PDA

View Full Version : TRUYỆN CÁC THÁNH - phần bổ sung



Pages : [1] 2

augustino.nghia
01-08-2012, 05:12 PM
TRUYỆN CÁC THÁNH
(phần bổ sung)



Trước đây, do số tài liệu có trong tay quá hiếm hoi nên Nghĩa Già chỉ có thể chia sẻ với các em và các bạn một ít mẩu chuyện các Thánh của Thiên Chúa. Nay đã sưu tầm được hầu như gần đủ hết chư Thánh và Chân phước còn thiếu trong năm, giờ xin lại được chia sẻ tiếp với cả Nhà…
Dĩ nhiên trong quá trình chép lại không tránh khỏi những thiếu sót không đáng có, rất mong mọi người thể tất cho. Chân thành cám ơn.

Xin Thiên Chúa là Cha Toàn năng, qua lời bầu cử của chư vị thánh nhân nam nữ của Người, ban muôn phúc lành cho Gia đình chúng ta.



------------------------------------------------





Ngày 03 tháng Giêng
THÁNH GIƠ-NOA


Thánh nữ Giơ-noa sinh vào khoảng năm 422 tại Nantê, một ngôi làng nhỏ cách thành phố Pari khoảng bốn dặm. Khi còn rất trẻ, thánh Giơ-noa đã mơ ước dâng hiến đời mình cho Đức Chúa Giêsu. Sau khi cha mẹ qua đời, Giơ-noa trẩy đến sống với bà ngoại. Hàng ngày, thánh nữ dành thời giờ để cầu nguyện. Ngài sống rất gần gũi mật thiết với Đức Chúa Giêsu và muốn giới thiệu sự tốt lành của Chúa cho mọi người. Thánh nữ Giơ-noa có tấm lòng khoan dung rộng lượng. Ngài đã cố gắng hết sức mình để làm những việc tốt cho tha nhân.
Khi người dân Pari sắp phải chạy trốn khỏi địch quân khủng khiếp đến tấn công họ, thánh nữ liền tiến lên phía trước. Ngài phấn khích dân thành hãy tin cậy vào Chúa. Ngài nói rằng nếu họ ăn năn sám hối, họ sẽ được thứ tha. Dân thành đã làm theo lời Giơ-noa nói và đột nhiên quân giặc Hung Nô hung hãn đã không tấn công thành phố nữa. Không chỉ trong những khi cần thiết mà suốt cả cuộc đời, thánh nữ Giơ-noa đã thực thi lòng yêu mến và tuân phục đối với ý muốn của Thiên Chúa. Và ngài luôn luôn cố gắng bồi đắp cho hoàn hảo hơn lên mãi. Can đảm và trung thành với Chúa Giêsu là những tặng ân đặc biệt trong chứng từ thánh nữ Giơ-noa để lại cho mỗi người chúng ta.


Một trong những cách thế tối hảo để giúp đỡ quê hương đất nước là cầu nguyện cho các vị lãnh đạo. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa hướng dẫn họ vì thiện ích chung của tất cả mọi người.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”
của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-08-2012, 08:24 PM
Ngày 06 tháng Giêng


CHÂN PHƯỚC ANRÊ BESSET



Alfred Besset sinh ngày 09/8/1845 gần Montrieux nước Canada. Ngài là con thứ tám trong gia đình có mười hai người con. Khi Alfred lên 9, cha của ngài, làm nghề đốn củi, đã chết vì tai nạn nghề nghiệp. Ba năm sau, mẹ của Alfred cũng mất vì chứng bệnh lao phổi, để lại đàn con mồ côi. Bọn trẻ được gởi vào các gia đình khác nhau. Alfred thì đến sống với cô chú của mình.
Vì gia đình quá nghèo và bản thân lại hay đau bệnh nên Alfred chỉ được hấp thụ một nền học vấn ít ỏi. Bởi vậy, năm lên 13, Alfred phải cố gắng học lấy nhiều nghề khác nhau như làm ruộng, đóng giày và nướng bánh. Thậm chí Alfred cũng làm việc trong một nhà máy ở Connecsien. Nhưng tình trạng sức khỏe luôn làm cho Alfred phải bỏ lỡ công việc.
Khi lên 25, Alfred gia nhập dòng Thánh Giá và đổi tên là “thầy Anrê”. Thầy Anrê đã trải qua 40 năm làm công tác quản thư và đưa tin. Những năm còn lại, Anrê làm người gác cổng cho học viện của dòng. Ở đây, năng lực chữa lành bệnh tật của thầy Anrê trở nên danh tiếng. Khi người ta tuôn đến xin thầy chữa trị, thầy nói với họ rằng trước tiên hãy cảm tạ Thiên Chúa vì được phúc chịu đau khổ bởi lẽ việc này rất hữu ích. Rồi thầy cùng với họ cầu nguyện. Hầu hết người ta đều được lành bệnh. Thầy Anrê luôn khước từ những tiếng khen hoặc danh dự người ta dành tặng ngài. Anrê luôn luôn khẳng định rằng đó là do lòng tin của họ và do quyền phép của thánh cả Giuse.
Thầy Anrê Besset có một tình yêu bao la vĩ đại đối với Bí tích Thánh Thể và thánh cả Giuse. Lúc còn trẻ, Anrê nằm mơ thấy một ngôi thánh đường lớn nhưng không biết nó ở nơi nào. Rồi dần dần, Anrê nhận thấy Thiên Chúa muốn có một ngôi thánh đường để tôn vinh thánh cả Giuse ; và ngôi thánh đường đó phải được xây cất trên đỉnh ngọn núi Royal ở Montrieux, Canada. Lời cầu nguyện và những hy sinh của thầy Anrê và của nhiều người khác đã làm cho giấc mộng ngày nào biến thành sự thật. Ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ tôn kính thánh cả Giuse được xây cất. Đó là lời xác nhận hùng hồn về lòng tin tưởng phi thường của thầy Anrê. Khách hành hương từ các nơi xa xôi kéo đến quanh năm. Họ muốn tôn kính thánh cả Giuse. Họ muốn biểu lộ lòng tin tưởng vào sự bảo dưỡng yêu thương của thánh cả như thầy Anrê đã thể hiện.
Thầy Anrê Besset qua đời an bình ngày 06/01/1937. Gần nửa triệu người đã lũ lượt kéo nhau lên ngọn núi Royal, đến nguyện đường thánh Giuse để dự đám tang của thầy dù cho những cơn mưa tuyết trút xuống dữ dội. Họ đến để nói lên lời từ biệt đối với người bạn quá cố của họ.
Thầy Anrê Besset được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân phước ngày 23/05/1982.

Như thầy Anrê Besset, chúng ta cũng có thể có được những chứng tích về sự phù trợ của thánh cả Giuse. Chân phước Anrê Besset và thánh cả Giuse sẽ giúp chúng ta biết cách trở nên những người bạn tốt của Đức Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy năng cầu xin các ngài trợ giúp.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”
của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-08-2012, 03:41 PM
Ngày 07 tháng Giêng


THÁNH RÂYMUNĐÔ PENYAPHO



Thánh Râymunđô Penyapho được sinh vào khoảng giữa những năm 1175 – 1180 trong một thị trấn nhỏ gần Barcelona, Tây Ban Nha. Ngài được học hành tại trường của nhà thờ chính tòa Barcelona, và sau đó trở thành linh mục. Râymunđô tốt nghiệp trường luật ở Bologna, nước Ý và trở nên một thầy dạy danh tiếng.
Năm 1218, Râymunđô Penyapho gia nhập dòng Đa Minh. Năm 1230, Đức Thánh cha Gregorio IX cho triệu vời vị linh mục đặc biệt này đến Roma. Khi Râymunđô đến, Đức Thánh cha liền trao cho ngài nhiều công việc. Một trong những công việc đó là sưu tầm tất cả những lá thư chính thức của các Đức Giáo Hoàng kể từ năm 1150. Râymunđô đã thu thập và xuất bản tất cả thành 5 tập. Ngài cũng tham gia vào công việc soạn thảo bộ Giáo Luật.
Năm 1238, thánh Râymunđô Penyapho được chọn làm bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh. Với sự tinh thông luật lệ, thánh nhân đã nghiên cứu lại luật dòng và đoan chắc là mọi điều luật đều am hợp với luật Giáo hội. Sau khi hoàn tất công việc, thánh nhân xin từ chức vào năm 1240. Giờ đây, Râymunđô thực sự có thể cống hiến phần đời còn lại của mình cho việc mục vụ xứ đạo. Đó là điều Râymunđô vẫn hằng mơ ước.
Đức Thánh cha có ý đặt Râymunđô Penyapho làm tổng giám mục nhưng Râymunđô đã từ chối. Ngài xin trở về Tây Ban Nha và đã được mãn nguyện. Ngài vui mừng khôn tả khi lại tiếp tục phục vụ xứ đạo. Lòng cảm thương trắc ẩn của Râymunđô đã giúp cho nhiều người trở về với Thiên Chúa qua Bí tích Hòa Giải.
Trong suốt những năm sống tại Roma, Râymunđô thường xuyên nghe biết những chuyện khó khăn mà các nhà truyền giáo đang gặp phải. Họ đang cố gắng vươn tới với những người không thuộc Kitô Giáo ở Bắc Phi và Tây Ban Nha. Để giúp đỡ các nhà truyền giáo, Râymunđô Penyapho đã mở một trường dạy ngôn ngữ và văn hóa của những đối tượng sẽ được rao giảng Tin mừng cho. Hơn nữa, cha Râymunđô còn xin thánh Tôma Aquinô, vị tu sĩ danh tiếng thuộc dòng Đa Minh, viết một cuốn sách nhỏ. Cuốn sách này giải thích những chân lý đức tin cách giản dị mà ai ai cũng có thể hiểu được.

Thánh Râymunđô Penyapho sống thọ gần 100 tuổi. Ngài qua đời tại Barcelona vào ngày 06/01/1275, và được Đức Thánh cha Clêmentê VIII tôn phong hiển thánh năm 1601. Vị Giáo hoàng này đã công nhận Râymunđô Penyapho là bổn mạng của những luật gia trong Giáo hội vì ảnh hưởng lớn lao của ngài trên luật Giáo hội.

Trong cuộc đời, thánh Râymunđô Penyapho đã không thể làm được nhiều việc như thế nếu không có lòng yêu mến Đức Mẹ và sự chăm chỉ cầu nguyện. Khi làm công việc gì, chúng ta cũng hãy tưởng nhớ đến Mẹ và xin Người giúp đỡ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-08-2012, 06:48 PM
Ngày 08 tháng Giêng


THÁNH TÔPHIN



Người ta đã chỉ tìm ra những chi tiết về cuộc đời của thánh Tôphin rất lâu sau khi ngài qua đời.
Tôphin mất năm 1285 trong một đan viện ở nước Bỉ. 50 năm sau, trong lúc xây dựng người ta đột nhiên cải ngôi mộ của ngài lên. Mọi người đều phải ngạc nhiên vì mùi thơm ngào ngạt dễ chịu bốc ra từ cỗ quan tài của Tôphin. Đức Viện phụ bắt đầu điều tra sự việc. Ngài tìm đan sĩ cao tuổi tên là Walter Muđa, vị này là người còn nhớ về Tôphin. Thực ra, cha Walter đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi đức tính tốt lành hiền hòa và lòng cương nghị vững vàng của Tôphin nên cha đã sáng tác một bài thơ về ngài. Walter đã đặt bài thơ viết về Tôphin trên ngôi mộ. Các đan sĩ đến tìm xem bài thơ. Và họ đã thấy tấm giấy da vẫn còn mới nguyên như ngày người ta đặt nó ở đó.
Các đan sĩ linh cảm rằng đây là dấu hiệu Thiên Chúa muốn cho Tôphin được kính nhớ. Rồi người ta cầu nguyện với ngài và các phép lạ lần lượt xảy ra. Họ đã xin cha Walter viết lại bất cứ những gì cha có thể nhớ về Tôphin. Và cha Walter viết rằng Tôphin quê ở Na Uy. Khi làm linh mục, có lẽ Tôphin đã phục vụ tại nhà thờ chính tòa. Hình như Tôphin đã ký kết một chứng từ quan trọng lúc ở đây. Ngài đã là nhân chứng cho “bản hợp đồng Tônsbơ” năm 1277, bản hợp đồng giữa Đại đế VI và đức Tổng Giám mục ký kết trả tự do cho Giáo hội khỏi quyền kiểm soát của nhà nước. Nhưng vài năm sau đó, vua Eric phế bỏ bản hợp đồng. Ông quay ra chống đối đức Tổng Giám mục và những người ủng hộ ngài. Đức Tổng Giám mục bị đuổi đi cùng với Tôphin, lúc ấy là giám mục giáo phận Hamar, Na Uy.
Tôphin khởi sự cuộc hành trình gian khổ tới Flander. Thậm chí ngài đã bị đắm tàu trong chuyến đi. Sau cùng, Tôphin đã đến sống trong đan viện và qua đời tại đây. Ngài đã viếng thăm Roma nhưng khi trở về sức khỏe lại rất sa sút. Tôphin không có lắm của cải nhưng ngài cũng đã chia một số cho những người thuộc gia đình ngài, và số khác cho các nhóm giúp việc từ thiện.
Rồi Tôphin qua đời ngày 08/01/1285. Những người Công giáo ở Hamar, Na Uy vẫn còn tôn kính thánh Tôphin và mừng lễ ngài.

Đôi khi những người tử tế lương thiện không được để ý lưu tâm và không được nhớ ơn. Nếu chúng ta đã từng cảm thấy như thế về bản thân hay về một người nào đó chúng ta yêu mến, chúng ta hãy cầu xin với thánh Tôphin. Ngài sẽ giúp chúng ta nhận biết được đâu là điều thực sự quan trọng trước mặt Chúa.




(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-08-2012, 07:50 PM
Ngày 09 tháng Giêng


THÁNH JULIANÔ VÀ THÁNH NỮ BASILISA



Thánh Julianô và thánh nữ Basilisa là hai vợ chồng. Các ngài sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ IV.
Lòng mộ mến đạo đã khiến các ngài làm một việc cao cả anh hùng : các ngài chuyển nhà vào trong bệnh viện. Bằng cách này, các ngài có thể chăm sóc những người đau ốm và nghèo khó không ai giúp đỡ.Thánh Julianô chăm sóc những người nam, còn thánh Basilisa lo cho những người nữ. Cả hai cùng tìm gặp thấy Chúa Giêsu đang hiện thân trong những người mà các ngài phục vụ. Các ngài làm công việc này chỉ vì tình yêu, không vì tiền bạc hay bất cứ một phần thưởng nào khác.Chúng ta không được biết nhiều chi tiết về đời sống tại thế của đôi vợ chồng thánh thiện này. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng thánh Basilisa đã ly trần sau cuộc bách hại khủng khiếp vì đức tin. Thánh Julianô sống lâu hơn. Ngài vẫn tiếp tục công việc quảng đại của mình là phục vụ những người đau yếu bệnh hoạn ngay cả sau khi thánh Basilisa qua đời. Sau này thánh Julianô cũng được phúc tử vì đạo.Thánh Julianô và thánh Basilisa đã dùng cả cuộc đời của mình phục vụ tha nhân và Thiên Chúa. Các ngài đã gieo trồng hạt giống đức tin bằng cách sống cuộc đời thánh thiện và đã chăm bón vun xới đức tin ấy bằng chính việc đổ máu đào vì Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Chúng ta có thể noi gương bắt chước hai vị thánh này bằng cách thăm viếng những người đau yếu và những người bơ vơ không nơi nương tựa. Chúng ta cũng có thể làm cho họ vui sướng qua việc lắng nghe và thông cảm với họ.





(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-08-2012, 08:53 AM
Ngày 10 tháng Giêng


THÁNH WILLIAM



Thánh William xuất thân trong một gia đình người Pháp khá giả. Ngay tử thuở thơ ấu, William đã không lãng phí thời giờ vào những chuyện vô ích và đã không để cho mình nhàn rỗi biếng lười. Hằng ngày, William dùng thời giờ để cầu nguyện. Khi vào tu dòng Xitô, William cố gắng trở nên một đan sĩ tốt lành. Các thầy đồng tu rất khâm phục William mặc dù ngài không chủ ý gây ấn tượng cho bất cứ một ai.
Thánh William có lòng sùng kính rất đặc biệt đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Thánh nhân hăng say thực hành những việc khổ chế. Trông ngài luôn hạnh phúc bình an. Khi được chọn làm đan viện phụ của đan viện, William vẫn sống khiêm tốn. Ngài vẫn là ngài. Khi đức Tổng Giám mục giáo phận Boz qua đời, William được chọn lên kế vị. Thánh nhân tỏ lòng rất biết ơn khi được thánh hiến trong chức vị giám mục nhưng lại không vui vì phải tiếp nhận sự ưu ái lưu tâm của mọi người. William vẫn ở khiêm nhường qua việc ăn năn sám hối để cầu nguyện cho mình và xin ơn hoán cải cho các tội nhân.
Mặc dù ham thích được ở một mình với Chúa Giêsu hiện thân trong Bí tích Thánh Thể, William vẫn biết nhiệm vụ của một Tổng Giám mục như ngài là phải sẵn sàng đi viếng thăm mục vụ trong giáo phận. William cử hành Bí tích Thánh Thể và rao giảng đức tin. Ngài cũng thăm nom những người nghèo khó, đau yếu để an ủi họ và mang họ về với Chúa Kitô.
Đức Tổng Giám mục William qua đời ngày 10/01/1209 và được an táng tại nhà thờ chính tòa Boz. Nhiều người cầu nguyện tại mộ phần của William đã thuật lại những phép lạ ngài làm.
William được Đức Thánh cha Hônôriô III tôn phong hiển thánh năm 1218.

Càng đọc truyện các thánh, chúng ta càng hiểu rõ được cách thế các ngài nên thánh. Các ngài đã cầu nguyện, vâng lời, hy sinh và tín thác vào Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-08-2012, 01:24 PM
Ngày 11 tháng Giêng


THÁNH THÊÔĐÔSIÔ



Thánh Thêôđôsiô sinh tại Tiểu Á vào năm 423. Khi còn trẻ, ngài đã hành hương đến thánh địa. Người ta nói rằng Thêôđôsiô được linh hứng bởi “hành trình đức tin” của Abraham trong sách Sáng Thế Ký.
Sau khi viếng thăm những nơi thánh, Thêôđôsiô quyết định sống đời cầu nguyện. Ngài đã xin một người thánh thiện tên là Longinô hướng dẫn. Chẳng bao lâu, người ta đều nhận biết sự thánh thiện của Thêôđôsiô và nhiều người trong số họ đã xin đươc thụ giáo ngài. Họ cũng muốn trở nên những đan sĩ.
Thánh Thêôđôsiô xây cất một đan viện lớn ở Catimô, gần Bêlem. Ít lâu sau, đan viện này đã đầy ắp đan sĩ đến từ khắp các nước : Hy Lạp, Armenia, Ả Rập, Ba Tư và các nước nói tiếng Slavic (là Nga, Ba Lan và Tiệp Khắc). Cuối cùng, nơi đây đã trở nên một “thành phố nhỏ”. Có một tòa nhà dành cho những người cao tuổi và một khu vực dành riêng cho những người nghèo khổ vô gia cư.
Thánh Thêôđôsiô luôn luôn sống rộng rãi quảng đại. Ngài cung cấp thực phẩm cho rất nhiều người nghèo khó. Đôi lúc dường như không còn đủ lương thực cho các đan sĩ, nhưng Thêôđôsiô vẫn một lòng tín thác vào Chúa. Ngài không bao giờ loại bỏ hay ngoảnh mặt làm ngơ đối với các lữ khách ngay cả khi khan hiếm lương thực. Đan viện là nơi rất an bình. Các đan sĩ sống trong bầu khí thinh lặng và cầu nguyện. Thật có lý khi các thượng phụ giáo chủ của Giáo hội Công giáo Đông phương đã bổ nhiệm Thêôđôsiô làm người đứng đầu các đan sĩ ở Đông phương.
Thánh Thêôđôsiô mất năm 529, thọ 106 tuổi. Thượng phụ giáo chủ Giêrusalem và nhiều người khác đã đến dự đám tang của ngài. Người ta đã chôn cất Thêôđôsiô tại nơi ngài đã sống lúc còn là đan sĩ, nơi mà người ta gọi là “hang của các vị đạo sĩ Đông phương”. Họ đặt cho cái hang tên đó vì họ cho rằng những vị đạo sĩ Đông phương khi tìm kiếm Hài Nhi Giêsu đã lưu lại nơi đây.

Như thánh Thêôđôsiô, mỗi ngày chúng ta hãy cố gắng sống thân mật với Thiên Chúa hơn. Người sẽ ban cho chúng ta sự can đảm cần thiết.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-08-2012, 09:49 AM
Ngày 12 tháng Giêng


THÁNH MARGUARIT BOGOIS



Thánh nữ Marguarit Bogois sinh ngày 17/04/1620 tại thành Troy, nước Pháp, nhưng thánh nữ đã sống gần 80 năm ở Montrieux, Canada.
Marguarit là con thứ 6 trong gia đình có 12 người con. Song thân của Marguarit là những người rất mộ đạo. Khi Marguarit lên 19 thì thân mẫu qua đời. Thánh nữ đã thay mẹ săn sóc các em trai và em gái của ngài. Thân phụ của Marguarit cũng về trời lúc ngài được 27 tuổi.
Khi việc gia đình được dàn xếp ổn định, Marguarit đã cầu nguyện xin Chúa cho biết phải làm gì trong cuộc sống của mình. Lúc ấy, nhà lãnh đạo thành phố Montrieux đến thăm nước Pháp. Ông đang gắng tìm những người dạy học cho Tân Thế Giới (gồm Mỹ châu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ). Ông mời Marguarit đến Montrieux dạy các lớp đạo và thánh nữ đã bằng lòng.
Sau đó, Marguarit Bogois phân phát phần tài sản thừa kế của mình cho các anh chị em trong gia đình. Họ không thể tin rằng ngài sẽ thực sự rời bỏ đất nước văn minh của họ để đi đến vùng hoang mạc khô cằn bên kia đại dương. Nhưng Marguarit đã ra đi!
Ngày 20/06/1653, Marguarit vượt biển và đến Canada vào khoảng giữa tháng 11. Năm 1657, Marguarit tiến hành xây cất một nguyện đường dành để tôn kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Năm 1658, ngài mở một trường dạy học đầu tiên. Marguarit nhận thấy nhu cầu cần phải có thêm nhiều giáo viên hơn cho công việc. Vì thế năm 1659, Marguarit Bogois về Pháp và trở lại cùng với 4 người cộng tác. Đến năm 1670, ngài lại đi Pháp và đem về 6 người bạn nữa. Những người nữ can đảm này đã là những nữ tu đầu tiên của tu hội Nữ Tử Đức Bà.
Thánh Marguarit Bogois và các nữ tu của ngài đã giúp đỡ các kiều dân khi thực phẩm khan hiếm. Họ mở trường dạy nghề và huấn luyện cho các bạn trẻ biết cách điều khiển công việc ở nhà cũng như ngoài đồng. Cộng đoàn của thánh Marguarit càng ngày càng phát triển. Tính từ năm 1681, cộng đoàn có hết thảy 18 nữ tu, trong đó có 7 chị người Ấn Độ. Rồi, họ lập thêm những nhóm truyền giáo và 2 nữ tu đã đứng ra giúp hội truyền giáo Ấn Độ này. Chính thánh nữ Marguarit Bogois đã nhận 2 chị người Ấn Độ đầu tiên này vào cộng đoàn.
Năm 1693, Mẹ Marguarit Bogois đã trao cộng đoàn lại cho người kế nghiệp Mẹ. Vị bề trên mới này là nữ tu Maria Babier, người Canada đầu tiên gia nhập cộng đoàn. Năm 1698, luật dòng của thánh nữ Marguarit Bogois được Giáo hội phê chuẩn. Marguarit dùng ít năm cuối đời của mình để cầu nguyện và viết tự truyện.
Vào ngày cuối năm 1699, một chị nữ tu trẻ hấp hối. Mẹ Marguarit đã nài xin Thiên Chúa trao đổi sự sống của Mẹ cho chị nữ tu. Đến sáng ngày 01/01/1700, chị nữ tu trẻ này đã hoàn toàn bình phục. Đổi lại, Mẹ Marguarit Bogois phải chịu một cơn sốt cùng cực. Mẹ đã chịu đau suốt 12 ngày và qua đời ngày 12/01/1700.
Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho Mẹ Marguarit Bogois ngày 02/04/1982.

Khi không có đủ can đảm để thực hiện những điều mỹ hảo, chúng ta hãy cầu xin với thánh nữ Marguarit Bogois giúp chúng ta can đảm và quảng đại như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-08-2012, 09:56 AM
Ngày 13 tháng Giêng


THÁNH HILARIÔ POINTIER



Vào những thế kỷ đầu của Kitô Giáo cũng đã có nhiều người không tin Thiên Chúa như thời đại chúng ta hôm nay. Họ tin có nhiều vị thần minh, và quyền năng của một số vị này thì mạnh mẽ hơn quyền năng của một số vị kia…
Những người này không xấu. Họ chỉ không biết rõ ai là vị thần cao cả quyền thế hơn. Người ta gọi họ là những người thờ ngẫu thần.
Thánh Hilariô được sinh ra trong một gia đình như thế ở Pointier, một thị trấn của nước Pháp, vào năm 315. Gia đình thánh nhân rất giàu có và danh tiếng. Hilariô được học hành thông giỏi. Thánh nhân cũng đã kết bạn và gầy dựng một gia đình.
Trong suốt quá trình học tập, Hilariô nhận thức được rằng con người ta nên rèn luyện cho mình có những đức tính nhẫn nại, tử tế, công bằng và những tập quán tốt khác. Những hành động tốt lành này sẽ được ân thưởng trong cuộc sống mai hậu. Việc học tập nghiên cứu của Hilariô cũng thuyết phục ngài rằng chỉ có thể có một Thiên Chúa, Đấng Hằng Hữu, đầy quyền năng và nhân hậu. Lần đầu tiên Hilariô đọc Kinh Thánh. Và khi đọc tới chuyện ông Môisê và bụi gai bốc cháy, Hilariô đã xúc động bởi danh xưng Thiên Chúa mạc khải : “Ta là Đấng Tự Hữu!” Hilariô cũng đọc những sách tiên tri. Rồi ngài đọc trọn bộ Kinh Thánh Tân Ước. Khi đọc xong, Hilariô đã hoàn toàn trở lại Công giáo và được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy.
Hilariô Pointier sống đức tin hoàn hảo đến nỗi ngài được cất nhắc làm giám mục. Điều này khiến cho cuộc sống của Hilariô không được thoải mái vì lúc ấy hoàng đế can thiệp vào nhiều vấn đề của Giáo hội. Khi Hilariô lên tiếng phản đối, hoàng đế đã trục xuất ngài ra khỏi quê hương. Đây là lúc các nhân đức nhẫn nại và can đảm tuyệt vời của Hilariô tỏa sáng. Hilariô bình thản chấp nhận án lệnh trục xuất và dùng thời gian viết nhiều sách giải thích đức tin.
Từ khi Hilariô nổi tiếng, các kẻ thù của Hilariô xin vua sai ngài về quê của ngài vì ở đó ngài sẽ ít được người ta chú ý hơn. Bởi vậy, năm 360, Hilariô trở về Pointier. Ngài tiếp tục viết sách và giảng dạy đức tin cho mọi người. Tám năm sau, Hilariô qua đời, được 52 tuổi. Các sách vở của Hilariô hiện vẫn còn ảnh hưởng đến thời đại chúng ta. Đó là lý do tại sao Hilariô Pointier được gọi là Tiến sĩ Hội Thánh.

Chẳng có cuộc sống nào là hoàn toàn dễ dàng! Nhưng khi học với thánh Hilariô Pointier, chúng ta sẽ thấy cuộc sống không có quá nhiều việc quan trọng, nếu chúng ta chấp nhận giải quyết như chúng vẫn thường xảy đến.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-08-2012, 11:13 AM
Ngày 14 tháng Giêng


THÁNH MACRINA



Hôm mùng 2 tháng Giêng, chúng ta đã mừng lễ tôn kính “thánh cháu” của vị thánh hôm nay. Thánh Basiliô Cả sinh khoảng năm 329, xuất thân từ gia đình có nhiều người làm thánh.
Thánh nữ Macrina, bà nội của Basiliô, là một trong những người ngài yêu mến nhất. Dường như bà đã nuôi dưỡng Basiliô. Khi thành nhân, Basiliô đã ca ngợi bà nội vì những điều tốt hảo bà đã làm cho ngài. Đặc biệt, Basiliô thành thật tỏ lòng cám ơn bà vì đã dạy mình biết mến mộ đức tin Công giáo ngay từ thuở niên thiếu.
Macrina và chồng của bà đã biết cái giá thật cao phải trả cho niềm tin Công giáo là thế nào. Trong những cuộc bách hại Roma của Galerio và Maximino, ông bà nội của Basiliô đã phải chạy trốn. các ngài tìm được một nơi lánh nạn trong khu rừng cạnh ngôi nhà các ngài. Bằng mọi cách có thể, các ngài đã cố gắng xoay xở hầu trốn thoát những kẻ khủng bố. Các ngài luôn chịu đói khát và sợ hãi nhưng không bao giờ các ngài chối bỏ niềm tin. Thay vào đó, các ngài luôn nhẫn nại chờ đợi và cầu nguyện cho những người bách hại. Các ngài tìm kiếm và phải ăn cả đến những hoa cỏ dại để sống sót. Cuộc bách hại này kéo dài 7 năm.
Thánh Grêgôriô Nazianzênô, được mừng lễ cùng ngày 02 tháng Giêng với thánh Basiliô, đã thuật lại những chi tiết này.
Trong một cuộc bách hại khác, thánh nữ Macrina và chồng ngài đã bị cướp đoạt hết tài sản. Các ngài đã mất tất cả ngoại trừ lòng tin và niềm hy vọng vào sự bảo dưỡng của Thiên Chúa.
Thánh nữ Macrina sống lâu hơn người chồng của ngài, nhưng cả hai qua đời chính xác vào năm nào thì không được ghi lại. Người ta cho rằng thánh nữ Macrina mất vào khoảng năm 340. Basiliô, cháu trai của ngài, mất năm 379.

Thánh nữ Macrina là người bà thật đáng mến. Ngài đã làm cho Basiliô và các thành viên khác trong gia đình cảm nhận được vẻ đẹp của đạo Kitô vì ngài đã thực sự sống những điều ngài nói. Chúng ta có thể nài xin thánh nữ Macrina giúp chúng ta có được bản chất Kitô giáo như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-08-2012, 11:16 AM
Ngày 15 tháng Giêng




THÁNH PHAOLÔ Ẩn Tu



Khi mất ở độ tuổi 113, thánh Phaolô Ẩn Tu có cả một quãng đời dài để nhìn về quá khứ.
Thánh Phaolô sinh năm 229 trong một gia đình Công giáo. Họ sống ở vùng Têbê bên nước Ai Cập. Song thân của Phaolô đã hướng dẫn ngài cách yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa với hết cả tâm hồn bằng chính đời sống họ. Chắc chắn Phaolô đã rất đau buồn khi mất cả cha lẫn mẹ lúc vừa tròn 15 tuổi.
Vài năm sau, năm 250, hoàng đế Đêsiô bắt đầu bách hại Giáo hội cách tàn bạo. Phaolô đã ẩn trốn trong nhà một người bạn nhưng không được an toàn. Người anh rể chiếm giữ tiền bạc và của cải của Phaolô, anh có thể dễ dàng nộp ngài cho các nhà cầm quyền. Vì vậy, Phaolô đã rời bỏ anh để vào ở ẩn trong sa mạc. Phaolô tìm được một cái hang gần bên cây cọ và dòng nước ngọt. Rồi Phaolô đã định cư ở đó. Phaolô đan những lá cọ lại với nhau làm quần áo. Phaolô sống nhờ trái cây và nước uống.
Phaolô dự định chỉ lưu lại đó cho tới lúc cuộc bách hại kết thúc. Nhưng khi cuộc khủng bố chấm dứt, thánh nhân đã bị cuốn hút say mê vào đời sống cầu nguyện. Phaolô cảm thấy thật gắn bó với Thiên Chúa. Làm sao lại có thể rời bỏ nơi này được? Rồi Phaolô quyết tâm ở lại sa mạc và không bao giờ trở về với nếp sống thành thị sa hoa nữa. Thay vào đó, Phaolô sẽ dùng đời sống hàng ngày để cầu nguyện cho những nhu cầu của hết thảy mọi người và cho các tội nhân được ơn hoán cải.
Cùng lúc ấy, có một vị ẩn tu thánh thiện khác tên là Antôn. Thánh Antôn tưởng rằng mình là ẩn sĩ duy nhất. Nhưng Thiên Chúa đã tỏ cho Antôn thấy Phaolô trong một giấc mơ và bảo ngài đến thăm Phaolô.
Thánh Phaolô rất đỗi vui mừng khi gặp được Antôn vì thánh nhân biết rằng chỉ trong vài ngày nữa mình sẽ qua đời. Phần Antôn, ngài đau đớn buồn sầu bởi không muốn mất đi người bạn mới quen biết này sớm như vậy.
Và Phaolô đã về trời ngày 15/01/342 như ngài tiên báo. Antôn chôn táng ngài trong tấm áo khoác ngoài của thánh Athanasiô. Sau đó, Antôn trở về nhà và cất giữ kỹ lưỡng bộ quần áo kết bằng những chiếc lá cọ mà Phaolô đã dùng. Thánh nhân không bao giờ quên người bạn thật phi thường tuyệt vời này.

Chúng ta có thể trân trọng giữ gìn một kỷ vật, thậm chí một ký ức đẹp của một người nào đó chúng ta yêu mến mà nay đã lìa đời. Chúng ta sẽ cảm thấy điều này rất gần gũi khi gặp lại trên thiên đàng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-08-2012, 04:21 PM
Ngày 16 tháng Giêng


THÁNH BÊRA và Các Bạn Tử Đạo



Một nhóm tu sĩ dòng Phanxicô được thánh Phanxicô Assisiô trao cho công tác đến Môrôcô. Họ có nhiệm vụ truyền bá giáo lý Kitô giáo cho những người Hồi giáo. Vì vậy, năm 1219, các tu sĩ Bêra, Phêrô, Ađatô, Accusiô và Ôđô đã vượt tàu ra đi. Môrôcô là một miền đất xa xôi nằm ở phía tây bắc Phi châu. Chuyến đi thật dài ngày và nguy hiểm! Nhưng sau cùng, các ngài đã đến Sêvil, nước Tây Ban Nha và lập tức các ngài rao giảng trên các đường phố và công trường. Người ta coi các ngài như những người mất trí và họ đã bắt giam các ngài. Để khỏi bị trở về quê hương, các tu sĩ đã nói rằng họ muốn được gặp đức vua các nước Hồi giáo. Vì thế, chính phủ Sêvil đã gởi các ngài tới Môrôcô.
Vua các nước Hồi giáo đã tiếp nhận các tu sĩ và cho phép các ngài được tự do rao giảng trong thành phố. Nhưng có một số người không thích chuyện này. Họ phàn nàn với các nhà cầm quyền. Do đó, nhà vua đã cố gắng giải cứu các ngài bằng cách gởi các ngài đến trú ngụ ở Marakê, phía tây vùng biển Môrôcô. Có một nhà quý tộc theo đạo Công giáo và là bạn của vua các nước Hồi giáo tên là Đôm Pêrô Phécnăngđô đã đem các ngài về nhà ông. Nhưng các ngài biết sứ mệnh của mình là phải rao giảng đức tin. Vì vậy, các ngài lại trở về thành phố. Điều này đã chọc giận một số người không muốn đón nghe sứ điệp của các ngài. Những lời than phiền đã làm cho vua các nước Hồi giáo giận dữ đến nỗi một ngày kia khi nhìn thấy các tu sĩ đang giảng dạy, vua liền ra lệnh cho các ngài một là phải ngưng ngay lại còn không thì phải rời khỏi đất nước. Khi trình bày việc phải thực hiện một trong hai điều kiện bất công, các ngài lập tức liền bị xử trảm. Hôm đó là ngày 16/01/1220.
Đôm Pêrô đến nhận xác các thánh tử đạo. Cuối cùng, ông mang di hài các ngài tới thánh đường Thánh Giá ở Cômbra, nước Bồ Đào Nha. Sứ mệnh đến Môrôcô của các tu sĩ thật vắn vỏi và bề ngoài xem ra có vẻ như thất bại nhưng kết quả lại thật gây ảnh hưởng. Câu chuyện của những vị anh hùng này đã thắp lên trong lòng các tu sĩ dòng Phanxicô ước muốn cũng được đi truyền giáo và tử đạo. Gương chứng nhân đặc biệt của các ngài đã thôi thúc một thanh niên khao khát muốn được hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa với danh hiệu là linh mục dòng Phanxicô. Chúng ta biết ngài chính là thánh Antôn Pađua, lễ kính ngày 13/06.

Chúng ta không phải lo lắng về sự thành đạt hay thất bại trong công việc chúng ta làm, miễn là chúng ta cố gắng với hết khả năng của mình. Thiên Chúa có thể dùng những nỗ lực và sự dâng hiến của chúng ta để giúp những người khác sống tốt hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-08-2012, 04:25 PM
Ngày 18 tháng Giêng




CHÂN PHƯỚC CHRISTINA



Chân phước Christina sống vào thế kỷ thứ XVI. Ngài sinh ở Abruzi, nước Ý. Tên thánh của Christina là Matthia. Khi lớn lên, Matthia cảm thấy Chúa gọi mình sống đời cầu nguyện và ăn năn sám hối. Ngài muốn trở nên một nữ tu dòng kín. Vì thế, Matthia đã xin vào tu viện kín Augustinô ở Aquila và đổi tên là “sơ Christina”.
Cuộc sống của sơ Christina thật âm thầm lặng lẽ, thế nhưng người dân miền Aquila dần dà đã nhận ra vẻ đẹp ơn gọi của ngài. Christina và những chị nữ tu khác đã mang nhiều phúc lành xuống cho người dân qua hiến lễ cầu nguyện của các chị. Sơ Christina tuy đang sống trong dòng kín nhưng cũng cảm hiểu được những nhu cầu thiết yếu của các người dân nghèo cư ngụ trong vùng ấy. Sơ và các chị em đã cung cấp cho họ những thứ có thể. Chính bản thân sơ Christina cũng nhận thức được những thánh giá và những đau khổ họ phải chịu. Sơ cầu nguyện và dâng các việc đền tội lên Thiên Chúa để cầu cho những ý chỉ của họ.
Chúa Giêsu đã chúc lành cho Christina qua những lần xuất thần và ban cho ngài khả năng biết trước tương lai. Thậm chí Thiên Chúa đã dùng Christina làm nhiều phép lạ cho những người dân lành. Khi Christina qua đời, các trẻ nhỏ miền Aquila đã chạy tràn ra đường phố và hô lớn tiếng : “Chị nữ tu thánh thiện đã qua đời!”
Đó là ngày 18/01/1543. Một đám đông người đã đến tỏ lòng tôn kính và cảm ơn Christina vì tặng ân sơ đã sống nơi thành phố của họ.

