PDA

View Full Version : Lịch sử ơn cứu độ



Dauan_tinhyeu
19-07-2009, 12:23 PM
LỊCH SỬ CỨU ĐỘ


DẪN VÀO THẦN HỌC THÁNH KINH


(NGUYÊN TÁC “SALVATION HISTORY”


TÁC GIẢ : NEAL M. FLANAGAN, osm)




PHẦN I




CỰU ƯỚC : CHUẨN BỊ ƠN CỨU ĐỘ.




CHƯƠNG I


SÁNG THẾ – CON NGƯỜI – SỰ TỘI

(Đọc Kn 1 – 11)

Khi một luật sĩ hỏi Đức Giêsu ông ta phải làm gì để được sống đời đời, Ngài đáp : “Trong lề luật đã viết gì, ông đọc làm sao ?” Và người ấy đáp : “Ngươi phải yêu mến Chúa, THIÊN CHÚA ngươi, hết lòng ngươi, hết sức lực ngươi và hết trí khôn ngươi và đồng loại ngươi như chính mình”. Ngài nói với người ấy : “Ông đã trả lời cách chí lý, hãy làm như thế và ông sẽ được sống”. Người ấy muốn biện minh cho mình thì nói cùng Đức Giêsu : “Nhưng ai là đồng loại của tôi ?” Để đáp lại câu hỏi quan trọng này, Đức Giêsu kể câu chuyện bắt đầu bằng những lời ngày nay đã trở nên quen thuộc : “Người kia đi từ Yêrusalem xuống Yêricô và đã sa vào ổ cướp, chúng lột hết áo xống và đánh nhừ tử người ấy, đoạn chúng bỏ mặc người ấy nửa sống nửa chết mà đi mất”. (Lc 10, 25 – 30). Đây như chúng ta biết, là dụ ngôn người Samari từ thiện. Để đáp lại câu hỏi của người luật sĩ, Đức Giêsu đã dùng một câu chuyện, câu chuyện ấy dạy chúng ta một cách linh động rằng : hết thảy mọi người, ngay cả những kẻ vốn là thù địch của chúng ta, đều phải được coi như là đồng loại của chúng ta, và chúng ta phải thi thố tình yêu và lòng nhân từ đặc biệt cho kẻ nào cần sự giúp đỡ của chúng ta nhất.

Trong một dịp khác (Lc 15, 11tt) Đức Giêsu kể câu chuyện người đàn ông với hai người con : Người con thứ của ông ấy đòi chia phần gia tài cho mình rồi đem đi phung phí bằng rượu chè, đào đĩ và đàn hát, chẳng bao lâu tiền bạc tiêu phí hết sạch. Cuối cùng anh chàng phải đi chăn lợn thuê, và cho lợn ăn những thực phẩm còn ngon hơn miếng ăn của anh ta. Sau hết, anh ta quay về nhà và mong người cha rộng tình tha thứ. Đây dĩ nhiên là dụ ngôn “Người con trai hoang đàng”, nó dạy chúng ta một chân lý quan trọng nhất đã từng được mạc khải cho nhân loại : Thiên Chúa yêu thương loài người, Ngài luôn mở rộng cánh tay để đón họ trở về với lòng thống hối ăn năn sau khi đã trầm luân trong tội lỗi.

Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra đây là như thế này : Những dụ ngôn “Người Samari từ thiện” và “Người con trai hoang đàng” có phải là những câu chuyện có thật không ? Điều này sẽ giúp đưa đến vấn đề sự thật trong văn chương, một vấn đề không phải đơn giản như người ta tưởng.

