|
Những Sứ Vụ Thần Linh: Chúa Kitô và Thánh Thần của Ngài.
Tương tác giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần hàm ch?a một điều quan trọng lớn lao trong “các sứ vụ” của các Ngài. Chúa Con nhập thể trong thân xác Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần: de Spiritu Sancto, như Giáo hội tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, điều đó biểu thị nguồn gốc thần linh của sự nhiệm sinh nhân tính của Chúa Giêsu. Còn Chúa Thánh Thần tạo nên thân xác nhân loại Chúa Kitô. Chính Chúa Thánh Thần đã được đổ đầy linh hồn nhân loại Chúa Kitô ngay từ giây phút đầu tiên của việc thụ thai. Chúa Cha thì ban Thánh Thần cho Con mình “vô ngần vô hạn” (x.Ga 3, 34). Trong tư cách là người, Chúa Kitô đón nhận Thánh Thần cách sung mãn [1]. Sự viên mãn này là duy nhất và đặc thù nơi Chúa Kitô, vì nhân tính Chúa Kitô được hiệp nhất với Thiên Tính của Ngài trong sự hiệp nhất hết sức chặt chẽ (đó là sự hiệp nhất của chính Ngôi Vị Con Thiên Chúa nhập thể). Hoạt động nhân loại của Chúa Giêsu được sống động là nhờ những sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần “hướng dẫn” (x. Mc 1,12). “Sứ vụ hữu hình” của Chúa Thánh Thần đối với Chúa Kitô lúc chịu phép rửa, biểu lộ cách chính xác sự sung mãn mà Con Yêu Dấu đã nhận được từ lúc thụ thai để chuyển thông ân sủng cho những người khác qua giáo huấn và qua các mầu nhiệm sự hiện hữu của Ngài trong thân xác chúng ta.
Lúc thời gian độ lượng của Thiên Chúa đã khiến Con Một duy nhất đến trên trần gian này, nghĩa là một con người được sinh ra từ một người đàn bà theo Kinh Thánh, thì Chúa Cha còn ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài và người đầu tiên đón nhận Thánh Thần là Chúa Kitô, trong tư cách là Kiểu mẫu trước hết của bản tính cần được đổi mới. Thánh Gioan Tẩy Giả khẳng định rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời ngự xuống và ở trên Người […]. Nếu người ta nói rằng Chúa Kitô đã nhận lấy Thánh Thần, đó là trong tư cách Ngài đã làm người và trong tư cách là chấp nhận như một con người để đón nhận Thánh Thần […]. Bởi vì, sau khi đã làm người thì Con Duy Nhất có nơi mình tất cả bản tính nhân loại. Nên Ngài đã đón nhận Thánh Thần để uốn nắn hoàn toàn bản tính ấy khi phục hồi nó trong tình trạng ban đầu của nó. […] Như vậy, nhờ suy xét cẩn trọng và khi chúng ta dựa vào các khẳng định của Kinh Thánh, chúng ta có thể hiểu rằng, Chúa Kitô đã không nhận lấy Thánh Thần cho chính mình nhưng đúng hơn cho chúng ta là những người ở trong Ngài. Vì nhờ Ngài mà chúng ta đạt tới mọi đều thiện hảo[2].
Giá trị cứu độ của hoạt động nhân loại Chúa Kitô đến từ đức ái và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi Ngài chịu khổ nạn: nhờ Thánh Thần, Chúa Kitô đã tự hiến tế lên Thiên Chúa (x. Dt 9,14). Khi nhập thể, Chúa Con đã gởi Thánh Thần của mình cho nhân loại mà Ngài đã đảm nhận. Dưới những khía cạnh đó, trong nhân tính của mình, Chúa Kitô là người hưởng ân huệ của Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa Cha và để cứu độ chúng ta. Dưới một khía cạnh khác như chúng ta đã lưu ý trên đây, thì Chúa Kitô được đổ đầy Thánh Thần cùng với sự cộng tác (“trong tư cách là dụng cụ”) của nhân tính đầy ân sủng và được hoàn thiện nhờ Thánh Thần. Dưới khía cạnh thứ hai này, thì Chúa Kitô, trong thiên tính và nhân tính, là người ban phát Thánh Thần. Còn Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Kitô đến trên mọi người được cứu độ.