Chúng ta hãy cầu xin chân phước Christina giúp chúng ta biết quý trọng lời cầu nguyện trong đời sống hàng ngày.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-08-2012, 11:20 AM
Ngày 19 tháng Giêng


THÁNH CANUT



Thánh Canut là một quân vương khôn ngoan tráng kiện của nước Đan Mạch. Ngài sống vào thế kỷ thứ XI. Canut là một vận động viên ưu tú, một tay kỵ mã cừ khôi và là một nhà chiến lược tuyệt vời.
Khởi đầu triều đại uy quyền của mình, vua Canut đã hướng dẫn một cuộc chiến chống lại những người man rợ, vì những người này đe dọa sẽ thống lãnh thế giới văn minh. Vua Canut và đội quân của ngài đánh bại bọn họ. Canut yêu mến đức tin Kitô giáo thật tha thiết đến nỗi ngài đã giới thiệu cho những người chưa bao giờ được nghe nói về Kitô giáo.
Thánh Canut thường quỳ gối trong thánh đường dưới chân bàn thờ và dâng cho Chúa Giêsu Vua các vua vương miện của mình. Canut rất giàu lòng khoan dung và kiên nhẫn đối với thần dân của ngài. Canut cố giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề khó khăn. Nhưng trên tất cả, thánh vương Canut muốn giúp họ trở nên những môn đồ đích thực của Đức Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, xảy ra có một cuộc nổi loạn chống chính quyền trong vương quốc của Canut vì những khoản luật ngài đã ban hành về việc ủng hộ Giáo hội. Ngày kia, vài người tức giận đã đến ngôi thánh đường nơi Canut đang cầu nguyện. Canut biết họ đến hãm hại mình. Trong lúc các kẻ thù vẫn còn ở ngoài, vua Canut đã lãnh nhận các Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ngài cảm thương cho những người bực tức muốn giết ngài. Với tất cả tấm lòng thành, Canut đã tha thứ cho họ. Rồi, đang khi Canut cầu nguyện, họ đã phóng một ngọn giáo qua cửa sổ đâm thẳng vào ngài và Canut đã chết.
Đó là ngày 10/07/1086.

Thánh Canut cố gắng trở nên một vị quân vương tốt đến nỗi ngài đã cám ơn Thiên Chúa vì những ơn phúc ngài được lãnh nhận. Hằng ngày chúng ta cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa và tiến dâng Người một vương miện kết bằng những việc làm tốt hảo của chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-08-2012, 11:23 AM
Ngày 20 tháng Giêng


THÁNH FABIANÔ và THÁNH SÊBASTIANÔ



Thánh Fabianô là Giáo hoàng tử đạo năm 250. Đó là thời kỳ bắt đạo của vua Đêsiô. Các văn gia tiên khởi đã viết rằng Fabianô là một người vĩ đại lạ thường và nổi tiếng thánh thiện. Trong một lá thư ngắn được viết sau cái chết của đức Fabianô, thánh Cyprianô đã giải thích cách thức đức Fabianô được chọn làm Giáo hoàng như sau : Nhóm người họp lại chọn vị Giáo hoàng kế tiếp đã nhận được một dấu lạ là phải chọn Fabianô làm Giáo hoàng. Fabianô là người giáo dân đầu tiên được làm Giám mục, Giáo hoàng và được phúc tử vì đạo. Những di tích của đức Fabianô hiện đang được lưu giữ trong Vương cung Thánh đường thánh Sêbastianô. Hai vị tử đạo này cùng được mừng chung một ngày lễ.

Thánh Sêbastianô trở nên rất nổi danh vào những thế kỷ đầu của Giáo hội sơ khai. Là sĩ quan Roma, ngài được mọi người biết đến vì tấm lòng dũng cảm và tư cách tốt lành. Suốt thời ký bách hại của Điôclêsiô, Sêbastianô đã không chối bỏ đạo Công giáo. Những người bắn cung đã bắn các mũi tên vào thân xác Sêbastianô và bỏ ngài chết ở đó. Khi một bà góa thánh thiện đến táng xác Sêbastianô, bà rất kinh hoàng vì thấy ngài vẫn còn sống. Bà liền đưa Sêbastianô về nhà và băng bó các vết thương cho ngài. Rồi khi Sêbastianô bình phục, bà đã thuyết phục ngài trốn thoát cho khỏi những nguy hiểm của Roma.
Nhưng Sêbastianô là một sĩ quan gan dạ. Ngài không đào tẩu. Thậm chí ngài đã tiến lại gần Điôclêsiô và can đảm thuyết phục vua phải ngưng ngay việc bách hại những tín hữu Công giáo.
Nhà vua hoảng hồn khi nhìn thấy Sêbastianô vẫn còn sống. Ông không nghe những điều người sĩ quan nói và đã ra lệnh đánh đòn cho đến khi Sêbastianô tắt thở.
Thánh nhân qua đời năm 228.

Thánh Fabianô là Giáo hoàng và thánh Sêbastianô là binh sĩ. Các ngài dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu yêu thương từng người chúng ta vừa khi chúng ta có mặt trên thế gian này. Như hai thánh Fabianô và Sêbastianô, mỗi người chúng ta cũng có một món quà để trao ban. Món quà ấy là thực hiện vai trò trách nhiệm lớn lao như Fabianô hoặc là một sĩ quan dâng hiến như Sêbastianô. Nhưng điều quan trọng là phải trao ban hoàn toàn như gương sống của các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
14-08-2012, 02:06 PM
Ngày 22 tháng Giêng


THÁNH VINHSƠN SARAGÔZA



Thánh Vinhsơn Saragôza chịu tử đạo ở Tây Ban Nha năm 304, cùng năm với thánh nữ Annê chịu tử đạo ở Roma. Cả hai vị thánh đều là những nạn nhân của cuộc bách hại dã man của vua Đêsiô.
Thánh Vinhsơn sinh trưởng ở miền Saragôza, nước Tây Ban Nha. Ngài được thánh Giám mục Valêriô dạy dỗ và được nhận chức phó tế. Thậm chí dù khi Vinhsơn còn rất trẻ, Valêriô cũng nhận ra được những tài năng và đức tính quý báu nơi ngài. Giám mục Valêriô đã mời ngài giảng dạy các môn học về Chúa Giêsu và về Giáo hội.
Vua Đasiô đã bắt cả Valêriô lẫn Vinhsơn Saragôza. Ông giam giữ các ngài suốt một thời gian dài nhưng cả hai đã không để cho tinh thần mình sa sút. Cả hai vẫn tin tưởng vào Đức Chúa Giêsu. Rồi, nhà vua trục xuất Valêriô nhưng ông lại dùng nhục hình dã man để tra tấn Vinhsơn.
Thánh Vinhsơn nài xin Chúa Thánh Linh ban thêm sức mạnh. Ngài muốn trung thành với Đức Chúa Giêsu dù phải chịu những khổ hình khủng khiếp. Và Thiên Chúa đã ban cho ngài sức mạnh. Thầy phó tế Vinhsơn vẫn bình an trong tất cả mọi đau khổ. Khi những cuộc hành hình tra tấn kết thúc, Vinhsơn được trở về nhà giam nơi ngài đã làm cho một người cai tù ăn năn trở lại. Sau cùng, nhà vua đành nhượng bộ và cho phép giáo dân vào thăm Vinhsơn. Các Kitô hữu đến băng bó vết thương cho ngài. Họ cố gắng làm cho Vinhsơn được thoải mái. Ít lâu sau, Vinhsơn Saragôza qua đời.

Thánh Vinhsơn Saragôza vẫn vững vàng can đảm trong suốt cuộc bách hại nhờ ảnh hưởng của Valêriô, vị giám mục thánh thiện. Vinhsơn Saragôza đã học được ở nơi vị giám mục này cách thức để trở thành người môn đệ của Đức Chúa Giêsu. Thánh Vinhsơn Saragôza sẽ giúp chúng ta nhận biết và dõi theo gương sáng của tha nhân nếu chúng ta cầu xin ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
14-08-2012, 02:09 PM
Ngày 23 tháng Giêng



THÁNH GIOAN Bố Thí



Thánh Gioan là một nhà quý tộc trung thành với Kitô giáo. Ngài đã dùng của cải và địa vị của mình để giúp đỡ những người nghèo khó. Sau khi người vợ qua đời, Gioan trở thành linh mục, rồi giám mục.
Năm 608, Gioan được tấn phong làm thượng phụ giáo chủ thành Alexandria bên Ai Cập. Người ta có thể kỳ vọng gì nơi vị giáo chủ này, là người hiện đang nắm giữ một vị thế quan trọng? Thánh Gioan khi lãnh nhận chức vụ mới đã tập trung vào việc hàn gắn những mối chia rẽ giữa các Kitô hữu. Chính ngài đã nài xin mọi người thực hành một “đức ái không biên giới”. Việc đầu tiên Gioan làm là xin một danh sách liệt kê đầy đủ những “chủ nhân” của ngài. Người ta xin Gioan cho biết lý do, và ngài ám chỉ về những người nghèo khổ. Khi tổng kết lại, số người dân nghèo trong vùng Alexandria có khoảng 7500 người. Và thánh Gioan đã tự nhận làm người bảo trợ mạng sống của họ.
Với tư cách thượng phụ giáo chủ, thánh Gioan công bố những khoản luật và ấn hành chính sách canh tân. Ngài có tấm lòng khoan dung và đáng kính nhưng rất cương quyết vững vàng. Gioan đã bỏ ra hai ngày trong tuần, thứ Tư và thứ Sáu, để tiếp chuyện những người ước ao muốn gặp ngài. Họ xếp hàng và nhẫn nại chờ đợi đến lượt mình. Một số người thì giàu có, số khác nghèo khổ và vô gia cư. Nhưng mọi người đều được lãnh nhận cùng một sự ưu ái quan tâm và nhã nhặn lịch thiệp của Gioan.
Khi nhận biết trong ngân quỹ của Giáo hội còn 80.000 lượng vàng, thánh Gioan liền phân phát hết thảy cho các bệnh viện và tu viện. Ngài đã lập ra một quỹ từ thiện để nhờ đó những người nghèo khổ có thể nhận được số tiền tương xứng và những phương tiện cần thiết để chu cấp cho bản thân cũng như gia đình của họ. Những người tỵ nạn từ khắp các vùng lân cận cũng được tiếp đón cách nồng hậu. Sau khi những người Ba Tư cướp phá Giêrusalem, thánh Gioan đã gởi tiền bạc và những tiếp tế cần thiết cho các nạn nhân đau khổ. Thậm chí Gioan còn gởi những công nhân Ai Cập xuất sắc đến giúp khôi phục lại các ngôi thánh đường ở đó.
Khi dân chúng muốn biết làm thế nào mà thánh Gioan có thể quá vị tha và giàu lòng quảng đại đến như vậy, thì thánh nhân trả lời nghe có vẻ rất ngỡ ngàng : Một ngày kia lúc còn trẻ, Gioan đã nằm mộng. Ngài thấy một cô bé xinh đẹp và nhận ra cô chính là biểu hiện của “lòng Bác Ái”. Cô bé nói với Gioan : “Tôi là nàng công chúa vĩ đại nhất của đức vua. Nếu ngài tin tưởng tôi, tôi sẽ dẫn ngài đến với Đức Chúa Giêsu. Không ai có quyền thế nơi Người như tôi. Hãy nhớ rằng chính vì tôi mà Người đã hóa nên một trẻ thơ để cứu rỗi nhân loại!” Thánh Gioan không bao giờ cảm thấy chán khi nói về thị kiến này. Ngài dịu dàng khuyên bảo những người giàu hãy có tấm lòng khoan dung rộng lượng. Ngài khuyên những người nghèo khổ hãy biết tín thác vào Thiên Chúa là Đấng luôn luôn hiện diện ở đó và đang sẵn lòng cứu giúp họ.
Thánh Gioan qua đời cách an bình thánh thiện vào ngày 11/11/619. Vì lòng bác ái lớn lao mà Gioan được gọi là “Người Hay Bố Thí”.

Đôi khi chúng ta dễ bị cám dỗ phải chiếm cho được “địa vị đứng đầu”. Khi có những tư tưởng và thái độ như thế, chúng ta hãy cầu xin với thánh Gioan Bố Thí. Chúng ta hãy nài xin thánh nhân san sẻ cho chúng ta tấm lòng bao dung quảng đại của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
14-08-2012, 02:15 PM
Ngày 25 tháng Giêng




Cuộc Trở Lại Của Thánh PHAOLÔ



Thánh Phaolô sống cùng thời với Đức Chúa Giêsu. Nhưng như chúng ta biết, các ngài chưa bao giờ gặp mặt nhau. Lúc đầu, Phaolô có tên là Saolô. Khi còn trẻ, ngài là một thanh niên sáng dạ thông minh sống theo đạo luật Do Thái. Lớn lên, Phaolô bách hại những người đi theo Đức Chúa Giêsu.
Chúng ta đọc thấy Cuộc Trở Lại thật ngạc nhiên của Saolô (nơi những chương 9, 22, 26) trong sách Tông đồ Công Vụ. Điều gì đã xảy ra?
Vào một ngày kia, đang lúc Phaolô hành trình tới thành Đamát để lùng bắt nhiều Kitô hữu hơn, thình lình một luồng sáng lớn chiếu thẳng vào ngài. Khi té xuống đất, Saolô nghe thấy một giọng nói : “Saolô, Saolô, sao ngươi bách hại ta?” Saolô trả lời : “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Và giọng nói ấy đáp : “Ta là Giêsu. Người mà ngươi đang bách hại!” Saolô kinh ngạc và bối rối. Sau vài giây, Saolô hỏi : “Ngài muốn tôi làm gì?” Chúa Giêsu đáp : “Hãy đi tới Đamát và ở đó ngươi sẽ biết phải làm gì!”
Ngay chính giờ phút ấy, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Saolô đã được hồng ân tin nhận Đức Chúa Giêsu. Yếu ớt và run sợ, Saolô xin các đồng bạn của ngài giúp đỡ. Họ đã dẫn Saolô vào thành Đamát. Ánh sáng khi nãy đã làm lóa mắt Saolô. Giờ đây, chính trong lúc mù quáng mà Saolô có thể “nhìn thấy” sự thật. và Chúa Giêsu đã đích thân gặp gỡ Saolô, mời gọi Saolô hoán cải cuộc đời. Saolô trở nên người yêu đặc biệt của Đức Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép Thanh Tẩy, Saolô chỉ suy tưởng đến việc giúp cho mọi người nhận biết và yêu mến Đức Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc.
Chúng ta biết được Saolô là nhờ bởi tên gốc tiếng Roma của ngài : Phaolô. Ngài được gọi là “tông đồ”. Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã làm cho rất nhiều người nhận biết và tin theo Đức Chúa Giêsu. Phaolô đã làm việc và chịu đau khổ vì Chúa. Nhiều lần những kẻ thù đã cố tìm cách giết ngài, nhưng không gì có thể ngăn cản được Phaolô. Lúc về già, có lần ngài bị tống giam và bị tuyên án tử, nhưng thánh Phaolô vẫn vui sướng chịu đựng cho dù phải chết vì Chúa Kitô.
Vị tông đồ cao cả này đã viết nhiều thư rất hay cho các tín hữu. Những thư này trong Kinh Thánh được gọi là những Thánh Thư, được trích đọc ở phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ.

Sự trở lại của thánh Phaolô tông đồ rất quan trọng cho đời sống của Giáo hội. Chúng ta được nhắc nhớ rằng Thiên Chúa cũng đang kiếm tìm chúng ta. Người tìm chúng ta dọc theo con đường Đamát của mỗi người. Người mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mọi sự trong cuộc sống để chỉ giữ lại mình Người. Chúng ta có nhận ra Người như Phaolô đã nhận ra không? Chúng ta có sẵn lòng trở nên những môn đệ đích thực của Đức Chúa Giêsu như thánh Phaolô không?
Chúng ta hãy nài xin thánh Phaolô giúp đỡ chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-08-2012, 01:29 PM
Ngày 26 tháng Giêng




THÁNH TIMÔTHÊÔ và THÁNH TITÔ



Ngoài việc là những thánh nhân và là những giám mục trong Giáo hội sơ khai, Timôthêô và Titô còn có vài điểm giống nhau nữa. Cả hai đều nhận lãnh ơn đức tin do lời rao giảng của thánh Phaolô.
Thánh Timôthêô sinh ở Lycaonia thuộc vùng Tiểu Á. Thân mẫu ngài là người Do Thái và thân phụ ngài là người dân ngoại. Khi Phaolô đến Lycaonia giảng dạy thì Timôthêô, thân mẫu và bà ngoại của ngài, tất cả đều trở nên những Kitô hữu. Sau nhiều năm, Phaolô trở lại và nhận thấy Timôthêô đã khôn lớn. Phaolô cảm thấy Chúa muốn gọi Timôthêô làm tông đồ truyền giáo cho Chúa nên đã mời Timôthêô cộng tác với mình rao giảng Tin Mừng. Sau đó, Timôthêô rời bỏ cha mẹ, nhà cửa và đi theo Phaolô. Ngài cùng chia sẻ đau khổ với Phaolô. Các ngài vui mừng ra đi mang Lời Chúa đến cho mọi người. Timôthêô là tông đồ yêu quý đặc biệt của Phaolô, và Phaolô xem ngài như đứa con nhỏ của mình. Timôthêô đã cùng Phaolô đi khắp nơi cho tới khi được đặt làm giám mục thành Êphêsô. Rồi Timôthêô ở đó coi sóc đoàn chiên của ngài. Như Phaolô, Timôthêô cũng được phúc tử đạo.
Thánh Titô là người ngoại giáo. Ngài cũng là môn đệ của Phaolô. Titô có tâm hồn quảng đại và đức tính chăm chỉ. Ngài rất vui sướng khi được cùng với Phaolô rao giảng Tin Mừng trong những chuyến mục vụ. Vì Titô rất đáng tín nhiệm nên Phaolô đã trao phó cho ngài “công việc rao giảng” cho các cộng đồng Kitô hữu. Titô giúp họ kiện toàn đức tin trong Chúa Giêsu Kitô. Ngài có thể kiến tạo hòa bình khi có những cuộc cãi vã hoặc tranh chấp giữa các tín hữu. Titô có ơn đặc biệt trong việc hòa giải. Phaolô rất quý trọng ơn này nơi Titô và ngài chân nhận đó là công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài hay sai Titô đi dàn xếp những vấn đề khó khăn. Khi Titô xuất hiện giữa những Kitô hữu đang bất bình cãi vã nhau, thì họ liền hối hận và lại làm hòa. Họ xin Titô tha thứ và hứa sẽ đền bù những thiệt hại đã gây ra cho nhau. Khi hòa bình được tái lập, Titô trở về và thuật lại cho Phaolô nghe những thành quả tốt đẹp. Điều này đã làm cho Phaolô và những Kitô hữu tiên khởi vui mừng hạnh phúc.
Thánh Phaolô đã đặt Titô làm giám mục vùng quần đảo Crêta, nơi ngài định cư cho tới khi qua đời.

Thánh Timôthêô và thánh Titô đã dâng hiến cả cuộc đời, thời giờ và sức lực của mình cho Chúa Giêsu. Các ngài là những môn đệ đích thực của thánh Phaolô. Người ta rất dễ không mộ mến vì quá quen hoặc không để tâm đến những người như vậy. Hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện cho hết thảy mọi người đang rao giảng Tin Mừng như Phaolô, Timôthêô và Titô.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-08-2012, 01:34 PM
Ngày 29 tháng Giêng


THÁNH GILDA



Vị thánh này được sinh vào khoảng năm 500 tại nước Anh. Lúc còn trẻ, Gilda đã bắt đầu thực tập lối sống hy sinh, vị tha. Ngài làm điều này nhằm giúp bản thân sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa. Gilda rất nghiêm túc thực hiện những lời cam kết của mình. Ngài cảm thấy phải có trách nhiệm cầu nguyện và hy sinh cho các tội nhân sống trong thời đại của ngài. Gilda viết những bài giảng thúc giục người ta bỏ đàng tội lỗi. Ngài hối thúc họ hãy từ bỏ đời sống xấu xa. Vì lòng ao ước điều thiện quá mãnh liệt nên những bài viết của Gilda đôi lúc có vẻ như quá khe khắt. Thật ra, Gilda chẳng có ý lên án ai mà chỉ van xin người ta trở về với Thiên Chúa mà thôi!
Thánh Gilda là người có tinh thần tu đức sống đời ẩn khuất, Gilda chọn lối sống thinh lặng và cầu nguyện vì ngài muốn trốn thoát khỏi thế giới ồn ào náo nhiệt. Gilda chọn cách sống ấy vì nó giúp ngài dễ dàng kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa. Ngài nhận thức được những điều sai trái, không phù hợp với đạo đức ở trong xã hội hơn những người bình thường. Đáng tiếc thay nhiều người đã không nhận biết đủ về Thiên Chúa và những quy luật của Gilda. Thậm chí họ không nhận ra tội lỗi đang hủy hoại tâm hồn họ. Đó là lý do nhiều người trong Giáo hội – các linh mục, giám mục và giáo dân – đã đến xin Gilda chỉ dạy về những vấn đề thiêng liêng.
Về cuối đời, Gilda sống ẩn khuất trên một đảo nhỏ ở nước Anh. Các môn đệ của Gilda cũng theo ngài đến đó dù ngài muốn được ở riêng một mình để dọn tâm hồn về với Chúa. Gilda đã ân cần tiếp đón họ như một dấu chỉ Thiên Chúa muốn ngài chia sẻ những ân phúc thiêng liêng cho các linh hồn.

Thánh Gilda giống như “lương tâm” của xã hội. Đôi khi chúng ta không thích nghe nói về những điều xấu nhưng điều xấu lại hiện diện thật sự. Đôi khi chúng ta cũng bị cám dỗ làm điều xấu hoặc sống chểnh mảng thờ ơ. Những lúc như thế chúng ta hãy đơn sơ cầu nguyện cùng thánh Gilda. Hãy nài xin thánh nhân ban cho chúng ta nghị lực để dám thực hiện những điều tốt lành.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-08-2012, 09:30 AM
Ngày 30 tháng Giêng




THÁNH BATIĐI



Câu chuyện bắt đầu vào khoảng năm 630. Một cô bé Công giáo người Anh rất hoảng hốt lo sợ không thể tưởng tượng được tương lai của mình sẽ ra thế nào. Điều cô biết được là cô đã bị bắt cóc và hiện đang ở trên một chiếc tàu của bọn cướp biển. Cô đang đi đâu? Cô có thể hỏi ai được? Sau cùng, tàu cập bến và cô bé nghe người ta nói là họ đang ở trên đất nước Pháp. Người ta đã nhanh chóng bán cô bé Batiđi như một nô lệ cho ông quản đốc lâu đài của vua Clôvít.
Phần còn lại của câu chuyện thật giống hệt như câu chuyện thần tiên Xiđơren, ngoại trừ một điều là chuyện này có thực. Cô bé lặng lẽ để ý nghe những điều người ta cắt nghĩa cho cô. Ngày qua ngày, cô đã làm hết công việc này đến công việc nọ cách tốt đẹp. Cô có tính e thẹn và dịu dàng đến nỗi ngay cả vua Clôvít cũng bắt đầu để ý đến cô. Vua càng chú ý quan sát thì càng bị gây ấn tượng. Cô gái này sẽ là một người vợ đảm đang tuyệt vời, thậm chí sẽ là vợ của vua được chăng? Và vào năm 649, Clôvít đã kết hôn với Batiđi. Thật lạ lùng! Cô bé mới ngày nào là một nô lệ mà nay đã trở thành một bà hoàng! Họ có với nhau tất cả ba người con trai. Rồi Clôvít qua đời khi đứa con trai lớn nhất mới được 5 tuổi, vì thế Batiđi đã đứng ra cai trị nước Pháp cho tới khi các con của ngài khôn lớn.
Dường như người ta đã phải hoàn toàn ngạc nhiên trước tài lãnh đạo khôn khéo của Batiđi. Ngài nhớ rất rõ về quãng đời nghèo khó của mình, những ngày bị bán làm nô lệ, một thứ “nô lệ rẻ tiền”. Batiđi muốn mọi người biết rằng họ thật quý giá chừng nào đối với Thiên Chúa. Với lòng yêu mến Chúa Giêsu và Giáo hội, Batiđi đã dùng địa vị của mình để giúp đỡ Giáo hội hết sức có thể. Ngài không yêu sách hay tự hào gì về điều đó. Hơn nữa, Batiđi quan tâm săn sóc những người nghèo khổ, Batiđi cũng bảo vệ cho người dân thoát khỏi cảnh bị bắt giữ hoặc bị xử tệ như những nô lệ. Batiđi đã cho xây nhiều bệnh viện trên nước Pháp. Ngài cũng thiết lập một chủng viện để đào tạo các linh mục và một tu viện dành cho các nữ tu. Sau cùng, chính hoàng hậu Batiđi cũng vào ẩn mình trong tu viện.
Khi làm nữ tu, Batiđi đã bỏ qua một bên địa vị hoàng tộc của mình. Batiđi cố gắng trở nên một nữ tu thật khiêm tốn và vâng phục. Ngài không bao giờ đòi hỏi điều gì và cũng chẳng trông mong người khác phục vụ mình. Batiđi rất dịu dàng và tử tế với những người đau ốm. Khi yếu bệnh, Batiđi đã can đảm chịu đựng trong suốt quãng thời gian dài cho tới khi qua đời vào ngày 30/01/680.

Cuộc đời của hoàng hậu Batiđi cho chúng ta thấy mỗi ngày là một khởi đầu mới. Nó có thể đem đến những điều ngạc nhiên kỳ thú. Vì thế, khi e ngại không biết điều gì sẽ xảy ra, chúng ta hãy cầu xin thánh nữ Batiđi hướng dẫn cho biết cách thức tin cậy vào Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-08-2012, 09:37 AM
Ngày 01 tháng Hai



THÁNH BRIGHITTA Ai-Len



Một vài năm sau khi thánh Patriciô đến Ai-len thì Brighitta chào đời. Thân phụ của Brighitta, ông Đubta, là một chủ nhân người Ai-len, và thân mẫu của ngài là bà Brôca.
Khi khôn lớn, Grighitta đào sâu thêm lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu. Brighitta tìm kiếm Người nơi những con người nghèo khổ và ngài thường mang thực phẩm cũng như quần áo đến cho họ.
Người ta nói rằng một ngày kia, Brighitta đã cho họ cả một thùng sữa đầy. Và sau đó, Brighitta bắt đầu lo lắng không biết thân mẫu ngài sẽ nghĩ sao về chuyện này. Brighitta cầu nguyện nài xin Thiên Chúa bù lại phần sữa mà ngài đã bố thí. Thật lạ lùng thay! Khi trở về nhà, Brighitta thấy chiếc thùng lại đựng đầy sữa!
Brighitta Ai-len rất xinh đẹp. Thân phụ của Brighitta tưởng rằng đã đến lúc Brighitta phải lập gia đình. Tuy nhiên, sâu thẳm trong tâm hồn, Brighitta đã quyết định dâng hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Ngài không muốn kết hôn với bất cứ người nào. Khi nhận biết rằng sắc đẹp của mình là lý do quyến rũ các chàng trai. Brighitta đã xin thực hiện một việc phi thường. Brighitta xin Chúa cất đi sắc đẹp nơi ngài để được tự do dâng mình phụng sự Thiên Chúa. Và Chúa đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Brighitta. Khi thấy con gái mình không còn hấp dẫn xinh đẹp nữa, người cha đã vui lòng để cho Brighitta đi tu.
Thánh nữ Brighitta Ai-len đã theo tiếng Chúa gọi dấn thân trong bậc sống tu trì. Thánh nữ thiết lập một nữ tu viện để cho các chị em khác cũng có thể hiến thân phụng sự Chúa. Hình như một phép lạ đã xảy ra sau khi Brighitta tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa trong chốn tu viện. Brighitta lại trở nên xinh đẹp! Ngài gợi cho mọi người tưởng nhớ đến Mẹ Maria vì Mẹ rất dịu dàng và đáng mến. Một số người đã gọi Brighitta là “Maria của người Ai-len”.
Thánh nữ Brighitta Ai-len qua đời năm 525.

Chúa Giêsu yêu thương mỗi người chúng ta. Hãy tìm thánh ý Chúa trong cuộc đời của mình. Thánh nữ Brighitta Ai-len đã tập trung vào những giá trị quan trọng như ý nghĩa của đời sống và giúp đỡ những người nghèo khổ kém may mắn. Thánh nữ Brighitta Ai-len nhắc nhở chúng ta đừng lãng phí thời giờ lo lắng không biết hình dạng chúng ta đẹp hay xấu. Hãy nhớ rằng mỗi người chúng ta là một tạo vật rất đặc biệt của Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-08-2012, 10:34 AM
Ngày 02 tháng Hai



ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA GIÊSU Trong Đền Thờ



Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Hài Nhi Giêsu vào đền thờ Giêrusalem. Ở đó, các ngài dâng tiến Chúa Giêsu lên Đức Chúa Cha. Đó là luật lệ của người Do Thái. Thánh Gia đã tuân giữ giới luật này với trọn cả tấm lòng yêu mến.
Khi các ngài ở trong đền thánh, Mẹ Maria cũng thực hiện một khoản luật khác. Sau khi sinh con, tất cả các bà mẹ Do Thái cần phải lên đền thờ để làm nghi thức thanh tẩy. Mẹ Maria đã thực hiện bổn phận của mình cách rất chu đáo. Mẹ dạy mỗi người chúng ta hãy sống khiêm nhường và vâng phục như Mẹ đã sống.
Tại đền thánh Giêrusalem, có một cụ già thánh thiện tên là Simêon. Ông được Chúa cho biết Hài Nhi Giêsu thực sự là Đấng Cứu Thế. Bồng ẵm Hài Nhi trên tay với niềm vui khôn tả, Simêon thốt lên : “Mắt tôi được chiêm ngắm Đấng Cứu Độ của tôi!” Thiên Chúa đã cho cụ Simêon nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng ta hãy tưởng tượng xem Đức Mẹ và thánh Giuse đang suy nghĩ gì? Rồi, được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, cụ tiên tri Simêon nói với Đức Mẹ rằng Đức Mẹ sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Ông muốn nói về nỗi đau đớn khủng khiếp mà Đức Mẹ sẽ cảm nghiệm khi Chúa Giêsu chịu chết trên Thánh Giá.
Ngày lễ Dâng Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng trên hết mọi sự chúng ta hãy thuộc trọn về Chúa. Vì Người là Cha dựng nên chúng ta, nên chúng ta hãy có bổn phận đáp trả ơn Người bằng cách sống vâng phục và yêu mến.

Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria và thánh Giuse. Chúng ta hãy vâng lời cha mẹ, các người giám hộ và các thầy cô cách mau mắn vui vẻ trong những điều phải lẽ. Chúng ta cũng hãy nài xin Thánh Gia giúp chúng ta biết sống tinh thần trách nhiệm hàng ngày.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-08-2012, 10:40 AM
Ngày 03 tháng Hai




THÁNH BLASIÔ



Thánh Blasiô sống vào thế kỷ thứ IV. Có vài người nói rằng Blasiô xuất thân trong một gia đình giàu có và được hấp thụ nên giáo dục Kitô giáo. Khi còn trẻ, lúc nào Blasiô cũng nghĩ tưởng về những nỗi khổ đau phiền muộn. Rồi dần dà ngài bắt đầu nhận ra rằng chỉ có những niềm vui thiêng liêng mới thực sự có thể làm cho người ta được hạnh phúc. Blasiô làm linh mục và rồi giám mục giáo phận Sêbastê ở Armênia (ngày nay người ta gọi miền đất này là Thổ Nhĩ Kỳ). Với tất cả nhiệt tâm của mình, Blasiô ra công hoạt động để bổn đạo của ngài sống thánh thiện và được hạnh phúc. Blasiô cầu nguyện và giảng dạy. Blasiô cố gắng giúp đỡ mọi người.
Khi nhà cầm quyền Lixihiô bắt đầu bách hại các Kitô hữu, thánh Blasiô cũng bị bắt giữ. Ngài bị tống giam và chờ ngày xử trảm. Trên đường phố, người ta tụ tập rất đông để chào vị giám mục thân yêu của họ lần cuối. Blasiô chúc lành cho tất cả mọi người, kể cả những người ngoại giáo. Rồi có một bà mẹ nghèo khổ chạy đến với ngài. Bà nài xin Blasiô cứu lấy đứa con nhỏ của bà đang bị mắc nghẹn xương cá. Thánh Blasiô liền thầm thĩ cầu nguyện rồi chúc lành cho đứa trẻ. Và ngài đã làm phép lạ cứu sống đứa trẻ. Đó là lý do tại sao những người mắc bệnh đau cổ họng thường hay cầu khẩn với thánh Blasiô. Trong ngày mừng lễ kính thánh Blasiô hôm nay, chúng ta hãy xin ngài chúc lành cho chiếc cổ họng của chúng ta. Hãy xin thánh nhân phù trợ để khỏi mắc phải những chứng bệnh về cổ họng.
Trong lao tù, vị giám mục thánh thiện này đã làm cho nhiều người ngoại giáo trở lại. Không nhục hình tra tấn nào có thể khiến Blasiô chối bỏ niềm tin vào Đức Chúa Giêsu.
Thánh Blasiô bị xử trảm vào năm 316. Giờ đây, Blasiô mãi mãi được ở bên Đức Chúa Giêsu.

Hôm nay, chúng ta có thể mừng kính lễ thánh Blasiô mà không cần đến bánh kẹo hoặc kem như chúng ta định mừng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-08-2012, 09:25 PM
Ngày 04 tháng Hai


THÁNH JEANNE VEUXLOISE



Thánh nữ Jeanne Veuxloise là công chúa của vua Louis XI, nước Pháp.
Ngài sinh năm 1464. Vua Louis rất thất vọng khi sinh ra Jeanne Veuxloise vì ông muốn có một hoàng tử. Thậm chí ông không muốn cô công chúa bé nhỏ của mình sống trong cung điện chỉ vì cô dị hình. Khi lên 5 tuổi, Jeanne Veuxloise được gởi đến sống với những người khác. Dù bị cha ruột của mình đối xử như thế, Jeanne Veuxloise vẫn cố gắng sống tử tế và hòa hợp với hết mọi người. Người ta nói cho Jeanne Veuxloise biết Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất yêu mến Jeanne. Jeanne cũng tin là Chúa sẽ sử dụng mình làm những việc tốt sáng danh Chúa. Và Jeanne Veuxloise đã nghĩ đúng.
Khi trưởng thành, thánh nữ Jeanne Veuxloise quyết định không lập gia đình. Ngài hiến dâng trọn vẹn thân xác cho Đức Chúa Giêsu và Mẹ chí thánh của Người. Nhưng vua cha lại không để ý đến sự chọn lựa tư riêng của con gái mình. Ông buộc Jeanne Veuxloise phải kết hôn với vị công tước miền Orlande. Suốt 22 năm, Jeanne Veuxloise đã là một người vợ chung thủy. Tuy nhiên sau khi công tước lên ngôi vua, ông đã gởi Jeanne đến sống bơ vơ tại một thị trấn nhỏ xa xôi. Hoàng hậu vẫn không bực tức! Thay vào đó, ngài kêu lên : “Xin chúc tụng Chúa! Chúa cho phép điều này xảy ra là để con có thể phục vụ Chúa tốt hơn…!”
Thánh nữ Jeanne Veuxloise đã sống đời cầu nguyện. Ngài thực thi việc bỏ mình và sống thật bác ái. Thánh nữ bố thí cho những người nghèo khó tất cả tiền bạc của mình. Thậm chí Jeanne Veuxloise đã thiết lập một dòng nữ dành cho các chị em gọi là dòng Đức Mẹ Truyền Tin. Jeanne Veuxloise dành phần đời còn lại của mình phục vụ Chúa Giêsu và Mẹ Chí Thánh trong hân hoan vui mừng.
Năm 1505, Jeanne Veuxloise qua đời. Ngài được Đức Thánh cha Piô XII phong thánh vào năm 1950.

Khi một người nào hoặc một tình cảnh nào đó làm chúng ta bị tổn thương, chúng ta hãy nhớ gương thánh nữ Jeanne Veuxloise. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ giúp chúng ta biết sống kiên nhẫn và tha thứ như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-08-2012, 09:27 PM
Ngày 05 tháng Hai


THÁNH AGATHA



Cô gái Kitô giáo xinh đẹp tên Agatha sống ở Sicile vào thế kỷ thứ III. Viên thống đốc vùng đó nghe biết về sắc đẹp của Agatha đã truyền bắt cô vào cung điện. Ông muốn cô phạm tội nghịch đức trong sạch, nhưng Agatha rất can đảm không chịu nhượng bộ. Ngài cầu nguyện : “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa biết tâm hồn con và thấu hiểu ước muốn của con. Chỉ mình Chúa là đủ cho con vì Chúa là tất cả của con. Xin hãy cứu lấy con khỏi người đàn ông xấu nết này, và xin hãy ban cho con đủ sức để vượt qua cơn cám dỗ này!”
Rồi viên thống đốc đã gởi Agatha đến nhà một đàn bà tinh quái. Có thể cô gái sẽ bị tiêm nhiễm những điều xấu chăng? Nhưng Agatha đã tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa và luôn luôn cầu nguyện. Ngài đã giữ mình thanh sạch. Thánh nữ Agatha không để tâm nghe theo những ác ý của bà và các con gái bà. Sau một tháng, Agatha được mang về cho viên thống đốc. Ông này lại cố gắng thuyết phục thánh nữ Agatha : “Em là một phụ nữ quý phái,” – ông nói rất tử tế, - “sao em lại hạ mình xuống làm một Kitô hữu thấp hèn như vậy?”
“Dù tôi quý phái thật,” – Agatha trả lời, - “nhưng tôi là nô lệ của Chúa Giêsu Kitô!”
Viên thống đốc hỏi lại : “Thế quý phái thật nghĩa là gì?”
Agatha trả lời : “Nghĩa là phục vụ Thiên Chúa!”
Khi nhận thấy Agatha nhất quyết không chịu phạm tội, viên thống đốc tức giận. ông liền truyền đánh đòn và hành hạ Agatha. Đang khi được mang đến nhà giam, thánh nữ Agatha than thở với Chúa : “Lạy Chúa là Đấng Tạo Hóa của con, Chúa đã bảo vệ con từ khi con còn trong nôi. Chúa đã gìn giữ con khỏi tình yêu thế gian và đã ban cho con được kiên tâm chịu đựng đau khổ. Giờ đây xin Chúa hãy nhận lấy linh hồn con!”
Thánh nữ Agatha tử đạo tại Catania, Cicile năm 250.