Cái ý niệm về sự thật có một ý nghĩa khác đi phần nào tùy theo loại văn chương mà nó được áp dụng. Quyển sách lịch sử hiện đại chẳng hạn, là thật nếu những sự kiện của nó là chính xác, nếu địa lý và niên biểu của nó là rõ ràng, và nếu nó quãng diễn ý nghĩa và các mối liên hệ giữa các biến cố một cách đúng đắn. Nhưng về phần thi ca thì sao ? Không gặp được sự thật nào trong đó sao ? Và còn về dụ ngôn nữa ? Nó cũng phải có sự thật của nó chứ ? Sự thật của nó ra sao chắc bạn có thể đoán được. Một dụ ngôn là thật nếu điều nó dạy là thật. Và chắc chắn rằng những điều mà dụ ngôn “Người Samari từ thiện” và “Người con trai hoang đàng” dạy chúng ta đều là thật. Mọi người là đồng loại của ta, và Thiên Chúa yêu thương chúng ta..

Dụ ngôn không phải là lịch sử. Chúng là những câu chuyện đơn sơ nhằm mục đích dựa một sự thật nào đó. Chúng thường quan trọng hơn nhiều so với bất cứ một quyển lịch sử thế tục nào khác. Đây là điểm cốt yếu : Đức Giêsu đạy nhiều chân lý quan trọng xuyên qua những câu chuyện đơn giản lý thú và dễ nhớ. Như chúng ta sẽ thấy ngay lập tức, những tác giả của Cựu Ước cũng thường làm y như vậy.

SÁNG THẾ (Đọc Kn 1, 1 – 2, 3).

Chương đầu của sách Khởi Nguyên đối với tấc cả chúng ta thật là quen thuộc. Chúng ta đọc thấy một cách nhanh chóng rằng Thiên Chúa sáng tạo nên thế giới, rồi trong sáu ngày Ngài làm cho nó được ổn định trật tự, đến ngày thứ bảy, ngày Sabbat, Ngài nghỉ. Khi theo dõi sự diễn tả các công việc khác nhau, chúng ta đọc thấy rằng trước hết Thiên Chúa tách ánh sáng khỏi sự tối tăm, kế đó Ngài tách nước phía trên ra khỏi nước phía dưới bằng một bầu trời, bầu trời này giống như một mái tròn cứng, nó đầy những nước nguyên thủy riêng ra, như thế, một phần nước ở bên trên bầu trời (điều này giải thích tại sao có mưa), và một phần nước ở bên dưới bầu trời, khoảng giữa là không khí. Sang ngày thứ ba, Thiên Chúa lại tách nữa, lần này thì tách địa cầu với nước phía dưới. Kết quả là : nước phía trên vòm trời, rồi đến không khí ngay liền dưới nó, và cuối cùng là nước phía dưới với quả đất từ nước nhô lên.

Sáng ngày thứ tư Thiên Chúa tạo dựng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Điều này đáng ngạc nhiên bởi vì chúng ta đã được nói về ánh sáng ở ngày thứ nhất, và chắc chắn rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao đều có liên quan đến ánh sáng. Vậy ngày thứ tư chắc là có liên quan nào đó với ngày thứ nhất.

Sáng ngày thứ năm, xuất hiện chim trên trời và cá dưới biển. Điều này cũng đáng chú ý vì nó đưa độc giả lui trở lại với ngày thứ hai. Lúc ấy bầu trời phân chia vũ trụ thành hai vùng : không khí và nước. Giờ đây chính những vùng ấy lại được trang trí bằng những cư dân của chúng, trên trời thì có chim dưới nước thì có cá. Do đó ngày thứ năm liên quan đến ngày thứ hai.

Nếu quả thật rằng công việc của ngày thứ nhất liên quan với công việc ngày thứ tư và công việc ngày thứ hai liên quan với công việc ngày thứ năm, thì cái gì xảy ra trong ngày thứ ba chắc cũng sẽ ảnh hưởng công việc ngày thứ sáu. Và đúng như vậy, trong ngày thứ ba, quả đất được tách ra khỏi nước phía dưới. Ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo dựng thú vật và (cuối cùng) tạo dựng con người để sống trên quả đất. Bởi đó công việc ngày thứ sáu liên quan với công việc ngày thứ ba.

