maria_phan_97
29-07-2009, 11:29 AM
THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ DÂN NGOẠI
MẪU GƯƠNG CỦA GIÁO LÝ VIÊN
(Bài thuyết trình của Đức ông Giuse Đinh Đức Đạo tại Đại hội Giáo lý X,
12-14.06.2009, Baton Rouge, Louisiana)
I. Tinh thần truyền giáo của thánh Phaolô
1. Đôi nét chấm phá về công việc truyền giáo của thánh Phaolô
2. Áp dụng vào đời sống và công tác tông đồ của giáo lý viên
3. Nhu cầu ưu tiên của Giáo Hội: một thế hệ tông đồ quả cảm và nhiệt thành
II. Thương yêu tha nhân
1. Tình yêu tha nhân nơi thánh Phaolô
2. Giáo lý viên theo mẫu gương thánh Phaolô
III. Lòng say mến Chúa Giêsu
1. Bí quyết lòng hăng say dấn thân truyền giáo của thánh Phaolô: lòng say mến Chúa Giêsu
2. Hành trình thanh luyện nội tâm, dõi theo tinh thần truyền giáo của Thánh Phaolô
Nhập đề
1. Với lòng qúi mến rất chân thành, tôi xin chào qúi Sơ và quí Anh Chị Giáo Lý Viên cùng với quí Cha Tuyên Úy. Có nhiều Sơ và Anh Chị tham gia công việc trong vườn nho của Chúa vào giờ thứ 9, người khác vào giờ thứ 12 hay vào lúc 3 giờ chiều. Nhưng tất cả cùng chung niềm vui và hân hạnh được Chúa mời gọi cộng tác trong việc thông truyền sứ điệp Tình Yêu của Người. Chúng ta cần trân trọng công tác đã lãnh nhận và cùng nhau cảm tạ Chúa.
2. Chúng ta đã bắt đầu Đại Hội bằng Thánh Lễ, cử hành mầu nhiệm tình yêu tuyệt hảo của Chúa, suối nguồn của cuộc đời và công việc của mỗi giáo lý viên. Chúng ta cầu xin để những ngày này là những ngày của ân phước, chảy xuống đầy tràn như một dòng suối cứ chan hòa chảy tràn lan khắp nơi, vào tận thâm cung thầm kín trong lòng mỗi người để gột rửa, tưới mát và biến đổi tâm hồn thành những thửa vườn mầu mỡ, làm cho mọc lên cây cối tươi xanh và đâm hoa nở trái cho thiên hạ được chiêm ngắm vẻ đẹp và thưởng thức hương thơm ngọt ngào của sự thánh thiện.
3. Nói về thánh Phaolô, các nhà chuyên môn nói đêm, nói ngày cũng không hết. Ở đây, tôi chỉ xin được chia sẻ đôi tâm tình thiêng liêng rất đơn sơ rút tỉa từ đời sống của thánh Phaolô. Xin quí Sơ và quí Anh Chị đón nhận như món quà trong tình thân, chứ không như lời nói uyên bác của các nhà chuyên môn. Tôi xin mượn lời của thánh Phaolô khi ngài nói với giáo đoàn Corintô: “Thưa anh chị em, khi tôi đến với anh chị em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa… Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh chị em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1 Cor 2,1-5).
Cầu mong qua đôi lời chia sẻ của tôi, góp phần với những giờ học hỏi và chia sẻ do các chuyên viên hướng dẫn, được nâng đỡ bởi bầu khí linh thiêng của của các Thánh Lễ và những giờ cầu nguyện, mọi người sẽ hiểu sâu xa hơn các hoạt động truyền giáo của thánh Phaolô để chiếu soi cho công tác giảng dạy giáo lý của mình và nhất là được bổ dưỡng tâm hồn, khơi lên niềm vui mừng và lòng hăng say thông truyền sứ điệp của Chúa cho mọi người.
Và bây giờ chúng ta sẽ tìm kiếm đôi yếu tố trong cuộc đời truyền giáo của thánh Phaolô để từ đó tìm ra một vài ánh sáng chiếu soi cho cuộc sống và công việc tông đồ của các giáo lý viên.
I. Tinh thần truyền giáo của thánh Phaolô
1. Đôi nét chấm phá về công việc truyền giáo của thánh Phaolô
Khi nói đến công cuộc truyền giáo của thánh Phaolô, các nhà chuyên môn thường nói đến 3 hành trình truyền giáo. Hành trình I: năm 45 – 48; hành trình II: năm 49 – 51; hành trình III: năm 53 – 58. Thực ra, cả thời gian tù tội từ năm 58 và sau đó bị giải đến Roma và ở đó, chết tử đạo vào quãng năm 67/68, cũng phải coi là một hành trình dấn thân truyền giáo. Vì vậy, có thể nói là thánh Phaolô đã làm 4 hành trình truyền giáo. Ba hành trình đầu tiên, có thể tạm nói thánh Phaolô là người khởi xướng; hành hình truyền giáo thứ bốn là do chính Chúa Thánh Thần khởi xướng và chuẩn bị cho ngài để ngài dõi theo.
Lần theo vết chân truyền giáo của thánh Phaolô, chúng ta thấy có mấy điểm đặc trưng gợi chú ý. Thứ nhất là tâm hồn rộng mở, ôm ấp cả thế giới. Trên 20 năm truyền giáo, ngài bôn ba khắp vùng Địa Trung Hải, xuyên qua Á Châu, Trung Đông và Hy Lạp và sau cùng sang tận Roma, lúc đó là thủ đô Đế Quốc Roma và cũng là trung tâm thế giới. Đối với khả năng hiểu biết lúc đó, thánh Phaolô đúng là đã đi tới tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân, đáp lại lời ký thác của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người: “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
2. Áp dụng vào đời sống và công tác tông đồ của giáo lý viên
Dõi theo gương thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, các giáo lý viên là môn đệ và tông đồ của Chúa hôm nay cũng cần mở lòng ôm ấp tất cả thế giới với con tim của Chúa Giêsu để chia sẻ niềm vui Tin Mừng với mọi người, nhất là những anh chị em chưa biết Chúa Giêsu. Đây là một công tác mênh mông, trời bể, vì những người chưa nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế còn là một đoàn lũ đông đảo, trên 4.500.000.000 người[1] (http://www.liendoanconggiao.net/doc/tailieu/ThanhPhaoloMauGuongCuaGiaoLyVien-DoGiuseDinhDucDao.htm#_ftn1). Anh chị em lương dân, thuộc nhiều thành phần khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, về chính kiến, về niềm tin, về tôn giáo, về học thức, về khả năng chuyên môn và kinh tế, và về thái độ đối với Chúa Giêsu và Giáo Hội. Tất cả những người này, môn đệ của Chúa đều có sứ mệnh phải loan báo và truyền đạt niềm vui ơn cứu độ đến cho họ.
Đối với các giáo lý viên trong trách nhiệm dạy giáo lý tại các giáo xứ, ngoài những khó khăn của chính công tác dạy giáo lý, còn có những bận tâm của công ăn việc làm và những nhu cầu của gia đình hay cộng đoàn, nếu là nữ tu. Có lẽ thách đố truyền giáo đầu tiên đối với giáo lý viên là phải biết chu toàn công tác dạy giáo lý và các trách nhiệm khác, mà không để chúng gò bó tâm hồn đến độ không còn khả năng vươn lòng trí ra cánh đồng truyền giáo mênh mông của Giáo Hội. Trái lại, chính trong khi lo lắng chu toàn những nhiệm vụ hằng ngày, vẫn còn biết ấp ủ tất cả thế giới trong lòng để thông truyền cho các em trong giờ dạy giáo lý hoặc cho những người thân yêu trong gia đình, giúp họ mở lòng vươn ra cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với anh chị em lương dân.
