PDA

View Full Version : Ngày xưa



hongbinh
28-03-2012, 08:21 PM
Ngày xưa


http://2.bp.blogspot.com/-rGGYyKChuVM/Tm-D4TW0cSI/AAAAAAAAAuU/n1RXooVzSiY/s1600/thao.jpg

Ngày xưa, thời còn học tiểu học (nay gọi là cấp I), một thời thơ ngây và hồn nhiên thật đáng yêu. Suốt 5 năm chung lớp, vả lại, Thảo và tôi lại là hàng xóm, nên rất thân nhau. Tôi hơn Thảo 3 tháng tuổi, nên chúng tôi chỉ xưng tên với nhau.

Thảo và tôi không chỉ học chung trường, chung lớp, mà còn học giáo lý chung. Thời đó, chiều nào cũng học giáo lý chứ không chỉ học giáo lý vào Chúa nhật như bây giờ. Tôi nhớ năm đó, Thảo và tôi cùng được Xưng tội và Rước lễ lần đầu, ngay hôm sau lại được ĐGM phụ tá P.X. Trần Thanh Khâm ban bí tích Thêm sức. Với tôi là rất đặc biệt khi được Xưng tội và Rước lễ lần đầu hôm trước, hôm sau lại được Thêm sức ngay.
Hồi đó, tôi hay vẽ hình vua chúa, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử, và hiệp sĩ bằng phấn trên nền nhà đất. Thảo thường sang chơi, thấy tôi vẽ cứ lại gần chọc phá tôi, có khi xóa “công chúa” và “hoàng tử” của tôi. Tôi giận quá – vì tôi rất nóng tính – nên tát Thảo một cái như trời giáng. Thảo khóc ơi là khóc. Trời lúc đó đang mưa, Thảo không về được, cứ ngồi khóc nức nở. Phải một hồi lâu sau mới hết, và tôi thấy hối hận. Lúc đó chẳng có ai ở nhà, tôi lén lấy gói kẹo mẹ mua còn để đó để bắt đền Thảo. Nhìn gói kẹo hồi lâu Thảo mới chịu cầm. Trời còn mưa nhẹ, Thảo vừa đi về vừa phụng phịu:
– Nguyên ác lắm, đánh Thảo đau quá đi, về nói bác gái à nghe!
Quả thật tôi nóng quá. Tôi ác thật. Và tôi sợ. Sợ thật. Sợ Thảo méc mẹ và sợ mẹ biết mất gói kẹo. Tôi cầu trời cho không xảy ra chuyện gì. Cả tuần sau chẳng thấy mẹ nói gì cả. Cũng từ hôm đó, tôi chẳng dám rủ Thảo đi học mỗi sáng, và Thảo cũng chẳng sang chơi như trước.
Sáng hôm đó, mẹ định lấy gói kẹo ra gói lại để đi biếu ai đó. Thấy mất gói kẹo, mẹ hỏi mà tôi cứ nói quanh, thế là mẹ mới cho tôi một trận đòn nên thân vì tội lấy đồ khi chưa được phép.
Biết tôi bị đòn, chiều hôm đó Thảo sang chơi, chắc là muốn biết nguyên nhân nhưng không dám vào, cứ thập thò ngoài cửa. Đang làm tập làm văn, thấy vậy nên tôi lên tiếng trước:
– Vào chơi, Thảo!
Thảo lẳng lặng bước vào một cách rụt rè. Tôi vội cười trấn an:
– Thảo giận Nguyên hả?
– Ai bảo…
Thảo cúi đầu buồn buồn. Đôi mắt bồ câu của Thảo hình như long lanh. Tôi vội nói:
– Cho Nguyên xin lỗi. Đừng giận nghe Thảo!
Thảo chợt ngước lên nhìn tôi và tặng tôi một nụ hàm tiếu miễn phí, rồi khẽ nói:
– Lúc đó giận lắm. Bây giờ thì… hết rồi. Thảo muốn đưa cho Nguyên cái này.
Tôi ngạc nhiên, vừa cười vừa hỏi:
– Cái gì vậy?
Thảo đi ra cửa lấy gói kẹo hôm trước tôi bắt đền vào đưa cho tôi:
– Thảo không lấy đâu. Mẹ Thảo nói vậy.
– Thảo cứ cầm đi. Không sao đâu.
– Nguyên xạo Thảo ha!
– Thiệt mà!
– Hồi sáng bác gái đánh Nguyên nè.
Tôi luống cuống như gà mắc tóc, và ấp úng:
– À… ừ… Tại Nguyên bị… điểm bốn đó.
Tôi nói dối vậy để chữa thẹn. Hẳn là Thảo cũng biết, vì Thảo học chung lớp mà. Thảo nhất định đưa lại gói kẹo cho tôi nên tôi đành… để lại chỗ cũ. Ai cũng nhận lỗi về phần mình. Dễ giận mà cũng dễ bỏ qua. Thế là huề. Cứ dễ thương mà cũng dễ ghét!
Từ lần ăn tát tới nay, Thảo “sợ” tôi hẳn. Một điều hỏi, hai điều hỏi, làm tôi đâm ngại. Nhưng nhờ vậy mà tôi bớt nóng tính hơn nhiều. Cảm ơn Thảo. Dẫu sao cũng vui vì đã “bình thường hóa quan hệ”.
Thấm thoát đã lớp Chín. Vậy là Thảo và tôi học chung suốt 5 năm cấp I và 4 năm cấp II. Thời gian qua nhanh quá! Con trai thì vẫn như thường, có khác chăng là tóc biết rẽ đường ngôi, mặc quần áo ủi. Con gái lại khác hẳn từ cách đi đứng tới cách ăn nói. Thảo bây giờ để tóc thề một suối ngang lưng, trông ra dáng một thiếu nữ, e lệ, “hay hay” sao ấy! Nhưng học chung từ nhỏ nên Thảo và tôi vẫn thân thiện như hồi nào.