Chúng ta có thể bắt chước gương thánh nữ Agatha. Như ngài, chúng ta hãy cầu nguyện với tất cả tâm hồn khi bị cám dỗ làm điều sai quấy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-08-2012, 10:25 AM
Ngày 06 tháng Hai


THÁNH PHAOLÔ MIKI và Các Bạn Tử Đạo



Người ta thường gọi 26 vị thánh tử đạo này là Các Thánh Tử Đạo Nagasaki và Các Thánh Tử Đạo Nhật Bản.
Năm 1549, thánh Phanxicô Xaviê mang Tin Mừng của Kitô giáo đến nước Nhật. Nhiều người đã lãnh nhận Lời Chúa và được chính thánh Phanxicô rửa tội cho. Dù thánh Phanxicô Xaviê thay đổi vị trí truyền giáo và cuối cùng qua đời gần bờ biển Trung Hoa, thì tại Nhật Bản đức tin đã tăng triển. Vào năm 1587, nước Nhật đã có hơn 200.000 Kitô hữu. Công việc truyền giáo của các hội dòng ở đó phát triển mạnh mẽ. Các linh mục, các nữ tu và giáo dân Nhật Bản sống đức tin của mình cách sung mãn.
Năm 1597, hơn 45 năm sau khi thánh Phanxicô Xaviê đặt chân đến miền đất này thì viên lãnh đạo đang nắm quyền người Nhật, Hiđêyôsi, nghe lời đồn nhảm của một ông lái buôn người Tây Ban Nha. Ông lái buôn này xì xầm rằng những nhà truyền giáo chỉ là những kẻ phản quốc. Ông gợi lên rằng những kẻ phản quốc này một mai sẽ tra tay giúp những người Tây Ban Nha và những người Bồ Đào Nha san bằng nước Nhật. Lời gợi ý thật xảo trá và lố bịch. Nhưng, như một phản ứng quá mạnh so với sự cần thiết. Hiđêyôsi đã cho bắt 26 người, gồm 6 tu sĩ dòng Phanxicô đến từ Tây Ban Nha, Mêhicô và Ấn Độ ; 3 giáo lý viên người Nhật thuộc dòng Tên, kể cả thánh Phaolô Miki ; và 17 giáo dân Nhật Bản tính cả trẻ em. Nhóm 26 người này được dẫn đến nơi hành quyết ở ngoại thành Nagasaki. Người ta trói chặt mỗi người vào một cây thánh giá bằng những sợi dây xích hoặc dây thừng và kẹp chặt những vòng sắt quanh cổ các ngài. Họ đã dùng dây và cần trục nhấc bổng mỗi thánh giá lên và đặt vào trong những chiếc lỗ được đào sẵn. Rồi, người ta lần lượt phóng những ngọn giáo vào các nạn nhân. Các ngài hầu như đã chết cùng một lúc. Cộng đoàn Kitô hữu đã trân trọng cất giữ những trang phục tẩm máu của các ngài và các phép lạ đã lần lượt xảy ra qua sự cầu thay nguyện giúp của các thánh.
Mỗi vị thánh tử đạo là một lễ vật của Giáo hội. Thánh Phaolô Miki, một giáo lý viên thuộc dòng Tên, thật là một nhà giảng thuyết vĩ đại. Bài giảng can đảm sau cùng của thánh nhân phát xuất từ thập giá như thể ngài hối thúc cộng đoàn Kitô hữu hãy trung thành với đức tin cho đến hơi thở cuối cùng.
Đó là ngày 05/02/1597.
Đức Thánh cha Grêgôriô XVI đã tuyên phong Phaolô Miki và các bạn của ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1862.

Mỗi ngày, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người sống ở các nơi trên thế giới đang bị bách hại vì đức tin Công giáo. Chúng ta cũng hãy nài xin với thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo giúp chúng ta được can đảm trung thành với Đức Chúa Giêsu.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-08-2012, 10:28 AM
Ngày 07 tháng Hai


CHÂN PHƯỚC GILÊ MARIA



Tên gọi trong dòng của vị chân phước này là thầy Gilê Maria Giuse. Thầy Gilê Maria Giuse sinh năm 1729 gần Taranto, nước Ý. Lúc còn trẻ, Gilê học nghề đan dây thừng và ngài rất khá trong việc kinh doanh.
Khi lên 25 tuổi, Gilê nhận ra tiếng Chúa gọi đi tu dâng mình cho Chúa. Ngài gia nhập dòng thánh Phêrô Alcantara ở Napoli. Vậy Gilê có những nhân đức đặc biệt gì để đáng được gọi là “chân phước”? Người ta tìm ra nơi Gilê Maria hai nhân đức cao quý hướng dẫn cả đời sống tu trì của ngài là đơn sơ và khiêm nhường.
Càng ngày thầy Gilê Maria càng hun đúc thêm cho mình lòng ham ước phục vụ Thiên Chúa. Thầy biết ơn Thiên Chúa đã gọi thầy đi tu và thầy biểu lộ lòng biết ơn ấy qua cuộc sống thường ngày. Thầy đi đi lại lại qua các căn phòng nơi khu vực thầy sống. Thầy là người giữ cổng. Thầy mở cửa mau lẹ và luôn nở nụ cười tươi mỗi khi có khách rung chuông. Thầy dịu dàng quan tâm chăm sóc những người nghèo, những người vô gia cư, những người đau yếu đến cổng nhà dòng xin của bố thí. Bề trên giao cho thầy trách nhiệm phân phát phần thức ăn và của bố thí nhà dòng tiết kiệm dành cho người nghèo. Thầy Gilê Maria vui thích làm công việc ấy. Càng cho những người nghèo đói túng cực bao nhiêu, thầy Gilê Maria lại càng có thêm nhiều của để bố thí cho kẻ khác bấy nhiêu. Thầy tin rằng chính thánh Giuse đã làm công việc này vì thánh Giuse cũng đã từng chăm lo cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ cách chu đáo như vậy. Thầy Gilê Maria ân cần bày tỏ lòng sùng kính của mình đối với thánh Giuse qua suốt cuộc sống tu trì của thầy.
Sau một cuộc đời trung thành với Thiên Chúa và ơn gọi riêng của mình, thầy Gilê Maria Giuse đã qua đời ngày 07/02/1812.
Năm 1888, thầy được Đức Thánh cha Piô IX tôn phong lên bậc chân phước.

Chúng ta có thể học hỏi điều này nơi đời sống của chân phước Gilê Maria Giuse : không phải cứ làm được những việc lớn lao hay nắm giữ những chức vụ quan trọng mới là có công trước mặt Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa tìm kiếm là tấm lòng quảng đại và sự trung thành trong công việc chúng ta làm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-08-2012, 03:21 PM
Ngày 08 tháng Hai


THÁNH GIÊRÔNIMÔ ÊMILIANÔ


(Bổn mạng các Trẻ Em Mồ Côi và Vô Gia Cư)


Thánh Giêrônimô Êmilianô sinh năm 1486, là con trai của một gia đình quý tộc thành Venice, nước Ý. Giêrônimô là binh sĩ giỏi và được quyền chỉ huy một pháo đài cao trên tận miền sơn cước. Đang khi bảo vệ đồn bốt này cho khỏi đội quân của Maximilianô I xâm lược, Giêrônimô bị bắt làm tù binh và bị nhốt vào ngục tối. Bị xiềng xích trong chốn tù đày khốn khổ, Giêrônimô Êmilianô bắt đầu tiếc nuối về quãng đời vô tư mà ngài đã sống. Giêrônimô hối hận là đã tưởng nghĩ quá ít về Thiên Chúa. Ngài ân hận vì nhiều năm qua đã sống trong tình trạng kém cỏi bệ rạc. Giêrônimô hứa với Đức Mẹ rằng nếu Đức Mẹ thường phù giúp thì sẽ thay đổi cuộc đời. Lời cầu nguyện của Giêrônimô được chấp nhận và ngài đã trốn thoát cách an toàn. Người ta nói rằng Giêrônimô Êmilianô, với tấm lòng biết ơn sâu xa, đã đi thẳng đến một ngôi nhà thờ. Ngài treo sợi dây xích đã giam hãm ngài trong tù trước bàn thờ Đức Mẹ.
Cuối cùng, chàng thanh niên trẻ tuổi này trở thành linh mục. Cha Giêrônimô Êmilianô đã hết lòng tận tụy với những công việc bác ái từ thiện. Điều quan tâm đặc biệt của Giêrônimô là chăm lo cho những trẻ em mồ côi vô gia cư sống lang thang trên các hè phố. Giêrônimô thuê một căn nhà cho chúng ở, cho chúng áo quần và thực phẩm. Ngài cũng hướng dẫn chúng bằng những chân lý đức tin.
Thánh Giêrônimô Êmilianô thiết lập một dòng tu gọi là hội Tôi Tớ Những Người Nghèo Khổ. Mục đích của dòng là tận tâm chăm sóc người nghèo, huấn luyện giới trẻ, đặc biệt là các trẻ em mồ côi. Thánh Giêrônimô Êmilianô cũng ra sức giúp đỡ những người dân quê. Ngài làm việc với họ trên các cánh đồng. Thánh Giêrônimô chia sẻ cho họ nghe về sự tốt lành của Thiên Chúa khi làm việc bên họ.
Năm 1537, thánh nhân qua đời đang khi chăm sóc cho những nạn nhân bệnh dịch. Đến năm 1767, Giêrônimô Êmilianô được Đức Thánh cha Bênêđictô XIV tôn phong lên bậc hiển thánh.
Thánh Giêrônimô Êmilianô là một tặng ân cho toàn thể Giáo hội và cách riêng cho những người sống ở thời đại của ngài. Nhìn lại toàn bộ đời sống của thánh nhân, chúng ta nhận thấy ngài thực là một hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương. Giêrônimô Êmilianô đem niềm hy vọng đến cho những người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Năm 1928, Đức Thánh cha Piô XI đã đặt Giêrônimô Êmilianô làm thánh quan thầy của các trẻ em mồ côi vô gia cư.

Chúng ta hãy khẩn cầu thánh Giêrônimô Êmilianô giúp chúng ta ý thức tầm quan trọng trong việc trở nên một tấm gương tốt. Chúng ta hãy nài xin thánh nhân giúp chúng ta biết nhận ra những cơ hội mà chúng ta phải làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và đức tin của Giáo hội Công giáo.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-08-2012, 03:25 PM
Ngày 09 tháng Hai




THÁNH APOLONIA và CÁC THÁNH TỬ ĐẠO ALEXANDRIA



Apolonia, là trinh nữ thánh thiện, sống ở Alexandria, nước Ai Cập vào thế kỷ thứ III. Suốt triều đại uy quyền của vua Philipphê, các Kitô hữu bị bắt bớ và bách hại. Apolonia đã dùng cả cuộc đời mình phục vụ Thiên Chúa. Bởi vì đã già nua tuổi tác nên Apolonia sắp sửa về nơi vĩnh phúc. Apolonia đã anh dũng dám liều mạng sống mình để an ủi các Kitô hữu đang đau khổ trong chốn lao tù. “Hãy nhớ rằng những gian nan thử thách mà các bạn đang chịu đây sẽ không lâu,” – thánh nữ nói – “còn niềm vui thiên đàng sẽ kéo dài mãi mãi!”
Chỉ một thời gian sau, thánh nữ Apolonia cũng bị bắt giữ. Khi quan tòa hỏi tên, ngài đã can đảm trả lời : “Tôi là một Kitô hữu. Tôi yêu mến và phục vụ một Thiên Chúa chân thật!”
Bọn người căm giận đã dùng nhục hình tra tấn thánh nữ Apolonia để ép buộc ngài phải chối bỏ đức tin. Trước tiên, họ vả rụng hết răng của Apolonia rồi đánh ngài bất tỉnh. Chẳng lạ gì mà người ta thường hay cầu khẩn với thánh nữ Apolonia mỗi khi bị đau răng! Nhưng dù đã dùng hết cách, họ vẫn không lay chuyển được lòng tin của một người phụ nữ. Rồi người ta nói với Apolonia rằng nếu ngài không chối bỏ Chúa Giêsu, thì sẽ bị ném vào vạc lửa hung tợn. Nhưng Apolonia vẫn không để cho bất cứ nỗi sợ hãi nào chế ngự được mình.
Thánh nữ quyết tâm thà chịu chết thiêu còn hơn chối bỏ lòng tin vào Chúa Giêsu. Khi thấy thánh nữ anh dũng can đảm như vậy, nhiều người ngoại giáo đã trở lại.
Thánh nữ Apolonia mất vào khoảng năm 249.

Các thánh tử đạo đã hết sức ham ước được đổ máu mình ra để tôn vinh Đức Chúa Giêsu. Phần chúng ta, chúng ta đã sẵn lòng làm gì cho Người? Chúng ta có đủ kiên tâm chịu đựng một sự phiền toái nho nhỏ mà chẳng bĩu môi hoặc ca thán không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-08-2012, 01:04 PM
Ngày 10 tháng Hai




THÁNH SCOLATTICA



Thánh Benedicto và thánh nữ Scolattica là anh em sinh đôi sống tại miền Trung nước Ý vào năm 480. Người ta nói rằng suốt nhiều năm trời, song thân của các ngài đã cầu xin Thiên Chúa ban cho được có mụn con để nối dõi tông đường. Cuối cùng, họ đã sinh hạ Benedicto và Scolattica. Họ đã yêu thương trìu mến cũng như đã cố gắng dưỡng dục con cái của họ.
Thánh Scolattica là một cô bé thông minh và rất giàu tình bạn. Thánh nữ hứa sẽ dâng mình cho Đức Chúa Giêsu ngay từ lúc còn rất nhỏ. Sau khi song thân qua đời, Scolattica đi thăm anh Benedicto của mình là người đã rời khỏi gia đình. Anh đã xây một đan viện thật lớn và hiện đang là bề trên của nhiều đan sĩ tốt lành. (Benedicto là người sáng lập nên dòng Biển Đức).
Thánh Benedicto đối xử rất tốt với em gái của ngài. Khi nhận thấy cô em và nhiều thanh nữ khác muốn đi tu, ngài đã giúp xây cất cho họ một tu viện. Khi Benedicto ở Subjaco, Scolattica đến sống ở một tu viện gần đó. Khi người anh song sinh của ngài dời đến vùng núi Cassino, thánh nữ cũng chuyển sang sống trong một nữ tu viện bên cạnh.
Cứ mỗi năm một lần, thánh Benedicto đến thăm em gái mình và lưu lại cả ngày với em. Trong một chuyến thăm, khi Benedicto chuẩn bị ra về, Scolattica năn nỉ xin anh ở lại lâu hơn nhưng Benedicto nói rằng không thể được. Cô em liền lặng lẽ cúi đầu nài xin Thiên Chúa kéo dài cuộc thăm viếng của anh. Rồi đột nhiên, một cơn giông bão nổi lên và Benedicto không thể bỏ đi được. Ngài đã ở lại và trò chuyện với người em suốt đêm. Các ngài trao đổi với nhau về sự thiện hảo của Thiên Chúa, về hạnh phúc sung mãn của các thánh trên thiên đàng.
Sau đó ít lâu, Scolattica qua đời. Thánh nữ mất vào năm 547.

Qua cách đối xử ân cần, Scolattica và Benedicto đã kéo nhau lại gần Thiên Chúa hơn. Cũng thế, chúng ta hãy học hỏi gương sáng nơi các ngài và xin các ngài chia sẻ cho chúng ta những tinh thần đạo đức thiêng liêng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-08-2012, 01:10 PM
Ngày 11 tháng Hai


ĐỨC MẸ Lộ Đức



Vào ngày 11/02/1858, một Bà Đẹp đã hiện ra lần đầu tiên với Benadette Sobiro lại Lộ Đức (Lourdes), nước Pháp.
Benadette là một bé gái đau yếu gầy còm. Gia đình cô quá nghèo đến nỗi họ phải sống trong một hầm chứa mà trước đây nó là nhà giam. Tuy đã lên 14 nhưng Benadette vẫn chưa thể biết đọc biết viết! Tuy không thể nào nhớ được những bài học giáo lý nhưng Benadette lại là một cô bé rất ngoan. Benadette yêu mến Thiên Chúa nhiều lắm. Dù trí nhớ kém cỏi nhưng Benadette vẫn hết sức cố gắng học hỏi mọi điều về Thiên Chúa. Benadette cũng sống trong sạch và vâng lời nữa!
Bà Đẹp mà Benadette xem thấy vận một chiếc áo dài trắng với một khăn thắt lưng màu xanh nhạt. Bà đội một chiếc lúp màu trắng phủ từ đầu xuống tới chân. Trên hai bàn chân có hai bông hồng vàng rất dễ thương. Hai tay chắp lại trước ngực và có một tràng chuỗi đeo trên bàn tay phải. Dây chuyền và Thánh Giá của cỗ chuỗi óng ánh tựa vàng ròng.
Bà Đẹp đáng yêu khuyến khích Benadette lần chuỗi Mân Côi. Bà hiện ra tất cả 18 lần với Benadette. Bà xin Benadette nói cho mọi người hãy cầu nguyện, hãy ăn năn sám hối và đọc kinh Mân Côi để cầu cho các tội nhân.
Trong lần hiện ra cuối cùng, Benadette hỏi Bà Đẹp là ai và Bà đã trả lời : “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội!” Bà chính là Đức Trinh Nữ Maria, mẹ Thiên Chúa.
Người ta đã xây cất một vương cung thánh đường tại nơi Benadette trông thấy Đức Mẹ. Dù những lần hiện đến của Đức Mẹ đã xảy ra hơn 100 năm trước, thì bây giờ ở nơi ấy các phép lạ hiện vẫn còn đang tiếp tục xảy ra. Nhiều bệnh nhân được ơn chữa lành. Người què được đi. Người mù được thấy. Những người đau khổ cô đơn tìm được niềm hy vọng. Ở đó, nơi Đức Mẹ đã hơn một lần hiện ra với thánh nữ Benadette, Đức Mẹ cũng đang bày tỏ lòng yêu thương của Người đối với tất cả chúng ta.

Mỗi ngày, chúng ta hãy cố gắng đọc kinh Mân Côi để tôn kính Đức Mẹ. Nhờ lời kinh nguyện này, chúng ta lãnh nhận được hết mọi ân sủng cần thiết cho bản thân và cho những người chúng ta yêu mến.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-08-2012, 01:19 PM
Ngày 12 tháng Hai




THÁNH MÊLÊSIÔ



Thánh Mêlêsiô được kêu gọi coi sóc Giáo hội Chúa Kitô ở thế kỷ thứ IV. Những cuộc bách hại thảm khốc của người Roma đã qua, và vào năm 315, hoàng đế Constantino đã thừa nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp. Vậy, điều gì đã làm cho sứ vụ của giám mục Mêlêsiô trở nên khó khăn? Có nhiều cơn giông tố đã tích tụ bên trong Giáo hội. Một số người tin nhận theo Công giáo, số khác theo bè rối Ariô. Ariô là bè rối phủ nhận thiên tính của Đức Chúa Giêsu. Một số người đã tin vào sự nhầm lẫn này bởi vì lúc đó sự việc chưa được các giới chức trong Giáo hội phân định rõ ràng.
Giám mục Mêlêsiô yêu mến Giáo hội và luôn luôn theo sát những giáo huấn của Đức Chúa Giêsu. Ngài tin nhận Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và hiểu rằng Giáo hội sẽ phải tuyên bố cách minh bạch Đức Chúa Giêsu là ai. Năm 361, Mêlêsiô được chọn làm giám mục thành Antiôkia. Những người theo bè rối Ariô không hài lòng. Suốt 20 năm, Mêlêsiô là một giám mục kiên nhẫn và giàu lòng bác ái, nhưng những người không chấp nhận Mêlêsiô đã gây cho ngài nhiều sự khó khăn. Mêlêsiô đã thường phải chạy trốn vì họ muốn chiếm lấy chức vị giám mục giáo phận của ngài. Nhưng thánh Mêlêsiô là một giám mục nghiêm túc đích thực, ngài đã hết sức nhẫn nại chịu đựng để sớm trở về. Khi hoàng đế Valenxiô băng hà năm 378, bè rối Ariô cũng ngưng lại những cuộc bách hại Giáo hội.
Năm 381, Công đồng Constantino danh tiếng, một Công đồng chung cho cả Giáo hội toàn cầu được triệu tập. Các giám mục muốn bàn về những chân lý đức tin quan trọng. Giám mục Mêlêsiô được trao cho trách vụ khai mạc Công đồng và trực tiếp chủ tọa các buổi họp. Và ngài đã qua đời ở đó, tại một trong các buổi họp trước sự thương tiếc của tất cả các giám mục.
Các vị thánh danh tiếng như thánh Gioan Christômô và thánh Grêgôriô Nysê đã tham dự đám tang của ngài cùng với tất cả các giám mục tại Công đồng. Dân thành Constantino cũng đổ dồn về tòa Giám mục. Thánh Grêgôriô Nysê đã thuyết giảng trong thánh lễ an táng. Ngài nói về vị giám mục hiền lành đầy nhân hậu giống Chúa Kitô mà mọi người đều yêu mến. Sau cùng, ngài kết luận : “Ai yêu mến Giáo hội thì cũng yêu mến thánh Mêlêsiô!”
Thánh Grêgôriô Nysê cũng đã đề cập đến sự bình thản và nụ cười rạng rỡ tràn đầy niềm hy vọng của giám mục Mêlêsiô, cả đến giọng nói đáng yêu và phong thái dịu dàng của ngài.
Thánh Mêlêsiô về trời ngày 12/02/381.

Giám mục Mêlêsiô luôn luôn thân thiện và tốt bụng với hết thảy mọi người. Nhiều người cho rằng đời sống của thánh nhân tuy nghiêm nghị nhưng chưa bao giờ mất đi sự hiền từ nhã nhặn. Đây là tiêu chuẩn thực tế minh chứng lòng tốt của Mêlêsiô. Đây cũng là cách thế chứng tỏ tình yêu của thánh nhân đối với Đức Chúa Giêsu. Với những cố gắng bé nhỏ, chúng ta cũng có thể làm được như vậy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-08-2012, 01:21 PM
Ngày 13 tháng Hai




THÁNH CATARINA RIXI



Alexandrina sinh năm 1522 trong một gia đình họ Rixi ở Florencia, nước Ý. Lúc lên 13 tuổi, Alexandrina vào tu dòng nữ Đa Minh. Khi là nữ tu, Alexandrina chọn tên Catarina. Ngay lúc còn trẻ, Catarina đã có một tình yêu thâm sâu đối với cuộc khổ nạn của Đức Chúa Giêsu. Thánh nữ thường hay suy ngẫm về những nỗi thống khổ của Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho thánh nữ đặc ân lớn lao là được mang những thương tích của Chúa trong mình. Và Catarina rất đỗi sung sướng lãnh nhận mọi đau đớn nơi những vết thương này.
Thánh nữ Catarina Rixi rất có lòng cảm thương đối với các linh hồn tội nghiệp đang phải đau khổ trong chốn luyện hình. Thánh nữ nhận thấy họ đang khao khát mong mỏi được ở với Thiên Chúa trên thiên đàng biết bao. Thánh nữ cũng nhận thấy thời gian trong luyện ngục dường như kéo dài đến vô tận. Thánh Catarina cầu nguyện và làm việc sám hối thay cho họ. Lần kia, Chúa cho thánh nữ biết có một người đang ở luyện ngục. Catarina đã đặc biệt dâng hiến tình yêu của mình để chịu đau khổ thay cho linh hồn ấy. Thiên Chúa đã chấp nhận lời khấn xin của Catarina và thánh nữ đã phải chịu đau khổ dữ dội suốt 40 ngày.
Sau một cơn đau bệnh kéo dài, thánh nữ Catarina Rixi đã qua đời vào độ tuổi 68. Đó là ngày 02/02/1590.
Catarina Rixi được Đức Thánh cha Clemente XII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1747.

Chúng ta có thể giúp đỡ các linh hồn đáng thương trong luyện ngục bằng những lời cầu nguyện như thánh nữ Catarina Rixi đã làm. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ chóng được hưởng nhan thánh Chúa. Khi ở trên thiên đàng, chắc chắn họ sẽ lại cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-08-2012, 11:11 AM
Ngày 15 tháng Hai




THÁNH FAUSTINÔ và THÁNH GIÔVITA



Thánh Faustinô và thánh Giôvita là hai anh em ruột sống ở Brescia nước Ý. Các ngài là những thành viên trong số những Kitô hữu tử đạo tiên khởi. Các ngài đã chịu đau khổ suốt cuộc bách hại của vua Hadrianô ở thế kỷ thứ II.
Hồi còn niên thiếu, Faustinô và Giôvita rất được mọi người biết đến vì lòng mộ mến tôn giáo của mình. Các ngài cũng làm nhiều việc bác ái Kitô giáo. Các ngài cùng nhau giúp đỡ những người gặp cảnh khó khăn nghèo túng. Đức giám mục giáo phận Brescia đã truyền chức linh mục cho các ngài và các ngài bắt đầu rao giảng khắp nơi cho cả người giàu lẫn người nghèo. Các ngài đã hy sinh hết mình để đem nhiều linh hồn về cho Thiên Chúa. Bởi vì lúc ấy đang là thời kỳ bắt đạo nên người ta rất dễ hoang mang lo sợ. Nhưng đối với Faustinô và Giôvita thì không thế, các ngài chẳng hề sợ hãi những binh lính dù những người này thực sự đã giết hại nhiều Kitô hữu.
Khi nhà vua nghe biết Faustinô và Giôvita dám công khai giảng dạy, vua liền ra lệnh bắt giam các ngài và cho lính tra tấn hành hạ các ngài. Vua hy vọng rằng nhục hình sẽ làm cho các ngài phải im lặng. Thế nhưng dù phải chịu đau khổ, hai linh mục vẫn cương quyết rao giảng về Chúa Giêsu. Các ngài vẫn giữ tư thế cầu nguyện ngay cả trong chốn lao tù khủng khiếp ấy. Các ngài thật sự sẵn lòng hiến dâng hết những đau khổ của mình cho Thiên Chúa. Faustinô và Giôvita đã khích lệ nhau hãy cứ can đảm dù có phải chết vì Đức Chúa Giêsu như các thánh tử đạo. Cả hai anh em vẫn một lòng cương quyết giữ vững niềm tin và tình yêu đối với Chúa Giêsu cho tới lúc chịu tử đạo.
Chúng ta không biết được chính xác ngày về trời của các ngài. Tuy nhiên, tấm gương anh dũng của các thánh Faustinô và Giôvita thật là một ký ức thiêng liêng và là một hiệu lệnh đánh thức tất cả mọi người chúng ta.

Thiên Chúa hài lòng biết bao khi thấy anh chị em chúng ta giúp nhau học hỏi về đức tin của mình. Như thánh Faustinô và thánh Giôvita, anh chị em hãy khuyên bảo nhau yêu mến và sống cho Đức Chúa Giêsu.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-08-2012, 11:13 AM
Ngày 16 tháng Hai




THÁNH ÔNÊSIMÔ



Thánh Ônêsimô sống vào thế kỷ thứ I. Ngài là một nô lệ ăn cắp của chủ mình và chạy trốn đến Roma. Nơi đây, Ônêsimô gặp vị đại tông đồ là thánh Phaolô, hiện đang là tù nhân vì đức tin. Phaolô đã đón nhận Ônêsimô với tấm lòng nhân hậu và yêu thương của một người cha tốt lành. Phaolô giúp Ônêsimô nhận ra việc ăn cắp của chủ là hành vi sai trái. Và hơn thế nữa, ngài đã hướng dẫn Ônêsimô đón nhận đức tin Công giáo.
Sau khi trở nên Kitô hữu, Ônêsimô được Phaolô gửi về cho chủ nhân của Ônêsimô, ông Philêmôn, là bạn thân của Phaolô. Nhưng Phaolô không sai người nô lệ trở về một mình mà không bảo vệ anh ta. Phaolô đã “trang bị” cho Ônêsimô một lá thư ngắn gọn nhưng đầy thế giá. Phaolô hy vọng rằng lá thư của ngài sẽ làm cho Ônêsimô, người bạn mới quen biết của ngài được hài lòng. Phaolô viết cho cụ Philêmôn rằng : “Tôi nài xin cho Ônêsimô, người con yêu dấu của tôi. Tôi gởi nó lại cho anh. Xin anh hãy tiếp nhận nó như tấm lòng của tôi vậy!”
Lá thư cảm động đó chúng ta gặp thấy ở trong Kinh Thánh Tân Ước. Cụ Philêmôn đã nhận lá thư của Phaolô và lời chỉ bảo của ngài. Khi Ônêsimô trở về với người chủ của mình, ngài được trả tự do. Sau đó, Ônêsimô trở lại với Phaolô và nên người giúp việc trung thành của Phaolô.
Thánh Phaolô đặt Ônêsimô làm linh mục và giám mục. Người nô lệ năm xưa đã dâng hiến phần đời còn lại của mình để rao giảng Tin Mừng là Lời đã làm thay đổi toàn bộ đời sống của ngài.
Người ta cho rằng trong thời gian Giáo hội bị bách hại, Ônêsimô đã bị xiềng đến Roma và bị ném đá.

Nếu đã lỡ làm cho ai bị tổn thương trong bất cứ cách nào, chúng ta hãy cố tìm dịp xin lỗi ngay. Thiên Chúa sẽ hài lòng khi thấy chúng ta biết nhận lỗi, và Người sẽ chúc lành cho chúng ta như đã chúc lành cho Ônêsimô.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-08-2012, 10:03 AM
Ngày 17 tháng Hai


Bảy Anh Em LẬP DÒNG TÔI TỚ ĐỨC MẸ



Bảy vị thánh này sống vào thế kỷ thứ XIII ở thành phố Florencia, nước Ý. Mỗi vị có một lòng yêu mến rất đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Các ngài là những thành viên năng động của Hiệp hội Đức Trinh Nữ Maria.
Cách thức các ngài trở thành những người lập dòng Tôi Tớ thật đặc biệt. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, khi 7 anh em đang chìm đắm trong cầu nguyện thì Đức Mẹ đã hiện ra với các ngài. Đức Mẹ gợi hứng cho các ngài từ bỏ thế gian và sống cho riêng mình Thiên Chúa. Sau nhiều năm sống như các ẩn sĩ, các ngài đến gặp đức giám mục và xin đức giám mục một luật sống để tuân giữ. Vị giám mục khuyến khích các ngài hãy cầu nguyện và xin Đức Mẹ soi sáng hướng dẫn. Rồi một ngày kia Đức Mẹ lại hiện đến với các ngài, mình vận một áo dòng màu đen, bên cạnh là một thiên thần mang theo một cuộn giấy với những hàng chữ : “Những Tôi Tớ Đức Mẹ”. Trong thị kiến này, Đức Mẹ nói rằng Đức Mẹ đã chọn các ngài làm tôi tớ của Người. Đức Mẹ xin các ngài mang tu phục màu đen. Và đây chính là bộ tu phục các ngài đã vận từ năm 1240. Các ngài cũng bắt đầu sống cuộc đời tu trì theo luật dòng thánh Augustinô.
Các ngài giúp nhau yêu mến và phục vụ Thiên Chúa. Sáu người trong nhóm được thụ phong linh mục. Tên của 6 vị là : Bôphiliô, Amađêô, Hiuzơ, Sôstơn, Manêtô và Buônagiunta. Vị sáng lập thứ bảy, Alêxis, ở lại làm tu sĩ vĩnh viễn. Với lòng khiêm nhường, ngài đã không chọn làm linh mục.
Có nhiều anh em đã đến xin gia nhập Hiệp hội của các ngài. Các ngài được biết đến dưới danh hiệu “Những Đầy Tớ Của Đức Mẹ” hay “Những Người Tôi Tớ”.
Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ được Tòa thánh Vatican chấp nhận năm 1259. Bảy vị sáng lập thánh thiện này đã được Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong hiển thánh năm 1888.

Như bảy vị thánh này, chúng ta hãy yêu mến Đức Mẹ và xin Người giúp chúng ta mỗi khi gặp gian nan thử thách.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-08-2012, 10:07 AM
Ngày 19 tháng Hai




THÁNH BARBATÔ



Thánh Barbatô sinh năm 612 tại miền Benevento, nước Ý. Barbatô được hấp thụ nền giáo dục Kitô giáo, và vì thế, Barbatô có một đời sống đạo hạnh tốt lành. Barbatô sống đức tin của mình cách nghiêm túc và đặc biệt là ngài rất thích đọc Kinh Thánh. Barbatô được thụ phong linh mục ngay khi vừa đủ tuổi. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ. Nhưng đời sống của một chủ chăn thật không được dễ dàng thoải mái! Một số người không thích Barbatô nói động đến lối sống của họ. Thánh Barbatô khuyên dụ họ hãy sống tốt hơn. Ngài nhắc họ hãy ăn năn hối cải những tội lỗi của họ. Có vài người đã tức giận. Họ hành hạ làm khổ Barbatô và cuối cùng ép buộc Barbatô phải rời khỏi xứ đạo.
Vị linh mục trẻ hối hận. Ngài trở về Benevento nơi ngài sinh trưởng. Ở đây, Barbatô được tiếp đón rất nồng hậu. Nhưng cũng có những khó khăn nơi thành phố này. Nhiều người theo đạo Công giáo vẫn giữ lại những ngẫu tượng trong nhà của họ. Họ thấy thực là điều khó khi phải bỏ đi những bùa ngải ấy. Họ tin vào quyền phép ma thuật. Thánh Barbatô rao giảng chống lại những mê tín dị đoan này. Nhưng do họ vẫn cương quyết giữ lấy những ngẫu tượng của họ, nên thánh Barbatô báo cho họ biết vì tội lỗi này, thành phố của họ sẽ bị quân thù tấn công, và đã xảy ra đúng như vậy.
Về sau, dân thành từ bỏ lầm lỗi của họ và hòa bình đã trở lại. Rồi, thánh Barbatô được tấn phong làm giám mục. Thánh nhân vẫn tiếp tục công việc cải hóa đoàn chiên của ngài.
Ngày 29/02/682, thánh Barbatô qua đời, thọ 70 tuổi.

Cũng như thánh Barbatô, các cha xứ của chúng ta muốn chúng ta trở nên tốt lành để được vào thiên đàng. Chúng ta hãy cố gắng lắng nghe và vâng theo lời khuyên dạy của các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-08-2012, 09:01 AM
Ngày 20 tháng Hai




THÁNH ÊUSÊRIÔ



Thánh Êusêriô sinh vào thế kỷ thứ VIII tại thành phố Orlander, nước Pháp. Êusêriô được hấp thụ một nền giáo dục Kitô giáo. Câu nói trích trong thư thứ Nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Côrintô : “Thế gian mà chúng ta xem thấy đây đang qua đi” (1Cor 7,31) đã gây cho Êusêriô một ấn tượng rất sâu sắc. Câu nói ấy giúp Êusêriô nhận ra rằng cuộc sống của chúng ta trên trái đất này thật rất ngắn ngủi, thiên đàng và hỏa ngục mới là nơi vĩnh cửu. Ngài quyết định tìm kiếm những niềm vui thiên đàng bằng cách chỉ sống cho riêng mình Thiên Chúa.
Năm 714, thánh Êusêriô rời bỏ gia đình giàu có của ngài và vào tu trong đan viện Benedicto. Êusêriô đã trải qua 7 năm ở đó sống liên kết mật thiết với Thiên Chúa. Năm 721, sau khi người cậu là giám mục giáo phận Orlander qua đời, Êusêriô được chọn thay vào chức vị này. Êusêriô tuy lúc ấy mới chỉ được 25 cái xuân xanh nhưng rất khiêm tốn. Ngài không muốn rời xa đan viện thân yêu của ngài. Nước mắt giàn dụa, thánh Êusêriô xin đặc ân được ở lại một mình với Thiên Chúa trong đan viện. Nhưng sau cùng, Êusêriô đã chấp nhận vì lòng yêu mến đức vâng lời. Êusêriô là vị giám mục khôn ngoan, thánh thiện. Thánh nhân đã giúp ích nhiều cho các linh mục và bổn đạo trong giáo phận của ngài.
Carôlô Máctel, một nhân vật đầy quyền lực thuộc phe chính trị, thường hay lấy một số tiền của Giáo hội để ủng hộ và giúp đỡ những cuộc chiến tranh của ông. Và bởi giám mục Êusêriô nói cho Carôlô biết điều đó là sai, Carôlô đã tống giam Êusêriô vào tù. Êusêriô bị trục xuất lần thứ nhất đến Cologne, rồi đến một pháo đài gần Lieuseux. Nhưng viên thống đốc coi sóc Êusêriô đã lợi dụng tấm lòng hiền lành và khiêm nhượng của vị giám mục để thu dụng các kẻ thù của ông. Sau đó ít lâu, ông lặng lẽ giải thoát vị giám mục khỏi cảnh tù đày và gởi ngài vào một tu viện. Ở đây, trong sự thanh vắng, thánh nhân đã dùng cả quãng thời gian còn lại để cầu nguyện cho đến khi qua đời năm 743.

Chúng ta hãy suy nghĩ về lời khuyên tốt lành của thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Côrintô : “Thế giới của chúng ta đây đang qua đi.” Những lời này sẽ giúp chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về mục đích vĩnh hằng của mình là thiên đàng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-08-2012, 09:02 AM
Ngày 21 tháng Hai


THÁNH PHÊRÔ ĐAMIANÔ



Thánh Phêrô Đamianô sinh năm 1007. Khi còn rất nhỏ, Phêrô Đamianô đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ. Phêrô được một người anh lớn nhận cho ở trọ. Anh này đã lăng mạ chửi rủa và hay bỏ đói ngài. Một người anh khác cùng tên Đamianô, thấy hoàn cảnh thực tế của người cậu em, đã dẫn ngài về nhà riêng của mình.
Thế rồi, cuộc đời của Phêrô chuyển sang một bước ngoặt hoàn toàn mới. Phêrô được quan tâm và được đối xử yêu thương. Phêrô rất biết ơn người anh đến nỗi khi trở thành tu sĩ, ngài đã lấy tên là Đamianô theo người anh yêu quý của mình. Đamianô cung cấp cho Phêrô ăn học và khuyến khích việc học của em. Cuối cùng, Phêrô thành tài và đã giảng dạy tại đại học khi mới ở độ tuổi 20! Người ta đều biết Phêrô là một giáo sư ưu tú. Nhưng Thiên Chúa đã hướng dẫn Phêrô bằng những phương cách mà chính thánh nhân cũng không thể nào hiểu được.
Thánh Phêrô Đamianô sống trong thời đại mà nhiều người trong Giáo hội quá bị chi phối bởi những mục đích trần tục. Phêrô nhận thấy rằng Giáo hội thánh thiện có ân sủng từ Chúa Giêsu hầu cứu chuộc tất cả mọi người. Ngài mong ước Giáo hội chiếu giãi sự thánh thiện của Chúa Giêsu. Sau 7 năm giảng dạy, Phêrô Đamianô đã quyết định đi tu. Ngài muốn sống phần đời còn lại của ngài trong cầu nguyện và sám hối. Phêrô Đamianô sẽ cầu nguyện và hy sinh để nhiều người trong Giáo hội trở nên thánh thiện. Rồi Phêrô gia nhập đan viện của thánh Rômualđô. Phêrô Đamianô viết quy luật cho các tu sĩ. Ngài cũng viết tiểu sử về thánh Rômualđô, vị sáng lập thánh thiện của họ. Phêrô Đamianô cũng viết nhiều tác phẩm thần học để giúp người giáo dân đào sâu thêm lòng tin của mình. Đan viện phụ của Phêrô Đamianô đã hai lần sai ngài đến các đan viện lân cận. Ngài khuyến khích các đan sĩ thực hành những cải cách canh tân nhằm giúp họ dễ kết hợp thân mật hơn với Thiên Chúa. Các đan sĩ rất biết ơn Phêrô Đamianô vì ngài thật có lòng tốt và đáng kính trọng.
Sau cùng, từ đan viện, Phêrô Đamianô được gọi làm giám mục và hồng y. Suốt quãng đời của mình, Phêrô Đamianô được sai làm những nhiệm vụ quan trọng cho nhiều Đức Thánh cha.
Năm 1072, thánh Phêrô Đamianô qua đời. Đến năm 1828, Phêrô Đamianô được tôn phong làm Tiến sĩ Hội thánh vì ngài là nhà vô địch trong việc bảo vệ chân lý và kiến tạo hòa bình.
Thi sĩ Đantê (1265 – 1321) đã nhận định sự cao cả của thánh Phêrô Đamianô. Trong vở kịch thơ Diệu Kỳ, thi sĩ đặt thánh Phêrô Đamianô trên “tầng trời thứ bảy”. Đó là nơi mà Thiên Chúa dành cho những người thánh thiện, những người ham thích suy niệm và chiêm ngưỡng Thiên Chúa.