Trong những năm gần đây, Bản Tin các giáo phận bên Âu Mỹ liên tục đưa tin các giám mục quyết định đóng cửa nhà thờ. Sức sống của Giáo Hội mỗi ngày cứ co cụm lại và như đang dãy chết. Tình trạng này làm tôi nhớ lại cuốn sách “Love in action” đã đọc nhiều năm trước đây. Cuốn sách nói về Cộng đoàn Methodist tại Sydney bên Úc được thành lập năm 1812 và đã phát triển rất mạnh. Số giáo dân tăng thật nhanh. Cộng đoàn tổ chức nhiều sinh hoạt, nhiều công tác phục vụ và hai lần phải mua nhà thờ lớn hơn. Rồi xã hội thay đổi, giáo dân bỏ đi xa, di dân tới nên cộng đoàn rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Đến năm 1884, cộng đoàn chỉ còn 18 thành viên. Trong cuộc họp cuối năm, người ta tính bán nhà thờ và giải tán cộng đoàn. Nhưng trước khi bỏ phiếu quyết định, vị mục sư già có mặt lên tiếng đề nghị trước khi quyết định bán nhà thờ, xin tìm một mục sư trẻ có khả năng rao giảng Tin Mừng để làm sống lại cộng đoàn. Người ta đồng ý và mời mục sư W. G. Taylor. Mỗi Chúa nhật, thay vì ngồi trong nhà thờ chờ dân chúng và giam mình trong văn phòng làm việc bàn giấy, mục sư W. G. Taylor ra ngoài rao giảng Tin Mừng, tổ chức các buổi rước kiệu, tổ chức công tác phục vụ, mời gọi dân chúng nhập đạo… Một năm sau, thay vì nói đến việc bán nhà thờ vì không có giáo dân, người ta phải bàn tính mua một nhà thờ lớn hơn. Đến năm 1958, một lần nữa, hoàn cảnh kinh tế, xã hội thay đổi, cộng đoàn lại khủng hoảng lần nữa. Một mục sư khác, tên là Alan Walker, nhưng cũng với tinh thần truyền giáo, không những giữ vững cộng đoàn, mà còn làm cho phát triển thêm.[2] (http://www.liendoanconggiao.net/doc/tailieu/ThanhPhaoloMauGuongCuaGiaoLyVien-DoGiuseDinhDucDao.htm#_ftn2)
Nếu có được những giáo lý viên có tinh thần truyền giáo và hăm hở xông pha như hai mục sư W.G. Taylor và Alan Walker, chắc các giáo phận Âu Mỹ sẽ không phải tính truyện đóng cửa nhà thờ, mà phải mua nhà thờ lớn hơn, và còn có khả năng gửi người đi khắp năm châu, đem Tin Mừng của Chúa đến muôn dân.
a. Nhu cầu ưu tiên của Giáo Hội: một thế hệ tông đồ quả cảm và nhiệt thành
Trong hoàn cảnh hiện nay, nhiệm vụ làm chứng cho Chúa Giêsu và đem Tin Mừng của Người thấm nhuần vào mọi môi trường sống và làm việc, thực vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhiệm vụ này đòi phải có những suy tư thần học mới, tìm những phương pháp mới và sử dụng những phương tiện tân tiến, thích hợp thời đại. Nhưng trước tiên, Giáo Hội cần có một thế hệ tông đồ, mới trong tinh thần và lòng nhiệt thành, dám dấn thân và sẵn sàng chịu đựng mọi thiệt thòi vì Chúa Giêsu và Tin Mừng để làm chứng cho Người và trình bày cho thế giới tiêu chuẩn và cách sống của Người. Giáo Hội không chỉ cần có nhiều giáo lý viên, nhưng cần những giáo lý viên hạnh phúc được là giáo lý viên và nhiệt thành, hăm hở đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người.
Loại tông đồ truyền giáo này, trong thời đại chúng ta đang sống cũng không thiếu. Có một khuôn mặt được nói đến nhiều trong thời gian gần đây. Đó là cha Pio Ngô Phúc Hậu. Tôi muốn ghi lại một kinh nghiệm truyền giáo ngài viết trong cuốn “Nhật Ký Truyền Giáo”:
Cà Mâu, Chúa nhật 17.8.1988
Hôm nay mình bước lên giảng đài một cách hiên ngang hơn bao giờ hết. Mình dõng dạc tuyên bố: Năm nay chúng ta sẽ mừng ngày truyền giáo một cách long trọng.
1. Mỗi người lớn bé già trẻ đều mời bạn lương dân của mình đế dự lễ. Người lương dân tới thì người đạo nhường ghế ngay. Đạo đời hiểu nhau sẽ dễ dàng gây tình đoàn kết dân tộc.
2. Mỗi người hãy hỏi bạn lương dân xem họ thắc mắc điều gì và gửi thắc mắc đó cho cha sở biết trước để giải đáp trong thánh lễ.
3. Sau thánh lễ mỗi người hãy mời bạn lương dân của mình ghé quán hoặc về nhà liên hoan mặn nhạt tùy nghi. Yêu thương nhau thì phải ăn uống với nhau. Trong bữa liên hoan hãy hỏi xem bạn lương dân có cám tưởng gì về thánh lễ.
4. Để bạn lương dân khỏi bỡ ngỡ, nên nhắc họ:
- Đứng và ngồi như người công giáo cho vui.
- Nhưng khi người công giáo qùi, thì bạn lương dân cứ ngồi, vì qùi là cử chỉ thuần túy tôn giáo và dành cho người có niềm tin.
5. Mỗi gia đình hãy nhắc nhau cầu nguyện cho anh em lương dân sẽ tham dự thánh lễ truyền giáo. Nên noi gương Đức Gioan 23, xin trẻ em, ông bà già và người bệnh tật cầu nguyện tiếp vì lời cầu nguyện của họ đáng được Chúa chấp nhận hơn hết.
6. Nhà thờ phải được trang trí đẹp tối đa. Ca đoàn phải tập dượt để hát thật hay. Phụng vụ Giáo hôi được tổ chức chu đáo sẽ là bối cảnh thuận lợi đưa tâm hồn lương dân vào khung cảnh thần linh. Người lương dân sẽ cảm thấy đứng tim khi mọi ngườ cùng hát và bất ngờ mọi ngườ im lặng như tờ.
7. Chính Chúa Giêsu hiện diện trong thánh 1ễ sẽ đưa các tâm hồn lên với Chúa Cha. Ngài sẽ chinh phục các tâm hồn cứng cỏi mà ta không đủ sức chinh phục. Đó là kinh nghiệm của Philip. Philip hí hửng khoe với Natanaen rằng: “Tôi đã gặp Đấng mà Môsê và các tiên tri loan báo, đó là Đức Giêsu con ông Giuse, người làng Nadarét”. Natanaen cả cười làm Philip cụt hứng: “Ở Nadarét! Nadarét thì có gì hay ho đâu”. Bí lối, Philip chỉ còn biết trả lời: "Thì anh đến mà xem". Quả thật khi Natanaen đến gặp Chúa thì ông bị chinh phục ngay tức khắc.
Cà Mau, Chúa nhât 24.8.1988
Hôm nay mình bước lên giảng đài ủ rũ như con gà trống bị dầm mưa. Hết một tuần rồi mà chưa nhận được một lời thắc mắc nào của lương dân gửi tới. Chưa thấy người giáo dân nào mời bạn lương dân đi dự lễ ngày truyền giáo. Mình không giấu diếm nỗi thất vọng ngay trên giảng đài này, nơi mà cách đây một tuần mình đã hí hửng như con nít xách đèn trung thu đi dạo phố.
Phải có một kế hoạch cụ thể hơn nữa.
1. Phải tiếp xúc với một số người nồng cốt như giáo viên, công nhân viên bệnh viện... trao đổi với họ về cách thức mời lương dân, cách thức xin những câu thắc mắc và cách thức trao đổi trong bữa liên hoan.
2. Phải tiếp xúc ngay với một số người lớn tuổi, năng nổ để đốc thúc họ và nhờ họ đôn đốc bạn bè.
3. Phải nhờ các khu trưởng đến thăm những người bệnh hoạn tật nguyền để xin họ mỗi ngày lần một chuỗi Môi Khôi cho lương dân.
4. Cứ mỗi ngày Chúa nhật phải nhắc lại chương trình tổ chức lễ truyền giáo như một điệp khúc.
Cà Mau, Khánh nhật truyền giáo 1998
Chiều nay sân nhà thờ tấp nập khác thường. Người công giáo và không công giáo tay trong tay đi dạo xung quanh nhà thờ. Các bà các cô khoe những chiếc áo dài mới may, may để đi dự lễ.
Hôm nay mình không ngồi tòa, nên đi lượn khắp khuôn viên nhà thờ. Thấy mình, người giáo dân cười toe toét giới thiệu lia chia:
- Cha, bạn lương dân của con nè!
- Cha, đây là chị Năm, vợ của ông trưởng khóm. Chị Năm mới may áo dài để đi dự 1ễ đó.
- Ông cố, thằng bạn của con nó muốn theo đạo.
- Con xin giới thiệu với cha ông Tù Giỏi. Ông ngoại nhưng mến đạo lắm.
- Lễ xong, mời cha đi liên hoan với tụi con nghen!
- …
Chuông nhà thờ đổ hồi. Dòng người tràn vào nhà thờ như thác lũ. Bạn đạo dành chỗ cho bạn lương. Các bà phước, các ông bà trưởng khu lăng xăng đi tìm chỗ cho người lương dân đến trễ. Lâu lâu 1ại có một người đứng dậy nhường chỗ cho một người mới tới... Hết chỗ! Có những bàn tay giơ lên, lắc lắc tỏ vẻ thất vọng. Một bà phước dẫn theo hai người lương đến chỗ có hai chú nhí.