Thảo dung dị, không kiểu cách, không làm dáng như các bạn cùng trang lứa. Thảo học giỏi và hiền lắm. Tôi không học giỏi bằng Thảo, nhưng tôi rất chăm học nên học lực cũng trên trung bình. Có lẽ đúng như ông bà thường nói: “Cần cù bù thông minh”.
Thi thoảng trường tổ chức mỗi lớp làm một tờ bích báo (báo tường). Tôi có nét chữ “coi được” – như các thầy, cô nói vậy – và tôi còn vẽ phỏng được các hình ảnh ở báo, nên cả lớp đồng ý giao cho tôi “trọng trách” viết và trang trí tờ bích báo của lớp.
Có lần thi đệ nhất lục cá nguyệt (học kỳ I), bài thi Văn của tôi được cô giáo đọc cho cả lớp nghe. Bất ngờ quá! Tôi mắc cở, vì hồi đó tôi nhút nhát lắm, như thỏ đế vậy. Về nhà, Thảo đòi mượn bài Văn của tôi cho bằng được. Tôi khá Văn, còn Thảo giỏi Toán. Qua những việc như vậy, tôi thấy mến Thảo, và ngược lại. Một thứ tình cảm đơn sơ, nhẹ nhàng, và trong sáng của một thời học sinh đáng yêu làm sao!
Hết cấp II, lên cấp III. Tôi đi học nội trú xa. Thảo cũng chuyển trường, nhưng gần đó. Cuối năm học lớp Mười thì đất nước thống nhất, gia đình Thảo chuyển đi nơi khác. Tôi không biết ở đâu. Riêng tôi vẫn ráng tiếp tục học, tuy có bị gián đoạn vài năm.
Không biết Thảo bây giờ làm gì. Nghe vài người quen nói hình như Thảo làm nhân viên ở một tòa soạn báo khá có tiếng. Cứ mỗi lần trời chuyển mưa, tự dưng tôi lại miên man nhớ về Thảo với cái tát “nổ đom đóm mắt” ngày đó, nét bình dị và đôi mắt bồ câu của Thảo. Nhớ ngày xưa như có chút níu kéo, lưu luyến, chưa muốn xa những gì đã xa, dù muốn hay không thì ngày xưa đã vĩnh viễn trôi vào dĩ vãng hóa thành ký ức và kỷ niệm. Không phải vì ích kỷ mà tôi chỉ muốn ôn lại những gì đẹp đẽ và dễ thương, nhất là một người như Thảo, cô bé ngày xưa ấy!
Tôi lấy ra cây viết Thảo đã tặng và viết vài dòng như để gởi cho Thảo vậy:
Tự tình cùng với thời gian
Thảo nguyên bát ngát thắm xanh một màu
Bao nhiêu kỷ niệm ban đầu
Còn trong ký ức pha màu bâng khuâng
Ngày xưa đậm nét vô thường
Như không như có… mênh mang diệu kỳ…
Tứ thời, bát tiết – đến, đi
Lòng người chộn rộn vân vi thất tình (*)
Cây viết đã theo tôi suốt mấy chục năm, dù có cũ với thời gian nhưng vẫn mới với kỷ niệm. Đặc biệt trên cây viết có khắc hai chữ Thảo Nguyên với nét bay bướm. Sự nhút nhát của tôi đã không thể hiểu ngụ ý của con gái. Con gái ký lạ quá. Con gái là một Thế Giới Mới, một Thế Giới Bí Ẩn, hiểu được con gái chẳng khác gì Kha Luân Bố (Colombus) tìm ra Tân Thế Giới (Mỹ châu). Sự hiểu muộn màng có tính tất yếu đặc thù của cái mà người ta thường gọi là tình cảm đầu đời, tình cảm tuổi mới lớn, còn Anh ngữ gọi là Puppy-Love.
Tất cả đã qua, nhưng kỷ niệm sẽ còn mãi, để rồi người ta có những lúc bâng khuâng… Ngày xưa thân ái và đẹp lạ lùng. Thời gian nhìn tới thì dài mà nhìn lại thì sao ngắn quá!
Tình cờ gặp lại mẹ của Thảo trong một lần đi lễ ở Nhà thờ Đức Bà, bác đã già ngoài bát tuần nhưng nhìn bác vẫn còn sinh khí của tuổi già. Chuyện qua lại, tôi thực sự ngạc nhiên khi bác cho biết Thảo đang là Chị Tổng (ngày xưa gọi là Mẹ Bề trên) của một dòng nữ ở giáo phận Phú Cường. Bác nói sắp công chuyện ở Bình Dương và tiện ghé thăm con gái luôn. Bác rủ tôi đi, và tôi hứa sẽ đi với bác. Quả thật, trái đất tròn. Rất tròn! Tạ ơn Chúa luôn quan phòng mọi sự và luôn yêu thương chan chứa…
Tôi chợt nhớ mà ngâm nga một bài thánh ca của thầy tôi là nhạc sư Hùng Lân: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi…”.
TRẦM THIÊN THU