Sự tường thuật việc sáng thế một cách đơn giản như vậy cho thấy rõ ràng rằng tác giả đã xử dụng một lối diễn tả rất là nghệ thuật. Ba ngày đầu tiên nói về sự phân tách, ba ngày cuối cùng nói về sự cư trú. Cái gì Thiên Chúa đã phân tách trong ngày thứ nhất thì Ngài trang trí trong ngày thứ tư ; cái gì Ngài phân tách trong ngày thứ hai thì Ngài trang trí trong ngày thứ năm ; cái gì Ngài phân tích trong ngày thứ ba thì Ngài trang trí trong ngày thứ sáu. Lối biền ngẫu một cách nghệ thuật như thế làm cho chúng ta tưởng rằng đó là một lối nói bóng bẩy bằng văn vần chứ không phải là một câu chuyện lịch sử bằng văn xuôi.

Những yếu tố có tính chất văn vần khác nữa cũng khá rõ ràng. Những câu nói tương tự chạy xuyên qua suốt cả chương chẳng khác nào những điệp khúc trong một bài hát, ví dụ : “Thiên Chúa phán hãy có ánh sáng”, và kết quả ngay lập tức “và ánh sáng đã có”. Sau đó Thiên Chúa thấy rằng kết quả thật là tốt đẹp, rồi Ngài đặt tên cho nó. Buổi chiều và buổi mai tiếp theo, một ngày khác. Chính sự lập lại thường xuyên những câu tương tự làm cho chúng ta có vững lý do hơn để nghĩ rằng đó là một văn bản có tính nghệ thuật thi ca hơn là một bài viết có tính cách khoa học.

Điều này đưa chúng ta đến kết luận rằng cái mà chúng ta có ở đây là một câu chuyện rất có nghệ thuật, lý thú và dễ nhớ. Sự cân đối của những công việc, sự lập đi lập lại những câu nói, làm cho nó trở thành thứ câu chuyện mà chỉ cần nghe một lần, cũng có thể nhớ cách dễ dàng và truyền lại cho bất cứ thính giả nào chú ý nghe. Sự sắp xếp sáu ngày rồi thêm ngày Sabbat, chính là sự sắp xếp một tuần làm việc của người Dothái. Bởi vì tác giả nhất định cố ý bảo các đồng bào Dothái của ông rằng họ phải nghỉ trong ngày thứ bảy, cũng như chính Thiên Chúa đã được hình dung là có nghỉ trong ngày đó vậy.

Một yếu tố khác trong câu chuyện này là chính tác giả không phải là một nhà khoa học thực nghiệm, đứng ra ghi chép những sự kiện lịch sử. Điều mà tác giả quan tâm không phải là khoa học, nhưng chính là mô tả cách cấu tạo hữu hình của vũ trụ, chính là mô tả bản thể và quyền lực của Thiên Chúa và sự cao quý của con người, một kiệt tác trên địa cầu. Khi nói về thế giới, tác giả cũng làm như thế với một ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ khoa học, song là thứ ngôn ngữ của những biểu hiện. Trời, bầu trời, theo cách tác giả mô tả giống như một mái tròn. Nói về thế giới, tác giả chỉ dùng cái kiểu nói mà những người đồng thời và đồng quê hương với ông quen dùng để mô tả nó. Nếu những lối cắt nghĩa có tính cách khoa học của thế kỷ thứ XX, về sự cấu tạo của thế giới được trình bày cho tác giả, chắc là tác giả đã nhún vai. Đó không phải là kiểu ông quan tâm. Ông muốn nói về Thiên Chúa ; và ngôn ngữ cũng như những ý niệm của thời đại ông cũng đã quá đủ để giúp ông rồi. Hơn nữa, nếu ông được Thiên Chúa ban cho một kiến thức khoa học chính xác và đã viết ra như thế, thì thử hỏi những người đồng thời và những người đồng quê hương với ông làm sao mà có thể hiểu ông được ?
www.simonhoadalat.co (http://www.simonhoadalat.co)m