- Tụi con đứng dậy nhường chỗ cho người lương đi!
Thằng cu tí nhỏng mỏ cự nự:
- Đây là khách lương dân của con mà.
Bà phước đáp 1ại bằng nụ cười đắc chí:
- Vậy thì con cứ ngồi đó đi…
Đọc kinh nghiệm truyền giáo của cha Hậu thấy hay quá. Đúng là đồ đệ của thánh Phaolô, đầy nhiệt huyết, đem lại nhiều hứng khởi, chảy tràn lan sang giáo dân của ngài, cả mấy chú nhí cũng vui và hãnh diện đi mời bạn lương dân của mình đến dự lễ.
Thực ra, tại nhiều nước có dịp viếng thăm, tôi đã được gặp nhiều người, rất nhiều người đầy nhiệt huyết, tinh thần truyền giáo hăng say và quả cảm, nhưng ít được ai biết đến. Có lẽ vì việc viết lách, văn tự không đến đâu; sống nhiều, làm nhiều, dấn thân nhiều, nhưng nói ít, viết lách thì coi như không có, nên ít người biết đến họ và hiểu được lòng của họ. Nhưng có lẽ đấy cũng là chương trình Chúa Quan Phòng. Để chiếu sáng khắp không gian, cần đặt một vài ngọn đèn pha trên mái nhà, nhưng cũng cần rất nhiều các ngọn đèn nho nhỏ, nhiều cỡ, nhiều loại trong các căn phòng, dưới hầm cầu thang, và ngay cả dưới tầng hầm, nơi để đồ đạc ngổn ngang, đầy bụi bặm… Cả những nơi đó cũng cần có những ngọn đèn chiếu sáng!
Trong những năm tôi có bổn phận thăm viếng các cộng đoàn, các dòng tu, các phong trào, hội đoàn của chúng ta tại hải ngoại, và đôi lần trở về Quê Hương, tôi cũng gặp rất nhiều linh mục, tu sĩ, giáo lý viên và nhiều giáo dân phục vụ ở nhiều lãnh vực khác nhau, có tâm hồn rất đáng cảm phục. Chúng ta cần khích lệ nhau sống kết hợp với Chúa, sống theo con đường của Chúa để loan báo và làm chứng cho Chúa.
Hai năm trước đây, tôi có dịp về thăm Quê Hương. Hôm đó đi với Đức Tổng Kiệt lên Lạng Sơn. Tôi đang đi dạo cuối nhà thờ, thấy có 2 ông và 1 bà đến. Đó là đôi vợ chồng và một người bạn của đôi vợ chồng. Tôi đang đứng nói truyện với họ thì ĐT Kiệt tới; ngài chỉ vào 3 người này và giới thiệu: “Ba ông bà này là cách mạng đấy. Bây giờ về hưu, trở lại, cả ngày chỉ đi truyền giáo thôi”. Tôi hỏi ba người: “Vậy bây giờ các ông bà thấy thế nào, có vui không?”. Người đàn bà nhanh miệng trả lời ngay: “Hạnh phúc nhất đời. Chúng con chẳng muốn gì hơn.” Trên mấy giáo phận miền Bắc, các bà, nhất là Dân Tộc, truyền giáo mạnh lắm. Các bà bảo: “Các ông ở nhà, để đàn bà chúng tôi đi truyền giáo cho. Các ông đi, thôi thì ăn, uống, lại còn hút nữa, mất giờ lắm. Đàn bà chúng tôi ăn ít, nói nhiều, chúng tôi truyền giáo cho”. Cứ cái gùi đeo trên lưng, các bà đi ngày đêm, đi khắp nơi. Đó là hình ảnh của thánh Phaolô. Đi và đi, không phải là đi chơi, nhưng là đi để gặp gỡ, để nối một nhịp cầu, để chia vui sẻ buồn với anh chị em, nhất là anh chị em lương dân và nói cho mọi người biết là có một niềm vui vượt trên mọi niềm vui. Đó là niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu, niềm vui của người đã tìm được viên bích ngọc, tìm được kho tàng quí báu chôn cất dưới đất (x. Mt 13:44-46).
Chúng ta cần học cách trân trọng, quí mến nhau để hun đúc cho nóng hơn, cho bừng sáng tinh thần truyền giáo. Lắm khi cũng không cần đi đâu xa cả. Có lẽ cũng vẫn đến những nơi thường đến, gặp những người vẫn thường gặp, nhưng bây giờ ra đi gặp gỡ mà mang trong lòng niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu đễ thông truyền niềm vui, niềm an bình dào dạt trong lòng. Như vậy, các giáo lý viên sẽ là hiện thân của thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại. Dù ở vị thế và hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể là những ngọn đèn chiếu sáng tâm hồn, đem an bình và niềm vui vào lòng người và vào môi trường sống, thứ an bình và niềm vui chỉ có Chúa mới ban cho được (x. Ga 14,27).
II. Thương yêu tha nhân
Trong hoạt động tông đồ truyền giáo, ba nguồn mạch có sức mạnh thúc đẩy và hướng dẫn thánh Phaolô là tình yêu say mến Chúa Giêsu, sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần và tình yêu sâu đậm đối với tha nhân. Bây giờ chúng ta nhìn qua sức mạnh thứ ba là tình yêu đối tha nhân.
1. Tình yêu tha nhân nơi thánh Phaolô
Đọc các thư của thánh Phaolô, ai cũng cảm thấy được đánh động bởi tâm tình của ngài đối với các cộng tác viên và ngay cả với những người mới quen biết. Chúng ta có thể đọc một vài đoạn trong các thư của ngài sau đây:
- “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm.” (Fil 1,3-10).
- “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa, khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện, bởi được nghe nói về lòng mến và lòng tin của anh đối với Chúa Giê-su : lòng mến và lòng tin ấy có ích cho mọi người trong dân thánh. Chớ gì lòng tin mà anh chia sẻ với chúng tôi trở nên hữu hiệu, giúp anh hiểu biết tất cả những gì tốt chúng ta có thể làm để phục vụ Đức Ki-tô. Thật thế, tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi. Vì thế, mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh làm điều anh phải làm. Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tư nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi. Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả... Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết điều này : tôi sẽ hoàn trả lại. Tôi khỏi cần nói với anh là anh còn mắc nợ tôi: món nợ đó là chính anh. Phải, thưa anh, xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Ki-tô. Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo. Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa. Đồng thời, xin anh dọn cho tôi một chỗ ở, bởi vì tôi hy vọng là nhờ lời anh em cầu nguyện, tôi sẽ được trở về với anh em. Anh Ê-pa-pha, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và Lu-ca. Cầu chúc anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. A-men.” (Fm 4-20).
- “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng rúng động?” (2 Cor 11, 28-29).
- “Khi nào tôi sai anh A-tê-ma hay anh Ty-khi-cô đến với anh, thì hãy liệu mau đến với tôi ở Ni-cô-pô-li, vì tôi đã quyết định ở lại đó suốt mùa đông. Anh hãy lo tiễn đưa luật gia Dê-na và anh A-pô-lô cho chu đáo, đừng để họ phải thiếu thốn gì. Các anh em của chúng ta cũng phải học cho biết trổi vượt về những việc tốt đẹp, để đáp ứng những nhu cầu cấp bách; như vậy họ không phải là không sinh hoa kết quả.” (Tit 3,12-14).
- “Về việc quyên tiền giúp các thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội Thánh ở Ga-lát như thế nào, thì anh em cũng làm như vậy. Ngày thứ nhất trong tuần, mỗi người trong anh em hãy để riêng ra những gì đã may mắn thu góp được, chứ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên. Khi tới, tôi sẽ cử những người được anh em chấp thuận đi Giê-ru-sa-lem, mang thư và quà anh em đã rộng rãi quyên tặng. Và nếu xét là tôi nên đi, thì họ sẽ cùng đi với tôi.” (1 Cor 16,1-4)
-
Qua mấy đoạn trích dẫn trên, chúng ta thấy một số đặc điểm trong tình yêu của thánh Phaolô như sau:
- Tâm tình thương yêu nơi thánh Phaolô rất người, nhưng đồng thời cũng rất thần thánh. Trong những liên hệ với tha nhân, thánh Phaolô có những câu nói, những diễn tả hết sức tình nghĩa, rất âu yếm, nhưng cũng hết sức siêu thoát. Hai yếu tố nhân loại và thần linh hòa lẫn vào nhau làm thành một thực tại và do đó, tình nghĩa không đọa ra tình cảm suông, cũng không chỉ là lịch sự và tình yêu thiêng liêng không biến ra trừu tượng, lơ lửng trên không.
