hongbinh
30-07-2012, 12:49 PM
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/1.jpg
01. Thánh Alphongsô Ligôri, Giám mục Tiến sĩ (1696-1787)
Công đồng Vatican II nói rằng Thần học Luân lý (THLL) nên được nuôi dưỡng xuyên suốt bằng Kinh thánh, Công đồng còn cho thấy tính cao quý của ơn gọi Kitô giáo của các tín hữu và trách nhiệm của họ là sinh hoa kết quả trong đức ái đối với cuộc sống trần gian.
Thánh Alphongsô được ĐGH Piô XII tôn vinh là bổn mạng các nhà thần học luân lý năm 1950. Suốt đời ngài đấu tranh cho sự giải phóng của THLL khỏi sự khắt khe của tà thuyết Gian-sen (*). THLL của ngài, được xuất bản 60 lần sau khi ngài qua đời, tập trung vào các vấn đề cụ thể và thực tếcủa các mục tử và các vị giải tội. Nếu một sự tuân thủ luật pháp và tính tối thiểu nào đó luồn lách vào THLL, nó không nên được quy vào kiểu chừng mực và sự nhẹ nhàng này.Tại ĐH Naples, lúc mới 16 tuổi, ngài đã nhận bằng tiến sĩ về Giáo luật và Dân luật, nhưng ngài mau chóng bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài thụ phong linh mục và tận tụy với việc mục vụ, giải tội, và thành lập những nhóm Kitô giáo. Ngài lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Đó là một đoàn thể linh mục và tu sĩ sống đời cộng đoàn, cố gắng noi gương Chúa Kitô, và hoạt động chủ yếu vềcác nhiệm vụ phổ biến dành cho dân nghèo ở các vùng quê. Việc cải cách mục vụ vĩ đại của ngài tòa giảng và tòa giải tội. Ngài có tài viết lách, đi khắp vùng Naples, và rao truyền các nhiệm vụ phổbiến.Ngài được bổ nhiệm giám mục lúc 66 tuổi, dù ngài cố từ chối, và ngài liền cho xây các cơ sở trong khắp giáo phận. Ngài bị khập khiễng và kém thị lực, ký các văn bản và bị lừa.Lúc 71 tuổi, ngài bị thấp khớp không chữa được nên bị vẹo cổ. Ngài chịu suốt 18 tháng về cảnh “đêm tối”, sợ hãi, bị cám dỗ chống lại các bài viết về đức tin và nhân đức, nhưng vẫn có những khoảng sáng và khuây khỏa là những lúc thường xuyên xuất thần.Ngài không chỉ nổi tiếng về THLL, ngài còn viết nhiều về lĩnh vực thần học tâm linh và tín lý. Cuốn Glories of Mary (Vinh quang Mẹ Maria) là một trong các tác phẩm lớn của ngài, và cuốn Visits to the Blessed Sacrament (Viếng Thánh Thể) của ngài được tái bản 40 lần ngay khi ngài còn sống,ảnh hưởng nhiều đến việc thực hành sự tận hiến trong Giáo hội.------------------------------(*) Jansenism: thuyết của Cornelis Jansen, khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủnhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người is không thể tốt lành. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bịảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại một tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họtrong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/2.jpg
02. Thánh Êusêbiô Vercelli, Giám mục (283?-371)Thánh Êusêbiô là người bảo vệ Giáo hội trong lúc khó nguy nhất.Ngài sinh tại đảo Sardinia, là thành viên giáo sĩ Rôma và là giám mục tiên khởi của GP Vercelli ởPiedmont. Ngài cũng là người tiên phong liên kết đời tu với giáo sĩ, thành lập linh mục đoàn giáo phận theo nguyên tắc: “Cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là phải cho giáo dân thấy giáo sĩvững mạnh nhân đức và sống cộng đoàn”.Ngài được ĐGH Libêriô cử đi thuyết phục hoàng đế kêu gọi thành lập hội đồng để giải quyết các vấn đề giữa Công giáo và tà thuyết Arian (*). Khi được cử tới Milan, Thánh Êusêbiô miễn cưỡng đi, ngài cảm thấy khối Arian sẽ có cách riêng, dù người Công giáo đông hơn. Ngài từ chối cùng lên án với thánh Athanasiô (giáo phụ, giám mục Hy Lạp, 293-373); ngài đặt tín điều công đồng Nicê lên bàn và cương quyết rằng phải ký trước khi tiếp tục các vấn đề khác. Hoàng đế ép buộc ngài, nhưng ngài cương quyết là thánh Athanasiô vô tội và nhắc hoàng đế nhớ rằng không được dùng quyền lực thế gian để gây ảnh hưởng quyết định của Giáo hội. Mới đầu hoàng đế dọa giết ngài, nhưng sau lại đày ngài đi Palestine. Có những người theo thuyết Arian kéo ngài đi trên các con đường và nhốt ngài vào một phòng nhỏ, chỉ thả ngài ra sau khi bỏ đói ngài 4 ngày. Không lâu sau ngài được phục chức.Nhưng rồi ngài lại bị tiếp tục đi đày ở Tiểu Á và Ai Cập tới khi hoàng đế mới cho ngài về tòa giám mục ở Vercelli. Ngài tham dự Công đồng Alexandria với thánh Athanasiô và tỏ ra nhân hậu với các giám mục đã bị nao núng. Ngài cũng làm việc với thánh Hilary Poitiers để chống lại tà thuyết Arian. Ngài qua đời an bình tại giáo phận khi tuổi cao sức yếu.