Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 1 trên 1

Chủ đề: SỐNG "CÁI CÓ" VÀ "CÁI LÀ" TRONG DỤ NGÔN NGƯỜI CON THỨ

  1. #1
    agapaw's Avatar

    Tham gia ngày: May 2012
    Tên Thánh: Piô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 71
    Cám ơn
    60
    Được cám ơn 169 lần trong 59 bài viết

    Default SỐNG "CÁI CÓ" VÀ "CÁI LÀ" TRONG DỤ NGÔN NGƯỜI CON THỨ

    SỐNG “CÁI CÓ” VÀ “CÁI LÀ” TRONG DỤ NGÔN NGƯỜI CON THỨ


    Agapio
    Mở quyển sách Tin Mừng, tôi tìm tới dụ ngôn “người con hoang đàng” hay còn gọi là dụ ngôn “người cha nhân hậu” của Tin Mừng Luca chương 15. Tôi dừng lại chiêm ngắm cách mà người con thứ đối xử với người cha. Ngang qua đó, tôi tìm thấy cách thức mà con người đối xử với Thiên Chúa suốt chiều dài “sống, động và hiện hữu” của nhân loại.
    Đọc lướt qua những trang nói về dụ ngôn này, tôi nhớ tới văn hóa Việt Nam về việc chia tài sản cho con cái. Thoáng qua một nét văn hóa đẹp, tôi thấy người Việt Nam, nhất là người cha trong một gia đình thường viết tờ giấy di chúc khi sắp lìa đời. Tất cả gia sản người cha sẽ chia cụ thể cho con cái. Liên hệ tới việc chia tài sản của người cha nhân hậu trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể. Việc chia tài sản của người cha trong dụ ngôn là do lời đề nghị của người con thứ và cũng có thể hiểu là của người con cả. Người con thứ xin chia tài sản khi cha còn sống. Điều này khai mở một ý nghĩa mới rằng khi đòi chia tài sản cho mình, người con muốn cha mình chết đi hoặc ra khỏi cuộc đời của nó để nó được toàn quyền tự do trên cuộc đời của nó.
    Xưa nay, tôi đã đọc đi đọc lại dụ ngôn này rất nhiều lần. Ý nghĩa mà xưa nay tôi vẫn hiểu là việc người con thứ đòi chia tài sản cho mình rồi bỏ nhà ra đi. Ở nơi xa xôi, nó ăn chơi tráng tác khi hết tiền hết của, hết tất cả…và có nguy cơ mất luôn cả mạng sống thì nó mới ăn năn trở lại, về với cha mình. Có lẽ ý nghĩa luân lý này vẫn thường được lưu truyền cho mọi người.
    Tuy nhiên khi tìm về bản văn Hy Lạp, tôi đọc thấy một ý nghĩa tín lý về những gì người con đã làm với cha mình. Dựa vào bản dịch tiếng Việt, xưa nay tôi vẫn hiểu điều người con thứ xin cha mình như sau: “xin cho con phần tài sản con được hưởng”. So với bản văn Hy Lạp: “dos moi to epiballon meros ten ousias”, tôi thấy điều người con thứ xin cha mình không đơn giản chỉ là “tài sản”. Từ “ousias” trong tiếng Hy Lạp còn có ý nghĩa thâm thúy hơn nhiều. “Ousias” chính là “cái là”. Điều người con thứ xin là “cái là”. Như vậy câu mà người con thứ nói với cha mình là: “xin cho con ‘cái là’”. Vấn đề đặt ra ở đây: người con thứ xin “cái là” của ai? Nếu nói người con thứ xin “cái là” của mình thì không đúng vì lẽ khi đối diện với người cha, người con vốn đã có “cái là” rồi. Hẳn là người con thứ muốn xin “cái là” của cha mình: “xin cho con cái là của cha”. Nghĩa là “xin cha cho con được làm cha của chính con”, đồng nghĩa với việc “xin cha hãy chết đi hoặc là xin cha hãy ra khỏi cuộc đời của con để con được làm cha, làm chủ của chính con”.
    Ở trong nhà cha, con cảm thấy không được tự do, mọi việc con làm đều phải xin phép cha, mọi sự con muốn đều phải được sự đồng ý của cha, tất cả đều dưới sự quan sát của cha. Con đã chán ngấy nhiều năm rồi, con đã ức chế nhiều năm rồi mà không nói được, nay con mới nói được. Sự toan tính và công bố của người con là có chủ đích từ lâu, rõ ràng thánh Luca dùng những kiểu nói rất ý nghĩa: “ít ngày sau, người con thứ thu gom tất cả”. Nếu nói rằng việc đối xử của người con thứ là bồng bột nhất thời thì ít ngày sau hẳn nó phải có chút áy náy, hối hận, đàng này không những không