- Tình yêu nơi thánh Phaolô vừa cụ thể, vừa phổ quát. Một đàng, ngài để ý đến nhu cầu của cộng đoàn và các cá nhân cụ thể, đàng khác ngài mở lòng ôm ấp tất cả mọi người, mọi cộng đoàn không phân biệt.
- Tình yêu không chỉ chú ý đáp ứng các nhu cầu, mà còn sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì người mình thương yêu nữa.
“Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24).
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu” (2 Cor 1,3-6).
2. Giáo lý viên theo mẫu gương thánh Phaolô
Nhìn vào mẫu gương thánh Phaolô, nhiệm vụ giảng dạy giáo lý không chỉ đòi giáo lý viên hiểu biết giáo lý phải giảng giải, cắt nghĩa, mà còn đòi phải có khả năng thương yêu: thương yêu chính những người mình có bổn phận dạy dỗ, thương yêu Giáo Hội, thương yêu anh chị em lương dân. Đây là khả năng tuyệt vời Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá đã phú bẩm vào lòng mỗi người. Do đó, con người ta, bất cứ thuộc chủng tộc, tôn giáo nào, khi sinh ra là khao khát thương yêu và được thương yêu. Tôi muốn đọc lại đây một kinh nghiệm yêu thương:
Đầu cá chốt
Cao Thị Ni - 16/01/2008
Tôi nhớ rõ năm ấy ba tôi bị bệnh ho ra máu (còn bây giờ người ta gọi là lao phổi) tôi cũng chẳng biết bệnh đó có nguy hiểm không, có chết không, nhưng mỗi lần ba ho khạc ra máu là me lại khóc, thấy mẹ khóc rồi mấy chị em tôi cũng khóc theo. Ba bệnh lâu ngày không có tiền chạy thuốc, mẹ chỉ đâm lá thuốc nam cho ba uống nhưng không khỏi, ngày qua ngày ba càng ốm yếu xanh xao hơn, vì năm đó thuốc lao chưa xuống địa phương như bây giờ. Mẹ nghe hàng xóm bảo nếu muốn hết bệnh thì phải lo tiền đi bệnh viện Hồng Bàng ở Sài Gòn mới có thuốc trị. Mẹ nghe vậy quyết định bán hết mấy giạ lúa cuối cùng trong nhà cho ba làm lộ phí lên Sài Gòn trị bệnh, còn mẹ thì ở nhà lo ruộng rẫy và để chờ ngày ba tôi xuất viện trở về.
Tôi nhớ lúc ấy sáng ngày nào mẹ tôi cũng xách cái thau và cây cân ra chợ mua cá đi bán lại để kiếm tiền lời, và còn có cá cho các con ăn, đến trưa về nhà lúc nào mẹ cũng đem một mớ cá chốt, chớ chẳng có thứ cá nào ngon hơn. Mỗi lần mẹ làm cá tôi hay ngồi gần nhìn mẹ làm và hỏi: “Mẹ ơi sao làm cá chốt mẹ không chặt bỏ đầu, đầu xương không ăn sao được hả mẹ?” Mẹ tôi cười bảo: “Có ít cá mẹ hà tiện để đầu kho xong mình lấy đầu cho con chó con mèo ăn cũng đỡ con à”. Câu nói của mẹ, tôi cũng vô tình không để ý tới, mà thật sự ngày nào tôi đi học về, mẹ dọn cơm cho mấy chị em tôi ăn cũng cá chốt kho và dĩa rau luộc mẹ hái cạnh sau nhà, tôi chỉ biết ăn say sưa chớ chẳng để ý tới cá chốt kho như thế nào.
Vô tình một ngày nọ tôi được nghỉ hai tiết học cuối nên về nhà sớm hơn mọi ngay. Khi bước vào nhà, tôi tình cờ thấy mẹ tôi ngồi ăn cơm một mình với dĩa rau luộc và một chén cá kho toàn là đầu cá chốt. Thì ra bấy lâu nay mẹ ăn cơm trước, chỉ ăn đầu còn để dành khúc mình cho các con. Tôi đứng lặng trước mâm cơm của mẹ mà nghe nghèn nghẹn ở cổ, tôi chẳng nói được câu nào với mẹ chỉ sợ không cầm được giọt nước mắt. Như hiểu được ý tôi, mẹ bảo: “Ba con đang bị bệnh, mẹ con mình ở nhà phải ăn cần ở kiệm dành dụm tiền còn lo thuốc men cho ổng nữa con à, chừng nào ba con hết bệnh về làm có tiền thì nhà mình ăn sẽ ngon hơn”. Nghe mẹ nói tôi thấy mủi lòng rồi khóc như mưa.
Nhưng mẹ ơi những gịot nước mắt con rơi lúc ấy không phải buồn vì nhà mình nghèo, mình khổ mà vì con cảm thấy thương mẹ, thương nhất trên đời mẹ ơi, cả cuộc đời mẹ đã vì chồng vì con mà chẳng nghĩ đến bản thân mình, lúc ấy con chỉ biết thầm cầu trời khấn phật cho ba mau hết bệnh để về nhà cùng mẹ chung sức lo cho đàn con thơ dại.
Tôi xin viết những dòng chữ này gởi đến mẹ thân yêu như những lời cảm ơn mẹ đã vì chị em tôi mà cực khổ và chịu đựng hy sinh cả cuộc đời của mẹ, đến bây giờ tôi đã làm mẹ càng thấm thía hơn câu thơ của một nhà văn đã viết:
Biển cả mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha.
Đến bao giờ các giáo lý viên mới yêu được các em mình dạy dỗ như bà mẹ trong câu truyện trên? Dĩ nhiên câu truyện trên nói đến kinh nghiệm tình máu mủ, mẹ con. Nhưng, trong mầu nhiệm cứu chuộc, Chúa đã thanh luyện tình yêu tự nhiên cho thêm tinh tuyền và còn ban ơn cứu chuộc để thánh hóa, làm cho tình yêu tự nhiên vươn lên để biết yêu như chính Chúa (Ga 13,34-35). Thánh Phaolô đã thương yêu các cộng tác viên, thương yêu các giáo đoàn, cả Giáo Hội và mọi người. Đó là những người chẳng có liên hệ máu mủ với ngài. Vậy mà ngài đã sẵn sàng và còn vui mừng chịu khổ vì họ, để họ được bổ dưỡng, được xây đắp. Đó là tấm gương cho các giáo lý viên.
“Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24). Tình yêu đối với Giáo Hội, với các phần tử của Giáo Hội là một thách đố rất lớn đối với mọi người, dĩ nhiên cũng đối với các giáo lý viên. Giáo Hội đang gặp khó khăn trăm phần. Nhiều khó khăn đến từ bên ngoài. Xem như các sức mạnh của thế gian đang hợp lực đánh phá Giáo Hội, trên mọi trận tuyến. Nhưng trầm trọng hơn, có lẽ là những khó khăn phát xuất từ chính trong lòng Giáo Hội. Các lỡ lầm, yếu đuối của con cái Giáo Hội cứ lồ lộ trước mắt, mà nhiều khi cả những con cái ưu tú, được tuyển chọn nữa. Rồi tệ nạn chia rẽ, gièm pha, gây hoang mang, ngờ vực, tạo ra trăm bè bảy mối. Cứ như thể làm như vậy là trưởng thành, là công bằng, là yêu mến Giáo Hội. Người ta không có khả năng phân biệt ranh giới giữa quyền tự do ngôn luận, cần phải có để thăng tiến và việc nói hành, nói xấu, và vu vạ cáo gian. Để phân biệt được sự khác biệt, cần phải có tinh thần khiêm nhượng và thành thực (honest) để nhận diện những tình cảm, những ý nghĩ thầm kín trong lòng mình và gọi chúng với chính tên của chúng. Nhiều lý do nói ra để biện minh thì hay lắm, nhưng lý do thực trong bụng thì có thể chỉ là ghen ghét hay tham vọng, lợi lộc.
Tình yêu đối với Giáo Hội đòi phải có tinh thần khách quan, tìm hiểu sự thật. Nếu thấy một phần tử của Giáo Hội bị oan, phải biết cảm thông nỗi đau khổ và bênh đỡ. Nếu thấy có tội, không đứng như kẻ ngoài cuộc mà tố khổ, nhưng phải biết lãnh trách nhiệm trong tình liên đới và nếu cần, cộng tác để đền trả các thiệt hại do sự yếu đuối của các phần tử của Giáo Hội gây ra, vì đây là Giáo Hội của tôi và đó là anh chị em của tôi. Tôi không phải là người ngoài cuộc, nhưng là anh em trong nhà. Đó là tâm tình của thánh Phaolô khi ngài viết cho giáo đoàn Colosê: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24). Đó là mẫu sống của mỗi kitô hữu đích thực, nhất là kitô hữu đó lại là một giáo lý viên.