------------------------------(*) Arianism: thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ởĐức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là MộtChúa Ba Ngôi.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/3.jpg
03. Thánh Phêrô Julian Eymard, Linh mục (1811-1868)
Ngài sinh tại La Mure d'Isère ởĐông Nam Pháp quốc, hành trình đức tin của ngài đưa ngài từ một linh mục giáo phận Grenoble (1834) gia nhập Dòng Marists (1839 – Dòng Tiểu đệĐức Mẹ do Lm Jean Claude Colin thành lập tại Pháp năm 1817, chuyên việc giáo dục), rồi ngài lập Dòng Thánh Thể(Congregation of the Blessed Sacrament, viết tắt SSS từ Latin là Societas Sanctissimi Sacramenti) năm 1856.Ngài còn đối phó với sự nghèo đói, với việc cha ngài phản đối ơn gọi của ngài, bệnh nặng, sự bành trướng của giáo phái Gian-sen (xem chú thích ở ngày 1-8), những khó khăn của giáo phận, nhưng sau đó được ĐGH phê chuẩn dòng mới của ngài.Những năm ngài là tu sĩ Dòng Tiểu đệĐức Mẹ, ngài thấy đắm mình trong việc sùng kính Thánh Thể, nhất là khi ngài giảng Bốn Mươi Giờở các giáo xứ. Mới đầu ngài được linh hứng bởi tư tưởng phạt tạvì sự lãnh đạm với Thánh Thể, cuối cùng ngài bị thu hút vào tâm linh tích cực hơn đối với tình yêu tập trung vào Chúa Kitô. Các tu sĩ của Dòng Thánh Thể xen kẽ đời sống tông đồ và chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ngài và Marguerite Guillot thành lập Dòng Nữ tỳ Thánh Thể(Congregation of the Servants of the Blessed Sacrament).Lm Phêrô Julian Eymard được phong chân phước năm 1925 và được phong thánh năm 1962, một ngày sau khi kết thúc khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/4.jpg
04. Thánh Gioan Vianney, Linh mục (1786-1859)
Thánh Gioan Vianney là người có cách nhìn vượt qua mọi trở ngại và có những hành vi tưởng chừng như không thể. Ngài khao khát làm linh mục, nhưng ngài phải cố vượt qua sức học yếu kém của mình, không đủ điều kiện vào chủng viện.Ngài không học nổi tiếng Latin nên buộc ngài phải dừng bước. Nhưng mơ ước làm linh mục trong ngài khiến ngài tự tìm thầy dạy riêng. Sau thời gian dài vật lộn với sách vở, ngài được thụ phong linh mục.Những việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. 1815. Tài mọn, học kém, nhưng ngài vẫn được thụphong linh mục năm 1815. Sau 3 năm ở Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars. Khi quản nhiệm xứArs, ngài gặp nhiều người lạnh nhạt và sống khá thoải mái. Ngài muốn giúp họăn chay nghiêm ngặt và ngủ ít ban đêm: Một số quỷ chỉ có thể bị xua đuổi bằng việc cầu nguyện và ăn chay.Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì”?Gioan Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”Và “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò trống là làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội. Cùng với Catherine Lassagne và Benedicta Lardet, ngài lập La Providence (Chúa quan phòng), một nhà dành cho các cô gái. Ngài tín thác Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh thần và thể lý của những người coi nhà “Chúa Quan Phòng” là nhà của mình.Ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn giải hòa người ta với Thiên Chúa. Có những ngày ngài giải tội 11 tới 12 giờ/ngày vào mùa Đông, và 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới việc nghỉhưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”.Ngài sinh tại Dardilly và qua đời tại Ars, Pháp. Ngài được ĐGH Piô X phong chân phước, và đượcĐGH Piô XI phong thánh. Ngài được tôn phong là bổn mạng các linh mục, nhưng nhiều linh mục chưa thực sự noi
gương ngài để trở thành khí cụ như Ý Chúa!
