẹ Do thái và người cha Hi Lạp. Phaolô có lòng kính trọng đặc biệt đối với bà Eunice, mẹ Timotê, và Lois, bà ngoại Timotê vì lòng đạo đức của họ (2 Tim 1:5). Vì cha Timotê là người Hi Lap nên Timôtê sinh ra không chịu phép cắt bì như những người Do Thái. Khi Phaolô gặp Timotê và muốn đem ông theo cộng tác trong việc truyền giáo, Phaolô đã cắt bì cho Timôtê, dù không nhất thiết phải làm vì Phaolô là người đấu tranh cho việc người dân ngoại theo Kitô giáo không cần chịu cắt bì ở công đồng Jerusalem, nhưng để tránh những rắc rối cho người Do thái theo Kitô giáo vì nhiều người vẫn còn giữ luật cắt bì (Cvtd 16:1-3).

    Titô: Không như Timôtê, Titô không bao giờ được nhắc đến trong Công Vụ Tông đồ mà chỉ trong thư của thánh Phaolô mà thôi. Titô là người dân ngoại trở lại, và được Phaolô gọi là “người anh em của tôi” (2 Cor 2:13), là “vừa là bạn đường, vừa là người cộng tác với tôi” (2 Cor 2: 23). Công việc của Titô là sứ giả đưa thư đến cho cộng đoàn Corintô, giáo đoàn mà Titô có nhiều quan hệ than thiện (2 Cor 7:13-14). Titô cũng giúp Phaolô xin tiền dâng cúng từ giáo đoàn Corintô để giúp giáo đoàn Jerusalem (2 Cor 8:1-7). Điều đặc biệt đáng nhớ về Titô là khi Phaolô về Jerusalem để họp chung với các tông đồ khác để quyết định vấn đề người ngoại (không là Do Thái) có cần cắt bì khi theo Kitô giáo không, Phaolô đã đem theo Titô. Nhờ tài tranh biện của Phaolô và sự hiện diện của Titô, các tông đồ đã quyết định qua phán quyết của Giacôbê là dân ngoại không cần phải chịu cắt bì khi gia nhập Kitô giáo (Gal 2:1-3). Titô trở thành trường hợp điển hình cho người theo Chúa kitô không cần cắt bì như một nghi thức tôn giáo.

    Silvanus là một tiên tri ở Jerusalem (Cvtd 15:32), là sứ giả đưa thư của Phaolô đến cho giáo đoàn Thessalonica (1 Thes 1:1; 2 Thes 1:1). Ông còn giúp Phaolô đi truyền giáo ở Corintô (2 Cor 1:19), và đến với dân ngoại. Phaolô chọn Silanus thay thế cho Barnaba để đồng hành với Ngài trong hành trình truyền giáo lần thứ hai (Cvtđ 15:36-40).

    Bài 17
    Barnabas, một người Do Thái thuộc dòng họ Lêvi, quê ở Cyprus, đã bán thửa ruộng lấy tiền đặt dưới chân các tông đồ (Cvtđ 4:36-37), và có một vai trò quan trọng trong thư gởi tín hữu Galata (Gal 2:1-13; xem thêm 1 Cor 9:6).

    Paul cho rằng Barnabas đã dính líu đến vụ căng thẳng về vấn đề đòi hỏi những người dân ngoại theo Kitô giáo phải giữ những luật về ăn uống theo Luật Môisê. Ban đầu, Barnabas đồng hành với Phaolô đến Jerusalem, và ở đó ông được chúc lành và được sai đi đến dân ngoại. Nhưng thánh Phaolô nhận định rằng sau này Barnabas bị lôi cuốn bởi Phêrô và những Kitô hữu gốc Do thái sống giả hình (Gal 2:13), nghĩa là họ không chấp nhận ngồi đồng bàn với dân ngoại không chịu cắt bì nếu có những Kitô hữu gốc đạo Do thái chất vấn họ. Còn khi không có ai để ý, họ lại đến với dân ngoại như không có gì xảy ra.

