PDA

View Full Version : Ngày vô tận



Dauan_tinhyeu
10-08-2009, 12:14 PM
Chúa Nhật XXXIII Thường Niên Năm B


NGÀY VÔ TẬN: CỬA KHÔNG ĐÓNG - ĐÊM

KHÔNG VỀ

Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng Niên được mở màn với Mùa Vọng, thời điểm Giáo Hội trông đợi Chúa Kitô đến, không phải đến lần thứ nhất, vì Người thực sự đã đến rồi, thì Lễ Chúa Kitô Vua ở Chúa Nhật kết thúc Phụng Niên của Giáo Hội hằng năm là mục tiêu ngưỡng vọng của Giáo Hội, là tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng đã Nhập Thể, Vượt Qua, Thăng Thiên và chắc chắn sẽ Tái Giáng. Nếu Chúa Kitô không phục sinh, đức tin Kitô giáo là đồ bỏ, là mê tín dị đoan, là điên cuồng ngu xuẩn (x. 1Cor 15:13-15), thì nếu Chúa Kitô không tái giáng, việc Người phục sinh quả thực, đúng như tin đồn trong dân Do Thái, chỉ là một câu chuyện giả tạo do thành phần môn đệ của Người lấy xác của Người đi vậy thôi, cho ứng nghiệm những gì Người phán khi còn sống (x Mt 28:11-15). Tuy nhiên, biến cố Phục Sinh lịch sử của Đấng Tử Giá còn có thể chứng minh bằng chứng từ là ngôi mồ trống cộng với các lời tiên tri (nhất là của chính Đấng Phục Sinh), còn biến cố Người tái giáng sẽ xẩy ra của Người, cũng trong lịch sử của loài người, lại hoàn toàn không có gì chứng thực cả, chỉ hoàn toàn phát xuất từ lòng tin tưởng được căn cứ vào mạc khải thần linh là những gì được ghi lại trong Phúc Âm vậy thôi, như được thấy trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này, Chúa Nhật ngay trước Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua kết phụng niên tuần tới.
Thật vậy, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 33, dù ở chu kỳ phụng vụ nào, bình thường cũng đều là bài Phúc Âm nói tới ngày tận thế hay tả cảnh tận thế, tức những gì xẩy ra trước khi Con Người đến trong vinh quang, trừ chu kỳ năm A, vì chu kỳ này có bài Phúc Âm thuật lại cảnh phán xét chung ở Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua rồi. Tuy nhiên, nếu liên kết ba bài Phúc Âm của cả ba chu kỳ A, B, C cho Chúa Nhật 33 lại với nhau, chúng ta thấy ý nghĩa về ngày thế mạt xẩy ra hay diễn tiến rất ăn khớp với nhau như sau: Chúa Kitô sẽ trở lại sau một thời gian vắng bóng là để tính sổ với bày tôi của mình (Phúc Âm năm A), và khi Người trở lại sẽ có những biến động trên không trung, những gì xẩy ra ngay trước khi Người xuất hiện (Phúc Âm năm B), cùng với những biến loạn xẩy ra nơi xã hội loài người, nhất là cảnh thành phần môn đệ của Người bị thử thách về đức tin (Phúc Âm năm C), thành phần phải thanh toán trách nhiệm với Người và trình nộp lợi nhuận cho Người khi Người đến (Phúc Âm năm A).
Riêng về bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này chúng ta thấy có bốn điểm chính theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, hiện tượng biến động trên không trung xẩy ra ngay trước khi Con Người đến; thứ hai, sự kiện Con Người tái xuất hiện là để triệu tập thành phần được tuyển chọn; thứ ba, biến cố thế mạt được Người khẳng định là chắc chắn sẽ xẩy ra; thứ bốn, biến cố này xẩy ra khi nào cũng được Người xác nhận là chỉ có một mình Cha biết mà thôi.