Nhiều năm thơ ấu của thánh Phêrô Đamianô thật buồn thảm và kém may mắn, nhưng Phêrô Đamianô đã học biết cách tìm kiếm Thiên Chúa bằng sự tin cậy trẻ thơ. Phêrô Đamianô dùng những ân lộc của mình để làm cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người được yêu mến và trân trọng hơn. Chúng ta hãy cầu xin thánh Phêrô Đamianô chỉ cho chúng ta biết cách sống quảng đại với Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-08-2012, 01:33 PM
Ngày 22 tháng Hai


Lễ Kính Ngai Tòa Thánh PHÊRÔ



Thánh Phêrô là thủ lĩnh của các Tông đồ và là giám mục đầu tiên của Roma. Đức Chúa Giêsu nói với ngài : “Con là Phêrô, và trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.” (Mt 16,18). Sau khi Đức Chúa Giêsu về trời, thánh Phêrô bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Ngài hướng dẫn một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé nhưng phát triển. Đầu tiên, thánh Phêrô hoạt động ở Giêrusalem và Antiôkia, hai thành phố lớn ở Đông phương. Sau đó, thánh nhân đến rao giảng Tin Mừng ở Roma, thủ đô của thế giới Công giáo.
Tại sao thánh Phêrô phải thực hiện nhiệm vụ lớn lao của mình đối với Thiên Chúa? Người Thầy của Phêrô đã bị người ta đóng đinh nhưng sau đó đã sống lại. Ai sẽ tin được điều đó? Những người ngoại giáo Roma độc ác sẽ làm át đi tiếng nói của Phêrô dù ngài có thuộc hạng người trung thành thế nào đi nữa! Nhưng Chúa Thánh Linh vẫn hiện diện sống động trong thánh Phêrô. Ngài can đảm tiếp tục sứ mệnh mà Đức Chúa Giêsu đã ủy thác cho ngài. Phêrô không bao giờ chối bỏ Chúa của mình nữa! Phêrô không bao giờ đặt lợi ích riêng của cá nhân mình lên trên sự thiện hảo của Giáo hội nữa!
Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô ở Roma nhắc nhở chúng ta rằng thánh Phêrô thiết lập cộng đoàn Kitô hữu trong thành phố ấy. Chiếc ghế đặc biệt này là biểu hiện cho quyền bính mà Đức Chúa Giêsu đã trao cho thánh Phêrô. Trước đây, các vua chúa ngồi trên ngai vàng và cai trị dân chúng. Ngai tòa của thánh Phêrô cũng là biểu tượng cho quyền lực xuất phát từ Chúa Giêsu để cai trị Giáo hội.
Thánh Phêrô đã chết vì đức tin, nhưng trải qua các thời đại, luôn luôn có một giám mục Roma. Ngài được gọi là Giáo hoàng. Đức Giáo hoàng cai trị toàn thể Giáo hội như thánh Phêrô nhân danh Đức Chúa Giêsu. Chúng ta cũng gọi đấng kế vị thánh Phêrô là Đức Thánh cha.

Chúng ta yêu mến và tôn kính Đức Thánh cha. Ngài là hiện thân của Đức Chúa Giêsu trên trần gian này. Chúng ta có thể luôn luôn cầu nguyện cho Đức Thánh cha của chúng ta. Chúng ta cũng có thể xin Thiên Chúa ban cho ngài sức mạnh, ánh sáng và an ủi.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-08-2012, 01:37 PM
Ngày 23 tháng Hai


THÁNH PÔLYCAPÔ



Thánh Pôlycapô sinh vào khoảng giữa những năm 70 – 80. Ngài trở thành Kitô hữu khi các môn đệ của Đức Chúa Giêsu mới chỉ là số ít người. Thực ra, thánh Pôlycapô là môn đệ của một trong các tông đồ đầu tiên là thánh Gioan. Pôlycapô giảng dạy cho người ta biết tất cả mọi điều ngài đã học được nơi thánh Gioan. Pôlycapô làm linh mục rồi giám mục thành Smina (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ). Thánh Pôlycapô là giám mục thành Smina suốt nhiều năm. Các Kitô hữu đều nhận thấy Pôlycapô là một mục tử thánh thiện và can đảm.
Những Kitô hữu ở thời đại của Pôlycapô phải giáp mặt với sự bách hại và giết chóc dưới triều đại hoàng đế Marêô Aurêliô. Có ai đó đã phản bội trao nộp Pôlycapô cho các nhà cầm quyền. Khi người ta đến bắt Pôlycapô, thánh nhân đã mời họ cùng dùng bữa với ngài trước hết, rồi sau đó, thánh nhân xin họ để ngài cầu nguyện một lát. Quan tòa đã thúc ép giám mục Pôlycapô hãy cứu lấy mình khỏi chết bằng cách nguyền rủa Đức Chúa Giêsu. “Tôi đã phục vụ Chúa Giêsu suốt cả đời tôi,” – thánh nhân trả lời – “và Người chưa bao giờ đối xử bất công với tôi điều gì. Làm sao tôi lại có thể nguyền rủa Vua tôi, Đấng đã chết vì tôi?”
Sau đó, binh lính trói tay thánh Pôlycapô lại sau lưng. Rồi họ đặt vị giám mục già trên một đống lửa nóng bừng bừng. Nhưng ngọn lửa không làm hại Pôlycapô. Sau đó, một người trong đám lính lấy ngọn giáo đâm vào trái tim ngài.
Và thế là, vào năm 155, Pôlycapô đã tử vì đạo. Mãi mãi Pôlycapô được ở với Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã phục vụ cách hết sức can đảm.

Thánh Pôlycapô được mời gọi để bênh vực Đức Chúa Giêsu đến mất cả mạng sống mình. Chúng ta có thể không phải hy sinh mạng sống của mình cho Đức Chúa Giêsu như các thánh tử đạo. Dù biết rằng nếu muốn được như thánh Pôlycapô, chúng ta sẽ phải thực hiện những chọn lựa thích hợp. Khả năng lựa chọn của chúng ta cũng sẽ quyết định loại ngôn ngữ chúng ta sử dụng, cách thức chúng ta cư xử với gia đình, người thân, với hàng xóm, bạn bè. Chúng ta sẽ chọn là loại Kitô hữu nào?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-08-2012, 06:38 AM
Ngày 24 tháng Hai




THÁNH MÔNGTANÔ, LUXIÔ và Các Bạn Tử Đạo



Suốt những ngày đầu của Giáo hội sơ khai, hoàng đế Valêriô bách hại các Kitô hữu thật khốc liệt. Ông đã cho hành quyết thánh Cyprianô vào tháng 09/258. Viên thống đốc Roma, người tuyên án Cyprianô, đã tự vẫn ít lâu sau đó. Viên tân thống đốc Sôlôn, suýt là nạn nhân cuộc nổi dậy của một mưu đồ nhằm vào con người ông. Dường như ông nghi ngờ âm mưu phục thù cho cái chết của thánh Cyprianô nên đã bắt giữ 8 người vô tội. Hết thảy đều là Kitô hữu, đa số là giáo sĩ. Các ngài đã từng là môn đồ trung thành của thánh Cyprianô.
Các Kitô hữu được đem xuống những hầm ngục tối. Các ngài nhận thấy những người mà các ngài quen biết cũng có mặt ở đó. Môi trường nhơ bẩn và ẩm thấp bao quanh các ngài. Các ngài nhận ra rằng chẳng bao lâu nữa mình sẽ đối diện với cái chết và đời sau. Các Kitô hữu bị giam giữ nhiều tháng trong tù. Các ngài đã làm việc suốt ngày và thường không nhận được thức ăn và nước uống mà không hiểu tại sao. Vì lý do nào đó mà ở trong những điều kiện dã man như thế, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé vẫn liên kết và giúp đỡ lẫn nhau. Những giáo dân đã che chở bảo vệ các giám mục, linh mục và các thầy phó tế, là những mục tiêu đáng chú ý cho lòng độc ác của hoàng đế.
Khi người ta điệu các Kitô hữu đến nơi hành quyết, mỗi người đều được phép nói vài lời cuối cùng. Môngtanô, có dáng người cao to khỏe mạnh, đã can đảm phát biểu trước tất cả đám đông Kitô hữu. Ngài nói với họ hãy trung thành với Đức Chúa Giêsu và thà chết còn hơn là chối bỏ đức tin. Luxiô, với vóc người nhỏ bé mảnh mai, bước tới nơi hành quyết cách khoan thai nhẹ nhàng. Ngài bị yếu nhược bởi những tháng tù khắc nghiệt. Thật ra, Luxiô đã phải tựa vào hai người bạn giúp ngài đến vị trí mà người đao phủ đang chờ sẵn. Những giáo dân đứng quan sát đã kêu to lên và nài xin thánh nhân hãy thương đến họ khi được về thiên đàng.
Đang khi từng người trong số những Kitô hữu lần lượt bị chém đầu, đám đông càng lúc càng trở nên can đảm hơn. Họ đã khóc thương những người phải chịu cảnh bất công như thế! Nhưng họ cũng vui mừng vì nhận biết rằng trên thiên đàng, các vị tử đạo này sẽ cầu phúc cho họ.
Thánh Môngtanô, Luxiô và những người bạn của các ngài đã chịu tử đạo năm 259.

Người ta nhận biết các Kitô hữu tiên khởi qua tấm lòng quảng đại và tình yêu thương họ trao cho nhau. Các ngài đã đặt những nhu cầu của tha nhân lên trước những đòi hỏi của bản thân, và đã cố gắng hết mình để vượt qua sự ích kỷ hẹp hòi. Chúng ta hãy nghĩ về một đôi lần nào đó trong cuộc đời của mình khi chúng ta cần quảng đại hơn và bớt ích kỷ hơn trong việc bắt chước các Kitô hữu tiên khởi.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-08-2012, 06:40 AM
Ngày 25 tháng Hai




THÁNH XÊSARIÔ NAZIANZÊNÔ



Thánh Xêsariô Nazianzênô sống vào thế kỷ thứ IV tại đất nước mà ngày nay gọi là Thổ Nhĩ Kỳ. Thân phụ ngài là giám mục thành Nazianzênô. Lúc đó, các giám mục và linh mục có thể được phép kết bạn. Anh trai của Xêsariô là thánh Grêgôriô Nazianzênô, bạn thân của thánh Basiliô. Ngoài việc là một vị thánh, Grêgôriô Nazianzênô còn là một văn gia rất có thế giá trong thời Giáo hội sơ khai. Ngày nay người ta hiện vẫn còn đọc các tác phẩm ngài viết.
Cả Xêsariô và Grêgôriô đều nhận được một nền giáo dục xuất sắc tuyệt vời. Nhưng trong lúc Grêgôriô Nazianzênô muốn trở thành một linh mục thì Xêsariô lại muốn làm một bác sĩ y khoa. Cả hai cùng đi học để thực hiện những mục đích của mình.
Thánh Xêsariô Nazianzênô tốt nghiệp y khoa tại thành Constantinop. Chẳng bao lâu ngài trở nên một lương y khoa nội rất danh tiếng và đáng tín nhiệm. Thật ra, hoàng đế Constantino, sống ở Constantinop, muốn vời Xêsariô đến làm bác sĩ riêng của ông. Xêsariô Nazianzênô cám ơn hoàng đế nhưng từ chối cách dịu dàng. Ngài muốn trở về Nazianzênô, quê thành của ngài.
Tuy nhiên, một thời gian sau, Xêsariô Nazianzênô lại được gọi lên Constantinop phục vụ hoàng đế. Đây là thời kỳ lịch sử, thời kỳ Julianô bỏ đạo. Người bỏ đạo là người chối bỏ niềm tin vào Kitô giáo. Người đàn ông này đã ban bố nhiều khoản luật chính thức chống đối các Kitô hữu. Tuy thế, ông rất sẵn lòng miễn chuẩn cho Xêsariô vì ngài là một lương y giỏi. Julianô đã cố gắng dụ dỗ thuyết phục vị bác sĩ chối bỏ đức tin. Xêsariô được ban tặng những địa vị, tiền của hối lộ và những đặc ân ưu đãi. Thân phụ và người anh trai của Xêsariô Nazianzênô đã khuyên ngài hãy khước từ những tặng ân đó. Họ đề nghị Xêsariô nên trở về quê nhà để hành nghề thầy thuốc.
Năm 368, thánh Xêsariô Nazianzênô gần như bị thiệt mạng trong một trận động đất. Tuy ngài đã thoát nạn bình an nhưng biến cố ấy đã làm cho thánh nhân suy yếu trầm trọng. Xêsariô Nazianzênô cảm thấy như Thiên Chúa nói với ngài hãy sống đời cầu nguyện, xa lánh sự náo nhiệt và xu nịnh của triều đình. Và thế là Xêsariô Nazianzênô đã phân chia của cải mình cho các người nghèo. Thánh nhân bắt đầu sống cuộc đời chay tịnh và cầu nguyện.
Thánh Xêsariô Nazianzênô qua đời sau đó ít lâu vào năm 369. Người anh của Xêsariô Nazianzênô, thánh Grêgôriô, đã thuyết giảng trong thánh lễ an táng ngài.

Hết thảy chúng ta đều có một ơn kêu gọi riêng biệt trong cuộc đời. Thiên Chúa đã trao ban những ân sủng cho chúng ta để chúng ta thực hiện cách mỹ hảo ơn gọi đó. Như thánh Xêsariô Nazianzênô, chúng ta cần biết khôn ngoan lắng nghe những người chúng ta tin cậy. Chúng ta cũng cần phải từ chối nghe theo những người muốn dùng tài năng hay trình độ hiểu biết của chúng ta vào những mục đích sai trái.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-08-2012, 08:19 AM
Ngày 26 tháng Hai




THÁNH PÔPHIRIÔ



Thánh Pôphiriô sinh vào thế kỷ thứ V trong một gia đình quý tộc giàu có. Khi lên 25 tuổi, Pôphiriô rời khỏi gia đình. Pôphiriô đến Ai Cập để vào tu trong một đan viện. Sau 5 năm, Pôphiriô hành trình tới Giêrusalem. Pôphiriô muốn viếng thăm những nơi mà Đức Chúa Giêsu đã ở khi Người sống trên dương thế.
Pôphiriô được ấn tượng sâu sắc của thánh địa. Lòng yêu mến Chúa Giêsu làm cho ngài ý thức cách sâu xa những nỗi khổ đau của những người dân quê nghèo khó trong thành Thessalonica mà Pôphiriô chưa bao giờ cảm nghiệm được cái nghèo là làm sao! Giờ đây, Pôphiriô vẫn làm chủ tất cả gia sản song thân để lại cho mình. Tuy vậy, chẳng bao lâu, Pôphiriô xin người bạn Marcô đến Thessalonica bán hết mọi thứ cho ngài. Ba tháng sau, Marcô cầm tiền trở về. Thế rồi Pôphiriô bố thí tiền bạc cho những người thực sự cần dùng nó.
Lên 40 tuổi, Pôphiriô trở thành linh mục và được trao cho công việc giữ gìn các thánh tích của Thánh Giá Chúa Giêsu. Sau đó, Pôphiriô được bổ nhiệm làm giám mục thành Gaza. Ngài nỗ lực hoạt động để lôi kéo người ta tin vào Đức Chúa Giêsu và chấp nhận đức tin. Nhưng những vất vả khó nhọc của Pôphiriô chỉ sinh hiệu quả rất chậm và vì vậy, đòi hỏi Pôphiriô nhiều kiên nhẫn, Đa số các cư dân lúc đó bị vướng vào những mê tín dị đoan và những tập tục của dân ngoại. Cho dù Pôphiriô có thể ngăn chặn được nhiều thói tục này nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải những kẻ thù làm cho ngài hết sức đau khổ.
Cũng có những tín hữu Công giáo ngưỡng mộ và yêu mến Pôphiriô cách đặc biệt. Họ cầu nguyện và hy sinh cho ngài. Họ nài xin Thiên Chúa bảo vệ Pôphiriô. Giám mục Pôphiriô đã dùng nhiều năm để củng cố cộng đoàn Kitô hữu. Ngài rao giảng mọi điều Giáo hội ủy thác.
Pôphiriô qua đời năm 420.

Tấm gương của vị thánh này thách đố chúng ta đừng liên can đến những điều mê tín dại dột. Những bùa ngải ma thuật và các vấn đề tương tự như thế chẳng có giá trị gì. Thiên Chúa trông nom chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta mọi trợ giúp cần thiết nếu chúng ta thành tâm cầu xin Người.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-08-2012, 08:21 AM
Ngày 28 tháng Hai




THÁNH RÔMANÔ và THÁNH LUPIXINÔ



Hai vị thánh người Pháp này là anh em ruột sống vào thế kỷ thứ V. Khi còn trẻ, thánh Rômanô được mọi người mến mộ vì ngài rất tốt lành. Ngài có một lòng ham ước nên thánh rất mãnh liệt. Từ khi nhận thức được trên thế giới này người ta quá dễ dàng quên lãng và coi thường Thiên Chúa, thánh Rômanô quyết định sống cuộc đời mai danh ẩn tích. Trước tiên, Rômanô bàn hỏi với một đan sĩ thánh thiện, rồi ngài tiến hành điều ngài đã quyết định. Rômanô đem theo một cuốn sách. Đó là cuốn Đời sống của các Giáo phụ nơi hoang mạc của tác giả Cassiô. Rômanô cũng mang theo hạt giống để gieo trồng và một ít dụng cụ. Với những thứ dự trữ này, Rômanô vào miền rừng có những dãy núi thuộc giải Jura giữa Thụy Sĩ và Pháp. Rômanô tìm thấy một cây linh sam to lớn và thế là ngài định cư ở dưới gốc cây này. Rômanô dùng thời giờ cầu nguyện và đọc sách. Ngài cũng gieo trồng và chăm nom khu vườn của ngài, một quang cảnh thiên nhiên yên tĩnh đầy thú vị.
Chẳng bao lâu sau đó, người em trai Lupixinô đến xin nhập cuộc với ngài. Rômanô và Lupixinô khác tính nhau. Rômanô thì nghiêm nghị với bản thân mình. Tuy vậy, ngài rất tử tế, hiền lành và đầy tình thông cảm hiểu biết người khác. Lupixinô thì khó khăn nghiêm khắc với chính mình và thường đối xử như vậy với cả tha nhân. Tuy nhiên, Lupixinô có ý tốt. Hai anh em hiểu nhau và chung sống với nhau rất hòa hợp.
Rồi có nhiều thanh niên đến xin gia nhập với các ngài. Họ cũng muốn trở nên những đan sĩ. Vì thế các ngài xây cất hai đan viện. Rômanô và Lupixinô, mỗi người là đan viện phụ của một đan viện. Các đan sĩ sống cuộc đời khó khăn và giản dị. Họ cầu nguyện nhiều và hy sinh làm việc cách vui vẻ. Họ ăn năn sám hối để củng cố ơn gọi của mình. Họ vất vả làm việc đồng áng để tăng thêm thực phẩm và luôn luôn giữ luật thinh lặng. Họ quyết định sống như thế vì mối quan tâm chính yếu của họ là kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Lối sống này giúp họ dễ hướng về cùng đích siêu nhiên.
Thánh Rômanô về trời năm 460. Người em trai của ngài, thánh Lupixinô, qua đời năm 480.

Thánh Rômanô và thánh Lupixinô, cả hai đều là những vị thánh dù các ngài có những cá tính khác nhau. Chúng ta hãy học nơi hai vị thánh điểm này là tất cả chúng ta đều có những ân sủng và những tài năng mà chúng ta có thể dùng để đem người khác đến gần Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa kiếm tìm là tấm lòng sẵn sàng hy sinh của chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-08-2012, 12:38 PM
Ngày 01 tháng Ba




THÁNH PHÊLÍCH II



Thánh Giáo hoàng này là vị tiền nhiệm của thánh Giáo hoàng tương lai Grêgôriô Cả (sống từ năm 540 đến năm 604). Thánh Grêgôriô Cả viết rằng, khi người cô của ngài, là thánh nữ Tarsila đang hấp hối thì Giáo hoàng Phêlích II đã hiện ra với cô. Ngài vẫy tay chào cô rồi ngài về thiên đàng. Vậy thánh Giáo hoàng Phêlích II là ai? Và trong cuộc đời, những sự kiện thực tiễn nào đã làm cho Phêlích II nên thánh?
Dù không có nhiều chi tiết lắm nhưng chúng ta cũng biết được Phêlích là người Roma. Ngài có tấm lòng tử tế đôn hậu và can đảm ngay trong những thời buổi khó khăn bất ổn. Phêlích II lên ngôi giáo hoàng năm 483. Vì những giáo huấn sai lầm mà nhiều nhóm người trong Giáo hội đã tự phân chia. Những nhân tố liên quan đến chính trị đã gây nhiều khó khăn cho sứ vụ của vị giáo hoàng này. Nhưng Phêlích vẫn một mực tỏ ra can đảm trong việc bảo vệ các chân lý đức tin và quyền lợi của Giáo hội. Nhiều người sánh ví Phêlích II với thánh Giáo hoàng Lêô Cả (về trời năm 461). Thánh Giáo hoàng Phêlích II có một lối quan sát chung thật chính xác. Thánh nhân đã cố gắng nắm bắt và giải quyết nhiều vấn đề của Giáo hội nơi những miền khác nhau trên thế giới.
Thánh Phêlích II làm giáo hoàng được 9 năm. Người ta sẽ tưởng nhớ đến thánh nhân như ngài đã luôn luôn trung thành với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Thánh Giáo hoàng Phêlích II qua đời năm 492.

Chẳng bao lâu hết thảy chúng ta sẽ nhận thức rõ được rằng cuộc sống phải có sự đóng góp và chia sẻ những trách nhiệm, những ràng buộc của nó. Đôi khi chúng ta nghĩ mình không muốn bị ràng buộc bởi bất cứ người nào hoặc vật gì có thể hạn chế chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta hãy cầu khẩn với thánh Phêlích II và xin ngài ban cho tấm lòng khoan dung quảng đại và can đảm trung thành với những điều chúng ta đã cam kết.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-08-2012, 12:41 PM
Ngày 02 tháng Ba


CHÂN PHƯỚC CARÔLÔ Nhân Hậu



Bá tước Carôlô Flander được thần dân trong tiểu quốc của ngài gọi là “nhân hậu”. Họ đặt cho Carôlô Flander cái tên đó bởi vì họ thấy ngài thực sự đúng như vậy. Carôlô Flander là con trai của thánh vương Canut, vua nước Đan Mạch. Lúc vua cha bị ám sát năm 1086, Carôlô mới được 5 tuổi. Khi lớn lên, Carôlô cưới Magaritta, một thiếu nữ trẻ đẹp tốt lành làm vợ. Carôlô là nhà lãnh đạo có tính khí ôn hòa, hiền dịu và công bằng. Thần dân rất tín nhiệm Carôlô và luật lệ của ngài. Carôlô cố gắng trở nên tấm gương sáng mà ngài mong muốn thần dân noi theo.
Một số quý tộc đã tố cáo Carôlô hành xử bất công vì chuyện ưu đãi và bênh vực người nghèo hơn người giàu. Carôlô tử tế trả lời rằng : “Đó là vì tôi quá biết những hoàn cảnh khó khăn của người nghèo và niềm kiêu hãnh của người giàu!” Những người nghèo khổ trong vương quốc được nuôi ăn hàng ngày tại lâu đài của Carôlô.
Carôlô Flander ra lệnh cho những người giàu trồng cấy các vụ mùa để thần dân có nhiều của ăn với giá cả phải chăng. Một số nhà giàu đã cố tích trữ lúa thóc để bán với giá đắt đỏ. Carôlô “nhân hậu” nghe biết điều đó liền lập tức bắt họ phải bán với giá bình thường. Carôlô đã khiển trách một người cha có uy thế lớn và các con ông vì những sách lược bạo hành của họ. Và họ liền cấu kết với một nhóm kẻ thù nhỏ đang muốn hãm hại Carôlô.
Mỗi sáng, bá tước Carôlô đi chân không đến tham dự thánh lễ và thường tới nhà thờ thánh Đônasianô rất sớm. Ngài làm việc này với tinh thần sám hối và đền tội. Carôlô mong muốn đào sâu hơn đời sống thiêng liêng của ngài với Thiên Chúa. Các kẻ thù biết Carôlô thường cầu nguyện một mình trước giờ lễ. Có nhiều người yêu mến Carôlô đã lo lắng cho tính mạng của ngài. Họ báo cho Carôlô biết quãng đường dẫn đến nhà thờ Đônasianô có thể đưa ngài tới chỗ chết. Nhưng Carôlô đáp lời họ rằng : “Chúng ta luôn luôn ở giữa những nguy hiểm, nhưng chúng ta thuộc về Thiên Chúa!”
Rồi vào một buổi sáng kia, đang khi cầu nguyện một mình trước bức ảnh Đức Mẹ, Carôlô Flander đã bị các kẻ thù tấn công và giết chết.
Carôlô Flander được phúc tử vì đạo năm 1127.

Nếu chúng ta muốn làm một việc có ý nghĩa, chúng ta hãy noi gương bắt chước chân phước Carôlô Nhân Hậu. Ngài đã để cho tình yêu Đức Chúa Giêsu ảnh hưởng trên đời sống thường nhật của ngài. Mỗi sáng khi rời khỏi nhà thờ, Carôlô thật sự bắt đầu “sống thánh lễ”. Chúng ta cũng hãy nài xin chân phước Carôlô Nhân Hậu giúp chúng ta biết sống như ngài.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-08-2012, 10:32 AM
Ngày 03 tháng Ba

THÁNH CATARINA ĐRÊXEL



Thánh nữ Catarina Đrêxel sinh ngày 26/11/1858 ở Philadelphia thuộc tiểu bang Pensylvania, nước Mỹ. Thân mẫu Catarina qua đời khi Catarina còn rất nhỏ. Thân phụ Catarina kết hôn lần hai với một người đàn bà tuyệt vời tên là Emma. Bà dưỡng dục Luy, đứa con riêng của họ. Bà cũng là một người mẹ đáng yêu đối với hai cô gái nhỏ của Đrêxel do cuộc hôn nhân trước. Chúng tên là Elisabeth và Catarina. Các bé gái có tuổi thơ ấu thật dễ thương. Dù gia đình giàu có, các bé cũng được dạy bảo phải có lòng yêu thương đối với người đồng loại. Cách riêng, các bé được chỉ dạy phải quan tâm đến những người nghèo khổ. Đây là cách thức biểu lộ lòng yêu mến của các bé đối với Thiên Chúa.
Khi khôn lớn, Catarina là một tín hữu Công giáo rất năng động. Catarina rất rộng rãi trong việc sử dụng thời giờ và tiền bạc của mình. Catarina nhận thấy rằng Giáo hội có nhiều nhu cầu cần thiết. Catarina dành hết mọi khả năng cũng như tài sản của mình để săn sóc những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Việc làm Catarina dâng cho Đức Chúa Giêsu là sống giữa những người Mỹ gốc Phi và những người Mỹ bản xứ. Năm 1891, Catarina lập một cộng đoàn thừa sai mới, gọi là dòng Các Chị Em Tôn Sùng Bí Tích Thánh Thể. Catarina được mọi người biết đến với danh hiệu là Mẹ Catarina.
Các nữ tu trong dòng của Mẹ Catarina đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm chính yếu của đời sống. Họ dâng hiến tình yêu và khả năng của mình để phục vụ những người Mỹ gốc Phi và những người Mỹ bản xứ. Sau đó, Mẹ Catarina nhận được phần gia sản của gia đình Mẹ và Mẹ đã dùng số tiền ấy cho những công việc bác ái cao cả. Mẹ và các nữ tu của Mẹ mở các trường học, các nữ tu viện và các cộng đoàn truyền giáo. Năm 1925, họ thiết lập trường đại học Savie ở New Orleans. Suốt cả quãng đời đại thọ và hữu ích, Mẹ Catarina đã dùng hàng triệu đôla của phần tài sản mà gia tộc Đrêxel để lại cho những công việc cao cả mà Mẹ và các nữ tu dòng Mẹ đã làm cho người nghèo. Mẹ tin rằng Mẹ đã gặp Đức Chúa Giêsu đang hiện thân thật sự trong Bí tích Thánh Thể. Vì vậy, Mẹ cũng tìm gặp Người trong những người Mỹ gốc Phi và những người Mỹ bản xứ mà Mẹ đã phục vụ với đầy tình thương mến.
Mẹ Catarina Đrêxel về trời ngày 03/03/1955, hưởng thọ 97 tuổi.
Ngày 01/10/2000, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Mẹ Catarina Đrêxel lên bậc hiển thánh.

Mẹ Catarina Đrêxel đã dạy chúng ta một bài học thật quý. Chúng ta có thể dùng đời sống mình để chăm sóc bản thân ta và lo cho sự thoải mái riêng của mình. Tuy nhiên, sống như Mẹ Catarina Đrêxel thật ích lợi hơn nhiều. Vì với cách này, chúng ta có thể giúp đỡ nhiều người khác.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-08-2012, 10:35 AM
Ngày 04 tháng Ba




THÁNH CASIMIA



Thánh Casimia sinh năm 1458, là con trai của Casimia IV, vua nước Ba Lan. Casimia là một trong 13 người con. Với sự hướng dẫn của bà mẹ rất mực đạo hạnh và cũng là người thầy tận tâm tận lực, Casimia nhận được một nền giáo dục thật tuyệt vời.
Khi lên 13 tuổi, Casimia có cơ hội làm vua nước láng giềng Hungari nhưng ngài đã từ chối. Casimia dùng phần thời giờ còn lại của ngài để sống những lý tưởng Kitô giáo. Casimia sống rất vui vẻ, hòa mình và thân ái với mọi người. Ẩn dưới lớp mặt bên ngoài của cuộc sống bận rộn, Casimia đã cố gắng hết sức để trau dồi đời sống thiêng liêng bên trong. Casimia thường hay ăn chay và ngủ dưới nền nhà để sám hối đền tội. Ngài cầu nguyện mỗi ngày, đôi khi ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng. Casimia yêu thích việc cầu nguyện và tưởng niệm về cuộc Thương Khó của Đức Chúa Giêsu. Casimia nhận ra đây là phương thế tuyệt hảo để học biết và yêu mến Đức Chúa Giêsu hơn. Casimia cũng yêu mến Đức Mẹ Đồng Trinh Maria với một mối tình thật đặc biệt. Để tôn kính Đức Mẹ, Casimia đã năng đọc đi đọc lại bài thánh ca ý vị. tên của bài ca là : “Ngày ngày, hãy hát mừng Mẹ Maria!” Sau này người ta đã chôn táng thánh Casimia cùng với bản viết tay bài hát ấy của ngài.
Tuy sức khỏe của Casimia không được khá lắm nhưng ngài có tính khí thật can đảm và mạnh mẽ. Casimia luôn luôn làm điều ngài nhận biết là phải. Thậm chí đôi khi Casimia đề nghị với thân phụ của ngài, là quốc vương, hãy cai trị thần dân cách công bằng hơn. Casimia luôn luôn bày tỏ việc này với tấm lòng hết sức kính trọng nên vua cha đã làm theo những gì ngài nói.
Thánh Casimia có một tình yêu và niềm tôn trọng đặc biệt đối với đức trinh khiết. Song thân Casimia đã tìm cho ngài một thiếu nữ đức hạnh trẻ đẹp để làm bạn đường. Tuy thế, Casimia đã quyết định dâng hiến trọn vẹn trái tim của ngài cho một mình Thiên Chúa. Đang khi ở Lithuania trong chuyến công tác phục vụ cho đất nước này, Casimia đã ngã bệnh vì chứng lao phổi. Ngài qua đời lúc vừa được 26 cái xuân xanh.
Đức Thánh cha Lêô X đã tôn phong Casimia lên bậc hiển thánh năm 1521.

Thánh Casimia giúp chúng ta nhận biết rằng dù thân xác chúng ta không được tráng kiện, chúng ta vẫn có thể mạnh mẽ trong tính cách của mình. Chúng ta luôn có thể ủng hộ và bệnh vực lẽ phải với cách thức thân thiện tử tế.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-09-2012, 12:30 PM
Ngày 05 tháng Ba




THÁNH GIOAN GIUSE Thánh Giá



Thánh Gioan Giuse Thánh Giá sinh ở miền Nam nước Ý vào ngày lễ Đức Mẹ Mông Triệu năm 1654. Gioan Giuse là một quý tộc trẻ tuổi nhưng lại ăn mặc giống như người nghèo. Ngài làm điều đó chỉ vì muốn sống khó nghèo như Đức Chúa Giêsu.
Năm lên 16 tuổi, Gioan Giuse vào tu dòng thánh Phanxicô Khó Khăn. Ngài rất ham thích sống cuộc đời vị tha như Đức Chúa Giêsu. Điều này khiến Gioan Giuse làm nhiều việc hy sinh cách vui vẻ. Mỗi đêm Gioan Giuse chỉ ngủ ba giờ đồng hồ và chỉ ăn uống rất đơn sơ giản dị.
Rồi, Gioan Giuse được thụ phong linh mục. Gioan Giuse làm bề trên tu viện Santa Lucia ở Napoli, nơi ngài đã sống hầu như cả cuộc đời lâu dài ở đó. Cha Gioan Giuse luôn luôn đòi làm những công việc nặng nhọc nhất. Ngài vui vẻ chọn làm những phần việc mà không ai muốn làm.
Thánh Gioan Giuse có một tính tình rất đáng yêu nhưng ngài đã không gắng công lôi kéo sự chú ý của bất kỳ ai. Thay vì đợi cho người ta nhận ra những ân lộc của mình và tiến đến với mình thì Gioan Giuse đã đi đến với tha nhân trước. Hết thảy mọi anh em linh mục và tu sĩ đều xem Gioan Giuse là một linh mục đáng quý. Thánh nhân cũng đặc biệt yêu mến Đức Thánh Trinh Nữ Maria và cố gắng giúp cho người khác cũng yêu mến Đức Mẹ.
Vị linh mục yêu mến Thiên Chúa nhiều đến độ dù ngã bệnh ngài cũng vẫn tiếp tục làm việc.
Thánh Gioan Giuse qua đời ngày 06/03/1734, ngài được Đức Thánh cha Piô VIII tôn phong lên bậc hiển thánh.

Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân của thánh Gioan Giuse Thánh Giá thật quảng đại. Thánh nhân mời gọi chúng ta hãy vượt thắng sự ích kỷ hẹp hòi để giữ chúng ta lại trên cuộc hành trình đến với Thiên Chúa. Chúng ta hãy cố gắng cư xử với mọi người bằng tấm lòng tử tế và tôn trọng nhau trong sự bình đẳng dù chúng ta có thể yêu thích một số người này hơn một số người kia.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-09-2012, 12:32 PM
Ngày 06 tháng Ba


THÁNH CÔLÉT



Sinh năm 1380, Nicolette được đặt tên để tỏ lòng tôn kính thánh Nicola Myra. Song thân yêu quý đặt cho ngài tên hiệu Côlét (Colette) ngay từ khi thánh nữ còn là đứa trẻ sơ sinh. Thân phụ của Côlét làm nghề thợ mộc tại nơi mà trước đây từng là một tu viện ở thị trấn Picardi.
Âm thầm và chăm chỉ, Côlét là người rất hữu ích trong việc giúp đỡ thân mẫu quán xuyến việc nhà. Cha mẹ Côlét chú ý theo dõi việc ham thích cầu nguyện và bản tính nhạy cảm, đáng yêu của Côlét.
Khi thánh nữ Côlét lên 17 tuổi, song thân qua đời. Người thiếu nữ này được đặt dưới sự quản nhiệm của đan viện phụ đan viện nơi thân phụ ngài đã giúp việc ngày xưa. Côlét đã xin và nhận được một túp lều dựng gần nguyện đường của đan viện. Và Côlét sống ở đó. Thánh nữ dùng thời giờ để làm việc hy sinh và cầu nguyện cho Giáo hội của Đức Chúa Giêsu. Càng ngày càng có nhiều người nhận biết về người thiếu nữ thánh thiện này. Họ đến thăm và xin Côlét lời khuyên về những vấn đề quan trọng. Họ biết Côlét khôn ngoan bởi vì thánh nữ sống gần gũi thân mật với Thiên Chúa. Côlét tiếp đón mọi người với tấm lòng thân ái dịu dàng. Sau mỗi cuộc thăm viếng, Côlét đã cầu nguyện để những người khách của thánh nữ tìm lại được bình an tâm hồn.
Thánh nữ Côlét là hội viên của dòng Ba Phanxicô. Thánh nữ biết luật dòng thánh Clara sống theo lối thánh Phanxicô. Họ được đặt tên theo danh xưng của thánh Clara, vị sáng lập của họ, cũng là môn đệ của thánh Phanxicô. Trong thời của Côlét, dòng thánh Clara cần phải quay trở về mục đích chính yếu của dòng. Thánh Phanxicô Assisie đã hiện ra với thánh Côlét và xin thánh nữ canh tân hội dòng. Hẳn là Côlét rất đỗi ngạc nhiên và lo sợ trước một nhiệm vụ khó khăn như thế! Nhưng thánh nữ đã tin tưởng vào ơn Thiên Chúa. Thánh Côlét hành trình đến các nữ tu viện. Ngài giúp các nữ tu sống khó nghèo và chuyên cần cầu nguyện hơn.
Đời sống của thánh nữ Côlét gợi hứng cho các nữ tu dòng thánh Clara. Côlét có lòng sùng kính đặc biệt đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Côlét cũng hay dùng thời giờ để suy ngẫm về cuộc Khổ Nạn và Sự Chết của Đức Chúa Giêsu. Thánh nữ rất yêu mến Đức Chúa Giêsu và ơn kêu gọi tu trì của ngài.
Thánh nữ Côlét được ơn biết chính xác thời điểm và nơi chốn ngài sẽ chết. Thánh nữ qua đời tại một trong những tu viện ở Ghent, Flander vào năm 1447, lúc được 67 tuổi.
Năm 1807, Côlét được Đức Thánh cha Piô VI tôn phong lên bậc hiển thánh.