MẪU GƯƠNG CỦA GIÁO LÝ VIÊN
(Bài thuyết trình của Đức ông Giuse Đinh Đức Đạo tại Đại hội Giáo lý X,
12-14.06.2009, Baton Rouge, Louisiana)
I. Tinh thần truyền giáo của thánh Phaolô
1. Đôi nét chấm phá về công việc truyền giáo của thánh Phaolô
2. Áp dụng vào đời sống và công tác tông đồ của giáo lý viên
3. Nhu cầu ưu tiên của Giáo Hội: một thế hệ tông đồ quả cảm và nhiệt thành
II. Thương yêu tha nhân
1. Tình yêu tha nhân nơi thánh Phaolô
2. Giáo lý viên theo mẫu gương thánh Phaolô
III. Lòng say mến Chúa Giêsu
1. Bí quyết lòng hăng say dấn thân truyền giáo của thánh Phaolô: lòng say mến Chúa Giêsu
2. Hành trình thanh luyện nội tâm, dõi theo tinh thần truyền giáo của Thánh Phaolô
Nhập đề
1. Với lòng qúi mến rất chân thành, tôi xin chào qúi Sơ và quí Anh Chị Giáo Lý Viên cùng với quí Cha Tuyên Úy. Có nhiều Sơ và Anh Chị tham gia công việc trong vườn nho của Chúa vào giờ thứ 9, người khác vào giờ thứ 12 hay vào lúc 3 giờ chiều. Nhưng tất cả cùng chung niềm vui và hân hạnh được Chúa mời gọi cộng tác trong việc thông truyền sứ điệp Tình Yêu của Người. Chúng ta cần trân trọng công tác đã lãnh nhận và cùng nhau cảm tạ Chúa.
2. Chúng ta đã bắt đầu Đại Hội bằng Thánh Lễ, cử hành mầu nhiệm tình yêu tuyệt hảo của Chúa, suối nguồn của cuộc đời và công việc của mỗi giáo lý viên. Chúng ta cầu xin để những ngày này là những ngày của ân phước, chảy xuống đầy tràn như một dòng suối cứ chan hòa chảy tràn lan khắp nơi, vào tận thâm cung thầm kín trong lòng mỗi người để gột rửa, tưới mát và biến đổi tâm hồn thành những thửa vườn mầu mỡ, làm cho mọc lên cây cối tươi xanh và đâm hoa nở trái cho thiên hạ được chiêm ngắm vẻ đẹp và thưởng thức hương thơm ngọt ngào của sự thánh thiện.
3. Nói về thánh Phaolô, các nhà chuyên môn nói đêm, nói ngày cũng không hết. Ở đây, tôi chỉ xin được chia sẻ đôi tâm tình thiêng liêng rất đơn sơ rút tỉa từ đời sống của thánh Phaolô. Xin quí Sơ và quí Anh Chị đón nhận như món quà trong tình thân, chứ không như lời nói uyên bác của các nhà chuyên môn. Tôi xin mượn lời của thánh Phaolô khi ngài nói với giáo đoàn Corintô: “Thưa anh chị em, khi tôi đến với anh chị em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa… Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh chị em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1 Cor 2,1-5).
Cầu mong qua đôi lời chia sẻ của tôi, góp phần với những giờ học hỏi và chia sẻ do các chuyên viên hướng dẫn, được nâng đỡ bởi bầu khí linh thiêng của của các Thánh Lễ và những giờ cầu nguyện, mọi người sẽ hiểu sâu xa hơn các hoạt động truyền giáo của thánh Phaolô để chiếu soi cho công tác giảng dạy giáo lý của mình và nhất là được bổ dưỡng tâm hồn, khơi lên niềm vui mừng và lòng hăng say thông truyền sứ điệp của Chúa cho mọi người.
Và bây giờ chúng ta sẽ tìm kiếm đôi yếu tố trong cuộc đời truyền giáo của thánh Phaolô để từ đó tìm ra một vài ánh sáng chiếu soi cho cuộc sống và công việc tông đồ của các giáo lý viên.
I. Tinh thần truyền giáo của thánh Phaolô
1. Đôi nét chấm phá về công việc truyền giáo của thánh Phaolô
Khi nói đến công cuộc truyền giáo của thánh Phaolô, các nhà chuyên môn thường nói đến 3 hành trình truyền giáo. Hành trình I: năm 45 – 48; hành trình II: năm 49 – 51; hành trình III: năm 53 – 58. Thực ra, cả thời gian tù tội từ năm 58 và sau đó bị giải đến Roma và ở đó, chết tử đạo vào quãng năm 67/68, cũng phải coi là một hành trình dấn thân truyền giáo. Vì vậy, có thể nói là thánh Phaolô đã làm 4 hành trình truyền giáo. Ba hành trình đầu tiên, có thể tạm nói thánh Phaolô là người khởi xướng; hành hình truyền giáo thứ bốn là do chính Chúa Thánh Thần khởi xướng và chuẩn bị cho ngài để ngài dõi theo.
Lần theo vết chân truyền giáo của thánh Phaolô, chúng ta thấy có mấy điểm đặc trưng gợi chú ý. Thứ nhất là tâm hồn rộng mở, ôm ấp cả thế giới. Trên 20 năm truyền giáo, ngài bôn ba khắp vùng Địa Trung Hải, xuyên qua Á Châu, Trung Đông và Hy Lạp và sau cùng sang tận Roma, lúc đó là thủ đô Đế Quốc Roma và cũng là trung tâm thế giới. Đối với khả năng hiểu biết lúc đó, thánh Phaolô đúng là đã đi tới tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân, đáp lại lời ký thác của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người: “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
2. Áp dụng vào đời sống và công tác tông đồ của giáo lý viên
Dõi theo gương thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, các giáo lý viên là môn đệ và tông đồ của Chúa hôm nay cũng cần mở lòng ôm ấp tất cả thế giới với con tim của Chúa Giêsu để chia sẻ niềm vui Tin Mừng với mọi người, nhất là những anh chị em chưa biết Chúa Giêsu. Đây là một công tác mênh mông, trời bể, vì những người chưa nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế còn là một đoàn lũ đông đảo, trên 4.500.000.000 người[1] (http://www.liendoanconggiao.net/doc/tailieu/ThanhPhaoloMauGuongCuaGiaoLyVien-DoGiuseDinhDucDao.htm#_ftn1). Anh chị em lương dân, thuộc nhiều thành phần khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, về chính kiến, về niềm tin, về tôn giáo, về học thức, về khả năng chuyên môn và kinh tế, và về thái độ đối với Chúa Giêsu và Giáo Hội. Tất cả những người này, môn đệ của Chúa đều có sứ mệnh phải loan báo và truyền đạt niềm vui ơn cứu độ đến cho họ.
Đối với các giáo lý viên trong trách nhiệm dạy giáo lý tại các giáo xứ, ngoài những khó khăn của chính công tác dạy giáo lý, còn có những bận tâm của công ăn việc làm và những nhu cầu của gia đình hay cộng đoàn, nếu là nữ tu. Có lẽ thách đố truyền giáo đầu tiên đối với giáo lý viên là phải biết chu toàn công tác dạy giáo lý và các trách nhiệm khác, mà không để chúng gò bó tâm hồn đến độ không còn khả năng vươn lòng trí ra cánh đồng truyền giáo mênh mông của Giáo Hội. Trái lại, chính trong khi lo lắng chu toàn những nhiệm vụ hằng ngày, vẫn còn biết ấp ủ tất cả thế giới trong lòng để thông truyền cho các em trong giờ dạy giáo lý hoặc cho những người thân yêu trong gia đình, giúp họ mở lòng vươn ra cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với anh chị em lương dân.