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/5.jpg
05. Cung hiến Đền thờĐức Bà Cả
Trước tiên phải cảm ơn ĐGH Libêriô hồi giữa thế kỷ IV, Đền thờ Libêriô được ĐGH Sixtô III xây dựng ngay sau Công đồng Ephêsô xác nhận tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa năm 431. Lúc đó tái dâng hiến Mẹ Thiên Chúa, Đền thờĐức Bà Cả (St. Mary Major) là đền thờ lớn nhất thế giới được dành để tôn kính Thiên Chúa qua Đức Mẹ.Đền thờĐức Bà Cả là 1 trong 4 đền thờ lớn của Rôma in memory of the first centers of the Church.Đền thờ Thánh Gioan Latêranô là đền thờ tiêu biểu của Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô; Thánh Phaolô Ngoại thành (St. Paul Outside the Walls), Tòa giám mục Alexandria, được coi là tòa giám mục của thánh Máccô; Đền thờ Thánh Phêrô, Tòa giám mục Constantinople; và Đền thờĐức Bà Cả, Tòa giám mục Antiôkia, nơi Đức Mẹ được coi là đã sống phần nhiều cuộc đời.Sau năm 1000, có một truyền thuyết khác: Đức Mẹ Tuyết (Our Lady of the Snows). Theo truyền thuyết này, hai vợ chồng giàu có người Rôma đã dâng tài sản cho Mẹ Thiên Chúa. Để xác quyết,Đức Mẹ đã làm phép lạ tuyết lở và bảo họ xây một nhà thờ ngay tại nơi đó. Truyền thuyết này được kỷ niệm bằng cách làm mưa những cánh hoa hồng trắng từ trên mái đền thờ hàng năm vào ngày 5-8.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/6.jpg
06. Chúa Giêsu biến hình
Cả ba Phúc âm Nhất lãm (Synoptic Gospels) đều thuật lại câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor (Mt 17:1-8; Mc 9:2-9; Lc 9:28-36). Cả ba đều đặt ngay sau lời tuyên tín của thánh Phêrô rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia và lời tiên báo đầu tiên của Chúa Giêsu về cuộc Khổ nạn và cái chết của Ngài. Lòng hăng hái của thánh Phêrô muốn dựng ba lều ngay tại chỗ cho thấy việc Chúa biến hình xảy ra trong trong tuần Lễ Lều (Feast of Tents) của người Do Thái.Thật khó xác định sự trải nghiệm của các tông đồ lúc đó, theo các học giả Kinh thánh, vì các Phúc âm dẫn chứng cách mô tả của Cựu ước về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Sinai và các lời tiên báo của Con Người. Chắc chắn thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã có khái niệm về thiên tính của Chúa Giêsu đủ để không sợ hãi. Sự trải nghiệm như vậy bất chấp mọi cách diễn tả. Chúa Giêsu cảnh báo họrằng vinh quang và đau khổ của Ngài sẽ được liên kết chặt chẽ – chủ đề mà thánh sửGioan làm nổi bật xuyên suốt Phúc âm của ngài.Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã ấn định ngày 6-8 là lễ Chúa Giêsu Biến hình. Giáo hội Đông phương cũng mừng lễ này vào khoảng thời gian đó. Khoảng thế kỷ thứ VIII Giáo hội Tây phương mới mừng lễ này.Ngày 22-7-1456, Thập tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Belgrade. Tin tức chiến thắng đưa vềRôma ngày 6-8, và năm sau ĐGH Callistô III thêm lễ này vào lịch La Mã.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/7.jpg
07. Thánh Cajetan, Linh mục (1480-1557)
Cũng như chúng ta, thánh Cajetan có đời sống “bình thường”. Đầu tiên ngài là luật sư, rồi là linh mục lo việc của giáo triều Rôma (Roman Curia).Cuộc đời ngài có bước ngoặt quan trọng khi ngài gia nhập Hội Hùng biện về Tình Chúa (Oratory of Divine Love) ở Rôma, một nhóm tận hiến sống đạo đức và bác ái, không lâu sau khi ngài thụ phong linh mục lúc 36. Lúc 42 tuổi, ngài mở bệnh viện để chăm sóc các bệnh nhân nay y tại Venice. Tại Vicenza, ngài gia nhập cộng đoàn gồm những người đàn ông thuộc tầng lớp thấp kém và được mọi người chú ý, họ nghĩ hành động của ngài phản ánh gia đình ngài. Ngài tìm kiếm những người bệnh và những người nghèo trong thành phố và phục vụ họ.Nhu cầu lớn nhất lúc đó là cải cách Giáo hội gồm các thành viên “bệnh hoạn về tư tưởng”. Ngài và ba người bạn quyết định rằng tốt nhất để cải cách là phục hồi tinh thần và lòng nhiệt thành của các giáo sĩ. Một trong bốn người sau đó là ĐGH Phaolô IV). Họ cùng nhau lập Dòng Theatines (*). Họ chuyển tới Venice sau khi nhà ở Rôma bị quân đội của vua Charles V tàn phá năm 1527. Các tu sĩ Dòng Theatines nổi bật trong các phong trào cải cách Giáo hội Công giáo trước khi có cải cách của Tin Lành. Ngài thành lập quỹ Monte de Pieta (Núi Sùng Kính) ở Naples – một trong nhiều tổchức từ thiện cho vay tiền không lãi đối với những vật cầm cố. Mục đích của quỹ này là giúp người nghèo và bảo vệ họ khỏi những người cho vay nặng lãi (usurers). Cuối cùng, tổ chức nhỏ bé của thánh Cajetan trở thành Ngân hàng Naples (Bank of Naples), với nhiều thay đổi về chính sách.-------------------------------(*) Tiếng Latin là Teatinus, cư dân vùng Chieti, thuộc Teate Chieti, Ý. Dòng Giáo sĩ Chuẩn mực (Order of Clerks Regular) được thành lập năm 1524 tại Ý, các vị sáng lập dòng này là thánh Cajetan và Gian Pietro Caraffa – các nhà cải cách luân lý Công giáo và đấu tranh với thuyết Lute(Lutheranism).