Thánh nữ Côlét khuyên dạy chúng ta rằng cho dù chúng ta bị yêu cầu làm những công việc khó khăn, chúng ta cũng vẫn có thể tìm được niềm vui như ngài. Chúng ta hãy thực hiện việc này bằng cách mỗi ngày liên kết mật thiết hơn với Thiên Chúa.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-09-2012, 07:16 AM
Ngày 07 tháng Ba




THÁNH PERPÊTUA và THÁNH PHÊLIXITA



Perpêtua và Phêlixita sống ở thành phố Cartage, Bắc Phi vào thế kỷ thứ III. Đây là thời gian các Kitô hữu bị bách hại khốc liệt bởi hoàng đế Septimô Sêrêvô.
Perpêtua 22 tuổi là con gái của một nhà quý tộc giàu có. Khi lớn lên, Perpêtua nhận được mọi thứ ngài muốn. Nhưng Perpêtua hiểu được mình yêu mến Đức Chúa Giêsu và đức tin Kitô giáo của mình hơn bất cứ sự gì thế gian ban tặng. Vì lý do này, Perpêtua coi mình như một tù nhân đang trên đường đến nơi hành quyết.
Thân phụ của Perpêtua là một người ngoại giáo. Ông đã làm mọi điều có thể hầu có thể thuyết phục cô con gái của ông từ bỏ đức tin Công giáo. Ông dùng thế lực cưỡng ép Perpêtua hãy cứu lấy mạng sống của ngài. Nhưng Perpêtua không chịu nhượng bộ dù biết rằng sẽ phải bỏ lại người chồng và đứa con yêu quý.

Phêlixita, người hầu gái của Perpêtua, là một nô lệ thuộc Kitô giáo. Thánh nữ và Perpêtua là hai người bạn rất thân. Các ngài cùng có chung một niềm tin và tình yêu dành cho Đức Chúa Giêsu. Phêlixita cũng sẵn lòng hy sinh đời sống mình vì Đức Chúa Giêsu và vì đức tin. Do bởi điều này, Phêlixita cũng nhận thấy bản thân mình chính là tù nhân trên đường hành quyết.
Phêlixita là một người vợ trẻ. Đang khi chịu tù vì đức tin, thánh nữ cũng trở nên một người mẹ. Đứa trẻ bé bỏng được một phụ nữ Công giáo tốt lành nhận làm con nuôi. Phêlixita cảm thấy thật sung sướng hạnh phúc vì giờ đây mình có thể chịu tử vì đạo.

Perpêtua và Phêlixita tay nắm tay cùng anh dũng đối diện với phúc tử đạo. Các ngài bị thú dữ dày xéo và sau đó bị xử trảm. Các ngài mất vào khoảng năm 202.

Các thánh tử đạo thật trung thành với Chúa Kitô đến nỗi các ngài đã thực hiện những hy sinh lớn lao. Thậm chí các ngài đã từ bỏ mạng sống mình vì Người. Chúng ta cũng hãy nài xin hai thánh Perpêtua và Phêlixita giúp chúng ta vui vẻ chấp nhận những hy sinh nhỏ bé xảy đến trong đời sống thường ngày.

(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-09-2012, 07:18 AM
Ngày 09 tháng Ba




THÁNH PHANXICA ROMA



Thánh nữ Phanxica Roma sinh năm 1384. Song thân của ngài là những người giàu có nhưng họ đã dạy cho Phanxica biết quan tâm đến tha nhân và sống đời Kitô hữu tốt lành. Phanxica là một cô bé thông minh lanh lẹ. Phanxica cho cha mẹ biết khi lên 11 tuổi thì sẽ đi tu. Nhưng thay vào đó, họ lại khuyến khích Phanxica nghĩ tưởng đến chuyện kết hôn. Theo truyền thống, họ chọn cho Phanxica một thanh niên trẻ trung, tốt lành làm chồng. Khi ấy, Phanxica chỉ mới được 13 tuổi!
Thánh nữ Phanxica và người chồng của ngài, ông Lôrenzô Ponzianô, đã say mê tha thiết yêu nhau. Dù cho cuộc hôn nhân được sắp đặt, họ đã sống đời đôi bạn thật hạnh phúc bên nhau suốt 40 năm. Lôrenzô rất khâm phục người vợ và người chị họ Vannôza của mình. Cả hai cùng cầu nguyện hằng ngày và làm các việc sám hối cho Giáo hội của Chúa. Lúc ấy, Giáo hội đang gặp nhiều thử thách gian truân. Phanxica và Vannôza cũng thăm viếng người nghèo. Họ chăm sóc những người đau ốm. Họ mang lương thực và củi đốt cho những người cần dùng. Các phụ nữ giàu có khác được gợi hứng bởi gương sáng của họ cũng hy sinh đời sống mình và phục vụ nhiều hơn. Phanxica lợi dụng mọi dịp để tăng triển đời sống cầu nguyện. Thánh nữ thực sự sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong cuộc đời của ngài.
Thánh nữ Phanxica và Lôrenzô là những người giàu lòng từ bi trắc ẩn. Các ngài biết phải chịu đau khổ là thế nào! Các ngài đã mất hai trong ba người con vì cơn bệnh dịch. Điều này làm cho các ngài dễ nhạy cảm hơn trước những tình cảnh khó khăn của dân nghèo. Trong suốt những cuộc chiến giữa giáo hoàng hợp lệ và các giáo hoàng đối cử, Lôrenzô đã dẫn dắt những đạo quân bảo vệ Đức Giáo hoàng đích thực. Đang lúc chiến đấu tại sa trường, các kẻ thù của Lôrenzô đã cướp phá tài sản của ngài. Dầu vậy, Phanxica cũng thu quén được một phần ngôi biệt thự của gia đình đã bị hư hỏng và dâng cho bệnh viện sử dụng. So sánh những khó khăn xảy đến cho gia đình của Phanxica Roma, thì những cư dân sống trên đường phố vẫn hoạn nạn túng bấn hơn rất nhiều. Sau đó, Lôrenzô bị thương trở về nhà và được chính người vợ yêu quý của mình chữa trị. Ông qua đời năm 1436. Thánh Phanxica Roma dùng 4 năm còn lại của đời mình sống trong hội dòng mà ngài đã giúp thành lập.
Thánh nữ Phanxica Roma mất ngày 09/03/1440. Ngài được Đức Thánh cha Phaolô V tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1608.

Thánh nữ Phanxica Roma thật hết lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người. Ngài nhận biết được cách tốt nhất để chứng tỏ tình yêu thương ấy là cầu nguyện cho Giáo hội. Những cách khác là trông nom chăm sóc gia đình và quan tâm đến những người nghèo khổ. Chúng ta hãy nài xin thánh Phanxica Roma giúp chúng ta biết cách thể hiện tình yêu của mình đối với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Chúa.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-09-2012, 02:20 PM
Ngày 10 tháng Ba


THÁNH SIMPLIXIÔ



Thánh Simplixiô làm Giáo hoàng năm 468.
Đôi lúc, người ta nghĩ rằng hình như chỉ có một mình ngài là đang ra sức để cố gắng chấn chỉnh lại những thói lệ xấu đang hiện diện khắp nơi mà thôi. Những kẻ chiến thắng đã nắm quyền cai trị các địa hạt rộng lớn. Thậm chí quân xâm lăng chiếm giữ cả Roma. Dân chúng đói khổ lầm than. Họ bị những cựu quan chức Roma đàn áp và cướp bóc. Cảnh nghèo túng rình mò lảng vảng trên các đường phố và tước đi niềm an vui của mọi người. Dù sao thì những kẻ cai trị mới đã không đòi phải đóng sưu nộp thuế. Giáo hoàng Simplixiô cố tìm mọi cách để khuyến thiện và nâng đỡ đàn chiên của ngài. Simplixiô luôn hiện diện ở đó để nâng đỡ họ dù những cố gắng của ngài xem ra thật nhỏ bé và chẳng đáng kể gì. Và vì có tâm hồn thánh thiện, Giáo hoàng Simplixiô đã không bao giờ chán nản tuyệt vọng. Hơn cả những lời nói, Simplixiô giảng dạy họ bằng chính gương mẫu đời sống thánh thiện của ngài.
Bởi là Giáo hoàng, thánh Simplixiô đã phải rất đau khổ vì một nguyên do khác nữa. Một số bổn đạo của Simplixiô ngoan cố quyết giữ những quan điểm sai lạc của họ. Rồi, hết sức đau buồn, thánh Simplixiô đã phải đuổi họ ra khỏi Giáo hội. Ngài thật nhân hậu và khiêm tốn khi sửa dạy những con chiên làm điều sai quấy.
Thánh Simplixiô ở trong chức vụ Giáo hoàng được 15 năm và 11 tháng. Rồi Thiên Chúa đã gọi ngài về lãnh nhận phần thưởng do những lao nhọc vất vả của ngài.
Năm 483, thánh Simplixiô qua đời và được mai táng tại vương cung thánh đường thánh Phêrô ở Roma.

Chúng ta được thánh Simplixiô nhắc nhớ rằng khi mang giữ trách nhiệm thì đòi cần phải có lòng can đảm. Chẳng có sự gì trong cuộc đời này xảy ra theo như cách chúng ta mong muốn. Chúng ta hãy học hỏi để chấp nhận những trường hợp đau khổ hoặc những hoàn cảnh khó chịu xảy đến với chúng ta. Một vài người dường như có vẻ cố ý đặt ra những chướng ngại hầu cản ngăn chúng ta thực hiện những việc tốt lành. Khi ấy, chúng ta hãy cầu nguyện với thánh Simplixiô. Chúng ta hãy khẩn xin thánh nhân giúp chúng ta biết sống như ngài và không bao giờ chán nản thất vọng.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-09-2012, 02:22 PM
Ngày 11 tháng Ba




THÁNH ÊULÔGIÔ Tây Ban Nha



Thánh Êulôgiô sống vào thế kỷ thứ IX. Gia đình ngài rất có thế giá ai cũng biết đến, và Êulôgiô được hấp thụ một nền giáo dục thật tuyệt vời. Khi học những bài học, Êulôgiô cũng học luôn gương sáng của các thầy giáo. Êulôgiô thích đọc và nghiên cứu Kinh Thánh. Việc đọc Kinh Thánh giúp Êulôgiô yêu mến Lời Chúa. Êulôgiô muốn mang Tin Mừng của Chúa Kitô đến cho mọi người. Khi trưởng thành, Êulôgiô làm linh mục và làm hiệu trưởng của một trường danh tiếng.
Lúc này, các tín đồ Hồi giáo đã nắm quyền cai trị đất nước Tây Ban Nha. Họ chống báng Công giáo. Đầu tiên, họ cố gắng làm cho các Kitô hữu chối bỏ đức tin. Những giáo dân nào từ chối không chịu thay đổi tôn giáo liền bị tống giam. Thậm chí một vài người đã bị giết chết.
Êulôgiô và đức Giám mục của ngài cũng bị giam tù cùng với nhiều Kitô hữu khác. Trong chốn lao tù, Êulôgiô đọc Kinh Thánh lớn tiếng để khuyến khích các tù nhân. Khi họ nghe Lời Chúa, họ không còn cảm thấy sợ chết vì Đức Chúa Giêsu nữa. Suốt thời gian này, thánh Êulôgiô viết một cuốn sách phấn khích các Kitô hữu thà chết còn hơn là chối bỏ đức tin thánh thiện của mình.
Chính thánh Êulôgiô cũng muốn được là một vị tử đạo hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng thay vào đó, ngài lại bị mời ra khỏi tù. Ngay khi vừa được tự do, thánh Êulôgiô bắt đầu giảng dạy và hoán cải nhiều tâm hồn. Những người bắt giam Êulôgiô trước đây quá tức giận đến nỗi họ lại bắt giữ ngài lần nữa.
Trước mặt quan tòa, Êulôgiô can đảm tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Êulôgiô bị họ kết án và ngài đã hiến dâng mạng sống mình cho Đức Chúa Giêsu.
Êulôgiô về trời năm 859.

Chúng ta hãnh diện về những vị anh hùng thời chiến của đất nước chúng ta. Chúng ta mơ ước được làm những việc cả thể như họ đã làm. Cuộc sống của thánh Êulôgiô nhắc nhở chúng ta cũng rất có thể tự hào về những vị anh hùng của đức tin. Chúng ta hãy cố gắng trở nên giống họ.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-09-2012, 09:16 AM
Ngày 12 tháng Ba


THÁNH PHINA (SÊRAPHINA)



Thánh nữ Phina được sinh tại San Giêminianô, một thị trấn nhỏ thuộc nước Ý. Song thân Phina từng có một thời rất khá giả nhưng sự rủi ro đã làm cho họ phải tan gia bại sản. Sêraphina (hay Phina như gia đình vẫn thường quen gọi) là con gái của họ. Phina rất xinh đẹp và có tính tình vui vẻ hoạt bát. Phina có tấm lòng bao dung quảng đại. Mỗi ngày Phina dành ra nửa phần ăn tối cho một ai đó trong thị trấn có tình cảnh nghèo khổ hơn mình. Suốt ngày, Phina may vá và dệt vải để phụ giúp gia đình trả nợ. Vào buổi tối, Phina thường dành ra một thời gian dài để cầu nguyện với Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Thân phụ Phina qua đời lúc ngài còn rất trẻ. Lại nữa, Phina phải chịu một chứng bệnh làm cho thân thể bị tê liệt và biến dạng. Phina hầu như không thể cử động được và phải nằm liệt suốt 6 năm trên những tấm ván gỗ. Nỗi đau đớn xâm chiếm toàn thể thân xác Phina. Cách duy nhất Phina có thể chịu đựng là hướng tâm trí lên Đức Chúa Giêsu lúc Người bị đóng đinh thập giá. Phina thì thầm : “Lạy Chúa Giêsu, con xin kết hợp những đau khổ của con với những nỗi thống khổ của Chúa!” Thỉnh thoảng, khi cơn đau lên đến cùng cực, Phina nói : “Ôi Chúa Kitô! Không phải là những nỗi đau của con nhưng chính sự thống khổ của Chúa làm con đau đớn!”
Mỗi ngày, thánh nữ Phina bị bỏ lại trên giường hàng giờ vì thân mẫu ngài phải đi làm hoặc đi xin ăn. Những người láng giềng biết tình cảnh của Phina, nhưng các chỗ viêm nhức của Phina lại bốc mùi hôi thối quá đến nỗi người ta đành phải cáo lỗi không dám đến thăm ngài.
Rồi bất ngờ, thân mẫu của Phina cũng lìa đời. Giờ đây, cô gái bị bỏ lại mồ côi một mình. Chỉ có một người hàng xóm, người bạn Bêlđia tốt bụng của Phina, đến chăm sóc ngài. Bêlđia cố gắng lưu tâm săn sóc Phina hết sức có thể nhưng Phina cũng thường bị bỏ rơi. Rõ ràng là Phina không thể sống lâu hơn được nữa. Phina không muốn làm mất đi nhiệt tâm của mình. Một người kia đã đề cập với Phina về những đau khổ khủng khiếp mà thánh Grêgôriô Cả đã bền tâm chịu đựng. Phina liền dâng hiến tấm thân cho thánh nhân.
Người ta nói rằng ngày kia, đang khi Phina rên rỉ đau đớn, thì thánh Grêgôriô Cả đã hiện ra với ngài. Thánh nhân nói một cách đầy nhân hậu : “Hỡi con, trong ngày lễ kính cha, Chúa sẽ ban cho con được an nghỉ!” Lễ kính thánh Grêgôriô Cả trong lịch cũ được cử hành ngày 12/03 bởi thánh nhân qua đời ngày 12/03/604. Vì thế, ngày 12/03/1253, thánh Grêgôriô Cả đã đến đưa Phina về quê trời.

Thánh nữ Phina giúp chúng ta biết quý trọng ý nghĩa và giá trị đau khổ của Kitô giáo. Chúng ta cũng có thể thấy được giá trị của việc viếng thăm những người già nua, đau ốm, bị bỏ rơi. Chúng ta hãy nài xin thánh Phina ban cho chúng ta một trái tim biết nhạy cảm đối với những ai đang cô đơn hoặc sầu khổ.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-09-2012, 09:20 AM
Ngày 13 tháng Ba




THÁNH ÊUPHRASIA



Thánh nữ Êuphrasia được sinh ra ở thế kỷ thứ V trong một gia đình Công giáo gốc. Thân phụ Êuphrasia, là người thuộc dòng dõi hoàng tộc, qua đời khi Êuphrasia mới được 1 tuổi. Nhà vua trông nom săn sóc Êuphrasia và thân mẫu ngài. Khi lên 7, thân mẫu đưa Êuphrasia sang Ai Cập. Ở đó, họ sống trong một ngôi nhà lớn tọa lạc gần bên một nữ đan viện. Êuphrasia bị hấp dẫn bởi các nữ tu. Ngài năn nỉ thân mẫu cho phép mình được phục vụ Thiên Chúa trong đan viện mà các chị nữ tu thánh thiện đang sống. Mới chỉ là một cô bé vậy mà Êuphrasia không lìa bỏ ý tưởng hoặc quên mất lời thỉnh cầu của mình. Chẳng bao lâu sau đó, thân mẫu dẫn Êuphrasia đến đan viện và trao gởi Êuphrasia cho đan viện mẫu chăm sóc.
Năm tháng trôi qua! Khi thân mẫu Êuphrasia qua đời, nhà vua nhắc nhớ Êuphrasia rằng cha mẹ đã hứa gả Êuphrasia cho một nghị sĩ trẻ tuổi. Tuy nhiên, Êuphrasia chỉ muốn được thuộc trọn về một mình Đức Chúa Giêsu mà thôi. Vì vậy, Êuphrasia đã viết một lá thư hết sức cảm động cho nhà vua. Trong đó ngài nói :
“Con thuộc về Đức Chúa Giêsu và con không thể trao thân gởi phận mình cho bất cứ một ai khác. Ước muốn duy nhất của con là được thế gian quên đi hoàn toàn. Con khiêm tốn nài xin bệ hạ đem phân phát cho người nghèo khó tất cả phần tài sản cha mẹ con để lại cho con. Con cũng xin bệ hạ trao trả lại tự do cho tất cả những người nô lệ của gia đình con!”
Nhà vua thấy lá thư của Êuphrasia quá cảm động đến nỗi ông đã đọc to lên cho tất cả mọi nghị sĩ cùng nghe. Rồi vua thực hiện mọi điều Êuphrasia xin.
Êuphrasia sống phần đời còn lại của mình trong chốn tu viện. Êuphrasia chẳng bao giờ nuối tiếc vì Thiên Chúa đã chọn ngài làm nữ tu.
Êuphrasia qua đời năm 420.

Thật là sung sướng hạnh phúc khi chúng ta có những quần áo đẹp và nhiều của cải tiện nghi đáng kể. Nhưng đừng bao giờ chúng ta quên rằng cuộc sống này còn có điều quan trọng hơn thế nữa. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Êuphrasia giúp chúng ta biết quý trọng tha nhân không vì họ có cái gì nhưng vì họ là ai.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-09-2012, 08:04 AM
Ngày 14 tháng Ba


THÁNH MATILĐA



Thánh nữ Matilđa sinh khoảng năm 895. Ngài là con gái của một bá tước người Đức. Lúc còn rất trẻ, cha mẹ của Matilđa đã xếp đặt việc hôn nhân của ngài với một chàng quý tộc tên là Henri. Sau đám cưới chẳng bao lâu, Henri làm vua nước Đức.
Khi trở thành hoàng hậu, Matilđa sống cuộc đời khiêm tốn đơn sơ với những giờ kinh nguyện hằng ngày. Ai trông thấy Matilđa thì đều phải chân nhận rằng Matilđa thật tốt lành và rất nhân hậu. Matilđa giống một hiền mẫu hơn là một nữ hoàng. Matilđa thích thăm nom và an ủi những người đau yếu. Matilđa giúp đỡ các tù nhân. Matilđa đã không để cho mình bị hư hỏng bởi quyền cao chức trọng nhưng đã cố gắng đến với những người nghèo túng hoạn nạn. Vua Henri nhận thấy hoàng hậu của ông là một người vĩ đại lạ thường. Nhiều lần ông nói với Matilđa rằng sở dĩ ông được là một người khá hơn và là một quốc vương tốt hơn là vì nhờ có Matilđa làm vợ. Dù cho cuộc hôn nhân của hai người bị xếp đặt đi nữa, Henri và Matilđa vẫn thật lòng yêu nhau.
Matilđa được tự do sử dụng vàng bạc của vương quốc làm việc bác ái và Henri chẳng bao giờ tra hỏi Matilđa về điều đó. Thật ra, Henri dần dần ý thức hơn về những nhu cầu cần thiết của thần dân. Henri nhận thấy ông có quyền giảm bớt nỗi đau khổ cho dân chúng nhờ chức vị của ông. Hai người sống đời đôi bạn thật hạnh phúc suốt 23 năm. Rồi vua Henri qua đời một cách bất ngờ khoảng năm 936. Hoàng hậu đã đau khổ rất nhiều vì sự mất mát này. Rồi ngay lúc ấy, Matilđa đã đoan hứa chỉ sống cho riêng mình Thiên Chúa. Vì thế, Matilđa xin linh mục dâng thánh lễ cầu cho linh hồn của vua Henri. Rồi Matilđa trao cho vị linh mục tất cả đồ trang sức ngài đang mang. Matilđa làm như thế để cho biết rằng từ lúc này trở đi, Matilđa có ý từ bỏ mọi sự thế gian.
Dù là một vị thánh, Matilđa cũng đã phạm một lỗi nặng. Matilđa biệt đãi Henri hơn Otto trong việc tranh đấu lên ngôi vua. Và Matilđa đã hối hận vì chuyện này. Matilđa đền bù khuyết điểm bằng cách chấp nhận những đau khổ xảy đến mà không kêu ca phàn nàn chi.
Trải qua những năm đền tội và làm việc bác ái, thì đến năm 968, thánh nữ Matilđa qua đời trong an bình. Thánh nữ được chôn cất bên cạnh người chồng thân yêu của ngài.

Như thánh nữ Matilđa, chúng ta hãy học cách dâng lên những đau khổ nhỏ mọn để đền bù vì những làm lỗi và khuyết điểm của chúng ta.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-09-2012, 08:07 AM
Ngày 15 tháng Ba




THÁNH ZACARIA



Thánh Zacaria là tu sĩ dòng thánh Bênêđictô ở Hy Lạp. Ngài sống vào thế kỷ thứ VIII. Zacaria được chọn làm hồng y rồi giáo hoàng. Vào thời đại của Zacaria, đã xảy ra một cuộc đấu tranh trên khắp nước Ý. Thánh Giáo hoàng Zacaria nắm giữ việc xây dựng hòa bình và cứu lấy người dân thoát khỏi những cuộc chinh chiến thảm khốc. Đôi lúc, thánh Zacaria đã liều mạng sống mình để làm việc này.
Chính vì thánh Zacaria thật hiền lành và tử tế nên các nhà lãnh đạo đã thực hiện điều ngài yêu cầu. Dù là kẻ thù, Zacaria cũng vẫn làm ơn và đối xử với họ bằng tấm lòng hết sức quảng đại. Thánh nhân không bao giờ trả thù họ. Khi Giáo hoàng Zacaria biết được những người thuộc phái Lômba sắp sửa tấn công thành Roma, ngài liền xin đi gặp vị lãnh đạo của họ. Rồi Đức Giáo hoàng Zacaria và Liut Prand, người cầm đầu phái Lômba, đã gặp gỡ nhau. Bất cứ điều gì họ thảo luận với nhau thì kết quả hai bên đều nhất trí đồng tình. Liut Prand bỏ đi kế hoạch xâm lược của ông. Ông cũng trao trả lại tất cả lãnh thổ mà ông đã chiếm lấy trong vùng đó trên 30 năm về trước. Thậm chí ông đã cho phóng thích tất cả các tù nhân. Và Liut Prand ký một hiệp ước 20 năm bảo đảm cho người dân Roma sẽ không bị những người thuộc phái Lômba tấn công.
Thánh Zacaria cũng được mọi người biết đến như một người cha đích thực đối với những người nghèo khổ. Ngài xây dựng nhà cửa cho họ và cho những lữ khách. Trái tim yêu thương của Zacaria không thể nằm yên khi thấy người ta đau khổ. Lần kia, Zacaria nghe biết có một vài thương gia đã mua các nô lệ ở Roma và sẽ đem bán họ tại Phi châu. Thánh nhân liền cho gọi những thương gia ấy đến và quở trách họ vì tội quá ác độc. Rồi, ngài trả cho họ giá tiền họ đã mua các nô lệ và thả các nô lệ tự do.
Khi thánh Zacaria qua đời năm 752, hết thảy mọi người đều buồn bã thương tiếc vì đã mất đi một người cha đầy nhân hậu và thánh thiện.

Thánh Zacaria được mọi người yêu mến và kính phục vì ngài đã không để ý đến bản thân mình. Thánh nhân chỉ quan tâm đến những nhu cầu của người khác. Chúng ta hãy nài xin thánh Zacaria chỉ cho chúng ta biết cách sống quảng đại và vị tha.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-09-2012, 11:03 AM
Ngày 16 tháng Ba




CHÂN PHƯỚC TÔRÊLÔ



Chân phước Tôrêlô sinh năm 1202 ở Poppi, nước Ý. Cuộc đời của Tôrêlô khi còn là một cậu trẻ làng quê thật bình dị và chẳng có gì đặc biệt. Nhưng sau cái chết của thân phụ, Tôrêlô bắt đầu thay đổi toàn bộ lối sống. Tôrêlô quan hệ với phường bạn bè say xỉn. Chúng suốt ngày lang thang trong thành phố thay vì làm việc lao động. Tôrêlô thích những đứa bạn mới và gắng sức thu chiếm lòng họ.
Thế rồi, vào một ngày kia, đang khi chơi một bộ môn thể thao ngoài trời, một con gà trống đã từ chỗ đậu của nó bay sà xuống. Nó đậu trên cánh tay của Tôrêlô rồi gáy ba hồi dài và lớn tiếng. Tôrêlô xúc động không nói nên lời. Ngài đã chuồn đi và bỏ cuộc chơi. Tôrêlô nghĩ rằng việc con gà trống vừa làm không phải là một chuyện tình cờ. Tôrêlô bị khuyến cáo y như thánh Phêrô ngày xưa. Lối sống vô trách nhiệm của Tôrêlô sẽ dẫn Tôrêlô quay trở về với Đức Chúa Giêsu.
Ngay lúc ấy, Tôrêlô quyết định thay đổi cuộc sống. Ngài đến gặp đức đan viện phụ San Phedel và người đã giúp Tôrêlô xưng thú tội lỗi cách sốt sắng. Rồi Tôrêlô đi đến miền rừng núi tĩnh mịch và chọn một nơi gần bên cây cổ thụ. Tôrêlô trải qua 8 ngày cầu nguyện liên lỉ. Vào cuối kỳ, Tôrêlô quyết định sẽ làm một ẩn sĩ. Ngài trở về Poppi và bán tất cả của cải. Tôrêlô chỉ giữ lại số tiền vừa đủ để mua một mảnh đất vuông và nhỏ ở xung quanh cây cổ thụ mà ngài đã tìm thấy trong khu rừng. Bên cạnh cây gỗ đó, Tôrêlô dựng một cái lều và chính tại đây, Tôrêlô đã trải qua phần đời còn lại của ngài. Tôrêlô trồng rau để ăn và múc nước từ dòng suối để uống. Tôrêlô cầu nguyện và sám hối. Đặc biệt nhất là mỗi đêm Tôrêlô chỉ ngủ có 3 giờ đồng hồ.
Chân phước Tôrêlô cảm thấy rằng Thiên Chúa muốn ngài làm ẩn sĩ. Đây là điều làm cho Tôrêlô được bình an và thanh thản. Khi còn sống, rất ít người biết được cuộc đời ẩn tu của Tôrêlô. Chỉ có một người bạn biết được đời sống tu rừng kín ẩn của Tôrêlô mà thôi.
Sau khi sống trên 50 năm như một ẩn sĩ, chân phước Tôrêlô qua đời năm 1282, lúc vừa tròn 80 tuổi.

Chân phước Tôrêlô dạy chúng ta hãy chiếm thủ lấy số phận đời đời một cách nghiêm túc bằng chính đời sống của ngài. Mỗi người đều phải chết và bị Thiên Chúa phán xét. Con đường chúng ta chọn lựa để sống chính là con đường chúng ta sẽ trải qua hạnh phúc đời đời.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-09-2012, 11:05 AM
Ngày 18 tháng Ba




THÁNH SYRILÔ GIÊRUSALEM



Thánh Syrilô Giêrusalem sinh khoảng năm 315 khi một giai đoạn mới bắt đầu hình thành trong giới Kitô hữu. Trước thời điểm ấy, Giáo hội bị các vua chúa bách hại. Hàng ngàn Kitô hữu đã tử vì đạo.
Năm 315, hoàng đế Constantinô thừa nhận Công giáo là một đạo hợp pháp. Đây là chuyện thật kỳ lạ nhưng nó cũng chẳng tóm kết được mọi vấn đề rắc rối. Thật ra, suốt những năm sau “Sắc lệnh năm 315” các Kitô hữu lại phải đương đầu với một vấn đề khó khăn mới. Đó là sự lúng túng về điều các Kitô hữu tin và không tin! Trong Giáo hội xuất hiện nhiều giáo thuyết sai lầm gọi là “những lạc thuyết”. Một số linh mục và giám mục trở nên những người rất can đảm sẵn sàng đứng ra bệnh vực những giáo huấn của Giáo hội. Có một vị giám mục như thế tên là Syrilô Giêrusalem.
Khi thánh Giám mục Giêrusalem là Maximô qua đời, Syrilô được chọn thay vào chỗ của thánh nhân. Syrilô là giám mục Giêrusalem suốt 35 năm. Trải qua 16 năm trời, Syrilô đã phải sống đời ẩn trốn và lưu đày. Thánh nhân phải chạy ra ngoài thành phố ba lần bởi những người có thế lực muốn Syrilô phải chạy trốn. Họ cố bắt ép Syrilô chấp nhận những học thuyết sai trái về Đức Chúa Giêsu và về Giáo hội. Nhưng Syrilô Giêrusalem đã không bao giờ nhượng bộ.
Triều đại của hoàng đế Juliano là kẻ phản đạo bắt đầu từ năm 361. Juliano quyết định xây cất lại đền thờ danh tiếng Giêrusalem. Ông có một chủ đích rõ rệt và chắc chắn trong tâm trí là muốn chứng minh rằng Đức Chúa Giêsu thật sai lầm khi tuyên bố đền thờ Giêrusalem sẽ không được xây dựng lại, và ông quyết chứng minh điều đó. Vì thế, Juliano gom góp thật nhiều tiền của và cung cấp tất cả những thứ vật liệu cần thiết cho việc phục hồi ngôi đền. Nhiều người đã giúp đỡ bằng cách dâng tặng những đồ trang sức và những kim loại quý hiếm. Tuy nhiên, thánh Syrilô đối phó với khó khăn này bằng dáng vẻ bình thản. Thánh nhân tin chắc rằng ngôi đền sẽ không thể nào được hồi phục vì Đức Chúa Giêsu, là Thiên Chúa, đã nói như thế. Vị giám mục yên lặng quan sát hết thảy những vật liệu và nói : “Tôi tin rằng việc này sẽ thất bại!” Và y như dự kiến, đầu tiên một cơn bão, rồi một trận động đất, rồi một vụ hỏa hoạn đã làm cản trở công việc của vua. Cuối cùng, ông vua phải bãi bỏ dự án.
Thánh Syrilô Giêrusalem về trời năm 386, lúc khoảng 70 tuổi. Con người khoan dung, dịu dàng và tốt bụng này sống vào thời đại đau buồn và đầy biến động. Dầu vậy, Syrilô Giêrusalem đã không bao giờ đánh mất đi lòng can đảm phát xuất từ Đức Chúa Giêsu. Suốt cả cuộc đời, Syrilô Giêrusalem đã sống trung thành với Thiên Chúa. Syrilô Giêrusalem thật là anh dũng trong việc rao giảng những chân lý về Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.

Thánh Syrilô Giêrusalem dạy chúng ta rằng Thiên Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta những cơ hội để làm điều tốt. Chúng ta hãy nài xin thánh Syrilô Giêrusalem ban cho tấm lòng can đảm để xả thân dù phải gặp cảnh gian nan khốn khó.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-09-2012, 11:38 AM
Ngày 20 tháng Ba


THÁNH CUBƠ



Thánh Cubơ sống ở nước Anh vào thế kỷ thứ VII. Ngài là một cậu bé chăn chiên nghèo khó, thích chơi đùa với chúng bạn. Cubơ chơi cũng rất khá. Một người trong nhóm bạn bè đã la rầy Cubơ vì tính quá mê chơi. Thật ra, anh bạn nói mà chẳng suy nghĩ gì về bản thân mình cả! Anh ta nói : “Cubơ, sao anh lại có thể phí phạm thời giờ để chơi những trò mà trong khi anh được chọn làm linh mục hay giám mục nhỉ?” Cubơ bối rối và rất xúc động. Ngài phân vân và tự hỏi rồi đây liệu mình sẽ thật là linh mục hay giám mục?
Vào tháng 08/651, cậu bé Cubơ 15 tuổi nhận được một cảm nghiệm đạo đức. Cubơ nhìn thấy bầu trời hoàn toàn đen tối. Rồi đột nhiên, một luồng sáng chói lòa xuyên qua nó. Trong luồng sáng là các thiên thần đang mang một quả cầu lửa trên bầu trời. Một thời gian sau, Cubơ biết được ngay trong đêm xảy ra thị kiến, thánh Giám mục Aiđen qua đời. Cubơ không biết làm sao toàn bộ việc này lại liên quan đến mình, nhưng Cubơ đã quyết định về ơn kêu gọi của ngài và đã vào tu trong một đan viện. Cubơ trở thành linh mục và giám mục.
Thánh Cubơ đã đi bộ hoặc có khi đi ngựa từ làng này sang thôn nọ, từ nhà này qua nhà kia. Cubơ thăm nom bổn đạo và giúp họ tinh thần. Đặc biệt thánh Cubơ có thể nói tiếng địa phương của những người dân quê vì xưa kia thánh nhân cũng đã từng là một cậu bé chăn chiên nghèo khổ. Cubơ làm phúc bố thí khắp nơi và đem nhiều người về với Thiên Chúa. Cubơ rất vui vẻ, bao dung và quảng đại. Người ta cảm thấy bị lôi cuốn đến với ngài mà không sợ sệt gì. Cubơ cũng là một đan sĩ thánh thiện và chuyên chăm cầu nguyện.
Khi được tấn phong giám mục, thánh Cubơ hoạt động rất tích cực nhằm giúp đỡ giáo dân của ngài. Thánh nhân cố gắng thăm nom họ dù phải vất vả hành trình trên những con đường lởm chởm gồ ghề hay trong những thời tiết khắc nghiệt.
Đang khi thở hơi cuối cùng, thánh Cubơ khuyên nài các đan sĩ hãy sống an bình và bác ái với mọi người.
Thánh nhân qua đời năm 687.

Thánh Cubơ đã vượt ra khỏi bản thân để quảng đại yêu mến bổn đạo của ngài. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cubơ giúp chúng ta biết hành động như vậy để không ai cảm thấy buồn sầu hoặc khó chịu khi sống với chúng ta.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-09-2012, 11:40 AM
Ngày 21 tháng Ba




THÁNH SÊRAPIÔN



Thánh Sêrapiôn sống ở Ai Cập vào thế kỷ thứ IV. Đối với Giáo hội và với thánh Sêrapiôn, đó là thời kỳ có những biến động lớn. Khi còn trẻ, Sêrapiôn được hấp thụ một nền giáo dục thâm sâu về khoa Thần học Kitô giáo và các môn học đời. Chỉ trong một thời gian ngắn, Sêrapiôn đã làm giám đốc một trường Kitô giáo danh tiếng dạy khoa Đức Tin ở Alexandria. Sau đó, Sêrapiôn trẩy vào sa mạc sống đời ẩn tu. Ngài gặp một ẩn sĩ danh tiếng là thánh Antôn Ai Cập. Sêrapiôn cố gắng hết sức để học hỏi và bắt chước vị ẩn tu này. Khi qua đời, thánh Antôn đã để lại cho Sêrapiôn một trong những chiếc áo khoác của ngài và Sêrapiôn đã trân trọng giữ gìn nó suốt cuộc đời mình.
Thánh Sêrapiôn làm giám mục thành Tơmui, một thành phố thuộc vùng thấp. Năm 347, ngài đi dự buổi hội nghị rất quan trọng của các giám mục ở Sađica. Sêrapiôn tỏ ra là một giám mục rất can đảm. Ngài yêu mến các chân lý đức tin và gắng hết sức bảo vệ chúng khỏi những người muốn phế bỏ niềm tin Kitô giáo. Sêrapiôn làm việc với thánh Athanasiô, một vị giám mục rất can đảm khác. Cả hai cùng trổi vượt về lòng dũng cảm. Các ngài dùng những bài giáo huấn và chữ viết của mình để chống lại những lạc thuyết. Hầu hết các bản giáo huấn của thánh Sêrapiôn đều bị thất lạc. Chúng là những bài bình giảng cũng như cắt nghĩa đức tin và thánh vịnh rất phong phú. Tác phẩm quan trọng nhất của Sêrapiôn, gọi là “Sách Phụng vụ của Giáo hội Chính thống Đông phương”, đã bị thất lạc hàng trăm năm trước. Cuối thế kỷ thứ XIX, nó mới được tìm thấy và được xuất bản.
Một vị thánh khác nổi danh vào thời đó, thánh Giêrônimô, nói rằng hoàng đế Constantino đã trục xuất Sêrapiôn.
Dường như thánh Sêrapiôn đã mất vào khoảng năm 370 tại nơi ngài bị đày ải.