Trong những năm gần đây, Bản Tin các giáo phận bên Âu Mỹ liên tục đưa tin các giám mục quyết định đóng cửa nhà thờ. Sức sống của Giáo Hội mỗi ngày cứ co cụm lại và như đang dãy chết. Tình trạng này làm tôi nhớ lại cuốn sách “Love in action” đã đọc nhiều năm trước đây. Cuốn sách nói về Cộng đoàn Methodist tại Sydney bên Úc được thành lập năm 1812 và đã phát triển rất mạnh. Số giáo dân tăng thật nhanh. Cộng đoàn tổ chức nhiều sinh hoạt, nhiều công tác phục vụ và hai lần phải mua nhà thờ lớn hơn. Rồi xã hội thay đổi, giáo dân bỏ đi xa, di dân tới nên cộng đoàn rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Đến năm 1884, cộng đoàn chỉ còn 18 thành viên. Trong cuộc họp cuối năm, người ta tính bán nhà thờ và giải tán cộng đoàn. Nhưng trước khi bỏ phiếu quyết định, vị mục sư già có mặt lên tiếng đề nghị trước khi quyết định bán nhà thờ, xin tìm một mục sư trẻ có khả năng rao giảng Tin Mừng để làm sống lại cộng đoàn. Người ta đồng ý và mời mục sư W. G. Taylor. Mỗi Chúa nhật, thay vì ngồi trong nhà thờ chờ dân chúng và giam mình trong văn phòng làm việc bàn giấy, mục sư W. G. Taylor ra ngoài rao giảng Tin Mừng, tổ chức các buổi rước kiệu, tổ chức công tác phục vụ, mời gọi dân chúng nhập đạo… Một năm sau, thay vì nói đến việc bán nhà thờ vì không có giáo dân, người ta phải bàn tính mua một nhà thờ lớn hơn. Đến năm 1958, một lần nữa, hoàn cảnh kinh tế, xã hội thay đổi, cộng đoàn lại khủng hoảng lần nữa. Một mục sư khác, tên là Alan Walker, nhưng cũng với tinh thần truyền giáo, không những giữ vững cộng đoàn, mà còn làm cho phát triển thêm.[2] (http://www.liendoanconggiao.net/doc/tailieu/ThanhPhaoloMauGuongCuaGiaoLyVien-DoGiuseDinhDucDao.htm#_ftn2)
Nếu có được những giáo lý viên có tinh thần truyền giáo và hăm hở xông pha như hai mục sư W.G. Taylor và Alan Walker, chắc các giáo phận Âu Mỹ sẽ không phải tính truyện đóng cửa nhà thờ, mà phải mua nhà thờ lớn hơn, và còn có khả năng gửi người đi khắp năm châu, đem Tin Mừng của Chúa đến muôn dân.
a. Nhu cầu ưu tiên của Giáo Hội: một thế hệ tông đồ quả cảm và nhiệt thành
Trong hoàn cảnh hiện nay, nhiệm vụ làm chứng cho Chúa Giêsu và đem Tin Mừng của Người thấm nhuần vào mọi môi trường sống và làm việc, thực vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhiệm vụ này đòi phải có những suy tư thần học mới, tìm những phương pháp mới và sử dụng những phương tiện tân tiến, thích hợp thời đại. Nhưng trước tiên, Giáo Hội cần có một thế hệ tông đồ, mới trong tinh thần và lòng nhiệt thành, dám dấn thân và sẵn sàng chịu đựng mọi thiệt thòi vì Chúa Giêsu và Tin Mừng để làm chứng cho Người và trình bày cho thế giới tiêu chuẩn và cách sống của Người. Giáo Hội không chỉ cần có nhiều giáo lý viên, nhưng cần những giáo lý viên hạnh phúc được là giáo lý viên và nhiệt thành, hăm hở đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người.
Loại tông đồ truyền giáo này, trong thời đại chúng ta đang sống cũng không thiếu. Có một khuôn mặt được nói đến nhiều trong thời gian gần đây. Đó là cha Pio Ngô Phúc Hậu. Tôi muốn ghi lại một kinh nghiệm truyền giáo ngài viết trong cuốn “Nhật Ký Truyền Giáo”:
Cà Mâu, Chúa nhật 17.8.1988
Hôm nay mình bước lên giảng đài một cách hiên ngang hơn bao giờ hết. Mình dõng dạc tuyên bố: Năm nay chúng ta sẽ mừng ngày truyền giáo một cách long trọng.
1. Mỗi người lớn bé già trẻ đều mời bạn lương dân của mình đế dự lễ. Người lương dân tới thì người đạo nhường ghế ngay. Đạo đời hiểu nhau sẽ dễ dàng gây tình đoàn kết dân tộc.
2. Mỗi người hãy hỏi bạn lương dân xem họ thắc mắc điều gì và gửi thắc mắc đó cho cha sở biết trước để giải đáp trong thánh lễ.
3. Sau thánh lễ mỗi người hãy mời bạn lương dân của mình ghé quán hoặc về nhà liên hoan mặn nhạt tùy nghi. Yêu thương nhau thì phải ăn uống với nhau. Trong bữa liên hoan hãy hỏi xem bạn lương dân có cám tưởng gì về thánh lễ.
4. Để bạn lương dân khỏi bỡ ngỡ, nên nhắc họ:
- Đứng và ngồi như người công giáo cho vui.
- Nhưng khi người công giáo qùi, thì bạn lương dân cứ ngồi, vì qùi là cử chỉ thuần túy tôn giáo và dành cho người có niềm tin.
5. Mỗi gia đình hãy nhắc nhau cầu nguyện cho anh em lương dân sẽ tham dự thánh lễ truyền giáo. Nên noi gương Đức Gioan 23, xin trẻ em, ông bà già và người bệnh tật cầu nguyện tiếp vì lời cầu nguyện của họ đáng được Chúa chấp nhận hơn hết.
6. Nhà thờ phải được trang trí đẹp tối đa. Ca đoàn phải tập dượt để hát thật hay. Phụng vụ Giáo hôi được tổ chức chu đáo sẽ là bối cảnh thuận lợi đưa tâm hồn lương dân vào khung cảnh thần linh. Người lương dân sẽ cảm thấy đứng tim khi mọi ngườ cùng hát và bất ngờ mọi ngườ im lặng như tờ.
7. Chính Chúa Giêsu hiện diện trong thánh 1ễ sẽ đưa các tâm hồn lên với Chúa Cha. Ngài sẽ chinh phục các tâm hồn cứng cỏi mà ta không đủ sức chinh phục. Đó là kinh nghiệm của Philip. Philip hí hửng khoe với Natanaen rằng: “Tôi đã gặp Đấng mà Môsê và các tiên tri loan báo, đó là Đức Giêsu con ông Giuse, người làng Nadarét”. Natanaen cả cười làm Philip cụt hứng: “Ở Nadarét! Nadarét thì có gì hay ho đâu”. Bí lối, Philip chỉ còn biết trả lời: "Thì anh đến mà xem". Quả thật khi Natanaen đến gặp Chúa thì ông bị chinh phục ngay tức khắc.
Cà Mau, Chúa nhât 24.8.1988
Hôm nay mình bước lên giảng đài ủ rũ như con gà trống bị dầm mưa. Hết một tuần rồi mà chưa nhận được một lời thắc mắc nào của lương dân gửi tới. Chưa thấy người giáo dân nào mời bạn lương dân đi dự lễ ngày truyền giáo. Mình không giấu diếm nỗi thất vọng ngay trên giảng đài này, nơi mà cách đây một tuần mình đã hí hửng như con nít xách đèn trung thu đi dạo phố.
Phải có một kế hoạch cụ thể hơn nữa.
1. Phải tiếp xúc với một số người nồng cốt như giáo viên, công nhân viên bệnh viện... trao đổi với họ về cách thức mời lương dân, cách thức xin những câu thắc mắc và cách thức trao đổi trong bữa liên hoan.
2. Phải tiếp xúc ngay với một số người lớn tuổi, năng nổ để đốc thúc họ và nhờ họ đôn đốc bạn bè.
3. Phải nhờ các khu trưởng đến thăm những người bệnh hoạn tật nguyền để xin họ mỗi ngày lần một chuỗi Môi Khôi cho lương dân.
4. Cứ mỗi ngày Chúa nhật phải nhắc lại chương trình tổ chức lễ truyền giáo như một điệp khúc.
Cà Mau, Khánh nhật truyền giáo 1998
Chiều nay sân nhà thờ tấp nập khác thường. Người công giáo và không công giáo tay trong tay đi dạo xung quanh nhà thờ. Các bà các cô khoe những chiếc áo dài mới may, may để đi dự lễ.
Hôm nay mình không ngồi tòa, nên đi lượn khắp khuôn viên nhà thờ. Thấy mình, người giáo dân cười toe toét giới thiệu lia chia:
- Cha, bạn lương dân của con nè!
- Cha, đây là chị Năm, vợ của ông trưởng khóm. Chị Năm mới may áo dài để đi dự 1ễ đó.
- Ông cố, thằng bạn của con nó muốn theo đạo.
- Con xin giới thiệu với cha ông Tù Giỏi. Ông ngoại nhưng mến đạo lắm.
- Lễ xong, mời cha đi liên hoan với tụi con nghen!
- …
Chuông nhà thờ đổ hồi. Dòng người tràn vào nhà thờ như thác lũ. Bạn đạo dành chỗ cho bạn lương. Các bà phước, các ông bà trưởng khu lăng xăng đi tìm chỗ cho người lương dân đến trễ. Lâu lâu 1ại có một người đứng dậy nhường chỗ cho một người mới tới... Hết chỗ! Có những bàn tay giơ lên, lắc lắc tỏ vẻ thất vọng. Một bà phước dẫn theo hai người lương đến chỗ có hai chú nhí.