hối hận, nó còn gom tất cả. Điều thâm thúy ở chỗ tại sao khi đã được chia cho tài sản rồi nó không chịu đi ngay mà còn ở lại thu gom tất cả. Bạn thử nghĩ mà xem? Nếu người cha chia tài sản là một tỷ đồng thì nó cần gì những thứ đồ đạc cũ kỹ, những thứ dẻ rách kia. Số tiền mà người cha cho nó còn đủ để ăn chơi đàng điếm cơ mà. Số tiền ấy hẳn là dư sức mua đồ đạc đủ dùng chứ cần gì vơ vét mấy thứ vớ vẩn. Ẩn ý mà thánh Luca muốn đào đạt chính là việc người con muốn xóa sạch vết tích ở nhà cha mình. Nó muốn nói với người cha rằng: tôi đã chết rồi ông ơi. Ông đừng mong tôi về, ông hãy coi tôi đã chết rồi. Nếu ông không coi tôi chết rồi thì tôi cũng coi ông không còn trên đời nữa. Câu kế tiếp cho phép ta hiểu ý nghĩa này: “rồi trẩy đi phương xa”. Tại sao thánh Luca không nói “phương gần” mà lại nói “phương xa”. Có nghĩa là người con thứ muốn đi thật xa khỏi tầm kiểm soát của người cha. Ở nơi ấy, khi nó mở điện thoại di động lên sẽ không có sóng của cha nó nữa.
    Quay trở lại với nhân vật người cha: “xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Bản văn tiếng Hy Lạp cho phép hiểu rằng điều người con thứ xin không hề tương thích với điều người cha chia cho nó. Điều người con thứ xin cha mình là “ousias – cái là”, nhưng điều người cha chia cho con thứ là “bion – cái có”. Như vậy có nghĩa là người cha không đáp ứng điều người con xin. Người con xin một thứ nhưng người cha lại cho một thứ khác. Tại sao vậy? Phải chăng người cha sợ rằng cho nó “cái là” thì nó sẽ hơn mình nên ông cho nó “cái có” thay vì cho “cái là”? Vấn đề này được đặt ra suốt cả chiều dài lịch sử suy tư thần học đặc biệt đối với các nhà thần bí. Vấn đề không thuộc về người cha nhưng thuộc về người con. Điều người con xin là bất khả thi, vì sự thật muôn thuở: người cha vẫn là người cha, người con vẫn là người con, không thể nào đảo lộn trật tự này được. Dù người con có chối bỏ, loại trừ người cha thì sự thật về tình phụ tử vẫn tồn tại không thể nào mất hay thay đổi được. Đó là lý do người cha không thể cho chứ không phải người cha không muốn cho. Ngoài “cái là” ra, người cha đã chia cho nó tất cả “cái có”.
    Người con thứ đã mang theo “cái là” của nó và “cái có” của người cha đi đến một phương trời rất xa xôi, ở đó là thế giới của riêng nó. Nó đoạn tuyệt với cha nó nhưng thực ra nó đang mang theo “cái là – tức là tư cách làm con của nó” cùng với “cái có” mà cha nó chia cho.
    Trước hết nó đến một vùng đất xa xôi thuộc dân ngoại, thế mà đối với người Do Thái, bước vào vùng đất dân ngoại là bị ô uế. Nó nghĩ rằng đi vào vùng đất dân ngoại để đánh mất tư cách làm con, để khỏi vương vấn với người cha khi nó tìm đến làm bạn với dân ngoại. Thứ hai, trong vùng đất dân ngoại, nó tìm đến với thành phần bất hảo nhất của dân ngoại là bọn gái điếm, đầu trộm đuôi cướp, một thành phần mà người dân ngoại còn ghê tởm phương chi người Do Thái. Lần thứ hai nó biến mình thành kẻ mất tư cách làm con của cha nó khi trở thành bạn của những người bất hảo trong dân ngoại. Thứ ba, nó ăn chơi và khi bị cháy túi thì nó quay ra đi làm thuê cho người ta. Khi còn tiền bạc của cha nó thì nó sai khiến người ta phục vụ nó, khi nó nhẵn túi thì nó quay ra phục vụ người ta. Nhưng điều nó phục vụ là điều mà dân ngoại ghê tởm nhất và thuộc loại súc vật tệ hại nhất: nó chăn heo cho người ta. Nó đánh mất tư cách là con khi biến mình thành kẻ chăn heo. Thứ tư, trong khi chăn heo, nó đói quá, nó ao ước được ăn cám của heo. Nó đánh mất tư cách là con khi biến mình thành ngang hàng với con heo, bạn của con heo. Thứ năm, ngay cả khi nó ước ao ăn cám heo mà cũng không được ăn. Nó đã đánh mất tư cách là con khi biến mình thành kẻ còn thấp hơn cả con heo. Nó cố tình tiêu hủy hết những vết tích của cha nó. “Cái có” của cha nó, nó đã phung phá hết, đến “cái là”, tức là tư cách là con của cha nó, nó cũng thiêu hủy hết.