Thánh Sêrapiôn chỉ cho chúng ta thấy cách thức mà ngài đã sống là trở nên người Kitô hữu đạo đức, can đảm và lương thiện. Thường thì chúng ta không hiểu biết hoặc không bằng lòng với những khả năng chọn lựa của mình. Nhưng nếu muốn được trung thành với Đức Chúa Giêsu và với Giáo hội, đôi lúc chúng ta cũng phải liều mình để chịu khinh chê coi thường. Chúng ta hãy nài xin thánh Sêrapiôn ban cho chúng ta một chút lòng can đảm của ngài.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-09-2012, 06:36 AM
Ngày 22 tháng Ba


THÁNH ĐÊÔGRAXIA



Vào năm 439, thành phố Cartage bị những đạo quân man rợ chiếm giữ. Bọn chúng là “Những kẻ phá hoại những công trình văn hóa nghệ thuật”. Chúng bắt bớ giám mục và các linh mục và đặt các ngài trên một chiếc bè gỗ lớn cũ kỹ rồi thả nó trôi lênh đênh trên biển cả. Thật chẳng ngờ, chiếc bè của các ngài lại tiến đến hải cảng Napoli và các ngài được cứu vớt. Nhưng suốt 14 năm, thành phố mà các ngài bỏ lại phía sau không hề có một giám mục nào!
Ở Roma, hoàng đế Valentiniano xin Giênsênic, người lãnh đạo “Những kẻ chiếm đoạt”, cho phép ông được chọn một giám mục cho thành Cartage. Giênsênic đồng ý và người ta đã chọn một linh mục trẻ tuổi của thành ấy. Vị linh mục này được “Những kẻ chiếm đoạt” kính trọng và các Kitô hữu yêu mến. Tên gọi của ngài bằng tiếng Latinh là “Đêôgraxia” mà bên tiếng Anh có nghĩa là”Tạ ơn Thiên Chúa”. Giám mục Đêôgraxia đã gắng công hoạt động cho đức tin và cho hạnh phúc sung mãn của dân thành Cartage.
Sau đó, Giênsênic cướp phá Roma. Ông trở về Phi châu với hàng trăm nô lệ gồm đàn ông, đàn bà và con trẻ. Tất cả con cái trong gia đình đều bị bắt cóc và bị phân tán bởi “Những kẻ phá hoại” và “Những người Hồi giáo Bắc Phi”. Giênsênic hoàn toàn làm ngơ chẳng đếm xỉa gì đến những quan hệ máu mủ ruột thịt. Các phần tử gia đình được bán riêng từng người một và bị tách biệt khỏi những người thân yêu.
Giám mục Đêôgraxia nghe biết bi kịch thảm khốc này. Với hết khả năng, ngài mua lại các nô lệ khi những chiếc tàu chở nô lệ cập bến tại hải cảng Cartage. Đêôgraxia thu gom tiền bạc bằng cách bán các vật dụng thánh, lễ phục và những đồ trang trí. Đêôgraxia đã giải thoát được nhiều gia đình. Đêôgraxia tìm nơi sinh sống cho họ. Khi các nhà ở đã chứa đầy người, Đêôgraxia sử dụng hai ngôi thánh đường lớn vào mục đích này. Đêôgraxia sắm cho họ những bộ giường nệm và các vật dụng cần thiết khác để họ có thể cảm thấy thoải mái y như nhà của mình dù đang sống trong môi trường mới lạ.
Giám mục Đêôgraxia qua đời khi mới làm giám mục của thành Cartage được 3 năm. Ngài hoàn toàn mỏi mệt vì đời sống vị tha và các việc bác ái từ thiện. Những người được Giám mục Đêôgraxia giúp đỡ sẽ không bao giờ quên ơn ngài.
Đêôgraxia về trời năm 457.

Thánh Giám mục Đêôgraxia giúp chúng ta nhận biết rằng chúng ta không bao giờ được phép định giá cho mạng sống con người. Mỗi một người đều là con của Thiên Chúa, là con của Người Cha rất đáng yêu mến. Chúng ta hãy cầu xin với thánh Đêôgraxia cho cuộc sống con người được tôn trọng hơn. Cách riêng, chúng ta cầu nguyện cho việc quảng bá thông tin đại chúng được ảnh hưởng nhiều đến mọi người.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-09-2012, 06:40 AM
Ngày 23 tháng Ba




THÁNH TURIBIÔ MÔNGRÔVÊJÔ



Thánh Turibiô Môngrôvêjô sinh năm 1538 tại thành Léon, nước Tây Ban Nha. Ngài là giáo sư đại học và là một quan tòa danh tiếng. Turibiô là một Kitô hữu tốt lành trổi vượt về sự khôn ngoan và lòng trung thực.
Một điều bất thường xảy ra làm thay đổi cả cuộc đời của Turibiô Môngrôvêjô là người ta đã xin ngài làm tổng giám mục thành Lima, nước Pêru. Trước hết, Turibiô chưa là linh mục. Thứ nữa, Pêru lại ở tận bên vùng Nam Mỹ xa xôi. Việc này đã xảy ra vì Lima đang cần một tổng giám mục. Nhiều người trong Giáo hội nhận thấy Turibiô có những khả năng và tiêu chuẩn phù hợp với chức vị đáng tín nhiệm trên. Phần Tubiriô thì lại xin được miễn thứ cho vinh dự ấy. Nhưng khi nghe biết tình cảnh đau khổ đáng thương của những người dân xứ Pêru, Turibiô đã không thể từ chối. Ngài muốn giúp đỡ và đem đức tin đến cho họ.
Rồi, Turibiô được thụ phong linh mục, giám mục và sau đó đã lên đường trẩy đến Pêru. Với cương vị là tổng giám mục, thánh Turibiô kinh lý qua các miền đất nước. Ngài lội bộ qua những vùng đồi núi băng tuyết. Thánh nhân băng qua những dải cát nóng trên bờ biển. Turibiô xây cất nhiều nhà thờ và bệnh viện. Ngài cũng mở một trường đào tạo các linh mục đầu tiên ở châu Mỹ Latinh. Người ta gọi loại trường học như vậy là đại chủng viện. Turibiô học nhiều tiếng thổ âm khác nhau. Thánh nhân mong muốn giáo dân có thể nghe và hiểu được những bài giảng huấn trong thánh lễ và cáo giải bằng chính ngôn ngữ riêng của họ. Turibiô bảo vệ người dân bản xứ cho khỏi bị những kẻ thống trị đối xử tàn bạo.
Thánh Tubiriô Môngrôvêjô yêu mến người dân Pêru. Thánh nhân đã dành trọn phần đời của ngài trong chức vị linh mục và giám mục cho họ.
Tubiriô Môngrôvêjô qua đời ngày 23/03/1606, lúc được 68 tuổi.
Năm 1726, Đức Thánh cha Bênêđictô XIII đã tôn phong Tubiriô Môngrôvêjô lên bậc hiển thánh.

Chúng ta không muốn bị những người có thế lực lừa gạt cách bất công bởi tiền bạc hoặc những đồ xa xỉ đắt tiền của họ. Mỗi người chúng ta thật quan trọng vì Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Chúng ta hãy nài xin thánh Tubiriô Môngrôvêjô giúp chúng ta cư xử với mọi người trong niềm kính trọng và tử tế như ngài.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-09-2012, 09:32 AM
Ngày 24 tháng Ba




CHÂN PHƯỚC ĐAĐICÔ



Chân phước Đađicô sinh ngày 29/03/1743 ở Cađi thuộc đất nước Tây Ban Nha. Ngài được đặt tên là Giuse Phanxicô. Song thân ngài yêu mến Giáo hội và rất trung thành giữ đạo. Họ lấy làm vui thích khi thấy con trai mình phục vụ và trang hoàng bàn thờ. Cậu bé thường hay quỳ gối cầu nguyện với Đức Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh cả Giuse.
Khi đến tuổi khôn lớn, Giuse học giúp lễ tại nhà thờ dòng Capuxinô ngay ở khu phố bên dưới. Giuse học cách yêu mến thánh lễ. Mỗi sáng, Giuse thường đi lễ rất sớm và chờ đợi người ta mở cửa nhà thờ. Ngài không bao giờ bỏ lễ dù chỉ một ngày. Một cha hay một thầy dòng Capuxinô đã tặng cho Giuse một quyển sách nói về đời sống của các thánh dòng Capuxinô. Giuse đã cầm lấy cuốn sách và đọc đi đọc lại nhiều lần. Giuse học từng chuyện một. Giuse yêu mến ngưỡng mộ những vị thánh đã sống cuộc đời khó nghèo và khiêm tốn như Đức Chúa Giêsu.
Rồi đến ngày Giuse xin vào dòng tu. Giuse được nhận và được chuyển đến thành Sêvil nước Tây Ban Nha để tham dự khóa huấn luyện, gọi là thời kỳ tập viện. Giuse bắt đầu một đời sống mới với tên gọi mới : thầy Đađicô.
Sau nhiều năm chuẩn bị tâm hồn, thầy Đađicô được thụ phong linh mục. Ngài được sai đi rao giảng Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu cho dân chúng. Cha Đađicô thích làm công việc này. Những bài giảng thuyết của cha thật rõ ràng, dễ hiểu và ý vị đến nỗi ai ai cũng muốn nghe. Thậm chí họ kéo cả bạn bè cùng tới nghe nữa! Chẳng mấy chốc ngôi thánh đường vắng lặng ngày nào bỗng trở nên quá bé nhỏ và chật hẹp đến nỗi không thể nào chứa hết những nhóm đông người. Khi cha Đađicô thuyết giảng, các lời của cha được truyền lan ra bên ngoài, thường là trong các quảng trường trung tâm thành phố hay nơi các phố sá. Cha Đađicô thích giảng về Thiên Chúa Ba Ngôi. Cha cũng luôn luôn sẵn lòng nghe những lời thú tội của các hối nhân. Cha Đađicô thật sung sướng khi thấy người ta tìm đến với Bí tích Xá Giải. Bất cứ khi nào có thời giờ rảnh, cha Đađicô liền đi thăm nom các trại tù và các bệnh xá. Cha cũng hay ghé thăm những gia đình bị xã hội bỏ quên.
Cha Đađicô qua đời năm 1801 và được Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong chân phước năm 1894.

Chân phước Đađicô đã sống một cuộc đời phục vụ dân Chúa thật phi thường. Chúng ta hãy nài xin ngài giúp chúng ta biết khôn ngoan làm cho những điều tốt ảnh hưởng trên đời sống chúng ta. Những ảnh hưởng như thế có thể là những người thánh thiện, những lời chỉ dẫn về đàng thiêng liêng, thánh lễ, các tạp chí hay sách vở đạo đức.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-09-2012, 09:34 AM
Ngày 25 tháng Ba




Lễ TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA



Đã đến lúc Đức Chúa Giêsu giáng thế. Thiên Chúa sai Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đến thành Nazareth, nơi Mẹ Maria đang sống. Tổng lãnh Thiên thần với dung mạo huy hoàng rực rỡ đã tiến vào căn nhà bé nhỏ của Mẹ Maria và trông thấy Mẹ đang cầu nguyện.
“Kính chào Bà, hỡi Đấng đầy ân sủng!” – Thiên thần nói – “Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà có phúc giữa các người phụ nữ.” Mẹ Maria thật ngạc nhiên khi nghe những lời ca ngợi của sứ thần.
“Hỡi Maria, đừng sợ!” – Gabriel trả lời. Rồi Tổng lãnh Thiên thần nói với Mẹ rằng Mẹ sắp sửa trở nên thân mẫu của Đức Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ loài người. Mẹ Maria hiểu được vinh dự mà Thiên Chúa dành ban cho Mẹ thật lớn lao. Và Mẹ đã thưa : “Này tôi là nữ tỳ của Chúa!” Ngay lúc ấy, Mẹ Maria trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ vẫn xưng mình là nữ tỳ, là đầy tớ của Người.
Mẹ Maria cũng biết rằng khi chấp nhận làm Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ. Mẹ nhận biết Mẹ sẽ phải đau khổ khi Con của Mẹ chịu đau khổ. Thế nhưng với tất cả tâm hồn, Mẹ đã thưa lên : “Xin hãy thực hiện nơi tôi như lời sứ thần truyền!”

Trong dịp này, Mẹ Maria đã ban tặng cho chúng ta một mẫu gương khiêm nhượng và vâng phục thật cao cả. Cũng thế, chúng ta hãy bày tỏ lòng mến yêu Thiên Chúa qua việc vâng lời những vị đại diện của Người là cha mẹ và các thầy cô giáo của chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-09-2012, 08:56 AM
Ngày 26 tháng Ba




THÁNH LUGIƠ



Thánh Lugiơ sinh ở Bắc Âu vào thế kỷ thứ VIII. Sau nhiều năm học hành vất vả, ngài được thụ phong linh mục. Lugiơ bắt đầu đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Lugiơ rất lấy làm vui sướng khi được chia sẻ những điều ngài đã học biết về Thiên Chúa cho mọi người. Nhiều người ngoại giáo được ơn trở lại và đời sống của các Kitô hữu được cải thiện. Thánh Lugiơ cũng xây cất nhiều nhà thờ và tu viện.
Rồi đột nhiên những người man rợ, cũng gọi là những người Xắc-Xông, đến tấn công xứ sở của thánh Lugiơ và đuổi các linh mục đi. Dường như thể tất cả mọi việc Lugiơ đã làm đều ra thất bại. Nhưng thánh nhân không chịu bỏ cuộc. Trước hết, Lugiơ tìm một nơi an toàn cho các môn đệ của mình. Sau đó, Lugiơ tới Roma để bàn hỏi với Đức Thánh cha về việc ngài sắp làm.
Hơn 3 năm trời, thánh Lugiơ sống như một đan sĩ tốt lành thánh thiện trong đan viện Bênêđictô. Nhưng Lugiơ không quên được những người dân sống nơi quê hương của ngài. Vừa khi về tới đất nước, thánh Lugiơ tiếp tục lại công việc. Thánh nhân gắng sức hoạt động và đã làm cho nhiều người Xắc-Xông ngoại giáo ăn năn trở lại.
Khi được tấn phong giám mục, thánh Lugiơ đã làm gương sáng đặc biệt hơn về lòng mộ đạo và tâm hồn hào hiệp quảng đại. Lần kia, những người ghen ghét Lugiơ tố cáo ngài với vua Samác. Nhà vua cho triệu Lugiơ đến hoàng cung để ngài tự biện hộ cho mình. Lugiơ vâng lời đến hoàng triều. Ngày hôm sau, khi nhà vua cho gọi ngài, Lugiơ nói rằng sau khi cầu nguyện xong thì sẽ đến ngay. Thoạt đầu, vua Samác tỏ vẻ giận dữ, nhưng thánh Lugiơ giải thích rằng mặc dù ngài rất tôn trọng đức vua nhưng ngài phải kính trọng Thiên Chúa trước hết. Lugiơ nói : “Tâu đức vua, xin đừng nổi giận với hạ thần! Vì chính đức vua đã bảo hạ thần phải luôn luôn dành cho Thiên Chúa phần ưu tiên mà!” Đứng trước câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, nhà vua nhận biết rằng Lugiơ rất thánh thiện. Từ đó trở đi, vua Samác tỏ ra rất khâm phục và quý mến Lugiơ.
Thánh Lugiơ qua đời nhằm ngày Chúa nhật lễ Lá năm 809. Thánh nhân đã làm tròn bổn phận của ngài trong việc tôn thờ Thiên Chúa cho tới khi nhắm mắt lìa đời.

Thánh Lugiơ đã dồn hết sinh lực của mình phục vụ ơn kêu gọi linh mục. Đức Chúa Giêsu đã dùng thánh nhân để đem nhiều người tới gần Thiên Chúa hơn. Chúng ta có thể năng cầu xin Đức Chúa Giêsu giúp các linh mục sống thánh thiện và quảng đại như thánh Lugiơ.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-09-2012, 08:58 AM
Ngày 27 tháng Ba




THÁNH GIOAN Ai Cập



Con người mơ ước được sống kết hợp với Thiên Chúa đã trở nên một trong số các vị ẩn tu danh tiếng nhất trong thời đại của ngài. Thánh Gioan Ai Cập sinh vào khoảng năm 304. Người ta không được biết nhiều về thời niên thiếu của thánh Gioan ngoài công việc thợ mộc. Khi lên 25 tuổi, Gioan quyết định lìa bỏ thế gian vĩnh viễn để dùng đời sống mình hy sinh, cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa. Thánh Gioan chính là một trong số những vị tu rừng nổi danh vào thời ấy.
Suốt 10 năm trời, Gioan là môn đệ của một ẩn sĩ cao niên đầy kinh nghiệm. Vị ẩn tu thánh thiện này chỉ dạy Gioan cách thức sống cuộc đời đạo đức. Thánh Gioan gọi ngài là “cha linh hồn”. Sau khi vị ẩn sĩ già này qua đời, thánh Gioan trải qua 4 hay 5 năm nữa sống trong các đan viện khác nhau. Thánh nhân muốn làm quen với lối sống và cách thức cầu nguyện của các đan sĩ. Sau cùng, Gioan tìm được một hang đá khá sâu. Khu vực ấy thật yên tĩnh và được bảo vệ thật an toàn khỏi những cơn gió và sức nóng của sa mạc. Gioan chia chiếc hang làm ba phần : một phòng khách, một phòng làm việc và một phòng nguyện nhỏ. Dân cư trong vùng mua thức ăn và những thứ cần dùng cho Gioan. Nhiều người cũng đến nhờ Gioan khuyên bảo về những vấn đề quan trọng. Ngay cả hoàng đế Thêôđôsiô I cũng hai lần đến xin Gioan lời khuyên, một lần vào năm 388 và lần khác năm 392.
Những vị thánh danh tiếng như Augustinô và Giêrônimô đã viết sách nói về tinh thần thánh thiện của thánh Gioan. Trong số những khách tới thăm Gioan, có vài người đã trở nên môn đệ của ngài. Họ đã lưu lại nơi ấy và xây cất một nhà nghỉ. Họ trông coi ngôi nhà để nhiều người có thể đến học hỏi sự khôn ngoan nơi vị ẩn sĩ này. Thánh Gioan được ơn tiên đoán những sự việc tương lai. Ngài có thể đoán biết được tâm hồn của những người tìm đến với ngài. Gioan có thể đọc được tư tưởng của họ. Khi Gioan xức dầu thánh trên những người mắc bệnh thể xác, họ thường được chữa lành.
Ngay cả khi nổi danh, thánh Gioan vẫn một mực giữ thái độ khiêm tốn và không bao giờ để cho mình được sống thoải mái dễ chịu. Thánh nhân chẳng khi nào dùng bữa trước lúc mặt trời lặn. Thức ăn của Gioan thường là rau quả sấy khô. Ngài không bao giờ dùng thịt hay những thức đã được nấu chín hoặc hâm nóng. Thánh Gioan tin rằng cuộc sống hy sinh hãm mình của ngài sẽ giúp ngài sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Năm 394, thánh Gioan qua đời trong an bình, hưởng thọ 90 tuổi.

Chúng ta hãy cầu xin thánh Gioan ẩn tu chỉ cho chúng ta cách sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta quyết tâm để Thiên Chúa hoạt động trong và qua chúng ta.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-09-2012, 06:31 AM
Ngày 28 tháng Ba


THÁNH TUTILÔ



Thánh Tutilô sống vào cuối thế kỷ thứ IX dầu thế kỷ thứ X. Thánh nhân được giáo dục tại đan viện Bênêđictô của thánh Gal. Hai người bạn cùng lớp với Tutilô vừa được phong “chân phước”. Cả ba lần lượt trở thành những đan sĩ tại đan viện nơi họ đã một thời cùng nhau cắp sách đến trường.
Thánh Tutilô là người có nhiều tài khéo. Thánh nhân vừa là thi sĩ, họa sĩ vẽ chân dung, nhà điêu khắc, nhà hùng biện và kiến trúc sư. Thánh Tutilô cũng là một công nhân cơ khí nữa!
Tài năng nổi bật nhất của Tutilô là âm nhạc. Tutilô có thể chơi tất cả các loại nhạc cụ được các đan sĩ biết tới trong phụng vụ. Tutilô và người bạn của ngài là chân phước Nôtkơ đã sáng tác những cung bậc cho các bài đáp ca phụng vụ. Trong tất cả những tác phẩm của Tutilô, chỉ còn sót lại ba bài thơ và một bài thánh ca. Thế nhưng, ngày nay người ta vẫn còn tìm thấy các bức vẽ và các tác phẩm điêu khắc của Tutilô trong nhiều thành phố của Âu châu. Các họa phẩm và các tác phẩm ấy được coi như đồng nhất với thánh Tutilô vì ngài luôn luôn để lại trên những tác phẩm của mình một câu châm ngôn thích hợp.
Nhưng không phải vì các tài năng kiệt xuất của mình mà Tutilô được tôn phong hiển thánh. Tutilô là người khiêm tốn chỉ muốn sống cho Thiên Chúa. Ngài biết tôn vinh Thiên Chúa bằng việc sơn vẽ, chạm trổ và sáng tác âm nhạc. Tutilô được tôn phong là “thánh” vì ngài đã khéo dùng đời sống mình để ca ngợi và yêu mến Thiên Chúa.
Thánh nhân qua đời năm 915.

Dù chúng ta có nhiều hay ít tài khéo, dù chúng ta có óc thực tế hay không… thì điều quan trọng là hãy cố gắng hết sức có thể bằng chính cuộc sống của mình. Đây chính là cách thức để chứng tỏ tấm lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-09-2012, 06:35 AM
Ngày 29 tháng Ba


THÁNH GIONA và THÁNH BARAKISIÔ



Vua Sapô nước Ba Tư lên ngôi cai trị vào thế kỷ thứ IV. Ông rất căm ghét những tín hữu Công giáo và đã bắt bớ tra tấn họ cách rất dã man.
Ông phá hủy các nhà thờ và các tu viện của họ.
Có hai anh em tên là Giona và Barakisiô nghe nói về những chuyện bách hại và biết được nhiều Kitô hữu đã bị thiệt mạng. Các ngài đã quyết định đến giúp đỡ và khuyến khích họ giữ vững niềm tin vào Chúa Kitô. Giona và Barakisiô biết rằng mình cũng có thể bị bắt giữ, nhưng các ngài vẫn cứ tiếp tục công việc ấy. Tâm hồn các ngài tràn đầy lòng yêu mến tha nhân đến nỗi các ngài luôn luôn quan tâm tới họ.
Sau cùng, hai anh em cũng bị bắt. Người ta nói với các ngài rằng nếu không chịu thờ lạy mặt trời, mặt trăng, nước và lửa thì sẽ bị tra tấn hành hạ và bị giết chết. Dĩ nhiên, cả hai đã không thờ lạy bất cứ vật gì hoặc bất cứ ai khác ngoại trừ một Thiên Chúa chân thật. Hai anh em phải chịu những cực hình tra tấn thật ghê sợ nhưng các ngài đã cầu nguyện. Các ngài cứ suy ngẫm về cách thức Đức Chúa Giêsu đã chịu đau khổ vì mình. Hai anh em nhẫn nhục vui chịu những nhục hình thật kinh khủng để bảo vệ đức tin. Cuối cùng, cả hai bị lên án tử và cả hai đã vui mừng hy sinh mạng sống mình vì Đức Chúa Giêsu.
Thánh Giona và thánh Barakisiô tử đạo năm 327.

Khi gặp một chút đau khổ nho nhỏ, chúng ta hãy nài xin các thánh tử đạo này giúp chúng ta biết phó dâng nó cho Đức Chúa Giêsu. Các ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết cách làm thế nào để được can đảm.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-09-2012, 09:28 AM
Ngày 30 tháng Ba


THÁNH GIOAN CLIMACÔ



Người ta cho rằng thánh Gioan Climacô được sinh tai Palestine vào thế kỷ thứ VII. Hình như Gioan Climacô là một trong số những môn đệ của thánh Grêgôriô Nazianzênô. Gioan tuy là một giáo sư danh tiếng nhưng đã cương quyết phục vụ Thiên Chúa với tất cả tâm hồn. Khi lên 16 tuổi, Gioan Climacô gia nhập đan viện trên núi Sinai. Rồi ngài sống ở đó một mình suốt 40 năm trời. Gioan dùng tất cả thời giờ để cầu nguyện và đọc chuyện các thánh.
Thoạt đầu, thánh Gioan bị ma quỷ cám dỗ. Ngài cảm thấy đủ mọi thứ đam mê xấu xa đang chèn ép ngài nhượng bộ và phạm tội. Nhưng Gioan vẫn đặt trọn niềm tin tưởng của mình nơi Chúa Giêsu và tích cực chăm chỉ cầu nguyện hơn bao giờ hết. Vì vậy, những chước cám dỗ kia đã không thể nào làm cho Gioan phạm tội mà thật ra chỉ làm cho ngài càng thêm thánh thiện hơn thôi! Gioan sống mật thiết với Thiên Chúa đến nỗi nhiều người nghe biết về sự thánh thiện của Gioan đã đến xin Gioan những lời khuyên bảo.
Thiên Chúa ban tặng cho thánh Gioan Climacô một ân huệ kỳ diệu. Ngài có thể đem lại an bình cho những người đang bị bối rối và cám dỗ. Lần kia, có người gặp phải một cơn cám dỗ khủng khiếp đã chạy đến với Gioan. Ông xin thánh Gioan giúp mình và thú thật là đối với ông, việc chiến đấu chống lại cơn cám dỗ thật là điều khó. Sau khi cả hai cùng cầu nguyện, bình an lại tràn ngập tâm hồn người đàn ông đáng thương này. Ông không bao giờ bị khốn khổ bực dọc bởi cơn cám dỗ ấy nữa.
Khi bước qua tuổi 74, thánh Gioan Climacô được chọn làm đan viện trưởng của đan viện miền núi Sinai. Ngài là bề trên của hết mọi đan sĩ và ẩn sĩ sống trong miền ấy. Một đan phụ khác xin thánh Gioan viết ra những quy tắc ngài đã sống trong suốt cuộc đời của ngài. Với lòng khiêm nhượng sâu thẳm, thánh Gioan Climacô đã viết một cuốn sách nhan đề : Bậc trọn lành hay Đường trọn lành của Climax. Và đó là lý do tại sao thánh nhân được gọi là “Climacô”.
Thánh Gioan Climacô qua đời năm 649.

Thật là khôn ngoan khi giữ lại một cuốn sách quý trong phòng ngủ của chúng ta. Mỗi ngày hoặc trước khi đi ngủ, chúng ta có thể đọc chút ít.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-09-2012, 09:30 AM
Ngày 31 tháng Ba




CHÂN PHƯỚC GIOANNA TOULOUSE



Vào năm 1240, một số tu sĩ dòng Cát Minh từ Palestine đã thành lập một tu viện ở Toulouse, nước Pháp. 25 năm sau đó, thánh Simon Stoc, vị linh mục bề trên cả thuộc dòng Cát Minh có dịp kinh lý qua miền Toulouse. Một bà đạo đức đến xin gặp ngài. Hết sức đơn sơ, bà tự giới thiệu mình là Gioanna. Bà nghiêm túc xin vị linh mục : “Con có thể chia sẻ luật dòng Cát Minh với tư cách là một hội viên không?” Lúc ấy thánh Simon Stoc đang là bề trên của dòng. Ngài có quyền ban phép theo lời thỉnh cầu của bà ấy. Ngài trả lời : “Được chứ!” Và Gioanna đã trở thành hội viên đầu tiên. Gioanna lãnh nhận tu phục của dòng Cát Minh. Gioanna tuyên khấn giữ mình trinh khiết trọn đời trước sự chứng kiến của thánh Simon Stoc.
Gioanna tiếp tục đời sống đơn sơ, trầm lặng ngay tại căn nhà riêng của ngài. Suốt phần đời còn lại, Gioanna đã cố gắng hết sức để bền đỗ với những điều luật của dòng Cát Minh. Gioanna tham dự thánh lễ và đọc kinh cầu hàng ngày tại nhà thờ Cát Minh. Phần thời giờ còn lại trong ngày, Gioanna thăm viếng những người nghèo khổ, đau ốm và những người bơ vơ không nơi nương tựa. Gioanna tập cho các bé trai giúp lễ. Gioanna nâng đỡ những người già yếu bằng cách giúp họ làm những công việc lặt vặt hữu ích. Gioanna cầu nguyện với họ và đã làm tươi sáng nhiều con tim bằng những câu chuyện vui.
Chân phước Gioanna Toulouse luôn mang trong túi áo mình một tấm ảnh Chúa Giêsu Chịu Nạn. Đó là “cuốn sách” của ngài. Thỉnh thoảng Gioanna Toulouse lấy tấm ảnh ra chiêm ngắm. Ánh mắt Gioanna rạng rỡ hẳn lên. Người ta nói rằng Gioanna Toulouse đọc được vài lời khuyên mới mỗi khi ngài học nơi tấm ảnh ấy.
Khi qua đời, chân phước Gioanna Toulouse được chôn cất tại nhà thờ Cát Minh miền ấy. Suốt một đời, Gioanna Toulouse đã là một người con ngoan của xứ đạo.

Chúng ta hãy nài xin chân phước Gioanna Toulouse chỉ cho chúng ta cách thức lan truyền tình yêu Đức Chúa Giêsu trong xứ đạo và nơi những người láng giềng của chúng ta.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
13-09-2012, 09:18 AM
Ngày 01 tháng Tư


THÁNH HIU GRÊNÔP



Thánh Hiu Grênôp sinh năm 1052 tại Pháp. Ngài có thân hình cao lớn, đẹp trai với tính tình hiền lành và rất lịch duyệt. Thánh nhân được ban tặng những chức vị cao cả dù ngài luôn luôn muốn sống phục vụ Thiên Chúa như một tu sĩ. Hiu được thụ phong linh mục, và sau đó được tấn phong giám mục.
Với vị thế giám mục, thánh Hiu Grênôp lập tức điều chỉnh lại những thói tục xấu của một số giáo hữu trong giáo phận của ngài. Hiu Grênôp thực hiện những phương sách khôn ngoan nhưng đó chưa phải là tất cả. Để lôi kéo lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa xuống cho bổn đạo của mình, thánh Hiu đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Ngài thực hiện những hành vi khổ chế. Và chỉ trong một quãng thời gian ngắn, nhiều người đã trở nên rất sốt sắng. Chỉ còn một ít quý tộc vẫn tiếp tục chống báng Hiu Grênôp mà thôi.
Giám mục Hiu Grênôp vẫn tưởng nghĩ về đời sống của người tu sĩ. Ngài thực sự mong muốn điều này. Và Hiu đã xin từ chức giám mục thành Grênôp để vào tu trong một đan viện. Cuối cùng, Hiu được toại nguyện. Thế nhưng thánh ý Thiên Chúa không muốn cho Hiu làm tu sĩ. Sau một năm, Đức Thánh cha yêu cầu Hiu phải trở về Grênôp. Thánh Hiu vâng lời. Ngài biết rằng làm vui lòng Thiên Chúa thì trọng hơn là làm theo ý riêng mình.
Suốt 40 năm, Hiu Grênôp hầu như luôn luôn yếu bệnh. Ngài bị đau bao tử và nhức đầu kinh niên. Nhưng thánh nhân vẫn ép mình làm việc. Hiu yêu quý đàn chiên của ngài và thánh nhân đã giúp họ làm rất nhiều việc. Hiu cũng phải đau khổ vì những thử thách cám dỗ. Nhưng thánh Hiu luôn cầu nguyện và chẳng bao giờ chịu nhượng bộ cho tội lỗi.
Thánh Hiu qua đời ngày 01/04/1132, hai tháng trước sinh nhật lần thứ 80 của ngài.
Suốt 52 năm trời, Hiu Grênôp là một giám mục thánh thiện và giàu lòng quảng đại.
Năm 1134, chỉ 2 năm sau khi qua đời, Hiu Grênôp được Đức Thánh cha Innocente II tôn phong hiển thánh.

Đôi lúc chúng ta nghĩ mình biết điều này điều nọ là rất tốt cho mình. Đôi lúc chúng ta cũng cảm thấy làm công việc này thì thoải mái dễ chịu hơn làm công chuyện kia. Nhưng giả như Thiên Chúa để cho chúng ta biết rằng Người đang hiện diện trong tâm trí của mình, chắc chúng ta sẽ vui sướng làm theo ý muốn của Người. Chúng ta có thể nài xin thánh Hiu Grênôp giúp đỡ chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
13-09-2012, 09:23 AM
Ngày 02 tháng Tư




THÁNH PHANXICÔ PAOLA



Thánh Phanxicô được sinh tại Paola, một ngôi làng nhỏ thuộc nước Ý vào khoảng năm 1416. Song thân của Phanxicô rất nghèo nhưng thánh thiện và khiêm tốn. Ông bà đã cầu nguyện cùng thánh Phanxicô thành Assisie cho đứa con trai của mình. Khi sinh hạ ngài, họ lấy tên thánh Phanxicô mà đặt cho ngài. Cậu nhỏ đi học ở trường của các cha dòng Phanxicô. Ở đó, cậu học môn tập đọc. Khi lên 15 tuổi, được phép của cha mẹ, Phanxicô trẩy đến sống trong một cái hang. Phanxicô muốn làm một ẩn sĩ và muốn dâng hiến đời sống mình phục vụ Thiên Chúa.
Khi lên 20, có những thanh niên khác tìm đến gia nhập với ngài. Sau đó, thánh Phanxicô rời bỏ chiếc hang của ngài. Người dân thành Paola xây cất cho Phanxicô và các môn đệ của ngài một ngôi thánh đường và một tu viện. Phanxicô Paola gọi hội dòng mới của ngài là “Minims”. “Minims” có nghĩa là “những anh em rất hèn mọn”.
Mọi người đều yêu mến thánh Phanxicô Paola. Thánh nhân cầu nguyện cho họ và làm nhiều phép lạ. Phanxicô Paola dạy các môn đệ của mình sống khiêm tốn, quảng đại và thực hành nhiều việc đền tội. Chính bản thân Phanxicô là mẫu gương ngời sáng các nhân đức ngài giảng dạy. Lần kia, có một người đến thăm thánh nhân và buông những lời lăng mạ trước mặt ngài. Khi ông ta nói xong, Phaxicô Paola đã làm một cử chỉ hết sức phi thường. Phanxicô Paola lặng lẽ nhặt lên vài cục than nóng đỏ từ lò sưởi và nắm chặt chúng trong tay mình, nhưng thánh nhân chẳng hề bị bỏng chút nào hết! “Đến đây, hãy sưởi ấm đi!” - Phanxicô Paola nói với kẻ tố cáo ngài cách thân thiện. - “Anh đang run lạnh và anh cần một chút tình khoan dung bác ái!” Và như một phép lạ, người khách liền thay đổi ý nghĩ về Phanxicô. Từ đó, ông hết sức ngưỡng mộ khâm phục Phanxicô.
Vua Luy XI của nước Pháp có một lối sống chẳng mấy đạo hạnh. Lúc gần chết, vua cho người đi mời thánh Phanxicô Paola đến. Chỉ tưởng nghĩ đến cái chết thôi cũng đủ làm cho vua khiếp sợ. Vua muốn Phanxicô Paola làm một phép lạ cứu chữa mình. Nhưng thay vào đó, thánh nhân lại ân cần giúp cho con người khiếp hãi này dọn mình thật tốt để được chết lành thánh. Nhà vua mềm lòng. Ông đã chấp nhận thánh ý Thiên Chúa và chết lành cách an bình trong vòng tay của thánh nhân.
Thánh Phanxicô Paola đã sống một cuộc đời dài lâu trong sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa. Thánh nhân qua đời nhân ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1507, hưởng thọ 91 tuổi.

Đôi khi chúng ta có thể bị vây phủ bởi những tiếng nhạc ồn ào, những cuộc trình diễn trên tivi, các loại băng từ và những trò chơi điện tử… làm cho chúng ta cảm thấy rằng mình chỉ sống cho cuộc đời tạm này. Thậm chí chúng ta không dành ra chút thời giờ nào để suy nghĩ về linh hồn bất tử của chúng ta. Chúng ta sẽ thêm được điều gì vào kế hoạch giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa? Thánh lễ hàng này? Kinh nguyện ban mai? Lời nguyện ban chiều? Làm những việc lặt vặt trong nhà cách tử tế và vui vẻ? Làm bài và chuẩn bị bài thật tốt? Và việc gì nữa?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-09-2012, 08:38 AM
Ngày 03 tháng Tư



THÁNH RICHƠ CHICHESTƠ



Thánh Richơ Chichestơ được sinh tại nước Anh vào năm 1197. Richơ và anh trai của ngài phải mồ côi cha mẹ khi còn rất nhỏ. Người anh của Richơ có một số nông trại. Richơ nghỉ việc học hành để giúp anh bảo quản các trang trại cho khỏi bị phá sản suy vi. Ngài làm việc chăm chỉ đến nỗi người anh rất biết ơn muốn trao các trang trại lại cho Richơ, nhưng Richơ đã không nhận. Richơ cũng chẳng nghĩ gì tới chuyện lập gia đình bởi vì ngài muốn đi học đại học để có được một nền học vấn khá hơn. Vì biết mình chẳng có nhiều tiền nên Richơ đã phải ra sức làm việc để có đủ số tiền trả học phí và sinh sống.
Richơ học ở đại học Oxford và cuối cùng đã được trao tặng một chức vị quan trọng tại trường. Sau đó, thánh Êman, Tổng Giám mục giáo phận Cantơbơri, trao cho ngài những công việc cao cả trong địa phận. Sau khi thánh Êman qua đời, thánh Richơ tham dự những lớp học của dòng ĐaMinh tại Pháp. Ở đó, thánh nhân được thụ phong linh mục. Rồi Richơ được đặt làm giám mục giáo phận Chichestơ nước Anh, và đó là lý do tại sao người ta gọi ngài là Richơ Chichestơ. Vua Henri III chẳng bằng lòng để Richơ sống một mình trong nhà thờ chính tòa của ngài. Ông cũng đe dọa sẽ trừng phạt dân Chichestơ nếu họ quý mến tiếp đón Richơ. Nhưng dù thế nào đi nữa, một vài người đã can đảm giúp đỡ Richơ, như một trong số các linh mục thuộc giáo phận Chichestơ là cha Simon Taring. Hai vị trở nên những người bạn rất thân. Khi Đức Thánh cha ngăm đe rút phép thông công nhà vua, ông mới hết gây ngăn trở và chịu để cho vị tân giám mục được tự do hoàn toàn.
Với tư cách là giám mục, thánh Richơ Chichestơ đã chu toàn rất tốt nhiệm vụ của mình. Thánh nhân luôn luôn cư xử dịu dàng và ân cần với tất cả mọi người. Đôi lúc Richơ Chichestơ cũng tỏ ra nghiêm nghị. Ngài can đảm đối chất với những người làm điều sai quấy mà chẳng chịu ăn năn hối cải.
Người ta nói rằng khi thánh Richơ Chichestơ ngã bệnh, ngài đã nói tiên tri về cái chết của ngài vì Thiên Chúa cho ngài biết chính xác thời điểm và nơi chốn ngài sẽ qua đời. Các đồng bạn của Richơ Chichestơ, cả cha Simon Taring, cũng ở bên giường ngài.
Richơ về trời năm 1253, lúc được 55 tuổi.
Richơ Chichestơ được Đức Thánh cha Urbanô IV tôn phong hiển thánh năm 1262.