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/8.jpg
08. Thánh Đa Minh, Linh mục (1170-1221)
Nếu không đi với Đức Giám mục của ngài thì thánh Đa Minh có thể vẫn sống đời chiêm niệm. Sau chuyến đi đó, ngài biến đời sống chiêm niệm thành đời sống hoạt động tông đồ tích cực.Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, được người chú bác là linh mục đào tạo làm linh mục, học mỹthuật và thần học, và trở thành giáo sĩ của nhà thờ chính tòa ở Osma.Trên hành trình với giám mục đi khắp nước Pháp, ngài gặp tà thuyết độc hại Albigensian (*) ởLanguedoc. Những người theo thuyết Albigensian (Cathari, “thanh khiết”) giữ theo 2 quy luật “Thiện và Ác”. Các vấn đề đều là xấu – do đó họ từ chối mầu nhiệm Nhập Thể và các Bí tích. Cùng quy luật đó, họ tránh sinh sản và ăn uống rất ít. Phạm trù nội tâm điều hành những gì phải được gọi là đời sống anh dũng về tính thuần khiết và khổ hạnh không được những người bình thường theo thyết này chia sẻ.Thánh Đa Minh thấy Giáo hội cần chống tà thuyết này, ngài là thành viên Thập tự quân đi rao giảng chống thuyết này. Ngài thấy lý do rang giảng không thành công: dân thường vẫn khâm phục và theo gương khắc khổ của những người theo phái Albigensian. Cũng dễ hiểu khi họ không theo những người rao giảng Công giáo đi ngựa và có tùy tùng, ở những quán trọ sang trọng và có người phục vụ. Thánh Đa Minh với 3 tu sĩ Xitô bắt đầu rao giảng Phúc âm. Ngài tiếp tục cong việc này trong 10 năm, thành công với dân thường nhưng không thành công với các nhà lãnh đạo.Bạn bè đi rao giảng của ngài dần dần thành một cộng đoàn. Năm 1215, ngài lập nhà dòng ở Toulouse, khởi đầu của Dòng Đa Minh (OP, Order of Preachers – Dòng thuyết giáo).Lý tưởng của Thánh Đa Minh, và của Dòng Đa Minh, là sống kết hiệp với Chúa, học tập và cầu nguyện bằng mọi hình thức, đồng thời cứu thoát mọi người bằng Lời Chúa. Lý tưởng của ngài là “contemplata tradere” (“tiếp tục hoa trái của việc chiêm niệm” hoặc “chỉ nói về Thiên Chúa hoặc với Thiên Chúa”).--------------------(*) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ của Manichaeism [Manichaeism: Tôn giáo nhị nguyên (Dualistic religion) thời Trung cổ do Mani thành lập tại Persia hồi thế kỷ thứ 3. Được linh hứng bởi thị kiến thiên thần, Mani thấy mình là người cuối cùng trong số các tiên tri gồm Adam,Đức Phật, Zoroaster (sáng lập Bái hỏa giáo), và Chúa Giêsu] ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ 12 và 13. Thuyết này có đặc tính của thuyết nhị nguyên (dualism – đồng hiện hữu hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác), bị coi là tà thuyết trong thời Inquisition (Tòa án Công giáo La Mã cổ, 1232-1820).
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/9.jpg
09. Thánh Teresa Benedicta Thánh giá, Nữ tu (1891-1942)
Tên cúng cơm của bà là Edith Stein. Bà một triết gia giỏi đã từng không tin vào Thiên Chúa lúc 14 tuổi, nhưng bà đánh động khi đọc tiểu sử thánh nữ Teresa Avila và bắt đầu hành trình tâm linh, rồi bà được rửa tội năm 1922. Năm 1934, bà bắt chước Teresa Avila bằng cách đi tu Dòng Kín, và có tên dòng là Teresa Benedicta Thánh giá.Bà sinh trưởng trong một gia đình Do Thái nổi trội ở Breslau (nay là Wroclaw, Ba Lan), bà bỏ Do Thái giáo (Judaism) hồi còn là thiếu niên. Khi là sinh viên ĐH Göttingen, bà bị thu hút vào hiện tượng học (phenomenology), một phương pháp tiếp cận triết học. Nổi trội khi được Edmund Husserl bảo trợ (Edmund Husserl bảo trợ là nhà hiện tượng học hàng đầu), bà có bằng tiến sĩ triết năm 1916. Bà tiếp tục là giáo sư đại học tới năm 1922 thì bà chuyển sang trường Đa Minh ở Speyer, bà được bổ nhiệm làm giảng sư tại Viện Giáo dục Munich cho tới khi bị áp lực của Đức quốc xã (Nazis).Sau khi sống ở Cologne Carmel (1934-1938), bà chuyển sang Dòng Kín ở Echt, Hà Lan. Đức quốc xả chiếm giữ đất nước năm 1940. Khi trả thù vì bị các giám mục Hà Lan tố giác, Đức quốc xã bắt tất cả những người Do Thái gốc Hà Lan theo Kitô giáo. Teresa Benedicta và người chị em Rosa, cũng theo Công giáo, chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9-8-1942.Chân phước Giáo hội Gioan Phaolô II phong chân phước cho bà năm 1987 và bà được phong thánh năm 1998.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/10.jpg
10. Thánh Lawrence, Phó tế Tử đạo (qua đời năm 258?)
Ngài là phó tếở Rôma, triều đại ĐGH Sixtô II. Bốn ngày sau khi vị giáo hoàng này chịu tử đạo, thánh Lawrence và 4 giáo sĩ khác cũng chịu tử đạo, có thể trong thời bách hại của hoàng đếValerian.Là phó tếở Rôma, thánh Lawrence có trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo hội và phân phát cho người nghèo. Ngài biết mình sẽ bị bắt như giáo hoàng nên ngài tìm những người nghèo, góa phụ và trẻ mồ côi ở Rôma để cho họ tiền ngài đang có, thậm chí ngài bán cả các chén thánh.Sau 3 ngày, ngài quy tụ rất nhiều người mù, người tàn tật, người cùi, trẻ mồ côi, và những người quá bụa. Ngài nói: “Đây là kho tàng của Giáo hội”. Sau đó ngài bị bắt và bị nướng. Chịu đau đớn lâu, ngài nói một câu nổi tiếng: “Bên này chín rồi, lật qua bên kia và ăn đi!”. Giáo hội xây một đền thờ dâng kính ngài, và là một trong bảy đền thờở Rôma được hành hương nhiều nhất.