- Tụi con đứng dậy nhường chỗ cho người lương đi!
Thằng cu tí nhỏng mỏ cự nự:
- Đây là khách lương dân của con mà.
Bà phước đáp 1ại bằng nụ cười đắc chí:
- Vậy thì con cứ ngồi đó đi…
Đọc kinh nghiệm truyền giáo của cha Hậu thấy hay quá. Đúng là đồ đệ của thánh Phaolô, đầy nhiệt huyết, đem lại nhiều hứng khởi, chảy tràn lan sang giáo dân của ngài, cả mấy chú nhí cũng vui và hãnh diện đi mời bạn lương dân của mình đến dự lễ.
Thực ra, tại nhiều nước có dịp viếng thăm, tôi đã được gặp nhiều người, rất nhiều người đầy nhiệt huyết, tinh thần truyền giáo hăng say và quả cảm, nhưng ít được ai biết đến. Có lẽ vì việc viết lách, văn tự không đến đâu; sống nhiều, làm nhiều, dấn thân nhiều, nhưng nói ít, viết lách thì coi như không có, nên ít người biết đến họ và hiểu được lòng của họ. Nhưng có lẽ đấy cũng là chương trình Chúa Quan Phòng. Để chiếu sáng khắp không gian, cần đặt một vài ngọn đèn pha trên mái nhà, nhưng cũng cần rất nhiều các ngọn đèn nho nhỏ, nhiều cỡ, nhiều loại trong các căn phòng, dưới hầm cầu thang, và ngay cả dưới tầng hầm, nơi để đồ đạc ngổn ngang, đầy bụi bặm… Cả những nơi đó cũng cần có những ngọn đèn chiếu sáng!
Trong những năm tôi có bổn phận thăm viếng các cộng đoàn, các dòng tu, các phong trào, hội đoàn của chúng ta tại hải ngoại, và đôi lần trở về Quê Hương, tôi cũng gặp rất nhiều linh mục, tu sĩ, giáo lý viên và nhiều giáo dân phục vụ ở nhiều lãnh vực khác nhau, có tâm hồn rất đáng cảm phục. Chúng ta cần khích lệ nhau sống kết hợp với Chúa, sống theo con đường của Chúa để loan báo và làm chứng cho Chúa.
Hai năm trước đây, tôi có dịp về thăm Quê Hương. Hôm đó đi với Đức Tổng Kiệt lên Lạng Sơn. Tôi đang đi dạo cuối nhà thờ, thấy có 2 ông và 1 bà đến. Đó là đôi vợ chồng và một người bạn của đôi vợ chồng. Tôi đang đứng nói truyện với họ thì ĐT Kiệt tới; ngài chỉ vào 3 người này và giới thiệu: “Ba ông bà này là cách mạng đấy. Bây giờ về hưu, trở lại, cả ngày chỉ đi truyền giáo thôi”. Tôi hỏi ba người: “Vậy bây giờ các ông bà thấy thế nào, có vui không?”. Người đàn bà nhanh miệng trả lời ngay: “Hạnh phúc nhất đời. Chúng con chẳng muốn gì hơn.” Trên mấy giáo phận miền Bắc, các bà, nhất là Dân Tộc, truyền giáo mạnh lắm. Các bà bảo: “Các ông ở nhà, để đàn bà chúng tôi đi truyền giáo cho. Các ông đi, thôi thì ăn, uống, lại còn hút nữa, mất giờ lắm. Đàn bà chúng tôi ăn ít, nói nhiều, chúng tôi truyền giáo cho”. Cứ cái gùi đeo trên lưng, các bà đi ngày đêm, đi khắp nơi. Đó là hình ảnh của thánh Phaolô. Đi và đi, không phải là đi chơi, nhưng là đi để gặp gỡ, để nối một nhịp cầu, để chia vui sẻ buồn với anh chị em, nhất là anh chị em lương dân và nói cho mọi người biết là có một niềm vui vượt trên mọi niềm vui. Đó là niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu, niềm vui của người đã tìm được viên bích ngọc, tìm được kho tàng quí báu chôn cất dưới đất (x. Mt 13:44-46).
Chúng ta cần học cách trân trọng, quí mến nhau để hun đúc cho nóng hơn, cho bừng sáng tinh thần truyền giáo. Lắm khi cũng không cần đi đâu xa cả. Có lẽ cũng vẫn đến những nơi thường đến, gặp những người vẫn thường gặp, nhưng bây giờ ra đi gặp gỡ mà mang trong lòng niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu đễ thông truyền niềm vui, niềm an bình dào dạt trong lòng. Như vậy, các giáo lý viên sẽ là hiện thân của thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại. Dù ở vị thế và hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể là những ngọn đèn chiếu sáng tâm hồn, đem an bình và niềm vui vào lòng người và vào môi trường sống, thứ an bình và niềm vui chỉ có Chúa mới ban cho được (x. Ga 14,27).
II. Thương yêu tha nhân
Trong hoạt động tông đồ truyền giáo, ba nguồn mạch có sức mạnh thúc đẩy và hướng dẫn thánh Phaolô là tình yêu say mến Chúa Giêsu, sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần và tình yêu sâu đậm đối với tha nhân. Bây giờ chúng ta nhìn qua sức mạnh thứ ba là tình yêu đối tha nhân.
1. Tình yêu tha nhân nơi thánh Phaolô
Đọc các thư của thánh Phaolô, ai cũng cảm thấy được đánh động bởi tâm tình của ngài đối với các cộng tác viên và ngay cả với những người mới quen biết. Chúng ta có thể đọc một vài đoạn trong các thư của ngài sau đây:
- “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm.” (Fil 1,3-10).
- “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa, khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện, bởi được nghe nói về lòng mến và lòng tin của anh đối với Chúa Giê-su : lòng mến và lòng tin ấy có ích cho mọi người trong dân thánh. Chớ gì lòng tin mà anh chia sẻ với chúng tôi trở nên hữu hiệu, giúp anh hiểu biết tất cả những gì tốt chúng ta có thể làm để phục vụ Đức Ki-tô. Thật thế, tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi. Vì thế, mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh làm điều anh phải làm. Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tư nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi. Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả... Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết điều này : tôi sẽ hoàn trả lại. Tôi khỏi cần nói với anh là anh còn mắc nợ tôi: món nợ đó là chính anh. Phải, thưa anh, xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Ki-tô. Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo. Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa. Đồng thời, xin anh dọn cho tôi một chỗ ở, bởi vì tôi hy vọng là nhờ lời anh em cầu nguyện, tôi sẽ được trở về với anh em. Anh Ê-pa-pha, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và Lu-ca. Cầu chúc anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. A-men.” (Fm 4-20).
- “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng rúng động?” (2 Cor 11, 28-29).
- “Khi nào tôi sai anh A-tê-ma hay anh Ty-khi-cô đến với anh, thì hãy liệu mau đến với tôi ở Ni-cô-pô-li, vì tôi đã quyết định ở lại đó suốt mùa đông. Anh hãy lo tiễn đưa luật gia Dê-na và anh A-pô-lô cho chu đáo, đừng để họ phải thiếu thốn gì. Các anh em của chúng ta cũng phải học cho biết trổi vượt về những việc tốt đẹp, để đáp ứng những nhu cầu cấp bách; như vậy họ không phải là không sinh hoa kết quả.” (Tit 3,12-14).
- “Về việc quyên tiền giúp các thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội Thánh ở Ga-lát như thế nào, thì anh em cũng làm như vậy. Ngày thứ nhất trong tuần, mỗi người trong anh em hãy để riêng ra những gì đã may mắn thu góp được, chứ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên. Khi tới, tôi sẽ cử những người được anh em chấp thuận đi Giê-ru-sa-lem, mang thư và quà anh em đã rộng rãi quyên tặng. Và nếu xét là tôi nên đi, thì họ sẽ cùng đi với tôi.” (1 Cor 16,1-4)
-
Qua mấy đoạn trích dẫn trên, chúng ta thấy một số đặc điểm trong tình yêu của thánh Phaolô như sau:
- Tâm tình thương yêu nơi thánh Phaolô rất người, nhưng đồng thời cũng rất thần thánh. Trong những liên hệ với tha nhân, thánh Phaolô có những câu nói, những diễn tả hết sức tình nghĩa, rất âu yếm, nhưng cũng hết sức siêu thoát. Hai yếu tố nhân loại và thần linh hòa lẫn vào nhau làm thành một thực tại và do đó, tình nghĩa không đọa ra tình cảm suông, cũng không chỉ là lịch sự và tình yêu thiêng liêng không biến ra trừu tượng, lơ lửng trên không.