Hoạt động của Chúa Thánh Thần giúp cho nhân loại không thể chia cách với Chúa Kitô. Công trình của Ngài thì không khác với công trình của Con Thiên Chúa nhập thể, mặc dù Ngài hoạt động theo một cách thức khác, Ngài khắc ghi giáo huấn của Con Thiên Chúa nhập thể trong các tâm hồn và dẫn đưa nhân loại đi vào trong chính mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. Hoạt động cứu độ của Chúa Kitô và hoạt động cứu độ của Chúa Thánh Thần cũng có cùng phạm vi phổ quát. Tính hoạt động phổ quát của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa trong tư cách nhập thể, phải được suy xét dưới ánh sáng đức tin được Công Đồng Éphêsô và Chalcédoine: Chúa Kitô có một Ngôi Vị duy nhất, trong đó nhân tính hiệp nhất với Thiên Tính. Căn cứ vào sự hiệp nhất này, hoạt động nhân loại của Chúa Kitô là “dụng cụ” đặc thù và liên kết, tự do và sống động của hoạt động thần linh. Hoạt động nhân loại của Chúa Kitô cũng được hoàn thiện bởi ân huệ vô ngần vô hạn của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ban cho nhân tính Chúa Kitô được cộng tác hoàn toàn với bản tính thần linh của Ngài. Sự cộng tác đó qui chiếu hoạt động của nhân tính Chúa Kitô vào một phạm vi hoạt động cũng rộng lớn và sâu xa như phạm vi hoạt động của Thiên Tính của Ngài.
Thánh Thomas d’Aquin giải thích chủ đề này như sau: “Trong tư cách là dụng cụ của Thiên Tính, thì hoạt động của nhân tính Chúa Kitô chẳng khác gì với hoạt động của Thiên Tính: Ơn cứu độ mà nhân tính Chúa Kitô thực hiện thì không khác với ơn cứu độ được nhân tính mang lại”[3]. Như vậy, hoạt động nhân tính của Chúa Kitô, đặc biệt là dâng hy lễ lên Chúa Cha trên thập giá, hầu đem lại hoa trái cứu độ cũng phổ quát và sâu xa như kết quả cứu độ của Thiên Tính Ngài vậy. Kết quả này chính là gởi Thánh Thần đến thánh hoá nhân loại. Ơn cứu độ do Chúa Kitô mang lại trong tư cách vừa là Thiên Chúa vừa là con người, chứ chẳng phải chỉ do từ một phía. Nghĩa là chỉ do Chúa Kitô trong tư cách là Thiên Chúa mang lại hay ngược lại. Vì điều đó sẽ phân chia Chúa Kitô và phá huỷ công cu?c nhập thể. Hơn nữa, ơn cứu độ cũng không đến từ Chúa Kitô hay từ Chúa Thánh Thần, nhưng đến từ cả hai. Vì chỉ có một ơn cứu độ duy nhất được Chúa Kitô và Thánh Thần của Ngài mang lại theo cách bất khả phân.
Tóm lại, Chúa Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể mang lại ơn cứu độ nhờ Thánh Thần mà Ngài được đổ tràn cùng với trung gian nhân tính thánh thiện; còn Chúa Thánh Thần chuyển thông ơn cứu độ khi sáp nhập nhân loại với Chúa Kitô. “Tất cả những gì Chúa Thánh Thần thực hiện thì Chúa Kitô cũng thực hiện”[4]. Nhờ hành động liên kết Chúa Con với Chúa Thánh Thần mà nhân loại được kết hiệp với Chúa Cha: đó là Giáo hội. “Vì Ngôi Lời ở trong Chúa Cha và Thánh Thần được ban từ Ngôi Lời, nên Chúa Cha muốn chúng ta đón nhận Thánh Thần. Để khi chúng ta đón nhận Thánh Thần là lúc chúng ta có Thánh Thần của Ngôi Lời, Đấng ở trong Chúa Cha. Bấy giờ chúng ta cũng được trở nên một nhờ Thánh Thần ở trong Ngôi Lời và qua Ngôi Lời, chúng ta được ở trong Chúa Cha”[5].