hongbinh
29-03-2012, 09:54 PM
http://www.kekhopk.com/users/hexa/AN3/chongxau.jpg

Chuyện cổ của người Dao kể rằng, xưa kia có một ông vua sinh được ba người con gái xinh đẹp. Có nhiều quan võ đến xin làm rễ. Nhưng người nào cũng không được các cô ưng thuận. Một hôm vua gọi ba người con gái lại và phán rằng:

-Trong triều, quan tài tướng giỏi có nhiều nhưng ai hỏi các con cũng không chịu lấy. Từ nay cha để các con tùy ý kén chọn, thuận ai thì lấy người ấy làm chồng.
Ba cô vâng lời, mỗi người đóng một cái mảng, chở xuôi theo dòng sông, đi kén chồng.
Nàng Cả đi được một quãng thì gặp một chàng trai đứng ở bờ sông, vẫy tay gọi mình:
- Nàng chở máng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với!
Thấy người ấy đen đủi, đen thui, xấu xí. nàng Cả bĩu môi:
- Ôi chao! Xấu xí thế, ai thèm chở.
Nói đoạn, đi thẳng.
Nàng Hai chở máng tới nơi, chàng trai lại gọi:
- Nàng chở máng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với!
Nàng Hai nhăn mặt:
- Xấu xí thế, ai thèm chở.
Đến lượt nàng Ba. Mảng vừa trôi tới, chàng trai cũng cất tiếng xin chở giùm. Nàng Ba vui vẻ ghé mảng vào bờ, mời người đó lên. Chàng trai vừa bước lên mảng, bổng biến thành con cọp vằn ngồi chiễm chệ đằng trước. Nàng Ba vẫn vui vẻ. Nhưng nàng ra sức khỏa nước nhưng thuyền vẫn đứng yên, không nhúc nhích.
Nàng Cả và nàng Hai xuôi mảng, mỗi nàng tìm được một người chồng xinh đẹp, thích lắm, ngược sông trở về. Tới chổ cũ, hai nàng thấy em mình loay hoay giữa dòng, trên mảnh lại có con cọp ngồi chồm chổm, bèn chế nhạo:
- Chồng người không lấy, quanh quẩn ở đây lấy chồng cọp à?
Hai người chị vừa nói, vừa gắng hết sức chở chồng đẹp về nhà. Tiếng nói vừa dứt, thì mảng của nàng Ba tự nhiên rời bến, bơi vượt lên trên, lướt vun vút như có cánh bay.
Về đến nhà hai người chị vào cung tâu với vua cha:
- Hai chúng con xuôi mảng, kén được chồng đẹp, còn em Ba ngại đi xa, nên lấy ngay phải chồng cọp rồi!
Vua nói:
- Cha đã cho các con tự ý đi tìm chồng, ưng thuận ai thì lấy người ấy. Nay nàng Ba đã lấy phải cọp, thi cọp cũng là chồng.
Hai nàng cười lui ra.
Một hôm, vua gọi ba rễ vào bảo:
- Trâu, ngựa, bò, lợn ta thả ở trong rừng. Rể nào lùa được chúng vào chuồng mình, rể đó là người làm ăn giỏi, ta sẽ thưởng cho số gia súc đó.
Hai chàng rể xinh đẹp sai gia nhân vào rừng làm mỗi người một cái chuồng thật đẹp rồi đi vào rừng. Hai chàng ngợp mắt trước đàn gia súc của nhà vua, nhưnh không biết cách nào lùa chúng vào về chuồng mình. Họ vác gậy hò hét, rượt đuổi. Nhưng hai chàng đuổi ở đầu núi này, thì đàn gia súc chạy sang núi nọ, toát mồ hôi mà vẫn không lùa chúng về được.