Khi là một nông dân, sinh viên, linh mục và giám mục, thánh Richơ Chichestơ đã chu toàn mọi việc thật tốt. Khi ở nhà hoặc lúc ở trường, chúng ta hãy cầu xin thánh nhân giúp chúng ta luôn luôn cố gắng làm cho mọi việc với hết khả năng của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-09-2012, 08:40 AM
Ngày 06 tháng Tư


CHÂN PHƯỚC NÔTKƠ



Vị tu sĩ dòng thánh Bênêđictô này đã có thời từng là một đứa trẻ hay đau bệnh. Ngài có đặc điểm đáng chú ý là nói cà lăm. Nôtkơ không những chẳng khó chịu gì mà thậm chí còn tỏ ra rất vui thích vì điều ấy.
Nôtkơ và hai người bạn khác, Tutilô và Rapơt, là những tu sĩ rất hạnh phúc. Các ngài khuyến khích và nâng đỡ nhau trong ơn gọi của mỗi người tại tu viện thánh Gal ở Đức. Tình yêu phổ quát đối với Thiên Chúa và âm nhạc đã nối kết các ngài thành những người bạn chí thân. (Bạn có thể đọc lại tiểu sử của thánh Tutilô được mừng kính vào ngày 28 tháng Ba). Thỉnh thoảng, vua Carôlô đến viếng thăm tu viện đặc biệt này. Vua rất kính trọng Nôtkơ và xin ngài khuyên bảo. Nhưng quả là hơi buồn vì họa hiếm ông mới thực hiện theo lời khuyên của Nôtkơ. Lần kia, vua Carôlô sai sứ giả của mình tới gặp vị tu sĩ. Nôtkơ đang trông nom thửa vườn của ngài. Nôtkơ gởi cho nhà vua lời nhắn như sau : “Hãy trông coi mảnh vườn của vua như tôi hằng chăm sóc thửa vườn của tôi đây!” Vua Carôlô hiểu ra rằng mình phải chăm giữ linh hồn và vương quốc của mình cách tốt hơn nữa.
Cha tuyên úy riêng của nhà vua là người uyên thâm học rộng nhưng rất kiêu căng tự phụ. Cha rất bất bình và khó chịu vì nhà vua quá nể trọng ý kiến của Nôtkơ. Một ngày kia, tại cung điện, cha hỏi Nôtkơ trước mặt mọi người : “Bởi ngài rất thông minh nên xin ngài nói cho tôi biết bây giờ Thiên Chúa đang làm gì?” Linh mục nhoẻn miệng cười với vị tu sĩ và nghĩ rằng chắc ngài sẽ không trả lời được. Nhưng thay vào đó, Nôtkơ mau mắn đáp lại : “Bây giờ Thiên Chúa đang làm việc và Người luôn luôn làm việc. Người đang hạ bệ những ai tự đắc và đang nâng cao những người hèn mọn!” Và mọi người bắt đầu cười vang trong khi vị linh mục vội vã rời khỏi căn phòng.
Chân phước Nôtkơ đã sống trọn phần đời còn lại của mình trong ơn gọi đã chọn. Nôtkơ làm thêm nhiều việc nho nhỏ để giúp các anh em tu sĩ cảm thấy dễ chịu hơn với cuộc sống tu viện. Cùng với các bạn Tutilô và Rapơt, Nôtkơ đã sáng tác một số nhạc phẩm vui để tôn vinh Thiên Chúa.
Khi chân phước Nôtkơ qua đời năm 912, toàn thể cộng đoàn tu sĩ đã thương khóc ngài.

Mỗi người trong chúng ta đều có những tài khéo và những năng khiếu riêng. Vì vậy chẳng có lý do gì để ghen tỵ với những điều Thiên Chúa ban cho người khác. Chúng ta hãy xin chân phước Nôtkơ giúp chúng ta biết tự hài lòng với những tặng ân mình đã lãnh nhận.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-09-2012, 09:19 AM
Ngày 08 tháng Tư




THÁNH JULIE BILIA



Thánh nữ Maria Rosa Julie Bilia sinh tại nước Bỉ vào năm 1751. Người cậu của Julie là giáo viên trường làng đã dạy thánh nữ Julie tập đọc và tập viết. Julie đặc biệt ham thích môn Giáo lý. Thực ra, lúc mới vừa 7 tuổi, Julie đã cắt nghĩa đức tin cho các trẻ em khác. Vì gia cảnh nghèo túng nên Julie phải vất vả làm việc để phụ giúp gia đình. Có khi Julie đã cùng cha mẹ thu hoạch các vụ mùa, nhưng Julie luôn luôn tìm giờ để cầu nguyện, thăm viếng những người đau ốm và dạy giáo lý.
Julie đã ngã bệnh rất nặng và hoàn toàn bị liệt đang khi còn rất trẻ. Dù cho không được khích lệ, thánh nữ Julie cũng dâng những kinh nguyện của mình để cầu cho nhiều người tìm gặp được hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Thánh nữ đã kết hợp với Thiên Chúa hơn bao giờ hết và tiếp tục giảng dạy giáo lý ngay trên giường bệnh. Julie là một người sống rất tu đức. Người ta đến xin Julie khuyên bảo vì thánh nữ chỉ cho họ biết cách sống kết hợp mật thiết với Đức Chúa Giêsu và yêu mến đức tin Công giáo hơn. Julie khuyến khích mọi người năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Lòng yêu mến Thiên Chúa của Julie đã gợi hứng cho nhiều thiếu nữ khác. Họ sẵn lòng dùng thời giờ và tiền bạc của họ vào những công việc tốt. Cùng với Julie, người lãnh đạo của họ, họ đã thành lập hội dòng Nữ Tử Đức Bà Namu.
Lần kia, có một linh mục đến giảng tuần đại phúc trong thị trấn nơi Julie cư ngụ. Vị linh mục xin Julie hợp ý với ngài làm một tuần cửu nhật mà không cho Julie biết rõ lý do. Sau 5 ngày, đến ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngài nói với Julie : “Thưa Mẹ, nếu Mẹ có Đức Tin, hãy tiến lên một bước để tỏ lòng tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu!” Mẹ Julie, người bị bại liệt suốt 22 năm trời, đã đứng dậy và liền được chữa lành!
Thánh nữ Julie đã dùng phần đời còn lại của mình huấn luyện chị em thành các nữ tu. Thánh nữ đã trông coi hội dòng của ngài. Julie phải chịu nhiều đau khổ bởi những người không hiểu biết sứ mệnh của ngài, nhưng Julie luôn luôn tín thác vào Thiên Chúa. Những lời mà thánh nữ Julie ưa thích là : “Thiên Chúa tốt lành thật nhân hậu biết bao!” Đức Chúa Giêsu đã quả quyết với Julie rằng một ngày kia hội dòng của thánh nữ sẽ rất bành trướng và phát triển. Và điều đó đã trở thành hiện thực!
Dù cho thánh nữ mất ngày 08/04/1816, thì ngày nay đã có nhiều nữ tu của thánh nữ vẫn đang tiếp tục hoạt động trên khắp thế giới.
Mẹ Julie được Đức Thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1969.

Khi có điều gì đó làm chúng ta băn khoăn lo lắng như một bài kiểm tra ở trường hoặc những chuyện phiền toái ở nhà, chúng ta hãy năng đọc: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-09-2012, 09:23 AM
Ngày 09 tháng Tư




THÁNH WALTRUĐI



Thánh nữ Waltruđi sinh ở nước Bỉ vào thế kỷ thứ VII. Thân phụ, thân mẫu và người em gái của Waltruđi, tất cả đều đã được phong thánh! Waltruđi là một cô gái xinh đẹp. Thánh nữ cũng tìm được cách để khai trí người khác ngay cả khi ngài được vui vẻ hạnh phúc. Nhiều chàng thanh niên đã muốn kết hôn với Waltruđi. Vào thời ấy, cha mẹ thường chọn chồng cho các con gái của họ. Song thân của Waltruđi đã chọn cho Waltruđi bá tước Madelga làm chồng. Họ chẳng thể chọn người nào tốt hơn được nữa vì bá tước sau này cũng trở nên một vị thánh! Ngài chính là thánh Vinhsơn Madelga. Hai vợ chồng sinh được 4 người con. Thật không thể tin được! Tất cả đều được Giáo hội tôn phong hiển thánh!
Thánh nữ Waltruđi thật sung sướng hạnh phúc vì được Thiên Chúa ban cho một gia đình đặc biệt như vậy. Nhưng trong suốt cuộc đời, Waltruđi cũng đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Các bà ghen tỵ đã loan truyền những chuyện kinh tởm xấu xa về thánh nữ. Các bà chẳng có lòng thật thà và quảng đại như Waltruđi. Họ không muốn thiên hạ nghĩ rằng Waltruđi tốt lành hơn họ. Vì vậy, họ nói là Waltruđi cầu nguyện và làm những việc bác ái là chỉ cốt để che giấu đi những tội lỗi thầm kín của ngài. Dĩ nhiên, đó là những lời dối trá! Nhưng thánh nữ đã không tự biện minh cho mình. Waltruđi nghĩ về cách thức Đức Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trên Thánh Giá và, như Chúa, Waltruđi cũng đã tha thứ cho các kẻ thù của ngài.
Sau khi sinh hạ người con cuối cùng được một thời gian, thánh Vinhsơn Madelga thổ lộ là ngài rất muốn trở nên một tu sĩ. Thật ra, Vinhsơn mong ước được sống phần đời còn lại của ngài trong chốn tu viện. Người vợ hiểu biết tâm ý của chồng và đã chấp thuận cho chồng đi tu. Thánh Vinhsơn Madelga đoan chắc là gia đình ngài đã được lo liệu đầy đủ rồi. Hai người thương nhớ nhau nhiều lắm! Nhưng Waltruđi không giữ chồng ở lại. Ngài dâng sự hy sinh cho Thiên Chúa.
Hai năm sau, thánh nữ Waltruđi cũng quyết định đi tu. Ngài đã sống một cuộc đời rất hy sinh và quảng đại với những người nghèo khổ. Người ta đến xin Waltruđi những lời khuyên bảo về đàng thiêng liêng, và vài người cho biết là họ đã được mãn nguyện.
Thánh nữ Waltruđi mất năm 688. Sau khi thánh nữ qua đời, nhiều người đến cầu nguyện nơi ngôi mộ của ngài đã tuyên bố là được khỏi bệnh cách lạ thường.

Vị thánh nữ này giúp chúng ta nhận biết rằng cuộc đời của chúng ta có nhiều điều tốt đẹp. Chúng ta nên cảm tạ Thiên Chúa vì những hồng ân ấy. Nhưng đôi khi cũng có những chuyện hơi buồn. Chúng ta hãy cầu nguyện để có can đảm hành động như Đức Chúa Giêsu trong những tình cảnh ấy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-09-2012, 06:25 AM
Ngày 10 tháng Tư




CHÂN PHƯỚC ANTÔN NÂYRÔ



Chân phước Antôn Nâyrô sinh tại miền Bắc nước Ý vào thế kỷ thứ XV. Ngài gia nhập dòng thánh ĐaMinh ở Florencia, nước Ý. Lúc ấy, bề trên của dòng là thánh Antôniô. Chúng ta cử hành thánh lễ kính ngài ngày 10/05. Vị thánh này đã gây một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của chân phước Antôn Nâyrô.
Thầy Antôn đang vượt tàu từ Napoli tới Sicile thì bị bọn cướp biển bắt giữ. Antôn bị đem tới Tuni và bị bán làm nô lệ. Sau đó, Antôn đã được trả tự do nhưng lại lìa bỏ Giáo hội. Antôn phủ nhận niềm tin vào Đức Chúa Giêsu và chối bỏ ơn kêu gọi tu trì của ngài. Antôn nhận một bản kinh Coran là sách thánh của những người Hồi giáo. Suốt nhiều tháng, Antôn đã thực hành giáo thuyết đạo Hồi. Và Antôn Nâyrô cũng lập gia đình.
Trong thời gian ấy, bề trên dòng ĐaMinh là thánh Antôniô qua đời. Điều này đã gây cho Antôn Nâyrô một cảm nghiệm rất đỗi dằn vặt. Một đêm nọ, hình như Antôn nằm mơ thấy thánh Antôniô hiện ra với mình. Cuộc đàm thoại giữa hai người đã làm cho Antôn Nâyrô thay đổi hoàn toàn. Antôn Nâyrô hết sức hối hận vì đã phản bội Thiên Chúa. Ngài biết không bao giờ có thể loại bỏ niềm tin vào Đức Chúa Giêsu ra khỏi lòng mình. Antôn Nâyrô biết mình vẫn có thể làm một tín hữu Công giáo và nhận thấy mình vẫn còn rất muốn làm một tu sĩ dòng ĐaMinh.
Chân phước Antôn Nâyrô gởi trả người vợ về cho gia đình cô ấy. Rồi ngài vận tu phục trắng của dòng ĐaMinh vào. Thay vì sợ hãi, Antôn Nâyrô đã đi gặp nhà cầm quyền của thành phố Tuni. Đám đông tụ họp và viên thống đốc bước ra sân nhà. Thầy Antôn Nâyrô công khai thú nhận là đã phạm một tội quái ác. “Thầy là người Công giáo! Thầy tin nhận và yêu mến Đức Chúa Giêsu! Thầy là một tu sĩ dòng ĐaMinh và muốn mãi mãi là một tu sĩ!” Viên thống đốc tức giận. Ông ngăm đe phản đối nhưng rồi lại hứa ân thưởng nếu Antôn rút lại điều ngài đã nói. Nhưng Antôn Nâyrô đã không làm theo. Antôn Nâyrô biết rằng điều này sẽ khiến ngài phải nhận lấy cái chết.
Antôn Nâyrô quỳ gối và bắt đầu cầu xin cho được ơn can đảm hiến mình vì Đức Chúa Giêsu. Thình lình Antôn Nâyrô thấy những tảng đá lớn dồn dập nện vào mình ngài. Antôn Nâyrô vẫn tiếp tục cầu nguyện xin ơn can đảm để được trung thành với Thiên Chúa. Rồi ngài không còn nhận biết gì nữa.
Antôn Nâyrô chết như một vị thánh tử đạo năm 1460. Một số người lái buôn từ Giơnoa, nước Ý, đã mang xác thầy Antôn Nâyrô về quê hương của ngài.

Chân phước Antôn Nâyrô để lại cho chúng ta một tấm gương can đảm. Khi chúng ta thật lòng ăn năn thống hối, Đức Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta hết thảy những khuyết điểm và lỗi lầm đã phạm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-09-2012, 06:27 AM
Ngày 11 tháng Tư




THÁNH STANISLAO



Thánh Stanislao sinh năm 1030, gần thành phố Cracow, nước Ba Lan. Để sinh hạ Stanislao, song thân ngài đã phải liên lỉ cầu nguyện suốt 30 năm trời. Lúc Stanislao chào đời, song thân đã khấn dâng ngài cho Thiên Chúa vì họ rất biết ơn có được mụn con. Khi lớn lên, Stanislao sang học ở Paris, nước Pháp. Sau khi song thân qua đời, Stanislao đem cho người nghèo tất cả tiền bạc và của cải mà song thân để lại cho ngài. Sau đó, Stanislao trở thành linh mục.
Năm 1072, Stanislao được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Cracow. (Nhiều thế kỷ sau, trước lúc làm Giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II cũng là giám mục giáo phận Cracow). Giám mục Stanislao chiếm được tình cảm của mọi người. Họ hết sức cảm kích cách thức ngài quan tâm chăm sóc những người nghèo, những quả phụ và các trẻ mồ côi. Chính Stanislao thường hay tiếp đãi phục vụ họ.
Lúc ấy, Bôlêô II làm vua nước Ba Lan. Vua rất độc ác và sống vô luân. Dân chúng chán ghét lối sống của vua và ghê sợ vua. Thoạt đầu, giám mục Stanislao sửa lỗi cho nhà vua cách tư riêng. Tuy Stanislao rất tử tế và lịch duyệt, nhưng ngài cũng nhận định hết sức trung thực về việc làm sai trái của vua. Vua có vẻ hối hận nhưng chẳng bao lâu lại chứng nào tật nấy. Thậm chí vua đã sai phạm những tội còn quái ác hơn! Thế rồi giám mục đành phải loại vua ra khỏi Giáo hội. Vua Bôlêô liền nổi cơn thịnh nộ. Để trả thù, vua truyền lệnh cho hai trong số những cận vệ của mình đến giết hại thánh Stanislao. Họ đã cố gắng đến ba lần nhưng đều thất bại.
Rồi chính nhà vua, trong một cơn cuồng giận, đã chạy vào nguyện đường của thánh giám mục. Vua đã giết chết thánh Stanislao khi ngài đang dâng thánh lễ. Hôm đó là ngày 11/04/1079.
Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ sau khi thánh Stanislao qua đời. Mọi người đều gọi Stanislao là vị thánh tử đạo.
Năm 1253, Đức Thánh cha Innocente IV đã tôn Stanislao lên bậc hiển thánh.

Chúng ta ngưỡng mộ và quý mến thánh Stanislao. Điều ấy giúp chúng ta can đảm sửa lỗi cho những người xúc phạm đến tha nhân và gây gương xấu. Đôi khi chúng ta cũng được người khác giúp sửa chữa những lầm lỗi của riêng mình. Chúng ta hãy nài xin thánh Stanislao giúp chúng ta quyết tâm sửa lại những khuyết điểm và thói xấu. Chúng ta cũng hãy xin ngài giúp chúng ta biết ơn những người dám thách đố chúng ta sống tốt hơn.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-09-2012, 09:27 AM
Ngày 12 tháng Tư




THÁNH GIUSE MOSCATI



Thánh Giuse Moscati sinh ngày 25/07/1880 tại Benevento, nước Ý. Thánh nhân là con thứ 7 trong gia đình có 9 người con. Thân phụ của Giuse Moscati là thẩm phán ở Napoli, vì vậy cả gia đình đã chuyển đến sống ở đó. Khi Giuse lên 12 tuổi, người anh trai Alberto của ngài bị té ngựa. Thoạt đầu, gia đình hy vọng chữa trị được, nhưng tình trạng của cậu nhỏ dần dần trở nên xấu tệ hơn. Giuse Moscati trải qua nhiều giờ rảnh rang bên giường của anh mình. Ngài cũng có mặt ở đó khi anh Alberto qua đời.
Cái chết của người anh trai đã gây cho Giuse Moscati một ấn tượng sâu đậm. Ngài xin Đức Chúa Giêsu đang hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Mẹ Maria lời giải đáp. Đau khổ phải có mục đích của nó! Giuse Moscati cũng thử tìm đến với những phương dược chữa trị chuyên môn. Qua những phương thuốc tối hảo nhất, Giuse Moscati nhận thấy rằng trong cuộc đời này, chúng ta đang hành trình đến sự sống vĩnh cửu. Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ tha nhân và phục vụ họ đang khi chúng ta cùng nhau hành trình. Giuse Moscati phân vân do dự và đã cầu nguyện cho biết phải làm gì với cuộc đời của mình. Rồi Giuse quyết định muốn đóng góp chút tài lực để chữa trị nỗi đau khổ thể lý của con người. Giuse Moscati sẽ trở thành bác sĩ.
Năm lên 23 tuổi, bác sĩ Moscati bắt đầu công tác tại bệnh viện chuyên chữa những chứng bệnh nan trị ở thành phố Napoli. Sau đó, ngài mở một phòng mạch tư. Hết mọi bệnh nhân đều được tiếp đón dù họ có thể hoặc không thể hoàn trả phí tổn. Bác sĩ Giuse Moscati ghi toa thuốc cho những bệnh nhân nghèo, rồi trả tiền thuốc bằng chính tiền túi của ngài. Mỗi ngày sống trải qua thật dài và vất vả nhưng bác sĩ Moscati vẫn kiên nhẫn dịu dàng và sống bao dung quảng đại. Ngài cố gắng chăm chú lắng nghe các bệnh nhân. Ngài khuyến khích họ và cầu nguyện cho họ.
Không chỉ là bác sĩ ưu tú mà Giuse Moscati còn là một người thánh thiện nữa! Làm sao ngài làm được điều đó? Mỗi sáng, Giuse Moscati đi tham dự thánh lễ và dùng thời giờ để đọc kinh nguyện. Rồi ngài thăm viếng những người nghèo khổ đau ốm sống trong những khu nhà ổ chuột của thành phố Napoli. Sau đó, Giuse Moscati tới bệnh xá và bắt đầu các phiên trực của ngài. Giuse Moscati đã làm việc và cầu nguyện cho các bệnh nhân của ngài suốt 24 năm. Giuse Moscati đã dốc đổ hết sức lực cho ơn kêu gọi của đời ngài.
Vào trưa hôm thứ Tư ngày 12/04/1927, bác sĩ Moscati cảm thấy yếu mệt, vì vậy ngài đã tới phòng mạch của ngài và ngồi nghỉ trên chiếc ghế bành. Tại đó, Giuse Moscati bị chứng đột quỵ và tắt thở, hưởng dương 47 tuổi.
Bác sĩ Giuse Moscati được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc hiển thánh ngày 25/10/1987.

Chúng ta hãy khẩn nài thánh Giuse Moscati giúp chúng ta sống tử tế, lương thiện và giàu lòng thương cảm. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Giuse Moscati dạy chúng ta biết quý trọng thánh lễ và yêu mến Đức Mẹ Maria như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-09-2012, 09:29 AM
Ngày 13 tháng Tư




THÁNH MARTINO I



Thánh Martino I là linh mục của thành phố Roma. Ngài nổi tiếng là người thánh thiện và thông thái. Vào tháng 07/649, Martino lên ngôi Giáo hoàng. Khi người ta tranh cãi nhau về những chân lý buộc phải tin, Giáo hoàng Martino I liền triệu tập một hội nghị các giám mục. Cuộc họp này là Công đồng Laterano, có mục đích giải thích cách rõ ràng minh bạch các chân lý mạc khải, những điều mà chúng ta phải tin. Tuy thế, có một vài Kitô hữu đã không hài lòng về việc này. Giáo hoàng Martino biết rằng sự giải thích cắt nghĩa của Công đồng là điều chân thật. Bổn phận của ngài với cương vị Giáo hoàng là phải giảng dạy chân lý cho dân chúng.
Một số người có thế lực không hiểu rõ những việc làm của Giáo hoàng Martino. Một trong số họ là hoàng đế Constan II thành Constantinopoli. Ông đã sai thuộc hạ của ông tới Roma bắt Giáo hoàng Martino I và giải về Constantinopoli. Những người thuộc hạ đã đến bắt cóc Giáo hoàng. Lập tức họ đưa ngài ra khỏi đền thờ thánh Gioan Latran và đẩy ngài lên một chiếc tàu. Rồi, Giáo hoàng Martino lâm bệnh nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Vào tháng 10/653, họ giam ngài tại Constantinopoli độ 3 tháng. Trong thời gian này, mỗi ngày họ chỉ cho Giáo hoàng Martino chút ít thực phẩm và nước uống. Thậm chí ngài không được phép tự mình tắm rửa. Sau đó, Giáo hoàng Martino I bị đưa ra xét xử, bị công khai làm nhục và bị lên án tử. Nhưng sau đó, họ lại mang ngài trở về nhà tù và giam ngài thêm 3 tháng nữa. Đức Thượng phụ Giáo chủ Phaolô của Constantinopoli đã xin tha chết cho ngài. Vì vậy, Martino I đã bị án lệnh trục xuất thay vì phải chết. Người ta đặt Giáo hoàng Martino I trên một chiếc tàu chở ngang qua Biển Đen. Vào tháng 04/654, tàu đổ bộ trên bán đảo Nga gọi là “bán đảo Crinéa”.
Họ làm cho Giáo hoàng Martino I phải chú ý trước sự thờ ơ lãnh đạm của những người phụ trách việc giam giữ ngài. Giáo hoàng Martino I đã viết một bài tường thuật về chuỗi ngày buồn thảm ấy. Ngài nói rằng mình cảm thấy rất đau buồn khi bị chính những người thân thuộc và các thành viên trong Giáo hội Roma quên lãng. Ngài biết rằng họ sợ nhà vua. Nhưng ít ra, Đức Martino I nói, hẳn là họ cũng có thể gởi cho ngài những đồ tiếp tế như ngũ cốc, dầu mè và các nhu cầu thông thường khác. Nhưng họ đã không làm. Họ đã bỏ rơi Giáo hoàng chỉ vì sợ hãi!
Thời gian lưu đày của Giáo hoàng Martino I kéo dài 2 năm. Ngài qua đời khoảng năm 656. Giáo hoàng Martino I được tôn phong là thánh tử đạo vì những đau khổ khủng khiếp ngài đã chịu. Cho tới hiện nay, thánh Martino I là vị Giáo hoàng sau cùng được Giáo hội công nhận là thánh giáo hoàng tử đạo.

Đôi khi chúng ta bị rơi vào cạm bẫy ghen tỵ với những người có chức vị quyền hành. Chính lúc đó chúng ta hãy cầu xin với thánh Giáo hoàng Martino I. Chúng ta hãy xin thánh nhân thay thế tham vọng ấy bằng một tâm hồn can đảm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-09-2012, 09:12 AM
Ngày 14 tháng Tư




CHÂN PHƯỚC LIGUYNA



Danh xưng “Liguyna” có nghĩa là “đau khổ”. Liguyna quê ở Hà Lan. Ngài sinh năm 1380 và mất năm 1433. Khi lên 15 tuổi, Liguyna tận hiến đời mình cho Thiên Chúa. Tưởng chừng như Liguyna đã là một nữ tu. Nhưng rốt cuộc vào một buổi chiều kia, toàn bộ cuộc đời của Liguyna đã bị thay đổi!
Đang lúc trượt băng cùng với các cô bạn, thì bất chợt, một trong các cô nhảy đâm sầm vào Liguyna. Liguyna té mạnh xuống nền băng và bị gãy một xương sườn. Liguyna chịu đau khổ. Nhưng cú ngã cũng gây ra những rắc rối khác. Những ngày tiếp theo đó, Liguyna bị chứng nhức đầu kinh khủng, khát nước, buồn nôn, cảm sốt và đau nhức khắp cả thân thể.
Liguyna than khóc nói với thân phụ là mình không thể chịu đựng nổi đau đớn nữa. Và cơn đau ngày một gia tăng. Liguyna biểu lộ cơn đau nhức qua khuôn mặt và thân xác ngài. Rồi Liguyna bị mù luôn một mắt. Cuối cùng, Liguyna bị liệt giường.
Liguyna cay đắng và thất vọng! Tại sao Thiên Chúa lại để cho tình cảnh này xảy đến với mình? Thiên Chúa muốn điều gì nơi mình? Và tóm lại, mình có thể dâng cho Đức Chúa Giêsu điều gì đây? Cha Gioan, cha xứ của Liguyna, đã đến thăm hỏi và cùng cầu nguyện với Liguyna. Cha giúp Liguyna nghĩ về những đau khổ Đức Chúa Giêsu đã chịu. Liguyna bắt đầu nhận thức được món quà quý đẹp ngài sẽ dâng tặng Đức Chúa Giêsu : Liguyna sẽ chịu đau khổ vì Đức Chúa Giêsu. Liguyna sẽ dâng những nỗi đau của mình để an ủi Chúa, Đấng đã chịu khổ quá nhiều trên Thánh Giá. Đau khổ của Liguyna sẽ trở nên lời cầu nguyện tuyệt đẹp dâng cho Thiên Chúa. Dần dần, Liguyna bắt đầu hiểu ra.
Chân phước Liguyna đã chịu đau khổ suốt 38 năm trời! Người ta không thể tin được là Liguyna đã có thể sống được trong một tình trạng bi thảm như thế. Nhưng Liguyna đã vượt qua. Thiên Chúa đã an ủi Liguyna bằng nhiều phương thế. Tại căn phòng bé nhỏ nghèo nàn, Liguyna đối xử thật tốt bụng với mọi người đến thăm Liguyna. Liguyna cầu nguyện với Thiên Chúa và dâng đau khổ cho những ý chỉ đặc biệt của họ. Họ biết rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời Liguyna khấn xin.
Chân phước Liguyna có một lòng yêu mến thật đặc biệt đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Suốt nhiều năm, dường như Liguyna chỉ sống nhờ vào Bí tích Thánh Thể.

Chân phước Liguyna giúp chúng ta nhận biết rằng chúng ta có thể dâng những đau khổ thể xác lên Đức Chúa Giêsu với lòng yêu mến. Ngài cũng nhắc nhớ chúng ta rằng nếu chúng ta có sức khỏe tốt, chúng ta hãy thường xuyên tạ ơn Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-09-2012, 09:14 AM
Ngày 15 tháng Tư




CHÂN PHƯỚC ĐAMIEN MÔLÔKAI



Giuse “Jép” Vơstơ sinh năm 1840, là con trai của một gia đình nông dân gốc Bỉ. Ngài và người anh trai, Pamphilê, đi tu dòng Hai Thánh Tâm. Công việc của các vị thừa sai này là rao giảng đức tin Công giáo trên vùng đảo Hawai. Jép lấy tên là “Đamien”. Dung mạo thầy Đamien cao to và lực lưỡng. Những năm phụ giúp gia đình chăm lo công việc đồng áng đã tạo cho Đamien có một vóc dáng khỏe mạnh như vậy. Mọi người đều quý mến Đamien vì ngài sống tốt lành và nhân hậu.
Người ta đang cần thêm nhiều nhà truyền giáo tại lãnh địa Hawai. Năm 1863, một nhóm linh mục và tu sĩ dòng Hai Thánh Tâm được cử đi. Pamphilê, anh trai của Đamien, được chọn. Ngay trước ngày lên đường, Pamphilê bị sốt thương hàn nên không thể thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Thầy Đamien đang học làm linh mục đã xin thay thế vào chỗ của người anh. Cha bề trên tổng quyền chấp thuận lời thỉnh cầu của Đamien. Sau đó, Đamien trở về nhà và âu yếm từ biệt gia đình của ngài. Rồi, Đamien vượt tàu từ Bỉ đến Hawai, một cuộc hành trình kéo dài 18 tuần lễ. Ít lâu sau, Đamien hoàn tất việc học hành và được thụ phong linh mục tại Hawai. Ngài trải qua 8 năm sống giữa những cư dân thuộc ba huyện. Cha Đamien dùng ngựa hoặc thuyền nhỏ để làm phương tiện đi lại.
Dân chúng yêu quý vị linh mục cao to và giàu lòng quảng đại này. Đamien cũng nhận thấy họ năng thưa đáp kinh nguyện trong các nghi lễ. Sau đó, Đamien dùng một số tiền nhỏ quyên góp được để xây cất những nguyện đường. Chính Đamien và các bổn đạo đã tự xây lấy những nguyện đường này. Nhưng chẳng mấy chốc, phần đời đặc biệt nhất của Đamien được khai mở. Đức Giám mục xin một linh mục tình nguyện tới đảo Môlôkai. Chỉ ngay cái tên thôi cũng đủ làm cho người ta khiếp hãi. Họ biết rằng một khu của hòn đảo tên Kalagao chính là một “bãi tha ma sống” của những người chết vì bệnh phong hủi. Họ chẳng hiểu gì về căn bệnh và rất sợ bị lây nhiễm đến nỗi phần lớn những bệnh nhân phong ở đay đã bị bỏ rơi. Nhiều người đã tuyệt vọng hoàn toàn. Không có linh mục, không có cơ quan đại diện thi hành luật pháp Môlôkai, không có những phương tiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe. Chính phủ Hawai có gởi một ít thực phẩm và thuốc men tới đây nhưng chẳng đáng kể gì! Cũng chẳng có những phương tiện tổ chức phân phát thực phẩm hàng hóa!
Cha Đamien đi Môlôkai. Ngài quyết đương đầu với sự nghèo khổ, hư hóa và thất vọng. Lắm lúc, Đamien dường như bị sốc, nhưng rồi Đamien quyết không bao giờ quay về. Dân chúng đang rất cần sự giúp đỡ. Đamien đi tới Honolulu để gặp những thành viên trong Ủy ban Chăm sóc sức khỏe. Họ nói với Đamien rằng ngài không thể trở lại Môlôkai nữa vì có thể sẽ bị lây bệnh. Chủ đích thật của họ chỉ là không muốn cho Đamien đến Môlôkai vì ngài đang gây ra quá nhiều vấn đề khó khăn cho họ. Vì vậy, Đamien phải chọn : Nếu trở về Môlôkai, ngài sẽ không thể đi được nữa! Nhưng Ủy ban Chăm sóc sức khỏe không hiểu Đamien. Ngài đã chọn đi Môlôkai.
Đamien làm việc suốt 18 năm cho tới khi qua đời tại Môlôkai. Với sự trợ giúp của các bệnh nhân phong hủi và các anh chị em thiện nguyện quảng đại, Môlôkai đã được biến đổi hoàn toàn. Tên “Môlôkai” giờ đây mang một ý nghĩa mới. Nó trở thành hòn đảo của lòng bác ái Kitô giáo.
Rồi, chính cha Đamien cũng bị lậy bệnh. Cha qua đời ngày 15/04/1889 vào độ tuổi 49, và cha được chôn cất tại đó.
Đến năm 1994, Đamien Môlôkai được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phước.

Chúng ta hãy nài xin chân phước Đamien Môlôkai ban cho chúng ta một chút lòng can đảm và hào hiệp của ngài. Còn có quá nhiều người đang cần đến tình yêu và sự nâng đỡ của chúng ta. Chân phước Đamien Môlôkai sẽ giúp chúng ta hành động với niềm vui tươi và với trái tim nhân ái của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-09-2012, 09:27 AM
Ngày 17 tháng Tư




THÁNH STEPHANO Khó Khăn



Thánh Stephano Khó Khăn sinh ở nước Anh vào thế kỷ thứ XII. Ngài là một sinh viên xuất sắc và chăm chỉ. Stephano đặc biệt lưu tâm đến văn chương. Stephano sống rất nghiêm túc và cầu nguyện hàng ngày. Lần kia, Stephano và đồng bạn của ngài làm một cuộc hành hương đến Roma. Khi trở về, Stephano nhập bọn với một nhóm đan sĩ thánh thiện nghèo khó. Những người này chuyên chăm cầu nguyện, ăn chay và làm việc vất vả. Đó là cách thức họ bày tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Stephano nhận thấy họ sống rất hạnh phúc. Đan phụ của họ là thánh Roberto.
Thoạt đầu, Stephano cùng với những người này hân hoan phục vụ Thiên Chúa. Nhưng dần dần các đan sĩ chẳng muốn sống cuộc đời nghiêm ngặt như vậy nữa. Vì thế, thánh Roberto cùng với thánh Stephano và 20 đan sĩ khác tách ra rồi thiết lập một đan viện mới. Các ngài tự xây cất đan viện trên một vùng hoang mạc khô cằn trong nước Pháp gọi là Xitô. Họ sống đời lao động và hết sức khó nghèo. Họ muốn bắt chước mẫu gương nghèo khó của Đức Chúa Giêsu. Họ cũng giữ luật thinh lặng cách rất nhiệm nhặt.
Thánh Stephano gặp nhiều khó khăn khi ngài làm đan phụ. Các đan sĩ chỉ có chút ít thực phẩm để dùng. Rồi trên phân nửa số đan sĩ lâm bệnh và qua đời. Trông như thể đan viện đang đến hồi bị hủy diệt! Họ cần có thêm những thành viên trẻ mới để tiếp tục duy trì lối sống của họ. Stephano cầu nguyện cùng Thiên Chúa với lòng tin tưởng. Và lời cầu xin của ngài đã được chấp nhận. Thiên Chúa gởi đến cho các đan sĩ Xitô này thêm 30 thanh niên nữa. Họ cùng nhau tới gõ cửa đan viện. Người lãnh đạo nhóm họ cũng sẽ là một vị thánh. Tên của ngài là Bênađô. (Chúng ta mừng lễ kính Bênađô ngày 20/08.) Đây là một ngày kỳ diệu lạ lùng đối với thánh Stephano và các đan sĩ.
Thánh Stephano dùng ít năm cuối đời để viết tu luật cho các đan sĩ. Ngài cũng huấn luyện thánh Bênađô để đảm trách nhiệm vụ của ngài.
Khi gần tắt thở, thánh Stephano nghe các đan sĩ đứng xung quanh giường ngài bàn tán. Họ nói rằng Stephano không hề sợ chết vì ngài đã làm việc rất chăm và mến Chúa hết lòng. Nhưng thánh Stephano nói rằng ngài sợ mình chưa tốt lành đủ. Và ngài nói rất nghiêm chỉnh. Điều đó cho chúng ta thấy thánh nhân thật khiêm nhượng chừng nào.
Thánh Stephano qua đời năm 1134.

Chúng ta thường sống trong sự ồn ào náo nhiệt cả ban ngày lẫn ban tối. Chúng ta nghe máy thu thanh, xem tivi, chơi vi tính và những trò chơi băng hình. Đầu óc chúng ta chứa đầy những tiếng động! Chúng ta hãy nài xin thánh Stephano đan sĩ giúp chúng ta mỗi ngày gắng tìm ra một ít giờ thinh lặng. Đó là lúc chúng ta để Thiên Chúa hoạt động trong tâm trí và con tim của mình. Nhưng chúng ta cũng cần phải cầu nguyện để biết khôn ngoan lợi dụng thời giờ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-09-2012, 09:29 AM
Ngày 18 tháng Tư




CHÂN PHƯỚC MARIA Nhập Thể



Barbara sinh tại nước Pháp năm 1566. Khi lên 17 tuổi, Barbara kết hôn với Phêrô Acari. Barbara và người chồng yêu quý sống niềm tin Công giáo. Hai vợ chồng sinh được 6 người con và đời sống gia đình thật hạnh phúc. Barbara cố gắng trở nên một người vợ và người mẹ tốt. Gia đình học được nơi Barbara lòng yêu mến cầu nguyện và tâm hồn bác ái cao cả.
Lần kia, người chồng của Barbara bị người ta buộc tội cách bất công, chính Barbara đã cứu giúp chồng. Barbara đã đến tòa án và một mình thanh minh cho người chồng vô tội.
Dù bận rộn với công việc gia đình, Barbara vẫn luôn tìm thời giờ để bố thí cho những người nghèo túng. Barbara hướng dẫn họ sống đức tin. Barbara giúp đỡ những người đau yếu và hấp hối. Barbara dịu dàng hối thúc những người đang sống lây lất trong tội lỗi hãy thay đổi cuộc đời. Những việc tốt lành Barbara thực hiện là những công việc bác ái.
Khi người chồng qua đời, Barbara xin vào tu dòng CátMinh. Barbara đã dùng 4 năm sau hết để sống đời tu trì. Ba cô con gái của Barbara cũng lần lượt trở thành nữ tu CátMinh. Tên mới của Barbara khi làm nữ tu là sơ Maria Nhập Thể. Sơ Maria sung sướng phục vụ nhà bếp với những thau chậu và xoong chảo. Khi người con gái của ngài làm bề trên tu viện, chân phước Maria đã hết lòng vâng phục người con. Ngài thật khiêm nhường đến nỗi lúc sắp qua đời, ngài đã nói : “Xin Thiên Chúa tha thứ những gương xấu mẹ đã gây ra cho con!” Các nữ tu thật rất ngạc nhiên vì sơ Maria đã hết sức cố gắng sống một đời tốt lành.
Chân phước Maria Nhập Thể qua đời năm 1618, lúc được 52 tuổi.