01. Thánh Alphongsô Ligôri, Giám mục Tiến sĩ (1696-1787)
Công đồng Vatican II nói rằng Thần học Luân lý (THLL) nên được nuôi dưỡng xuyên suốt bằng Kinh thánh, Công đồng còn cho thấy tính cao quý của ơn gọi Kitô giáo của các tín hữu và trách nhiệm của họ là sinh hoa kết quả trong đức ái đối với cuộc sống trần gian.
Thánh Alphongsô được ĐGH Piô XII tôn vinh là bổn mạng các nhà thần học luân lý năm 1950. Suốt đời ngài đấu tranh cho sự giải phóng của THLL khỏi sự khắt khe của tà thuyết Gian-sen (*). THLL của ngài, được xuất bản 60 lần sau khi ngài qua đời, tập trung vào các vấn đề cụ thể và thực tếcủa các mục tử và các vị giải tội. Nếu một sự tuân thủ luật pháp và tính tối thiểu nào đó luồn lách vào THLL, nó không nên được quy vào kiểu chừng mực và sự nhẹ nhàng này.Tại ĐH Naples, lúc mới 16 tuổi, ngài đã nhận bằng tiến sĩ về Giáo luật và Dân luật, nhưng ngài mau chóng bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài thụ phong linh mục và tận tụy với việc mục vụ, giải tội, và thành lập những nhóm Kitô giáo. Ngài lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Đó là một đoàn thể linh mục và tu sĩ sống đời cộng đoàn, cố gắng noi gương Chúa Kitô, và hoạt động chủ yếu vềcác nhiệm vụ phổ biến dành cho dân nghèo ở các vùng quê. Việc cải cách mục vụ vĩ đại của ngài tòa giảng và tòa giải tội. Ngài có tài viết lách, đi khắp vùng Naples, và rao truyền các nhiệm vụ phổbiến.Ngài được bổ nhiệm giám mục lúc 66 tuổi, dù ngài cố từ chối, và ngài liền cho xây các cơ sở trong khắp giáo phận. Ngài bị khập khiễng và kém thị lực, ký các văn bản và bị lừa.Lúc 71 tuổi, ngài bị thấp khớp không chữa được nên bị vẹo cổ. Ngài chịu suốt 18 tháng về cảnh “đêm tối”, sợ hãi, bị cám dỗ chống lại các bài viết về đức tin và nhân đức, nhưng vẫn có những khoảng sáng và khuây khỏa là những lúc thường xuyên xuất thần.Ngài không chỉ nổi tiếng về THLL, ngài còn viết nhiều về lĩnh vực thần học tâm linh và tín lý. Cuốn Glories of Mary (Vinh quang Mẹ Maria) là một trong các tác phẩm lớn của ngài, và cuốn Visits to the Blessed Sacrament (Viếng Thánh Thể) của ngài được tái bản 40 lần ngay khi ngài còn sống,ảnh hưởng nhiều đến việc thực hành sự tận hiến trong Giáo hội.------------------------------(*) Jansenism: thuyết của Cornelis Jansen, khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủnhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người is không thể tốt lành. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bịảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại một tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họtrong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/2.jpg
02. Thánh Êusêbiô Vercelli, Giám mục (283?-371)Thánh Êusêbiô là người bảo vệ Giáo hội trong lúc khó nguy nhất.Ngài sinh tại đảo Sardinia, là thành viên giáo sĩ Rôma và là giám mục tiên khởi của GP Vercelli ởPiedmont. Ngài cũng là người tiên phong liên kết đời tu với giáo sĩ, thành lập linh mục đoàn giáo phận theo nguyên tắc: “Cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là phải cho giáo dân thấy giáo sĩvững mạnh nhân đức và sống cộng đoàn”.Ngài được ĐGH Libêriô cử đi thuyết phục hoàng đế kêu gọi thành lập hội đồng để giải quyết các vấn đề giữa Công giáo và tà thuyết Arian (*). Khi được cử tới Milan, Thánh Êusêbiô miễn cưỡng đi, ngài cảm thấy khối Arian sẽ có cách riêng, dù người Công giáo đông hơn. Ngài từ chối cùng lên án với thánh Athanasiô (giáo phụ, giám mục Hy Lạp, 293-373); ngài đặt tín điều công đồng Nicê lên bàn và cương quyết rằng phải ký trước khi tiếp tục các vấn đề khác. Hoàng đế ép buộc ngài, nhưng ngài cương quyết là thánh Athanasiô vô tội và nhắc hoàng đế nhớ rằng không được dùng quyền lực thế gian để gây ảnh hưởng quyết định của Giáo hội. Mới đầu hoàng đế dọa giết ngài, nhưng sau lại đày ngài đi Palestine. Có những người theo thuyết Arian kéo ngài đi trên các con đường và nhốt ngài vào một phòng nhỏ, chỉ thả ngài ra sau khi bỏ đói ngài 4 ngày. Không lâu sau ngài được phục chức.Nhưng rồi ngài lại bị tiếp tục đi đày ở Tiểu Á và Ai Cập tới khi hoàng đế mới cho ngài về tòa giám mục ở Vercelli. Ngài tham dự Công đồng Alexandria với thánh Athanasiô và tỏ ra nhân hậu với các giám mục đã bị nao núng. Ngài cũng làm việc với thánh Hilary Poitiers để chống lại tà thuyết Arian. Ngài qua đời an bình tại giáo phận khi tuổi cao sức yếu.