- Tình yêu nơi thánh Phaolô vừa cụ thể, vừa phổ quát. Một đàng, ngài để ý đến nhu cầu của cộng đoàn và các cá nhân cụ thể, đàng khác ngài mở lòng ôm ấp tất cả mọi người, mọi cộng đoàn không phân biệt.
- Tình yêu không chỉ chú ý đáp ứng các nhu cầu, mà còn sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì người mình thương yêu nữa.
“Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24).
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu” (2 Cor 1,3-6).
2. Giáo lý viên theo mẫu gương thánh Phaolô
Nhìn vào mẫu gương thánh Phaolô, nhiệm vụ giảng dạy giáo lý không chỉ đòi giáo lý viên hiểu biết giáo lý phải giảng giải, cắt nghĩa, mà còn đòi phải có khả năng thương yêu: thương yêu chính những người mình có bổn phận dạy dỗ, thương yêu Giáo Hội, thương yêu anh chị em lương dân. Đây là khả năng tuyệt vời Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá đã phú bẩm vào lòng mỗi người. Do đó, con người ta, bất cứ thuộc chủng tộc, tôn giáo nào, khi sinh ra là khao khát thương yêu và được thương yêu. Tôi muốn đọc lại đây một kinh nghiệm yêu thương:
Đầu cá chốt
Cao Thị Ni - 16/01/2008
Tôi nhớ rõ năm ấy ba tôi bị bệnh ho ra máu (còn bây giờ người ta gọi là lao phổi) tôi cũng chẳng biết bệnh đó có nguy hiểm không, có chết không, nhưng mỗi lần ba ho khạc ra máu là me lại khóc, thấy mẹ khóc rồi mấy chị em tôi cũng khóc theo. Ba bệnh lâu ngày không có tiền chạy thuốc, mẹ chỉ đâm lá thuốc nam cho ba uống nhưng không khỏi, ngày qua ngày ba càng ốm yếu xanh xao hơn, vì năm đó thuốc lao chưa xuống địa phương như bây giờ. Mẹ nghe hàng xóm bảo nếu muốn hết bệnh thì phải lo tiền đi bệnh viện Hồng Bàng ở Sài Gòn mới có thuốc trị. Mẹ nghe vậy quyết định bán hết mấy giạ lúa cuối cùng trong nhà cho ba làm lộ phí lên Sài Gòn trị bệnh, còn mẹ thì ở nhà lo ruộng rẫy và để chờ ngày ba tôi xuất viện trở về.
Tôi nhớ lúc ấy sáng ngày nào mẹ tôi cũng xách cái thau và cây cân ra chợ mua cá đi bán lại để kiếm tiền lời, và còn có cá cho các con ăn, đến trưa về nhà lúc nào mẹ cũng đem một mớ cá chốt, chớ chẳng có thứ cá nào ngon hơn. Mỗi lần mẹ làm cá tôi hay ngồi gần nhìn mẹ làm và hỏi: “Mẹ ơi sao làm cá chốt mẹ không chặt bỏ đầu, đầu xương không ăn sao được hả mẹ?” Mẹ tôi cười bảo: “Có ít cá mẹ hà tiện để đầu kho xong mình lấy đầu cho con chó con mèo ăn cũng đỡ con à”. Câu nói của mẹ, tôi cũng vô tình không để ý tới, mà thật sự ngày nào tôi đi học về, mẹ dọn cơm cho mấy chị em tôi ăn cũng cá chốt kho và dĩa rau luộc mẹ hái cạnh sau nhà, tôi chỉ biết ăn say sưa chớ chẳng để ý tới cá chốt kho như thế nào.
Vô tình một ngày nọ tôi được nghỉ hai tiết học cuối nên về nhà sớm hơn mọi ngay. Khi bước vào nhà, tôi tình cờ thấy mẹ tôi ngồi ăn cơm một mình với dĩa rau luộc và một chén cá kho toàn là đầu cá chốt. Thì ra bấy lâu nay mẹ ăn cơm trước, chỉ ăn đầu còn để dành khúc mình cho các con. Tôi đứng lặng trước mâm cơm của mẹ mà nghe nghèn nghẹn ở cổ, tôi chẳng nói được câu nào với mẹ chỉ sợ không cầm được giọt nước mắt. Như hiểu được ý tôi, mẹ bảo: “Ba con đang bị bệnh, mẹ con mình ở nhà phải ăn cần ở kiệm dành dụm tiền còn lo thuốc men cho ổng nữa con à, chừng nào ba con hết bệnh về làm có tiền thì nhà mình ăn sẽ ngon hơn”. Nghe mẹ nói tôi thấy mủi lòng rồi khóc như mưa.
Nhưng mẹ ơi những gịot nước mắt con rơi lúc ấy không phải buồn vì nhà mình nghèo, mình khổ mà vì con cảm thấy thương mẹ, thương nhất trên đời mẹ ơi, cả cuộc đời mẹ đã vì chồng vì con mà chẳng nghĩ đến bản thân mình, lúc ấy con chỉ biết thầm cầu trời khấn phật cho ba mau hết bệnh để về nhà cùng mẹ chung sức lo cho đàn con thơ dại.
Tôi xin viết những dòng chữ này gởi đến mẹ thân yêu như những lời cảm ơn mẹ đã vì chị em tôi mà cực khổ và chịu đựng hy sinh cả cuộc đời của mẹ, đến bây giờ tôi đã làm mẹ càng thấm thía hơn câu thơ của một nhà văn đã viết:
Biển cả mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha.
Đến bao giờ các giáo lý viên mới yêu được các em mình dạy dỗ như bà mẹ trong câu truyện trên? Dĩ nhiên câu truyện trên nói đến kinh nghiệm tình máu mủ, mẹ con. Nhưng, trong mầu nhiệm cứu chuộc, Chúa đã thanh luyện tình yêu tự nhiên cho thêm tinh tuyền và còn ban ơn cứu chuộc để thánh hóa, làm cho tình yêu tự nhiên vươn lên để biết yêu như chính Chúa (Ga 13,34-35). Thánh Phaolô đã thương yêu các cộng tác viên, thương yêu các giáo đoàn, cả Giáo Hội và mọi người. Đó là những người chẳng có liên hệ máu mủ với ngài. Vậy mà ngài đã sẵn sàng và còn vui mừng chịu khổ vì họ, để họ được bổ dưỡng, được xây đắp. Đó là tấm gương cho các giáo lý viên.
“Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24). Tình yêu đối với Giáo Hội, với các phần tử của Giáo Hội là một thách đố rất lớn đối với mọi người, dĩ nhiên cũng đối với các giáo lý viên. Giáo Hội đang gặp khó khăn trăm phần. Nhiều khó khăn đến từ bên ngoài. Xem như các sức mạnh của thế gian đang hợp lực đánh phá Giáo Hội, trên mọi trận tuyến. Nhưng trầm trọng hơn, có lẽ là những khó khăn phát xuất từ chính trong lòng Giáo Hội. Các lỡ lầm, yếu đuối của con cái Giáo Hội cứ lồ lộ trước mắt, mà nhiều khi cả những con cái ưu tú, được tuyển chọn nữa. Rồi tệ nạn chia rẽ, gièm pha, gây hoang mang, ngờ vực, tạo ra trăm bè bảy mối. Cứ như thể làm như vậy là trưởng thành, là công bằng, là yêu mến Giáo Hội. Người ta không có khả năng phân biệt ranh giới giữa quyền tự do ngôn luận, cần phải có để thăng tiến và việc nói hành, nói xấu, và vu vạ cáo gian. Để phân biệt được sự khác biệt, cần phải có tinh thần khiêm nhượng và thành thực (honest) để nhận diện những tình cảm, những ý nghĩ thầm kín trong lòng mình và gọi chúng với chính tên của chúng. Nhiều lý do nói ra để biện minh thì hay lắm, nhưng lý do thực trong bụng thì có thể chỉ là ghen ghét hay tham vọng, lợi lộc.
Tình yêu đối với Giáo Hội đòi phải có tinh thần khách quan, tìm hiểu sự thật. Nếu thấy một phần tử của Giáo Hội bị oan, phải biết cảm thông nỗi đau khổ và bênh đỡ. Nếu thấy có tội, không đứng như kẻ ngoài cuộc mà tố khổ, nhưng phải biết lãnh trách nhiệm trong tình liên đới và nếu cần, cộng tác để đền trả các thiệt hại do sự yếu đuối của các phần tử của Giáo Hội gây ra, vì đây là Giáo Hội của tôi và đó là anh chị em của tôi. Tôi không phải là người ngoài cuộc, nhưng là anh em trong nhà. Đó là tâm tình của thánh Phaolô khi ngài viết cho giáo đoàn Colosê: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24). Đó là mẫu sống của mỗi kitô hữu đích thực, nhất là kitô hữu đó lại là một giáo lý viên.