Một câu quan trọng trong Hiến Chế Gaudium et spes của Công Đồng Vaticanô II dạy rằng: “Chúng ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm phục sinh, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (MV số 22). Về thực chất, những kẻ đón nhận ân huệ của Chúa Thánh Thần, dù sao đi nữa, thì ân huệ đó đã được liên kết với Chúa Kitô. Một đàng, Thánh Thần được đổ tràn nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Đàng khác, Thánh Thần kết hợp những người thừa hưởng ân huệ của Ngài với Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Nhân loại nhận được sự thánh hoá của Thánh Thần là được hiệp nhất và sáp nhập vào Chúa Kitô; nhờ đó, họ trở nên những chi thể của Hội Thánh, Thân Mình Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần tác động đến những người thụ ân của Ngài, dù gì đi nữa, họ cũng phải ngang qua mối liên hệ mà Chúa Con đã thiết lập trong nhân tính của Ngài với nhân loại. Chân lý nền tảng này được đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhắc lại cách súc tích và mãnh liệt: “Vì vậy, con người chỉ có thể đi vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa qua Chúa Kitô, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần”[6].
Trong quãng thời gian trước biến cố nhập thể, ân huệ của Thánh Thần đã gắn bó với mầu nhiệm thân xác Chúa Kitô và Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô: các thánh nhân Cựu Ước đã đón nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần nhờ tin vào Đấng Trung Gian. “Xưa kia, khi tuân giữ các Bí Tích theo luật định, các tổ phụ được hướng đến Chúa Kitô do cùng một đức tin và cùng một lòng mến như chính chúng ta hướng đến Chúa Kitô ngày nay vậy, và như thế, chính các tổ phụ thuộc về cùng một thân mình của Giáo hội như chúng ta”[7]. Một cách mặc nhiên hay minh nhiên, niềm tin vào Chúa Kitô trung gian là cấu thành ơn cứu độ được ân huệ Thánh Thần ban cho. Bởi vì “không có đức tin thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11, 6). Thánh Thomas d’Aquin đã chú giải điều này như sau: “Con người không bao giờ có được ân sủng của Thánh Thần theo cách khác ngoài việc tin vào Chúa Kitô, dù minh nhiên hay mặc nhiên”[8].
Công Đồng Vatican II đã minh định chủ đề này: “Dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa biết Phúc Âm đến với đức tin, vì không có đức tin thì không thể làm vui lòng Ngài (Dt 11, 6), nhưng Giáo hội có bổn phận và đồng thời có thánh quyền rao giảng Phúc Âm (1Cr 9, 16); do đó, ngày nay và luôn mãi, hoạt động truyền giáo vẫn còn giữ trọn vẹn hiệu lực và sự cần thiết của noù”[9]. Nhân loại đón nhận ơn cứu độ từ Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Ngày nay cũng như vào ngày Lễ Ngũ Tuần, việc truyền bá đức tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là trọng tâm của việc rao giảng Tin Mừng của Giáo hội.