------------------------------(*) Arianism: thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ởĐức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là MộtChúa Ba Ngôi.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/3.jpg
03. Thánh Phêrô Julian Eymard, Linh mục (1811-1868)
Ngài sinh tại La Mure d'Isère ởĐông Nam Pháp quốc, hành trình đức tin của ngài đưa ngài từ một linh mục giáo phận Grenoble (1834) gia nhập Dòng Marists (1839 – Dòng Tiểu đệĐức Mẹ do Lm Jean Claude Colin thành lập tại Pháp năm 1817, chuyên việc giáo dục), rồi ngài lập Dòng Thánh Thể(Congregation of the Blessed Sacrament, viết tắt SSS từ Latin là Societas Sanctissimi Sacramenti) năm 1856.Ngài còn đối phó với sự nghèo đói, với việc cha ngài phản đối ơn gọi của ngài, bệnh nặng, sự bành trướng của giáo phái Gian-sen (xem chú thích ở ngày 1-8), những khó khăn của giáo phận, nhưng sau đó được ĐGH phê chuẩn dòng mới của ngài.Những năm ngài là tu sĩ Dòng Tiểu đệĐức Mẹ, ngài thấy đắm mình trong việc sùng kính Thánh Thể, nhất là khi ngài giảng Bốn Mươi Giờở các giáo xứ. Mới đầu ngài được linh hứng bởi tư tưởng phạt tạvì sự lãnh đạm với Thánh Thể, cuối cùng ngài bị thu hút vào tâm linh tích cực hơn đối với tình yêu tập trung vào Chúa Kitô. Các tu sĩ của Dòng Thánh Thể xen kẽ đời sống tông đồ và chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ngài và Marguerite Guillot thành lập Dòng Nữ tỳ Thánh Thể(Congregation of the Servants of the Blessed Sacrament).Lm Phêrô Julian Eymard được phong chân phước năm 1925 và được phong thánh năm 1962, một ngày sau khi kết thúc khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/4.jpg
04. Thánh Gioan Vianney, Linh mục (1786-1859)
Thánh Gioan Vianney là người có cách nhìn vượt qua mọi trở ngại và có những hành vi tưởng chừng như không thể. Ngài khao khát làm linh mục, nhưng ngài phải cố vượt qua sức học yếu kém của mình, không đủ điều kiện vào chủng viện.Ngài không học nổi tiếng Latin nên buộc ngài phải dừng bước. Nhưng mơ ước làm linh mục trong ngài khiến ngài tự tìm thầy dạy riêng. Sau thời gian dài vật lộn với sách vở, ngài được thụ phong linh mục.Những việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. 1815. Tài mọn, học kém, nhưng ngài vẫn được thụphong linh mục năm 1815. Sau 3 năm ở Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars. Khi quản nhiệm xứArs, ngài gặp nhiều người lạnh nhạt và sống khá thoải mái. Ngài muốn giúp họăn chay nghiêm ngặt và ngủ ít ban đêm: Một số quỷ chỉ có thể bị xua đuổi bằng việc cầu nguyện và ăn chay.Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì”?Gioan Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”Và “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò trống là làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội. Cùng với Catherine Lassagne và Benedicta Lardet, ngài lập La Providence (Chúa quan phòng), một nhà dành cho các cô gái. Ngài tín thác Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh thần và thể lý của những người coi nhà “Chúa Quan Phòng” là nhà của mình.Ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn giải hòa người ta với Thiên Chúa. Có những ngày ngài giải tội 11 tới 12 giờ/ngày vào mùa Đông, và 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới việc nghỉhưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”.Ngài sinh tại Dardilly và qua đời tại Ars, Pháp. Ngài được ĐGH Piô X phong chân phước, và đượcĐGH Piô XI phong thánh. Ngài được tôn phong là bổn mạng các linh mục, nhưng nhiều linh mục chưa thực sự noi
gương ngài để trở thành khí cụ như Ý Chúa!
