THIÊN CHÚA MỘT MỰC XÓT THƯƠNG VÀ THA THỨ


.
Linh mục Giuse Đỗ Đức Trí - GPXL

Kết thúc phiên tòa xét xử tên giết người tại Bình Dương năm trước, những người đến xem cảm thấy thỏa mãn vì kẻ giết người máu lạnh bị kết án tử hình. Những người thân còn lại của gia đình nạn nhân cho rằng, những người chết cũng an lòng khi kẻ thủ ác phải đền tội. Chỉ riêng có bà mẹ của tử tội là đau đớn và khóc ngất khi đứa con vừa tròn hai mươi tuổi của bà phải lãnh án tử. Mặc dù không phủ nhận, cũng không biện minh cho con, nhưng bà luôn nói với những người chung quanh: “con bà trước đây rất ngoan, rất dễ thương”. Bà tìm mọi cách để kháng án cứu con khỏi tử hình, vì bà nói: “nó còn quá trẻ”.
Thưa quý OBACE, người ta thường nói: “Nước mắt chảy xuôi”. Trong mắt của cha mẹ, cho dù con cái có ngỗ nghịch, thì nó cũng vẫn là đứa con đáng thương, dù con cái sai lầm thế nào cũng có thể dễ dàng được tha thứ và bỏ qua, chỉ vì cha mẹ nào cũng thương con và không ai muốn con phải chết. Thiên Chúa của chúng ta cũng là người cha hết mực thương con và không thể làm ngơ khi thấy con đau khổ và phải chết. Bài đọc một sách sử Biên niên đã tổng kết lại những biến cố quan trọng của dân Israel. Các biến cố này không phải là những mốc son của lịch sử, nhưng trái lại đây là những lần Israel đã phạm tội, phản nghịch chống lại Thiên Chúa.

Sách Biên Niên kể lại việc các thủ lãnh, tư tế và dân chúng bất nghĩa bất trung với Thiên Chúa, sống theo lối sống ghê tởm của dân ngoại, làm ô uế đền thờ của Thiên Chúa. Vậy mà, Thiên Chúa vẫn hết mực yêu thương và kiên nhẫn, Ngài sai các sứ giả đến để cảnh tỉnh họ, mời gọi họ điều chỉnh lại đời sống của mình. Tuy nhiên, dân chúng vẫn cứng đầu, coi thường các sứ giả, khinh chê lời mời của Thiên Chúa, hành hạ các ngôn sứ được Chúa sai đến. Thiên Chúa đã cảnh cáo Israel bằng cách cho dân ngoại đến quấy phá mùa màng và cuộc sống của họ. Chúng giết chóc và phá hủy đền thờ Giêrusalem, bắt những người ưu tú trong dân đi làm nô lệ, nhà cửa bị phá hủy, đất đai bị bỏ hoang. Thế nhưng, Thiên Chúa như người mẹ: “giận thì giận, mà thương thì thương” Ngài lại cho Israel có cơ hội được sống. Tại Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua Kyrô như một minh vương, ông nhân danh Thiên Chúa ban lệnh hồi hương cho người Do Thái, trả lại tự do, và còn cung cấp lương thực, vật liệu để Israel trở về khôi phục vương quốc, tái thiết đền thờ.

Thiên Chúa không hề thay đổi, cũng không hề hối tiếc về tình thương Ngài dành cho nhân loại. Thư Êphêsô đã ca ngợi lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa khi nói rằng: “Thiên Chúa hết mực yêu thương chúng ta, cho dầu chúng ta đã sa ngã phạm tội và phải chết, Thiên Chúa vẫn cho ta được sống”. Mặc dù chúng ta phản bội, nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương và còn cho ta được cùng sống lại với Đức kitô và cùng được hưởng vinh quang nước trời với Đức Kitô. Thánh Pholô cũng giải thích thêm: “Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu yêu thương chúng ta như thế, không phải vì công trạng của chúng ta, cũng không phải vì chúng ta xứng đáng hoặc chúng ta làm được việc gì nên công trạng, nhưng hoàn toàn do lòng yêu thương và ân sủng nhưng không của Thiên Chúa”. Vì thế, con người không có quyền gì để tự hào về chính mình, trái lại hãy tự hào vì tình thương của Thiên Chúa và chúng ta là những người con được Chúa yêu thương, là thụ tạo trong bàn tay uy quyền của Thiên Chúa.

Trong cuộc nói chuyện với ông Nicôdêmô, Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn về tình thương của Thiên Chúa luôn dành cho con người. Ngày xưa trong hoang địa, dân do Thái đã phản bội oán trách Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao Thiên Chúa lại đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập, đưa chúng tôi vào hoang địa để chúng tôi chết đói chết khát?” Thiên Chúa đã cảnh cáo tội vô ơn phản loạn của họ, Ngài cho rắn sa mạc bò ra cắn chết nhiều người. Khi dân hối hận, Thiên Chúa lại tha thứ. Ngài truyền cho Môsê đúc một con rắn bằng đồng treo nó lên cột cao, để những ai bị rắn cắn, nếu tin vào Lời Chúa mà nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn đồng không có sức chữa khỏi rắn cắn, nhưng Thiên Chúa cứu sống những ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin vào Thiên Chúa. Từ hình ảnh đó, Chúa Giêsu muốn nói đến tình thương của Thiên Chúa trong thời mới này: “Để cứu con người khỏi nọc rắn độc là ma quỷ, Thiên Chúa đã không treo con rắn bằng đồng nữa, mà Ngài đã chấp nhận để cho Con Một là Đức Giêsu bị treo trên cây thập giá, để ai nhìn lên thập giá với lòng tin vào Con Thiên Chúa, thì sẽ được sống muôn đời”.

Thập giá đã trở thành biểu tượng của tình yêu thương Thiên Chúa dành cho con người. Đấng bị treo trên thập giá trở thành nguồn ban ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Tất cả mọi người nếu tin và sấp mình thờ lạy Đấng bị đóng đinh sẽ đón nhận được sự sống. Trong cái nhìn của người xưa, thập giá là một nỗi ô nhục, kẻ nào bị chết treo trên thập giá, là kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Ngày nay Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn ý nghĩa của thập giá, Ngài biến cây Thập giá của Chúa Giêsu thành tiếng nói yêu thương đến tận cùng, thành công cụ cứu chuộc nhân loại. Theo cái nhìn thông thường của nhân loại, kẻ có tội sẽ phải chết, kẻ làm điều ác sẽ bị trừng phạt. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng đã giải thích thêm: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị kết án, còn kẻ không tin thì đã bị kết án rồi”.

Không chỉ dân Do Thái ngày xưa, mỗi người chúng ta ngày nay vẫn không ngừng phản nghịch, xúc phạm và chống lại Thiên Chúa. Chúng ta dễ dàng nghe theo lời cám dỗ ngọt ngào khéo léo của ma quỷ, rời xa tình yêu thương của Thiên Chúa. Nhiều lần chúng ta đã để mình sống theo sự lôi cuốn của thế gian và xác thịt, bỏ qua giới răn lề luật của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn không nổi cơn thịnh nộ giáng phạt trên chúng ta, trái lại Thiên Chúa vẫn yêu thương và vẫn không ngừng ban ơn trợ giúp, cho chúng ta có thời gian, có cơ hội điều chỉnh lại cuộc sống của mình.