Tóm lại, việc mạc khải Ba Ngôi Thiên Chúa và hồng ân cứu độ hệ tại ở trong sứ vụ của các Ngôi Vị thần linh. Học thuyết cứu độ, đó là học thuyết về các sứ vụ của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần (các sứ vụ mà chúng ta gọi là “hữu hình” và “vô hình”). Sự tiếp cận này cho thấy nhiều lợi ích. Nó mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong hành động cứu độ của Ngài, trong các tương quan của Ngài với Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần, nghĩa là nhìn nhận Chúa Kitô và công trình của Ngài dưới ánh sáng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Học thuyết về các sứ vụ không chia cách giáo huấn về Chúa Cha và Chúa Con (Kitô học), nhưng học thuyết đó nắm bắt các sứ vụ trong sự duy nhất của chúng. Trong nền thần học hiện đại, đôi khi người ta đặt đối lập học thuyết “Thiên Chúa dĩ vi trung” (théocentrisme), nghĩa là con đường tập trung vào mầu nhiệm Thiên Chúa và “Đức Kitô dĩ vi trung” (christocentrisme), tức đặt Chúa Kitô ở trung tâm mọi sự. Tuy nhiên, giáo huấn về các sứ vụ thần linh không trình bày một sự đối lập như thế và giáo huấn đó có thể giúp vượt qua những căng thẳng không mấy phong phú. Hơn nữa, học thuyết về các sứ vụ không chia cách giáo huấn về Chúa Kitô và về Chúa Thánh Thần, nhưng nó nhìn nhận Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần trong sự duy nhất và trong tương quan của các Ngài. Sự tiếp cận này chứng tỏ rằng, ơn cứu độ hệ tại ở trong chính Ba Ngôi, vì các sứ vụ hàm chứa mầu nhiệm vĩnh cửu của các Ngôi Vị thần linh: mầu nhiệm Chúa Con được Chúa Cha tác sinh và mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất. Vả lại, sự tiếp cận này tránh lẫn lộn công trình trong thời gian của các Ngôi Vị thần linh với hữu thể nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa, vì nó giữ gìn được tính siêu việt của Thiên Chúa đối với các kết quả hoạt động của Thiên Chúa. Như thế, sứ vụ của các Ngôi Vị thần linh cống hiến cho chúng ta một tia sáng khả dĩ hướng dẫn tất cả các nhà thần học Kitô giáo. Người ta có thể được sứ vụ đó thuyết phục, chẳng hạn khi xét đến công trình đồ sộ của Hồng Y Charles Journet: Giáo hội của Ngôi Lời Nhập Thể, được xây dựng trên giáo thuyết về các sứ vụ của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần[10].
[1] Dans son Commentaire sur saint Matthieu, 12, 18 (n° 1000), saint Thomas d'Aquin expliquait : « Dans le Christ, [Dieu] n'a pas seulement répandu une part de l'Esprit (de Spiritu), mais il a répandu l'Esprit tout entier (totum Spiritum). »
[2] Saint Cyrille d'Alexandrie, Sur Jean, 7, 39 (trad. de la Liturgie des heures, à l'office du jeudi après l'Epiphanie ; voir PG, 73, col. 752-753).
[3] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, III, q. 19, a. 1, ad 2. Voir Gilles Emery, « Réflexions sur l'apport d'une christologie trinitaire et pneumatique en théologie chrétienne des religions », dans Mariano Delgado et Benedict T. Viviano (éd.), Le Dialogue interreligieux. Situation et perspectives, Fribourg, 2007, p. 51-64.
[4] Saint Thomas d'Aquin, Commentaire sur l'épître aux Ephésiens, 2, 18 (n° 121).
[5] Saint Athanase, Discours contre les ariens, III, 25 (ATHANASE d'Alexandrie, Les Trois Discours contre les ariens, trad. Adelin Rousseau, Paris, 2004, p. 260). On observe dans ce passage l'ordre de notre accès à Dieu (Esprit-Fils-Père) sous l'aspect de l'unité que le Saint-Esprit procure à l'Église dans le Fils : une unité dans le Père.
[6] Jean-Paul II, Lettre encyclique Redemptoris missio (1990), n° 5 ; La Documentation catholique, 88, 1991, p. 155.
[7] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, III, q. 8, a. 3, ad 3.
[8] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, I-I, 106, a. 1, ad 3.
[9] Décret Ad Gentes sur l'activité missionnaire de l'Église, n° 7.
[10] La doctrine des missions est spécialement développée dans la première partie du deuxième volume de cette œuvre : Charles Journet, L'Eglise du Verbe incarné. Essai de théologie spéculative, vol. II, Sa structure interne et son unité catholique (Première partie), Éd. Saint-Augustin, 1999. |
|