    Đến khi đụng tới sinh mạng của nó, đụng tới bước đường cùng thì nó mới bắt đầu nghĩ tới chuyện làm sao để cứu chính nó. Nó nghĩ về cha nó là vì chính nó chứ không phải vì cha nó. Giả định rằng nếu người ta cho nó ăn cám heo như nó ước ao thì chắc hẳn nó sẽ không trở về với cha nó. Sự ngoan cố bất cần ơn cứu trợ của cha nó thể hiện rõ nơi những toan tính trở về của nó. Tôi lại thích giả định rằng nếu nó biết được sự thật cha nó vẫn yêu thương nó và dù nó có làm gì thì tư cách là con của nó không bao giờ mất. Nếu nó biết được sự thật này thì hẳn thật nó sẽ về nhà đòi cha nó chia cả “cái có”“cái là” của cha nó. Nhưng vì nó không biết điều ấy, nó vẫn nghĩ rằng nó đã thiêu hủy hết tư cách là con, giờ về chỉ để cứu lấy mạng sống và xin làm tôi tớ là may mắn rồi. Nó không hề sám hối.
    Hình tượng người con thứ làm tôi liên tưởng tới hình ảnh con người trong tương quan với Thiên Chúa. Con người, ngay từ nguyên tổ loài người, Ađam và Eva, đã đến ra mắt Thiên Chúa và luôn muốn xin chia “cái là” của Thiên Chúa. Con người không muốn xin cái này cái kia mà xin “cái là” của Thiên Chúa. Con người luôn muốn được làm Chúa của chính mình để “biết lành biết dữ”. Con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Con người muốn được tự do tuyệt đối. Con người cảm thấy mình bị nô lệ hóa. Con người cảm thấy mình phải sống dưới con mắt của Thiên Chúa. Họ muốn Thiên Chúa chết đi để họ được làm Chúa của mình nên không lạ gì chuyện con người đến xin chia, không phải “tài sản” mà là “cái là” của Thiên Chúa.
    Sự kiện tháp Babel sụp đổ cũng mang một ý nghĩa về điều con người muốn và điều con người không thể có được. Con người muốn bằng Thiên Chúa, muốn Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời con người nhưng không thể được. Sự kiện tháp Babel bị sụp đổ không phải vì Thiên Chúa muốn phá hủy điều con người dự tính mà điều này cho thấy rằng Thiên Chúa không thể ban điều con người muốn mà không thể được. Khả năng của con người không cho phép con người làm điều con người không hiểu và bất khả thể.
    Sự kiện dân Israel đi trong sa mạc cùng với sự phản loạn của mình cho thấy lòng con người đã toan tính từ lâu để rồi bất cứ lúc nào con người cũng có thể lồ lộ ra. Con người muốn được thoải mái, được tự chủ, được tự do, được quyền năng để có thể nắm bắt vận mệnh của mình với những toan tính bất phàm nằm ngoài hoạch định của Thiên Chúa Đấng quan phòng tất cả. Dân Israel đòi chia tài sản, đòi chia “cái là” của Thiên Chúa không thành, dân quay ra đòi “cái có”. Sự dụng “cái có” và tiêu xài “cái là” của chính mình trong sự phản loạn…
    Chính Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ đòi chia “cái là” của Thiên Chúa đang khi sống kiếp phàm nhân, dù người là Thiên Chúa. Đó là cái nghịch lý mà Con Thiên Chúa cũng phải đối diện. Nhưng Người đã đi con đường khác. Người cho con người thấy sự thật về một Thiên Chúa và sự thật về con người. Về một Thiên Chúa là Cha và về con người là con. Sự thật về việc con người cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả sự sa đọa của con người đều bắt nguồn từ toan tính muốn chia “cái là” của Thiên Chúa. Từ điểm này kéo theo biết bao nhiêu sự hủy diệt tư cách là con của con người và tư cách là thụ tạo của con người. Dù vậy, sự thật về tư cách là con cái Thiên Chúa của con người cũng không bao giờ thay đổi hay mất đi.