Bài suy niệm này vừa viết xong thì tin tức thiên văn cho biết Hiện Tượng Nguyệt Thực, Sao Băng và Nhật Thực trong Tháng 11/2003 như sau. Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu sẽ được thấy vầng trăng rằm trở thành một bầu tối hồng vào cuối tuần này Thứ Bảy ngày 8/11/2003, khi mặt trăng lướt qua vùng tối của trái đất trong biến chuyển mới nhất của bầu trời năm nay. Hiện tượng nguyệt thực này sẽ kéo dài trong vòng 24 phút và lên tới hết cỡ của nó vào lúc 8 giờ 6 phút EST, lúc mặt trăng, trái đất và mặt trời chập vào nhau và mặt trăng băng ngang qua vùng tối nhất của Trái Đất. Hiện tượng nguyệt thực không gây tác hại cho mắt trần của người coi, không giống như hiện tượng nhật thực. Hiện tượng nguyệt thực diễn ra với nhiều mầu sắc, từ nâu đậm và đỏ đến mầu cam sáng, vàng và nâu, tùy theo nhiều ít mây và bụi trong không khí của trái đất lúc ấy. Vào cổ thời hiện tượng nguyệt thực này được cho rằng bị gây ra bởi con quái vật nào đó làm cho mặt trăng đẫm máu, dấu hiệu tai họa xẩy ra. Nếu mây mù che khuất biến cố Thứ Bảy này, người ta sẽ không phải đợi chờ lâu để thấy được một trận mưa sao băng Leonid xẩy ra hằng năm. Ở Tây Á, Nam Dương và Úc Đại Lợi sẽ thấy trận mưa sao băng này vào sáng sớm ngày 14/11/2003. Còn ở vùng Tây Phi, Tây Âu, Bắc Mỹ và những phần đất phía tây của Nam Mỹ sẽ được thấy trận mưa sao băng này vào ngày 19/11/2003. Cảnh mưa sao băng này xẩy ra rất ngoạn mục với cả hằng trăm ngôi sao chuyển chỗ trên bầu trời trong một tiếng đồng hồ. Ngày 23/11 cũng sẽ diễn ra hiện tượng nhật thực mà chỉ thấy được ở Nam Cực Cầu thôi.
Ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề thiên văn mà là suy nghĩ và các vấn đề liên quan đến 4 câu của Lời Chúa phán trong bài Phúc Âm như sau: “Bấy giờ (tức sau biến động trên không trung), người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”; “Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”; “Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”; và “về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”. Nói chung, nếu hai lời đầu liên quan đến chính ngày tận thế thì hai lời sau liên quan đến đức tin đối với ngày tận thế này. Vậy chúng ta cần phải hiểu thế nào về 4 lời chân thật “sẽ không qua đi” này của Chúa Giêsu về ngày thế mạt.
“Bấy giờ, người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”:
Qua câu lời Chúa này chúng ta biết được, trước hết, ngày tận thế xẩy ra rồi Con Người mới đến, chứ không phải khi Người xuất hiện thì bấy giờ là ngày tận thế. Ngày tận thế là ngày không trung xẩy ra biến động, ở chỗ “mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ rơi rụng, và các cơ ngũ trên trời bị rung chuyển”. Và những biến động trên không trung đây, những biến động cuối cùng trong ngày tận thế và vào chính ngày tận thế đây, chỉ xẩy ra sau những biến loạn trên trái đất mà thôi: “Sau các cuộc thử thách đủ mọi thứ xẩy ra vào giai đoạn đó”, như được Thánh Ký Marcô thuật lại ở phần Phúc Âm, cùng đoạn 13, từ câu 5 đến câu 23 ngay trước bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, giai đoạn biến loạn trên trái đất, với hiện tượng tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, động đất đói khát và bách hại sát đạo. Cũng qua câu lời Chúa trên, chúng ta còn hiểu được rằng, sau ngày tận thế, thân xác con người ta sẽ được phục sinh, và bấy giờ, với con mắt của thân xác phục sinh, con người, dù lành hay dữ, mới có thể thấy được chính Đấng Phục Sinh đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời.
Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã khiến cho không trung bị biến loạn để thế gian phải đi đến ngày cùng tháng tận của mình vô cùng kinh hoàng như thế? Chính không trung chi phối trái đất, (trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất), chẳng lẽ lại bị tình trạng biến loạn trên trái đất xẩy ra trước đó chi phối đến bị biến động gây ra thế mạt hay sao? Thật ra, nếu tất cả mọi sự trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên vì loài người và cho loài người thì mọi sự quả thực lệ thuộc vào loài người, đến nỗi, như Thánh Phaolô nhận thức và diễn tả: “Tất cả mọi tạo vật ngong ngóng trông đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm tôi cho hư hoại, không phải tự chúng, mà là bởi Đấng bắt chúng phải chịu như thế, song không phải là không có hy vọng, vì chính thế gian sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại hầu được thông phần vào quyền tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19-21). Vậy có thể suy ra rằng, một khi lòng người hay xã hội loài người hoàn toàn băng hoại hay băng hoại hết cỡ, đến nỗi, đối với văn minh vô thần duy vật của họ, mặt trời công chính là Chúa Kitô đã trở nên tối tăm, mặt trăng Giáo Hội không còn chiếu sáng được ảnh hưởng của mình nữa, các người lành thánh như những vì tinh tú cũng sẽ rơi rụng vào thời kỳ chưa từng có từ tạo thiên lập địa ấy, một thời kỳ nếu không được rút vắn lại thì kẻ lành cũng sẽ bị hư đi (x Mk 13:19-20), và các cơ ngũ trên trời là tất cả mọi thứ lề luật tự nhiên cùng với các nguyên lý luân lý phổ quát bị rung chuyển, thì cũng là ngày cùng tháng tận của thế gian này, hay nói theo đức tin Kitô giáo, cũng là ngày thế gian cần phải được hay đến lúc được canh tân biến đổi, để trở thành một trời đất mới, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị (x 2Pt 3:13).
“Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”:
Câu lời Chúa này cho chúng ta thấy lời Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định quả là chí lý: “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi nữa mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28). “Những ai thiết tha trông đợi Người” đây không phải chỉ là những ai sống vào ngày cùng tháng tận, những ai bền đỗ đến cùng trong những ngày khủng khiếp vô tiền khoáng hậu ấy (x Mk 13:13), bởi vì, như trên đã nhận định, tận thế rồi Chúa Kitô mới xuất hiện, tức mọi người chết hết rồi và sống lại rồi bấy giờ Người mới tới, chứ không phải chỉ tới với những kẻ chưa chết nói chung, nhất là những kẻ thiết tha trông đợi Người nói riêng. Dụ ngôn 10 cô phù dâu đều thiếp ngủ như nhau, nhưng Chúa Kitô chỉ mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người là những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu hy vọng theo với cây đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến để ra nghênh đón Đấng bất chợt đến vào lúc nửa đêm mà thôi (x Mt 25:1-13).
Đúng thế, Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người, thành phần được Người cứu độ qua phép rửa, từ lúc Người thăng thiên (đi xa) cho tới khi Người lại đến (trở về), như ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 chu kỳ năm A cho thấy. Tuy nhiên, vì ơn cứu độ của Người là một ơn cứu độ phổ quát, ơn cứu độ được Thiên Chúa Hóa Công hứa cho tất cả loài người ngay sau nguyên tội (x Gen 3:15), mà tất cả những ai, dù sinh ra trước khi Lời hóa thành nhục thể, hay sau khi Chúa Kitô Vượt Qua song chưa được tái sinh bởi Giáo Hội Người qua Phép Rửa cứu rỗi (x Mk 16:16), một khi biết thiết tha trông đợi Người, được tỏ ra qua việc họ sống chân chính hợp với lương tâm ngay lành và lề luật luân lý phổ quát, cũng sẽ được Người giải cứu (x Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16). “Thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời” đây có thể được hiểu hay cần phải được hiểu theo nghĩa này.
“Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”:
Như trên vừa nhận định, chính vì Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho thành phần thiết tha trông đợi Người, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế, mà ba chữ “thế hệ này” ở đây không chỉ áp dụng cho những người đương thời với Chúa Kitô, với các tông đồ, thành phần dân Do Thái bấy giờ, mà là cho chung nhân loại. Qua lời Chúa Giêsu khẳng định trên đây, chúng ta thấy rằng tận thế là một sự thật chứ không phải chỉ là một lời đe dọa, một cái gì không thể nào xẩy ra hay không bao giờ xẩy ra. Triết lý và khoa học cũng không thể chối cãi được sự thật cùng tận này. Theo triết lý và luận lý, ai dám cho rằng tất cả mọi sự hữu hình và vật chất này sẽ kéo dài đến vô hạn, bằng không chính vật chất hữu hạn này là Thiên Chúa, là Hóa Công, vô thủy vô chung, vô cùng bất tận. Theo khoa học, ai có thể chứng minh được rằng mọi sự tự dưng mà có, hay chỉ có thể biết được, qua các giả thuyết, rằng thiên nhiên vạn vật ngay từ đầu từ từ được biến đổi mà thành hình; thế nhưng, không ai dám cả quyết một cách chắc chắn 100% như chân lý rằng trời đất này sẽ không bao giờ hoàn toàn qua đi, sẽ luân hồi không bao giờ cùng, tức sẽ muôn đời tồn tại thiên thu vạn đại, tức không có vĩnh hằng, không có đời sau, không có thiên đàng hỏa ngục…