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/5.jpg
05. Cung hiến Đền thờĐức Bà Cả
Trước tiên phải cảm ơn ĐGH Libêriô hồi giữa thế kỷ IV, Đền thờ Libêriô được ĐGH Sixtô III xây dựng ngay sau Công đồng Ephêsô xác nhận tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa năm 431. Lúc đó tái dâng hiến Mẹ Thiên Chúa, Đền thờĐức Bà Cả (St. Mary Major) là đền thờ lớn nhất thế giới được dành để tôn kính Thiên Chúa qua Đức Mẹ.Đền thờĐức Bà Cả là 1 trong 4 đền thờ lớn của Rôma in memory of the first centers of the Church.Đền thờ Thánh Gioan Latêranô là đền thờ tiêu biểu của Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô; Thánh Phaolô Ngoại thành (St. Paul Outside the Walls), Tòa giám mục Alexandria, được coi là tòa giám mục của thánh Máccô; Đền thờ Thánh Phêrô, Tòa giám mục Constantinople; và Đền thờĐức Bà Cả, Tòa giám mục Antiôkia, nơi Đức Mẹ được coi là đã sống phần nhiều cuộc đời.Sau năm 1000, có một truyền thuyết khác: Đức Mẹ Tuyết (Our Lady of the Snows). Theo truyền thuyết này, hai vợ chồng giàu có người Rôma đã dâng tài sản cho Mẹ Thiên Chúa. Để xác quyết,Đức Mẹ đã làm phép lạ tuyết lở và bảo họ xây một nhà thờ ngay tại nơi đó. Truyền thuyết này được kỷ niệm bằng cách làm mưa những cánh hoa hồng trắng từ trên mái đền thờ hàng năm vào ngày 5-8.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/6.jpg
06. Chúa Giêsu biến hình
Cả ba Phúc âm Nhất lãm (Synoptic Gospels) đều thuật lại câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor (Mt 17:1-8; Mc 9:2-9; Lc 9:28-36). Cả ba đều đặt ngay sau lời tuyên tín của thánh Phêrô rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia và lời tiên báo đầu tiên của Chúa Giêsu về cuộc Khổ nạn và cái chết của Ngài. Lòng hăng hái của thánh Phêrô muốn dựng ba lều ngay tại chỗ cho thấy việc Chúa biến hình xảy ra trong trong tuần Lễ Lều (Feast of Tents) của người Do Thái.Thật khó xác định sự trải nghiệm của các tông đồ lúc đó, theo các học giả Kinh thánh, vì các Phúc âm dẫn chứng cách mô tả của Cựu ước về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Sinai và các lời tiên báo của Con Người. Chắc chắn thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã có khái niệm về thiên tính của Chúa Giêsu đủ để không sợ hãi. Sự trải nghiệm như vậy bất chấp mọi cách diễn tả. Chúa Giêsu cảnh báo họrằng vinh quang và đau khổ của Ngài sẽ được liên kết chặt chẽ – chủ đề mà thánh sửGioan làm nổi bật xuyên suốt Phúc âm của ngài.Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã ấn định ngày 6-8 là lễ Chúa Giêsu Biến hình. Giáo hội Đông phương cũng mừng lễ này vào khoảng thời gian đó. Khoảng thế kỷ thứ VIII Giáo hội Tây phương mới mừng lễ này.Ngày 22-7-1456, Thập tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Belgrade. Tin tức chiến thắng đưa vềRôma ngày 6-8, và năm sau ĐGH Callistô III thêm lễ này vào lịch La Mã.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/7.jpg
07. Thánh Cajetan, Linh mục (1480-1557)
Cũng như chúng ta, thánh Cajetan có đời sống “bình thường”. Đầu tiên ngài là luật sư, rồi là linh mục lo việc của giáo triều Rôma (Roman Curia).Cuộc đời ngài có bước ngoặt quan trọng khi ngài gia nhập Hội Hùng biện về Tình Chúa (Oratory of Divine Love) ở Rôma, một nhóm tận hiến sống đạo đức và bác ái, không lâu sau khi ngài thụ phong linh mục lúc 36. Lúc 42 tuổi, ngài mở bệnh viện để chăm sóc các bệnh nhân nay y tại Venice. Tại Vicenza, ngài gia nhập cộng đoàn gồm những người đàn ông thuộc tầng lớp thấp kém và được mọi người chú ý, họ nghĩ hành động của ngài phản ánh gia đình ngài. Ngài tìm kiếm những người bệnh và những người nghèo trong thành phố và phục vụ họ.Nhu cầu lớn nhất lúc đó là cải cách Giáo hội gồm các thành viên “bệnh hoạn về tư tưởng”. Ngài và ba người bạn quyết định rằng tốt nhất để cải cách là phục hồi tinh thần và lòng nhiệt thành của các giáo sĩ. Một trong bốn người sau đó là ĐGH Phaolô IV). Họ cùng nhau lập Dòng Theatines (*). Họ chuyển tới Venice sau khi nhà ở Rôma bị quân đội của vua Charles V tàn phá năm 1527. Các tu sĩ Dòng Theatines nổi bật trong các phong trào cải cách Giáo hội Công giáo trước khi có cải cách của Tin Lành. Ngài thành lập quỹ Monte de Pieta (Núi Sùng Kính) ở Naples – một trong nhiều tổchức từ thiện cho vay tiền không lãi đối với những vật cầm cố. Mục đích của quỹ này là giúp người nghèo và bảo vệ họ khỏi những người cho vay nặng lãi (usurers). Cuối cùng, tổ chức nhỏ bé của thánh Cajetan trở thành Ngân hàng Naples (Bank of Naples), với nhiều thay đổi về chính sách.-------------------------------(*) Tiếng Latin là Teatinus, cư dân vùng Chieti, thuộc Teate Chieti, Ý. Dòng Giáo sĩ Chuẩn mực (Order of Clerks Regular) được thành lập năm 1524 tại Ý, các vị sáng lập dòng này là thánh Cajetan và Gian Pietro Caraffa – các nhà cải cách luân lý Công giáo và đấu tranh với thuyết Lute(Lutheranism).