    Nhiều lúc tôi nghĩ đơn giản nhưng quả thật, nghĩ cho tới rốt cùng vấn đề, tôi thấy con người đã đối xử với Thiên Chúa tệ đến chừng nào. Khi tôi phạm tội, khi tôi làm điều gì đó trái với lẽ luân thường khiến cho lương tâm tôi áy náy…thì chính là lúc tôi muốn gạt Thiên Chúa qua một bên để làm chuyện của tôi. Tôi muốn Thiên Chúa chết đi để mọi việc lớn nhỏ trong đời tôi không phải suy nghĩ áy náy gì cả. Đi đến rốt cùng vấn đề, tôi là con người, nhưng tôi muốn “cái là” của Thiên Chúa là muốn bằng Thiên Chúa. Muốn “biết lành biết dữ”, đặc biệt tự ra luật cho mình. Tôi là ai? Sự thật tôi là thụ tạo không thay đổi được, không xóa nhòa được. Sự thật về Thiên Chúa không tài nào biến mất khỏi xã hội loài người, không thể biến mất khỏi sự hiện hữu. “Cái là” của Thiên Chúa không thể hiện hữu thay thế nơi “cái là” của con người được. Ấy thế mà con người đã muốn như thế. Thiên Chúa không cho điều con người xin không phải vì Thiên Chúa không muốn cho nhưng vì khả năng của con người không tài nào đón nhận được. Nếu Thiên Chúa ban cho con người “cái là” của Người thì cũng đồng nghĩa với việc hủy diệt con người.
    Con người muốn phản loạn, muốn Thiên Chúa chết đi để được làm Chúa của chính mình, nhưng con người không thể xóa nhòa sự thật về tình phụ tử tuyệt đối của Thiên Chúa. Con người không thể xóa nhòa đôi mắt thương xót và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đơn giản vì con người là con cái của Người. Tư cách là con muôn thuở muôn đời không phai dù con người có như thế nào.
    Con người bày vẽ đủ thứ triết thuyết để như muốn hủy diệt Thiên Chúa hoặc xem Thiên Chúa đã chết. Trong một luồng tư tưởng hiện sinh vô thần vẫn được thượng tôn trong xã hội hôm nay, muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội loài người để được sống cho ra người, để được hưởng tự do đích thực. Tất cả những chủ trương như thế không phải một sớm một chiều, cũng giống như người con thứ, mọi sự đã được toan tính từ lâu và rồi khi đến lúc, con người tuyên chiến với Thiên Chúa. Điều này càng cho thấy con người đã đối xử với Thiên Chúa như thế nào. Dù vậy, tư cách là con vẫn luôn là điểm mấu chốt khả dĩ khơi nguồn thương xót của Thiên Chúa.
    Thiên Chúa không tiếc gì đối với con người, ngay như Con Một mà Người còn ban cho con người thì còn gì mà Thiên Chúa không ban. Chỉ có “cái là” của Thiên Chúa tuyệt nhiên không thể được. Các nhà thần bí vẫn thường hay dùng hình ảnh loại suy để nói về thực tại này. Con người và khả năng của con người cũng tựa như chén nước nhỏ không thể nào chứa được mặt trời, cũng vậy, con người không thể nào đón nhận “cái là” của Thiên Chúa.
    Từ hình tượng về người con thứ trong Tin Mừng Luca chương 15, về cách đối xử của người con đối với cha mình, gián tiếp cho thấy cách mà con người đối xử với Thiên Chúa. Điều này cho phép tôi suy nghĩ về cách thức mà tôi đã đối xử với Thiên Chúa. Vấn đề không còn phải là luân lý nữa mà là tín lý. Không còn phải là những tội luân lý con người phạm mà chính là việc con người cố chấp không cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bài học về người con thứ mở ra viễn cảnh đời sống con người và mở ra đời sống riêng của từng cá nhân trong cách mà con người đối xử với Thiên Chúa. Bài học này giúp tôi suy xét về công cuộc “sống, động và hiện hữu” của tôi bao nhiêu năm nay với việc tự chất vấn mình: “Tôi phải làm gì để sống “cái là” của tôi trong sự thần phục, chiêm ngưỡng “cái là” của Thiên Chúa?”
    Chữ ký của agapaw
    Mức độ của yêu mến là yêu mến không mức độ.

  2. Có 2 người cám ơn agapaw vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com