Thực tế cho thấy, con người luôn khao khát và tìm kiếm chân thiện, tìm kiếm những gì vĩnh hằng bất biến. Kẻ gian dối nhất, đánh lừa cả thiên hạ, cũng vẫn không muốn bị đánh lừa, cũng vẫn muốn biết sự thật. Kẻ chán đời đến tự tử đi nữa, cũng vẫn, qua chính quyết định tử tử và việc tử tự của họ, cho thấy họ hết sức khao khát được sống hạnh phúc, một hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc thực sự, một thứ hạnh phúc họ không tìm được ở đời này. Vậy nếu con người chân nhận là có sự thật, và sự thật tối hậu là một thực tại bất biến, một thực tại toàn thiện, sự thật làm thỏa mãn tất cả mọi khát vọng của loài “nhân linh ư vạn vật”, một sự thật sẽ làm sáng tỏ tất cả mọi tranh chấp và phải trái của loài người, thì quả thực là thế gian này, vũ trụ này, lịch sử này sẽ có ngày cùng tháng tận, thời gian có thủy có chung tự nó không phải là vĩnh hằng và sẽ đi đến ngày cùng tháng tận. Chỉ có sự thật hay những gì là sự thật mới là thực tại duy nhất vĩnh hằng. Nếu tất cả những gì Chúa Giêsu đã truyền dạy về luân lý đều không bao giờ lỗi thời, đến nỗi những gì con người không làm theo như lời Người dạy sẽ không bao giờ được bằng an và phúc thật, thì những gì Người nói về ngày tận thế cũng là sự thật, chắc chắn sẽ xẩy ra. “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”, vì lời Thày là sự thật, là thực tại, một sự thật bao gồm tất cả mọi sự, cho thấy tất cả mọi sự; và mọi sự được tỏ hiện theo lời của Người và như lời của Người, cho thấy rằng lời Người quả là sự thật, vì mọi sự từ từ được hiện thực trong thời gian, được lịch sử ghi nhận. Nếu thời gian là tiến trình sáng tỏ sự thật thì lịch sử chính là chứng nhân cho sự thật. Vì thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật mà một khi sự thật hoàn toàn được sáng tỏ thì cũng là lúc năm cùng tháng tận. Vì lịch sử là chứng nhân ghi nhận sự thật mà tận cùng thời gian phải là một cảnh chung thẩm cho thấy tất cả sự thật.
“Về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”:
Nếu thực sự có ngày tận thế thì những gì Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết, như được các Phúc Âm Nhất Lãm ghi lại, không phải phát xuất từ sự suy đoán của Người, như chúng ta vừa suy diễn trên đây về vấn đề có ngày tận thế hay chăng. Bởi vì, Chúa Giêsu chẳng những đã mạc khải cho chúng ta biết có ngày tận thế, một sự thật hợp với lập luận của triết lý cũng như khoa học, mà còn cho chúng ta biết ngày tận thế ấy sẽ xẩy ra hay sẽ diễn tiến trước sau ra sao nữa. Như thế, chẳng lẽ chính Người, như Người đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 Thường Niên tuần này, cũng không biết rõ được ngày giờ dứt khoát và nhất định xẩy ra sự thật về ngày cùng tháng tận này hay sao? Nếu Cha đã ban cho Con tất cả mọi sự, kể cả sự sống là những gì cao quí nhất (x Jn 3:35, 5:26), thì chẳng lẽ chi tiết về ngày cùng tháng tận của thế gian này lại quan trọng đến nỗi giấu cả Con của mình hay sao, Đấng phải biết trước ngày giờ Người sẽ vinh hiển đến trên mây trời, chứ không phải tới ngày giờ mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người rồi mà Người vẫn không biết, vẫn phải đợi cho đến khi Cha Người công khai ra lệnh thì Người mới biết! Nếu Chúa Giêsu quả thực biết đích xác ngày giờ như Cha Người biết thì chẳng lẽ lời Người khẳng định ở cuối bài Phúc Âm về việc chính Người cũng không biết là giả dối, đánh lừa thiên hạ sao, hay ít là Người cố ý nói thế để tránh né những câu hỏi cặn kẽ đầy tò mò của các tông đồ bấy giờ? Phải chăng Người biết hết mọi sự về ngày giờ thế mạt như Cha, song không phải để tỏ lộ cho bất cứ con người nào biết, nên những gì Người biết cũng kể như không biết? Tương tự trường hợp tôi giữ một đồ vật của người khác, và khi có ai thấy món đồ ấy thì xin tôi, tôi nói với họ rằng tôi không có vậy.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây, quan trọng không phải là biết được ngày cùng tháng tận, mà là biết sẵn sàng đón chờ ngày đó, thì ngày đó đến bất cứ lúc nào cũng được. Ngày đó ở ngay trong lòng của con người khao khát Chúa, luôn sống trước nhan Chúa, phó thác mọi sự trong tay Chúa. Ngày đó là chính sự thật họ đang sống. Những ai sống trong sự thật là sống một Ngày vô tận, cửa không đóng, đêm không về (x Rev 21:25).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
www.dongcong.net (http://www.dongcong.net)