    Ta cũng nên biết tình bạn giữa Barnabas và Phaolô ban đầu rất thân thiết. Chính Barnabas là người đã bảo vệ và giới thiệu Phaolô đến các môn đệ ở Jerusalem vì những môn đệ này sợ Phaolô là kẻ săn bắt họ (Cvtđ 9:26-27). Rồi chính Barnabas đã đem Phaolô đến Antiokia (Cvtđ 11:25-26) và cùng Phaolô đi rao giảng tin mừng (Cvtđ 14:1). Sau này, vì bất đồng ý kiến trong việc nhận Gioan Máccô cùng đi truyền giáo chung, Phaolô và Barnabas chia tay nhau, hai người hai ngã: “Ông Banarbas muốn đem theo cả ông Gioan cũng gọi là Máccô. Nhưng ông Phaolô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pamphylia và đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. Hai bên nổi nóng đến mức phải chia tay nhau. Ông Barnabas đem ông Máccô theo, vượt biển đi đảo Cypre. Còn ông Phaolô thì chọn ông Silas và lên đường, sau khi đã được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa” (Cvtđ 15:37-40). Cũng nên biết rằng Gioan Maccô là em họ của Barnabas (Col4:10).
    Appolô: được nói đến trong Công Vụ Tông Đồ và thư thứ nhất giở tín hữu Corintô. Là một người Do Thái lưu vong, quê quán ở Alexandria, Ai Cập, Appôlô đi truyền giáo ở Ephêsô và Corintô (Cvtđ 18:24-28).

    Ở Corintô, vì “ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh” (Cvtđ 18:24) nên ông được nhiều người ngưỡng mộ. Một số người theo ông và tự nhận mình thuộc nhóm Appôlô : “Trong anh em có những luận điệu như: “Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.” (1 Cor 1:12). Sự chia rẽ bè phái không hẳn là do Appôlô, vì không thấy Phaolô nói đến trong thư, mà có thể do lòng yêu mến cá nhân của nhiều người đi theo ông. Phaolô cải huấn tư tưởng chia rẽ trong những phân biệt mục vụ này bằng lời khuyên: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cor 3:6).

    Aquila và Priscilla: Chồng Aquila và vợ Priscilla được nhắc đến trong thư Phaolô gởi Roma (Rom 16:3). Aquila là người Do Thái, sinh ở Pontus, vùng Cilicia. Hai vợ chồng có nhiều đóng góp cho Hội Thánh (Cvtđ 18:2 ff; 26; 1 Cor 16:19). Hai người sống ở Roma, nhưng vào khoảng năm 43-44, hoàng đế Claudius ra lệnh trục xuất tất cả những người Do Thái ra khỏi Roma, hai vợ chồng dời về định cư ở Corintô (Cvtđ 18:2). Thánh Phaolô gặp hai vợ chồng tại Corintô trong hành trình truyền giáo lần đầu tiên, lúc đó hai ông bà đã là Kitô hữu. Hai ông bà làm nghề dệt lều, và có thể vì đồng nghiệp với Phaolô nên họ trở nên bạn thân (Cvtđ 18:1-3). Hai người đưa Phaolô từ Corintô đến Ephêsô trên đường Ngài qua Syria (Cvtđ 18:18-19). Ở đây hai vợ chồng dạy giáo lý cho Apôlô (Cvtđ 18:18-28), và giúp Phaolô ở đó chừng hơn 2 năm. Ở Ephêsô, hai vợ chồng họp mặt Hội thánh Chúa trong nhà riêng (1 Cor 16:19). Họ rời Ephêsô trở về Roma, có lẽ sau cuộc nổi loạn của thợ bạc Demetrius nổi lên chống đối Phaolô (Cvtđ 19:24-40), và ở Roma họ cũng họp Hội thánh trong nhà mình (Rom 16:3-5). Khi Nerô vu cáo Kitô hữu đốt thành Roma và trừng phạt Kitô hữu, hai vợ chồng có lẽ trốn qua Ephêsô và ngụ lại đo (2 Tim 4:19). Hai vợ chồng đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc truyền giáo của Phaolô.
    Ngoài ra, chúng ta còn đọc được tên những người cộng tác với Phaolô trong việc truyền giáo: Urbanô (Rom 16:9), Epaphroditus ở Philiphê (Phil 2:25), Clementê (Phil 4:3), Philêmon (Philêmon 1), Maccô, Demas, Aristarchus và Luca (Philêmon 24), Epaphras ở Côlôsê (Col 1:7; 4:12).

    Tóm lại, hai điều đáng chú ý trong công cuộc truyền giáo của thánh Phaolô. Một là thánh nhân không đi truyền giáo một mình mà được sự giúp đỡ, hổ trợ của nhiều người. Hai là sự tham gia đóng góp của giáo dân trong Giáo hội là điều cần thiết và tất yếu để công cuộc rao giảng tin mừng được thực hiện.

    Mt.Nguyễn Khắc Hy S.S.
    Chữ ký của Totus Tuus
    Tất Cả Cho Mẹ...

  2. Có 2 người cám ơn Totus Tuus vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com