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/8.jpg
08. Thánh Đa Minh, Linh mục (1170-1221)
Nếu không đi với Đức Giám mục của ngài thì thánh Đa Minh có thể vẫn sống đời chiêm niệm. Sau chuyến đi đó, ngài biến đời sống chiêm niệm thành đời sống hoạt động tông đồ tích cực.Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, được người chú bác là linh mục đào tạo làm linh mục, học mỹthuật và thần học, và trở thành giáo sĩ của nhà thờ chính tòa ở Osma.Trên hành trình với giám mục đi khắp nước Pháp, ngài gặp tà thuyết độc hại Albigensian (*) ởLanguedoc. Những người theo thuyết Albigensian (Cathari, “thanh khiết”) giữ theo 2 quy luật “Thiện và Ác”. Các vấn đề đều là xấu – do đó họ từ chối mầu nhiệm Nhập Thể và các Bí tích. Cùng quy luật đó, họ tránh sinh sản và ăn uống rất ít. Phạm trù nội tâm điều hành những gì phải được gọi là đời sống anh dũng về tính thuần khiết và khổ hạnh không được những người bình thường theo thyết này chia sẻ.Thánh Đa Minh thấy Giáo hội cần chống tà thuyết này, ngài là thành viên Thập tự quân đi rao giảng chống thuyết này. Ngài thấy lý do rang giảng không thành công: dân thường vẫn khâm phục và theo gương khắc khổ của những người theo phái Albigensian. Cũng dễ hiểu khi họ không theo những người rao giảng Công giáo đi ngựa và có tùy tùng, ở những quán trọ sang trọng và có người phục vụ. Thánh Đa Minh với 3 tu sĩ Xitô bắt đầu rao giảng Phúc âm. Ngài tiếp tục cong việc này trong 10 năm, thành công với dân thường nhưng không thành công với các nhà lãnh đạo.Bạn bè đi rao giảng của ngài dần dần thành một cộng đoàn. Năm 1215, ngài lập nhà dòng ở Toulouse, khởi đầu của Dòng Đa Minh (OP, Order of Preachers – Dòng thuyết giáo).Lý tưởng của Thánh Đa Minh, và của Dòng Đa Minh, là sống kết hiệp với Chúa, học tập và cầu nguyện bằng mọi hình thức, đồng thời cứu thoát mọi người bằng Lời Chúa. Lý tưởng của ngài là “contemplata tradere” (“tiếp tục hoa trái của việc chiêm niệm” hoặc “chỉ nói về Thiên Chúa hoặc với Thiên Chúa”).--------------------(*) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ của Manichaeism [Manichaeism: Tôn giáo nhị nguyên (Dualistic religion) thời Trung cổ do Mani thành lập tại Persia hồi thế kỷ thứ 3. Được linh hứng bởi thị kiến thiên thần, Mani thấy mình là người cuối cùng trong số các tiên tri gồm Adam,Đức Phật, Zoroaster (sáng lập Bái hỏa giáo), và Chúa Giêsu] ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ 12 và 13. Thuyết này có đặc tính của thuyết nhị nguyên (dualism – đồng hiện hữu hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác), bị coi là tà thuyết trong thời Inquisition (Tòa án Công giáo La Mã cổ, 1232-1820).
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/9.jpg
09. Thánh Teresa Benedicta Thánh giá, Nữ tu (1891-1942)
Tên cúng cơm của bà là Edith Stein. Bà một triết gia giỏi đã từng không tin vào Thiên Chúa lúc 14 tuổi, nhưng bà đánh động khi đọc tiểu sử thánh nữ Teresa Avila và bắt đầu hành trình tâm linh, rồi bà được rửa tội năm 1922. Năm 1934, bà bắt chước Teresa Avila bằng cách đi tu Dòng Kín, và có tên dòng là Teresa Benedicta Thánh giá.Bà sinh trưởng trong một gia đình Do Thái nổi trội ở Breslau (nay là Wroclaw, Ba Lan), bà bỏ Do Thái giáo (Judaism) hồi còn là thiếu niên. Khi là sinh viên ĐH Göttingen, bà bị thu hút vào hiện tượng học (phenomenology), một phương pháp tiếp cận triết học. Nổi trội khi được Edmund Husserl bảo trợ (Edmund Husserl bảo trợ là nhà hiện tượng học hàng đầu), bà có bằng tiến sĩ triết năm 1916. Bà tiếp tục là giáo sư đại học tới năm 1922 thì bà chuyển sang trường Đa Minh ở Speyer, bà được bổ nhiệm làm giảng sư tại Viện Giáo dục Munich cho tới khi bị áp lực của Đức quốc xã (Nazis).Sau khi sống ở Cologne Carmel (1934-1938), bà chuyển sang Dòng Kín ở Echt, Hà Lan. Đức quốc xả chiếm giữ đất nước năm 1940. Khi trả thù vì bị các giám mục Hà Lan tố giác, Đức quốc xã bắt tất cả những người Do Thái gốc Hà Lan theo Kitô giáo. Teresa Benedicta và người chị em Rosa, cũng theo Công giáo, chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9-8-1942.Chân phước Giáo hội Gioan Phaolô II phong chân phước cho bà năm 1987 và bà được phong thánh năm 1998.
http://gxthohoang.net/images/hinh/h/10.jpg
10. Thánh Lawrence, Phó tế Tử đạo (qua đời năm 258?)
Ngài là phó tếở Rôma, triều đại ĐGH Sixtô II. Bốn ngày sau khi vị giáo hoàng này chịu tử đạo, thánh Lawrence và 4 giáo sĩ khác cũng chịu tử đạo, có thể trong thời bách hại của hoàng đếValerian.Là phó tếở Rôma, thánh Lawrence có trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo hội và phân phát cho người nghèo. Ngài biết mình sẽ bị bắt như giáo hoàng nên ngài tìm những người nghèo, góa phụ và trẻ mồ côi ở Rôma để cho họ tiền ngài đang có, thậm chí ngài bán cả các chén thánh.Sau 3 ngày, ngài quy tụ rất nhiều người mù, người tàn tật, người cùi, trẻ mồ côi, và những người quá bụa. Ngài nói: “Đây là kho tàng của Giáo hội”. Sau đó ngài bị bắt và bị nướng. Chịu đau đớn lâu, ngài nói một câu nổi tiếng: “Bên này chín rồi, lật qua bên kia và ăn đi!”. Giáo hội xây một đền thờ dâng kính ngài, và là một trong bảy đền thờở Rôma được hành hương nhiều nhất.