Trong khi đó rể Cọp, hì hục vác gỗ to cọc lớnm quây một vùng đất rộng làm chuồng. Hàng rào của chàng tuy xấu nhưng chắc chắnm bên trong lại rộng. Chiều tối, khi hai người anh đã mệt lữ, Cọp mới lững thững bước đi vào rừng. Lạ thay, vừa trông thấy cọp, tất cả trâu, bò, ngựa, lợn của nhà vua ngoan ngoãn theo chàng về nhà.
Thấy vậy, hai chàng rể chạy về tâu vua:
- Hai chúng con có chuồng đẹp, chẳng biết sao đàn gia súc không một con nào chạy vào đó cả. Trâu, bò, ngựa, lợn đi vào chuồng xấu xí trơ trọi của em rể Cọp hết rồi.
Nàng Cả, nàng Hai tức tối:
- Trâu, bò, ngựa, lợn không được thì thôi, chồng đẹp mới quý!
Vui nói:
- Rể Cọp làm ăn giỏi xứng đáng lấy được nàng Ba.
Từ đó, vua rất quý Cọp.
Đến ngày sinh của vua cha, rể cọp bảo vợ:
- Hôm nay là ngày sinh của vua cha, để tôi đi lấy ít cá về làm cơm cho cha ăn.
Hai chàng rể người thấy Cọp đi lấy cá cũng đi theo. Ra đến suối, cả ba chung nhau một cái chài. Hai người anh tranh lấy chài, đòi quăng chài trước. Nhưng họ sợ ướt quần áo đẹp, chỉ lội quanh quẩn ở chổ nước nông nên không được lấy một con cá nhỏ. Họ bèn đưa chài cho Cọp và bảo:
- Chú Cọp làm ăn giỏi, hãy quăng thừ xem có được nhiều cá không?
Cọp xách chài lội ra chỗ vực sâu, lấy cành cây vỗ vỗ vào mặt nước dồn cá vào một chỗ rồi quăng tỏa chài xuống đó. Một lát, Cọp kéo chài lên, bắt được vô khối cá. Cọp quăng liền mấy tay chài, được một mẻ cá đầym gánh về cho vợm dặn:
- Mình đem cá này làm cơm mời vua cha. Tôi có việc đi vài ba ngày. Khi nào thấy mưa to gió lớn là tôi về đấy.
Nói xong, rể Cọp chạy ra bờ sông, nhảy tùm xuống nước biến mất.
Hai chàng rể kia thấy vậym hớt hải chạy về báo với vua cha:
- Rể Cọp ngã xuống sông chết rồi.
Vua thương tiếc cọp lắm.
Còn rể Cọp, sau khi xuống nước , chàng trút lốt da trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặc quần áo đẹp, lên ngựa về nhà.
Lúc ấy, trời mưa to gió lớn, sấm chơp đùng đùng. Mọi người thấy một chàng trai da trắng, cưỡi con ngựa từ xa đi lài. Biết là chồng mình, nàng Ba vui mừng chạy ra đón. Bấy giờ mọi người biết đó là Cọp, vô cùng kinh ngạc. Ai cũng trầm trồ ngắm nghía. Riêng hai người chị vừa tức vừa xấu hổ.
Chàng Cọp đón vợ về nhà. Khi hai vợ chồng vừa đến nơi, căn nhà bỗng biến thành một toà nhà nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn, có ao, co nương, co ruộng. Hai vợ chồng Cọp ở khi nhà ấy, ngày ngày cùng nhau làm rương phát rẫy, sống cuộc đời đầm ấm, hạnh phúc. Họ nuôi được nhiều trâu, bò, ngựa, lợn. Đến mùa thì thóc lúa đầy vựa, đầy bồ.
Còn hai cô chị, tuy lấy chồng đẹp nhưng lại là những anh chàng lười nhác, chẳng làm được tích sự gì.