Chân phước Maria Nhập Thể đã sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa dù cuộc sống của ngài thật bận rộn. Ngài có nhiều nhiệm vụ ràng buộc. Ngài trông nom chăm sóc gia đình. Ngài quan tâm giúp đỡ tha nhân. Ngài cũng có thể giúp chúng ta sống bao dung quảng đại với tinh thần trách nhiệm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-09-2012, 11:58 AM
Ngày 19 tháng Tư




CHÂN PHƯỚC GIACÔBÊ ĐUKÊ



Giacôbê Đukê là người gốc Anh, sống vào thời trị vì của nữ hoàng Elisabeth I. Lúc còn trẻ, Giacôbê Đukê là một thợ in tập sự ở Luân Đôn. Ở đây, Giacôbê Đukê tình cờ gặp thấy cuốn sách nhan đề : “Nền tảng vững chắc của đạo Công giáo”. Giacôbê Đukê đã nghiên cứu sách đó cẩn thận và tin nhận rằng Giáo hội Công giáo là Giáo hội chân thật.
Trong những ngày ấy tại nước Anh, các Kitô hữu bị bách hại. Dù sao đi nữa, Giacôbê Đukê quyết định muốn trở nên một tín hữu và muốn giáp mặt với những hậu quả thảm khốc này. Vị giáo sĩ tại nhà thờ cũ đến tìm Giacôbê Đukê vì ngài là người năng đi tham dự thánh lễ. Nhưng Giacôbê Đukê không trở về nhà nữa. Hai lần ngài đã phải vào tù vì tội bướng bỉnh. Cả hai lần, người giúp việc đều xin cho Giacôbê Đukê và ngài được trả tự do. Nhưng người giúp việc khuyên Giacôbê Đukê rằng tốt nhất hãy nên kiếm việc làm ở một nơi khác.
Giacôbê Đukê biết mình sẽ không trở về nữa nên đã tìm gặp một linh mục Công giáo đang hoạt động âm thầm trong nhà tù Guesthouse. Vị linh mục cao niên cải trang là “ông Wics” đã hướng dẫn ngài. Giacôbê Đukê được gia nhập Giáo hội Công giáo. Ngài kết hôn với một quả phụ cũng người Công giáo và đứa con trai của họ sau này đi tu dòng Bruno. Chính người con đã ghi lại cho chúng ta biết nhiều điều về thân phụ của anh.
Chân phước Giacôbê Đukê không bao giờ quên được cuốn sách đã khai mở cho ngài con đường đến với Giáo hội. Ngài xem việc chu cấp sách vở đạo cho những người láng giềng là trách nhiệm của ngài. Đukê biết rõ những sách này sẽ khuyến khích và hướng dẫn họ. “Nghề” này quá nguy hiểm đến nỗi Đukê đã bị bỏ tù 12 năm trời, trong đó 9 năm ngài không được liên lạc gì với đời sống gia đình của ngài. Sau cùng, Đukê bị đưa ra xét xử và bị kết án tử hình bởi lời chứng gian của một người đóng sách tên là Phêrô Bullock. Ông này làm chứng rằng ông đã đóng các sách cho chân phước Đukê là tên “tội phạm nghiêm trọng”. Bullock đã phản bội bởi ông bị vào tù vì những vấn đề bí ẩn không được kể lại và ông đang mong muốn được thả tự do.
Cả hai người đều bị kết án tử trong cùng một ngày. Trên đoạn đầu đài ở Tybơn, chân phước Giacôbê Đukê đã tha thứ cho Bullock. Đang lúc cả hai sắp trút hơi thở sau cùng, Giacôbê Đukê đã cố gắng khuyến khích Bullock chấp nhận đức tin Công giáo. Rồi, người ta buộc những sợi dây thừng vào cổ họ.
Chân phước Giacôbê Đukê được phúc tử đạo năm 1602.

Nếu muốn được lôi kéo bởi sức mạnh của các thông tin như sách vở, các buổi trình chiếu tivi, các chương trình phát thanh, các hình ảnh trên băng từ, đĩa CD… chúng ta hãy cầu khẩn cùng chân phước Giacôbê Đukê. Chúng ta hãy nài xin ngài giúp chúng ta nhận ra ảnh hưởng mà các phương tiện truyền thông này tác động trên cuộc sống chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-09-2012, 11:59 AM
Ngày 20 tháng Tư




THÁNH ANNÊ MONTÊPULXIANÔ



Vị thánh nữ này sinh gần thành phố Montêpulxianô, nước Ý, vào năm 1268. Khi vừa lên 9 tuổi, Annê đã xin song thân cho phép được vào sống trong tu viện cạnh bên nhà ngài. Annê cảm thấy rất hạnh phúc bên các nữ tu. Họ sống đời trầm lặng và cầu nguyện. Họ cũng làm việc vất vả. Dù còn trẻ, thánh nữ Annê cũng hiểu được lý do tại sao các nữ tu đã cầu nguyện và sống thật ân cần tử tế như vậy. Lý do là vì họ chỉ muốn được sống kết hợp mật thiết với Đức Chúa Giêsu.
Năm tháng trôi qua! Thánh nữ Annê Montêpulxianô được nhận vào sống đời tập sinh. Thánh nữ có nhiều đức tính quý báu đến nỗi các chị em khác đều cảm thấy rất hài lòng khi có ngài hiện diện ở bên. Annê cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Annê là tấm gương sáng cho các chị em noi theo. Cũng có một số chị em nữa đến xin gia nhập với họ. Annê và các chị em nữ tu thuộc về dòng nữ Thuyết Giáo, cũng gọi là dòng nữ ĐaMinh. Sau cùng, Annê được chọn làm bề trên tu viện. Annê cố gắng sống quảng đại và công bằng với mỗi chị em. Annê tự nhắc nhở mình rằng hết thảy mọi việc đều phải làm vì tình yêu Chúa Giêsu. Annê tin rằng Đức Chúa Giêsu hằng điều khiển hướng dẫn tu viện, và Người hằng chăm sóc đến từng chị em.
Mẹ Annê thực hành nhiều việc khổ chế. Mẹ vẫn sống quảng đại và dịu dàng ngay cả những khi Mẹ cảm thấy không thích. Thiên Chúa đã trào đổ niềm vui sướng trên Annê và thỉnh thoảng ban cho ngài những ơn an ủi thiêng liêng. Một lần kia, Thiên Chúa đã để thánh nữ Annê bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Nhi trong vòng tay của thánh nữ.
Annê Montêpulxianô là người hay đau ốm, nhưng thánh nữ vẫn nhẫn nại chịu đựng ngay cả khi bệnh tình trở nên rất trầm trọng. Annê chẳng hề tiếc xót hay phàn nàn chi về thân phận của mình. Thay vào đó, Annê hiến dâng mọi sự cho Thiên Chúa. Về cuối đời, các chị em nhận thấy sức khỏe của Annê cũng chẳng mấy khá hơn. Và họ rất buồn.”Nếu các chị yêu quý em, các chị hãy vui mừng,” – Annê nói – “em sắp được tham dự vào vinh quang của Đức Chúa Giêsu!”
Thánh nữ Annê Montêpulxianô qua đời năm 1317, lúc được 49 tuổi. Ngài được tôn phong lên bậc hiển thánh vào năm 1726.
Ngôi mộ của thánh Annê Montêpulxianô trở thành một nơi hành hương. Nhiều người đã đến cầu nguyện với vị thánh nữ này và xin ngài giúp đỡ. Trong số những khách hành hương có Catarina Siêna, vị thánh nổi tiếng mà chúng ta sẽ mừng kính vào ngày 29/04.

Nơi thánh nữ Annê Montêpulxianô, chúng ta được học biết rằng Thiên Chúa có một ý định trong thánh trí của Người về mỗi chúng ta. Người ban tặng cho chúng ta những tài năng và những cơ hội để chúng ta cố gắng làm triển nở ơn gọi của đời mình. Chúng ta hãy năng cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta chóng trở nên điều mà Người mong muốn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-09-2012, 09:01 AM
Ngày 21 tháng Tư




THÁNH ANSELMO



Thánh Anselmo được sinh tại miền Bắc nước Ý vào năm 1033. Từ ngôi nhà của mình, Anselmo có thể xem thấy những dãy núi Alpes. Khi lên 15 tuổi, Anselmo đã cố gắng hết sức để xin gia nhập một tu viện ở Ý, nhưng thân phụ của Anselmo ngăn cản việc đó. Thế rồi Anselmo ngã bệnh. Sau khi Anselmo được khỏi bệnh ít lâu thì thân mẫu qua đời. Anselmo vẫn còn rất trẻ, giàu có và thông minh. Chẳng mấy chốc, Anselmo quên đi việc muốn phục vụ Thiên Chúa. Anselmo chỉ lo nghĩ đến chuyện vui chơi và hưởng thụ.
Dù vậy, sau một thời gian, Anselmo bắt đầu cảm thấy chán ngán với lối sống này. Anselmo mong muốn làm một điều gì đó hữu ích hơn, cao đẹp hơn. Anselmo đến nước Pháp viếng thăm đức viện phụ thánh thiện Lanfrant của đan viện danh tiếng miền Berth. Rồi Anselmo trở nên người bạn rất thân của Lanfrant và đức viện phụ đã đem Anselmo đến với Thiên Chúa. Ngài cũng giúp Anselmo cách thức trở nên một đan sĩ dòng Benedicto. Anselmo lúc ấy được 27 tuổi.
Thánh Anselmo là người nhiệt tâm, tốt bụng, luôn yêu mến và quý trọng các anh em đan sĩ. Cả những đan sĩ trước kia cảm thấy bực tức với Anselmo thì chẳng bao lâu cũng trở nên bạn hữu thân tín với ngài. Đến năm 1078, Anselmo được chọn làm viện phụ. Khi phải rời Berth để lĩnh chức tổng giám mục miền Canterbury bên nước Anh, Anselmo đã nói với các đan sĩ rằng họ vẫn luôn luôn sống mãi trong trái tim của ngài.
Dân Anh yêu mến và quý trọng Anselmo. Tuy thế, vua William II lại bách hại ngài. Thánh Anselmo phải chịu lưu đày biệt xứ vào những năm 1097 và 1103. Thậm chí William II còn ngăn cấm Anselmo không được đến Roma xin ý kiến của Đức Thánh cha. Nhưng dù sao chăng nữa Anselmo cũng đã đi. Anselmo lưu lại với Đức Thánh cha cho tới khi nhà vua qua đời. Sau đó, Anselmo trở về giáo phận của ngài ở nước Anh.
Dù phải bận rộn với trăm công nghìn việc, thánh Anselmo vẫn luôn luôn kiếm giờ để viết nhiều sách triết học và thần học quan trọng. Thánh nhân cũng ghi lại nhiều lời huấn thị về Thiên Chúa rất có giá trị mà ngài đã chia sẻ cho các anh em đan sĩ. Họ rất sung sướng về việc này. Anselmo thường nói : “Bạn có muốn biết bí quyết để sống hạnh phúc trong đan viện không? Hãy lãng quên thế gian và hãy sung sướng để quên nó. Đan viện là một thiên đàng thực sự trên trái đất này đối với những ai chỉ sống một mình cho Đức Chúa Giêsu!”
Thánh Anselmo qua đời ngày 21/04/1109. Năm 1720, ngài được Đức Thánh cha Clementé XI tôn phong làm thầy dạy lỗi lạc của Giáo hội hay còn gọi là Tiến sĩ Hội thánh.

Chẳng có gì là sai lầm hoặc không hợp với đạo đức khi hoan hưởng những niềm vui thanh cao và thiện hảo. Dù vậy, điều chúng ta phải ghi nhớ là tất cả mọi thứ vui thú trên thế gian này sẽ không làm cho chúng ta được hạnh phúc. Chúng ta chỉ được hạnh phúc thực sự khi chúng ta biết dùng thời giờ làm những việc hữu ích cho Thiên Chúa và tha nhân.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-09-2012, 09:02 AM
Ngày 22 tháng Tư




THÁNH SÔTƠ và THÁNH CAIÔ



Thánh Sôtơ làm giáo hoàng trước thời đại vua chúa Roma. Sôtơ đích thật là vị cha chung của mọi Kitô hữu. Thánh nhân giúp đỡ rất nhiều người nghèo khó. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người bị kết tội đang phải làm việc trong những hầm mỏ nguy hiểm. Họ bị đày tới đó vì đã không chịu chối bỏ niềm tin vào Đức Chúa Giêsu. Những Kitô hữu can đảm này luôn luôn phải chịu đói khát. Họ chỉ được phép nghỉ ngơi chút ít mà thôi. Các tín hữu khác thì bị giam hãm trong chốn lao tù. “Giáo hoàng Sôtơ tốt lành” đã làm mọi cách có thể để khuyến khích và giúp đỡ họ.
Thánh Sôtơ cũng trợ giúp những Kitô hữu ở xa Roma. Vị giáo hoàng thánh thiện này là một nhà giảng thuyết danh tiếng. Mọi Kitô hữu đều ưa thích lắng nghe ngài cắt nghĩa về đạo giáo của mình. Thánh nhân chia sẻ với tất cả tâm hồn. Sôtơ gợi hứng nơi họ lòng can đảm dám liều chết vì Đức Chúa Giêsu hơn là tế lễ cho các ngẫu thần. Chính thánh Sôtơ cũng đã dâng hiến cuộc sống mình cho Đức Chúa Giêsu vào năm 174, sau khi làm giáo hoàng được 10 năm.

Thánh Caiô làm giáo hoàng khoảng 100 năm sau thánh Sôtơ. Ngài cũng sống trong thời ký Giáo hội bị bách hại. Vị giáo hoàng này đã làm mọi sự có thể để giúp cho dân Chúa giữ vững đức tin dù phải gặp bất kỳ hy sinh nào. Để tiện lợi cho việc giúp đỡ bổn đạo của mình hơn, thánh Caiô đã sống 8 năm liền trong những hầm buồng nằm dưới mặt đất, gọi là những hang toại đạo. Đây là những nghĩa trang nơi các Kitô hữu thường họp mặt một cách bí mật để cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Đây là nơi ẩn náu của họ để trốn thoát khỏi những binh lính ngoại giáo độc ác. Các Kitô hữu biết rằng họ sẽ bị giết chết nếu họ bị bắt giữ.
Thánh Caiô làm giáo hoàng được 12 năm. Rồi ngài cũng được phúc tử đạo. Thánh nhân đã qua đời năm 296.

Ngày nay, có những giáo dân ở nhiều nơi trên thế giới vẫn còn bị bách hại chỉ vì họ là những Kitô hữu mẫu mực. Chúng ta hãy dâng những lời cầu nguyện và hy sinh để nài xin Đức Chúa Giêsu an ủi và ban thêm cho họ lòng can đảm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-09-2012, 01:47 PM
Ngày 24 tháng Tư


THÁNH PHIDELIS SIGMARIGEN



Tên của vị thánh này là Mark Reith. Ngài được sinh tại Đức vào năm 1578.
Mark theo học tại trường đại học danh tiếng của thành phố Frebur để trở thành luật sư. Ngay lúc còn là một sinh viên. Mark đã thích thăm viếng những người đau ốm và nghèo khổ. Ngài dùng thời giờ để cầu nguyện mỗi ngày. Người anh trai của Mark thì chọn làm một linh mục dòng Phanxicô Capuxinô. Còn Mark, sau khi tốt nghiệp đại học, đã trở thành một luật sư danh tiếng.
Mark hay đảm trách các vụ biện hộ cho những người nghèo không có tiền để trả. Vì rất giàu lòng quảng đại nên Mark thường bị những quan tòa bất lương ghét bỏ. Sau đó, Mark quyết định noi theo lối bước người anh của ngài và Mark đã trở thành linh mục. Mark nhận áo dòng và lấy tên là Phidelis, nghĩa là “trung thành”.
Cha Phidelis rất hân hoan vui mừng khi được chỉ định tới Thụy Sĩ để rao giảng Tin Mừng. Lúc ấy, ở Thụy Sĩ có rất nhiều kẻ thù của đạo Công giáo. Cha Phidelis muốn thuyết phục những người này trở về với Giáo hội. Lời giảng dạy của cha Phidelis đã mang lại những thành quả phi thường. Nhiều người được ơn trở lại, còn các kẻ thù của Giáo hội thì rất tức giận trước thành công của ngài.
Thánh Phidelis Sigmarigen thừa nhận rằng cuộc sống của ngài thật nguy hiểm nhưng thánh nhân vẫn cứ tiếp tục rao giảng. Một ngày kia, đang lúc giảng tới phần giữa của bài giảng, người ta đã bắn một phát súng vào Phidelis nhưng viên đạn đã bay trượt đi. Cha Phidelis biết rằng mình phải lập tức rời bỏ thị trấn, và ngài đã lên đường. Nhưng đang khi đi dọc theo lộ trình đến thị trấn bên cạnh thì một nhóm người hung ác giận dữ đã xông ra cản đường cha Phidelis. Họ ra lệnh cho cha phải bỏ đạo Công giáo. Nhưng thánh Phidelis Sigmarigen thẳng thắn trả lời họ rằng : “Tôi sẽ không chối bỏ đạo Công giáo!” Họ liền bất ngờ xông vào đánh cha Phidelis Sigmarigen bằng những chiếc dùi cui và những dụng cụ thô bạo của họ.
Vị linh mục mình đầy thương tích cố gắng chỗi dậy, quỳ gối và nguyện rằng : “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Lạy Thánh nữ Maria là Mẹ con, xin hãy giúp con!” Bọn họ lại đánh thánh nhân cho tới khi biết chắc là ngài đã chết.
Cha Phidelis Sigmarigen đã tử vì đạo năm 1622, lúc được 44 tuổi.
Năm 1746, Đức Thánh cha Benedicto XIV đã tôn phong cha Phidelis Sigmarigen lên bậc hiển thánh.

Thật là một vinh dự lớn lao khi có thể giúp đỡ người ta trở về với Đức Chúa Giêsu và với Giáo hội của Người. Chúng ta hãy cố gắng trở nên những môn đệ đích thực, được thể hiện qua lời cầu nguyện, gương sáng và những lời nói tốt.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-09-2012, 01:50 PM
Ngày 26 tháng Tư


THÁNH RABETO



Vị thánh này sống ở nước Pháp vào thế kỷ thứ IX.
Chẳng ai biết được song thân của Rabeto là ai. Họ đã đặt con trẻ mới sinh trên ngưỡng cửa của tu viện Notre Dame. Các nữ tu ở đây đã yêu mến và chăm sóc con trẻ. Họ đặt tên cho con trẻ là Rabeto. Khi đủ tuổi đến trường, Rabeto được gởi đến học với các tu sĩ dòng thánh Phêrô ở một miền gần đó.
Cậu bé Rabeto yêu thích việc học hành, đặc biệt là ngài quý chuộng các tác phẩm Latinh cổ. Khi lớn lên, thánh Rabeto sống cuộc đời âm thầm. Ngài vẫn sống đời giáo dân suốt nhiều năm. Sau đó, Rabeto cảm thấy có ơn kêu gọi làm đan sĩ. Và Rabeto đã gia nhập một cộng đoàn có hai đan viện phụ rất nhiệt thành là thánh Adalha và người em kế vị ngài là viện phụ Wala. Rabeto cố gắng trở nên một đan sĩ thánh thiện. Ngài thường đi theo hộ tống cho hai đan viện phụ trong các chuyến kinh lý của họ. Thánh nhân cũng đã viết tiểu sử của các vị sau khi các vị qua đời.
Sau đó, Rabeto trở thành học giả Kinh Thánh. Ngài đã viết một bài bình luận dài dựa trên Tin Mừng của thánh ký Matthêô. Rabeto cũng chú giải những đoạn Kinh Thánh khác. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của Rabeto là cuốn “Châu Thân và Bửu Huyết Chúa Kitô”.
Thánh Rabeto không cảm thấy mình có ơn kêu gọi làm linh mục. Nhưng người ta đã thuyết phục Rabeto nhận chức viện phụ suốt một nhiệm kỳ dài 7 năm. Rồi thánh nhân nhất định năn nỉ xin được trở về với đời sống cầu nguyện, suy ngẫm, nghiên cứu và viết lách. Thời kỳ làm đan phụ đối với Rabeto thật rất khó khăn vất vả dù ngài đã cố gắng hết sức mình. Sau đó, Rabeto dùng phần đời còn lại của mình để cầu nguyện, soạn thảo văn bản và làm những công việc bề trên chỉ định.
Thánh Rabeto về trời năm 860.

Thánh Rabeto nhắc nhớ chúng ta về sự bất khả xâm phạm của mỗi đời sống con người. Tuy là một đứa trẻ bị bỏ rơi, nhưng hãy nhìn vào những ân sủng phi thường Thiên Chúa đã ban cho ngài! Chúng ta hãy nài xin thánh Rabeto gợi hứng cho những nhà lập pháp biết đưa ra những khoản luật khôn ngoan nhằm bảo vệ đời sống con người trong mọi giai đoạn của nó.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-09-2012, 11:38 AM
Ngày 27 tháng Tư


THÁNH ZITA


(Bổn mạng những người giúp việc)


Thánh nữ Zita được mọi người biết đến với chức vị là quan thầy của những người giúp việc nhà cửa. Thánh nữ được sinh ra trong một ngôi làng thuộc miền Monté Sagrati, nước Ý vào năm 1218. Song thân của Zita rất có lòng đạo đức và đã nuôi dạy Zita theo tinh thần bác ái Kitô giáo. Thói quen của những đôi vợ chồng nghèo là gởi những bé gái của họ đang trong độ tuổi niên thiếu vào những gia đình đáng tín nhiệm để chúng học biết cách thức trở nên những đày tớ giúp việc. Các cô sẽ sống với các gia đình độ một thời gian và được thuê mướn làm những công việc nội trợ. Khi lên 12 tuổi, Zita được gởi đến gia đình Fatinelli ở thành phố Lucca. Ông bà Fatinelli là những người quảng đại tốt bụng và có nhiều người làm thuê. Zita rất lấy làm sung sướng vì có thể làm việc và gửi tiền về cho cha mẹ của ngài. Zita cố gắng sống tinh thần trách nhiệm. Zita tạo cho mình thói quen cầu nguyện phù hợp với chương trình riêng của ngài. Hàng ngày, Zita dậy rất sớm để tham dự thánh lễ.
Zita chăm chỉ làm việc. Ngài cảm thấy đó là nhiệm vụ của ngài. Nhưng những người giúp việc khác thì lại bực dọc khó chịu. Họ chỉ cố làm chút việc để khỏi bị trừng phạt. Họ bắt đầu chửi mắng Zita và phản đối ngài mà chẳng chịu để ý gì đến công việc của họ. Zita cảm thấy bị tổn thương nhưng ngài đã cầu nguyện xin ơn nhẫn nại. Zita không bao giờ tố cáo họ. Dù họ có nghĩ thế nào thì Zita vẫn cứ tiếp tục làm phần việc của ngài cách hết sức tử tế.
Khi một trong các anh chàng giúp việc tìm cách hôn Zita, Zita đã kháng cự và đẩy anh ta ra. Anh đã rời khỏi căn phòng với nhiều vết trầy xước trên mặt. Ông Fatinelli cho gọi riêng Zita và hỏi về chuyện đã xảy ra. Zita đã thuật lại sự việc cách trung thực. Sau đó, Zita được bổ nhiệm làm bà quản gia. Con cái của gia đình Fatinelli được đặt dưới sự trông nom chăm sóc của Zita. Nhất là những người giúp việc khác đã thôi hành hạ Zita. Thậm chí có một vài người đã bắt đầu để ý và bắt chước Zita.
Thánh nữ Zita trải qua cả đời sống với gia đình Fatinelli. Ngài vẫn lưu lại trong khi các người khác đến rồi lại đi. Zita thích phục vụ họ. Zita yêu mến họ như ngài yêu mến gia đình của ngài. Bằng gương sáng, Zita giúp cho mọi người nhận biết rằng công việc sẽ thật sự thú vị khi được làm với tấm lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu.
Zita qua đời cách an lành vào ngày 27/04/1278, lúc được 60 tuổi.

Thánh nữ Zita là bài học tuyệt vời cho mỗi người chúng ta. Thánh nữ nhắc nhớ chúng ta rằng công việc chúng ta làm biểu hiện phần nào con người thực của chúng ta. Việc học hành và lao động của chúng ta đòi hỏi nhiều quyết tâm và nỗ lực. Tuy có chút phiền toái nhưng Thiên Chúa sẽ ân thưởng cho sự cố gắng của chúng ta trên thiên đàng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-09-2012, 11:41 AM
Ngày 28 tháng Tư




THÁNH PHÊRÔ CHANEL



Thánh Phêrô Chanel sinh gần vùng Belley, nước Pháp vào năm 1803. Từ khi lên 7, Phêrô Chanel đã phải đi chăn chiên giúp thân phụ ngài. Tuy nghèo khó nhưng Phêrô rất thông minh và rất yêu mến đạo giáo.
Ngày kia, cha xứ tốt lành đến gặp Phêrô. Cha suy nghĩ nhiều về Phêrô rồi cha hỏi song thân của Phêrô xem liệu cha có thể nhận giáo dục đứa trẻ không. Phêrô đã chăm chỉ học hành tại trường tiểu học và sau đó tại chủng viện của vị linh mục này. Khi thụ phong linh mục, cha Phêrô Chanel được sai đến một giáo xứ chỉ có rất ít người Công giáo còn giữ đạo. Cha Chanel cầu nguyện. Cha có tấm lòng hiền lành và quảng đại đối với hết mọi người. Tuy chỉ mới 3 năm, nhưng đã có sự cải tiến rất đáng kể. Nhiều người lại tận tình yêu mến Đức Chúa Giêsu và Giáo hội.
Thánh Phêrô Chanel có một ước muốn truyền giáo rất mãnh liệt. Ngài gia nhập một hội dòng gọi là dòng Truyền Giáo Đức Bà. Thánh nhân hy vọng sẽ được sai đi đem Tin Mừng cho những người chưa tin nhận Thiên Chúa. Sau vài năm, ước mơ đã trở thành hiện thực. Phêrô Chanel và một nhóm các vị thừa sai thuộc dòng Truyền Giáo Đức Bà đã được gởi đến những hòn đảo thuộc vùng Nam Thái Bình Dương. Cha Chanel và một thầy dòng được chỉ định tới đảo Futuna. Ở đó, dân chúng rất sẵn lòng lắng nghe cha Chanel giảng dạy.
“Vị linh mục này yêu mến chúng tôi!” – một trong những người dân nói – “và chính ngài đã thực hành trước hết những điều ngài dạy chúng tôi làm!”
Không may thay, thủ lĩnh bộ tộc này lại ghen tức với sự thành công của cha Chanel. Ông rất giận dữ căm hờn khi thấy người con trai của ông chịu phép Thanh Tẩy. Ông đã sai một đội quân tinh nhuệ của ông đến giết vị thừa sai.
“Đây thật là điều tốt cho tôi!” Đó là tất cả những gì cha Phêrô Chanel đã nói trước khi thở hơi cuối cùng.
Thánh Phêrô Chanel bị giết ngày 28/04/1841.
Chỉ trong khoảng một thời gian ngắn sau cuộc tử đạo của cha Chanel, hết thảy mọi người trên đảo đã trở thành Kitô hữu.
Đến năm 1954, Đức Thánh cha Piô XII đã tôn phong Phêrô Chanel lên bậc hiển thánh.

Tính ghen tỵ xui khiến người ta làm nhiều điều xấu. Nếu gặp thấy tha nhân làm việc tốt, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa. Chúng ta cũng hãy cố gắng bắt chước gương sáng của họ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-09-2012, 11:45 AM
Ngày 01 tháng Năm




THÁNH GIUSE Lao Động



Đây là ngày lễ thứ hai của thánh Giuse trong lịch mừng lễ của Giáo hội. Chúng ta đã mừng lễ kính thánh nhân hôm 19/03. Giuse là vị thánh rất quan trọng. Ngài là phu quân của Đức Trinh Nữ Maria Mẹ chúng ta và là cha đồng trinh của Đức Chúa Giêsu.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi tấm gương chứng nhân về sự lao động chăm chỉ của thánh Giuse. Ngài là một bác phó mộc đã làm việc cần mẫn trong xưởng mộc nhỏ bé. Thánh Giuse dạy chúng ta rằng công việc của chúng ta đang làm là rất quan trọng. Bởi qua việc đó, chúng ta góp phần vào việc phục vụ xã hội loài người. Hơn thế nữa, là những Kitô hữu, chúng ta nhận ra việc làm của mình như tấm gương phản chiếu chính bản thân chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải siêng năng chuyên cần làm việc.
Hàng năm, nhiều quốc gia dành ra một ngày để tỏ lòng biết ơn những người lao động. Điều này nói lên ý nghĩa và chân giá trị của việc lao công. Giáo hội ban cho chúng ta một mẫu gương lao công tuyệt hảo là thánh Giuse.
Năm 1955, Đức Thánh cha Piô XII đã công bố ngày lễ thánh Giuse Lao Động phải được cử hành hàng năm.

Chúng ta hãy nài xin thánh Giuse Lao Động giúp chúng ta siêng năng chịu khó hơn trong công việc bổn phận của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-09-2012, 01:00 PM
Ngày 02 tháng Năm


THÁNH ATHANASIÔ



Thánh Athanasiô sinh vào khoảng năm 297 tại Alexandria, Ai Cập.
Thánh nhân đã trung thành tận hiến đời mình để minh chứng Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa chân thật. Điều này quan trọng bởi vì một số người theo bè rối Ariô đã chối bỏ chân lý trên. Ngay trước khi làm linh mục, thánh Athanasiô đã đọc nhiều sách dạy về đức tin. Đó là lý do tại sao thánh nhân có thể dễ dàng vạch ra những giáo huấn sai lầm của bè rối Ariô.
Thánh Athanasiô làm Tổng Giám mục thành Alexandria khi chưa đầy 30 tuổi. Suốt 46 năm, Athanasiô là một mục tử hết sức anh dũng. Cả 4 vị hoàng đế Roma đã không thể nào bắt ép Athanasiô thôi việc viết những bài giải thích rất hay và rất rõ ràng về đức tin thánh thiện của Kitô giáo. Các kẻ thù của Athanasiô thì tìm mọi cách để khủng bố ngài.
Trong cuộc đời, thánh Athanasiô bị đuổi ra khỏi giáo phận của ngài tất cả 5 lần. Lần lưu đày đầu tiên kéo dài 2 năm. Năm 336, Athanasiô bị đưa đến thành phố Triơ. Vị giám mục quảng đại tốt lành là thánh Maximiniô đã tiếp đón Athanasiô cách rất nồng hậu. (Lễ kính thánh Maximiniô được mừng vào ngày 29/05). Những lần lưu đày khác kéo dài lâu hơn. Thánh Athanasiô bị những kẻ thù ngài săn đuổi. Trong một kỳ lưu đày, các đan sĩ đã trông giữ Athanasiô cách an toàn trong sa mạc suốt 7 năm. Do đó, các kẻ thù của thánh Athanasiô đã không thể nào tìm được ngài.
Một lần kia, các binh lính của hoàng đế rượt đuổi Athanasiô trên bờ sông Nil. “Họ đang đuổi bắt chúng ta!” - các bạn hữu của thánh nhân hét lên. Nhưng Athanasiô chẳng lo lắng gì cả.
“Hãy quay thuyền vòng lại,” – ngài nói cách bình thản – “và hãy chèo về phía họ!”
Các binh lính ở trong thuyền kia la lên : “Các anh có thấy Athanasiô ở đâu không?”
Đàng sau có tiếng trả lời : “Chúng ta chẳng còn cách xa ông ấy bao nhiêu!”
Rồi chiếc thuyền của kẻ thù cố sức phóng nhanh hơn vận tốc bình thường, và thế là thánh Athanasiô đã an toàn thoát nạn.
Dân thành Alexandria rất yêu mến đức Tổng Giám mục tốt lành này. Ngài thực là một người cha của họ. Với những năm tháng trôi qua, họ hiểu rõ được những đau khổ mà thánh Athanasiô đã phải chịu vì Đức Chúa Giêsu và Giáo hội thật nhiều chừng nào. Chính giáo dân, những người đã cùng làm việc với thánh nhân, làm chứng rằng Athanasiô đã góp phần rất lớn vào việc kiến tạo hòa bình. Ngài đã sống 7 năm sau cùng với họ trong niềm vui thư thái. Các kẻ thù của Athanasiô đã lùng bắt ngài nhưng không thể nào tìm được ngài. Suốt thời gian ấy, thánh Athanasiô viết truyện “Cuộc đời thánh Antôn ẩn tu”. Thánh Antôn là người bạn chí thân của Athanasiô lúc Athanasiô còn trẻ. (Lễ kính thánh Antôn được cử hành vào ngày 17/01).
Thánh Athanasiô qua đời trong an bình vào ngày 02/05/373. Ngài vẫn là một trong những vị thánh can đảm đặc biệt nhất qua mọi thời đại.

Vị thánh này thách đố chúng ta hãy khát khao học hỏi và nghiên cứu về đức tin của mình. Chúng ta hãy nài xin thánh Athanasiô ban cho chúng ta được lòng hăng say và yêu mến Đức Chúa Giêsu như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-09-2012, 01:03 PM
Ngày 04 tháng Năm




CHÂN PHƯỚC MARIA LEONI PARADI



Elodie Paradi được sinh ra trong ngôi làng Acadie ở Quebec, nước Canada. Đó là ngày 12/05/1840.
Song thân Elodie tuy nghèo khó nhưng là những tín hữu rất có lòng sùng đạo. Họ yêu mến cô gái nhỏ của họ. Khi Elodie lên 9, cha mẹ Elodie quyết định gởi ngài vào một trường nội trú. Họ muốn cho Elodie có được một nền học vấn xuất sắc. Các nữ tu dòng Đức Mẹ đã tiếp nhận em học sinh mới này với tấm lòng thiện cảm. Tuy vậy, cả Elodie và lẫn gia đình rất thương nhớ nhau.
Ông Paradi phải vất vả trông coi và điều khiển nhà máy xay bắp. Nhưng thật là tệ vì lợi tức của cả nhà máy cũng chẳng đủ để nuôi vợ nuôi con. Ông Paradi nghe biết những bài tường thuật kỳ lạ thật bùi tai về “cơn sốt vàng” ở California. Và ông đã liều mình quyết đi tới đó. Nhưng ở California, ông Paradi cũng chẳng tìm được của cải như lòng ông mong ước. Khi trở về Acadie, ông rất kinh hoàng vì nhận thấy cô gái nhỏ Elodie của ông đã đi tu. Elodie đã gia nhập dòng Thánh Giá ngày 21/02/1854. Ông Paradi liền đến tu viện. Ông năn nỉ cô bé về nhà nhưng Elodie quyết chọn ở lại. Sau cùng, người cha cũng đành phải chấp nhận. Elodie tuyên khấn năm 1857 và nhận tên là Maria Leoni. Chân phước Maria Leoni dạy học trong nhiều thành phố. Ngài cầu nguyện và sống rất vui vẻ.
Thời gian cứ thế trôi qua! Nữ tu Maria Leoni Paradi được Đức Chúa Giêsu soi dẫn thiết lập một hội dòng mới trong Giáo hội. Năm 1880, các Nữ Tu Nhỏ, tức các chị Tiểu Muội dòng Thánh Gia, khởi sự hoạt động. Các chị dòng đáng yêu này dâng hiến đời mình phục vụ hàng linh mục. Công việc đặc biệt của họ là giúp các linh mục trông nom nhà cửa và công việc. Các Nữ Tu Nhỏ dòng Thánh Gia hiện có 67 tu viện ở Canada, Hoa Kỳ, Roma và Hodura.
Mẹ Maria Leoni Paradi đã hy sinh phục vụ các nữ tu của Mẹ cho đến những giờ sau hết của đời Mẹ. Mẹ thường hay đau bệnh. Nhưng Mẹ chẳng bao giờ thôi việc chăm lo cho dân Chúa. Mẹ tu chỉnh lần cuối những trang hiến luật Mẹ đã viết. Rồi Mẹ nhờ người mang ra tiệm in. Cuốn sách ấy chỉ dẫn cho các nữ tu của Mẹ biết những nhu cầu cần thiết trong đời sống của họ.
Vào thứ Sáu ngày 03/05/1912, Mẹ Maria Leoni Paradi cảm thấy rất mệt, mẹ đi nghỉ, và vài giờ sau đó Mẹ đã qua đời. Mẹ Maria Leoni Paradi sống thọ 71 tuổi.
Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho Mẹ Maria Leoni Paradi. Sự kiện vui mừng này diễn ra tại Jarry Park, Montrieux, Canada vào ngày 11/09/1984.

Đôi khi chúng ta sợ thất lạc hoặc lo lắng quá nhiều về tương lai của mình. Những lúc ấy chúng ta hãy nài xin chân phước Maria Leoni Paradi giúp chúng ta biết sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-09-2012, 01:47 PM
Ngày 05 tháng Năm




THÁNH GIUDITHA PRUSIA



Thánh Giuditha Prusia sống vào thế kỷ thứ XIII. Ngài được sinh tại Turingia (ngày nay vùng này thuộc miền Trung nước Đức). Giuditha muốn bắt chước mẫu gương của thánh nữ Elisabeth Hungari. (Lễ mừng kính vị thánh này được cử hành vào ngày 18/11). Thánh nữ Elisabeth Hungari đã sống từ năm 1207 đến năm 1231. Ngài được phong thánh năm 1235. Ở thời đại của Giuditha, nhiều nữ Kitô hữu đã chịu ảnh hưởng bởi gương sáng thánh thiện của thánh nữ Elisabeth.
Khi lên 15 tuổi, Giuditha kết hôn với một chàng quý tộc giàu có. Giuditha cố gắng trở nên một người vợ mẫu mực theo giáo huấn Kitô giáo. Đặc biệt Giuditha rất quảng đại với những người nghèo khổ. Chồng của Giuditha là một người tốt bụng nhưng lại thỏa mãn với lối sống giàu sang của ông. Ông mong muốn người vợ của ông cũng ăn mặc và trưng diện như một bà quý phái. Ông cảm thấy lối phục sức của các bà phu nhân làm cho các bà được nể trọng. Nhưng Giuditha dịu dàng thuyết phục chồng ngài hãy sống và ăn mặc giản dị hơn. Và khi làm điều này, họ sẽ có thêm nhiều của bố thí cho những người xấu số hơn họ.
Chồng của Giuditha qua đời một cách bất ưng đang khi hành hương tới thánh địa. Người quả phụ trẻ phải ở lại một mình nuôi con. Khi con cái khôn lớn, Giuditha cảm thấy một sự khao khát thôi thúc trong tâm hồn mình qua những chuỗi ngày hạnh phúc và bận rộn của cuộc sống. Rồi Giuditha đã bố thí hết mọi của cải và sống như một ẩn sĩ. Sau đó, Giuditha đến Prusia, nơi người ta không biết ngài xuất thân từ gia đình giàu có. Ở đó, nơi túp lều bé nhỏ của mình, Giuditha dùng thời giờ để cầu nguyện và chăm sóc những lữ khách rã rời yếu mệt. Đặc biệt ngài cầu nguyện cho những người vô tín ngưỡng được ơn trở lại. Giuditha Prusia cũng cầu nguyện cho những Kitô hữu mới chịu phép Thanh Tẩy được ơn trung thành với đức tin của họ.
Lần kia, thánh nữ nói : “Có ba điều có thể giúp chúng ta sống thân mật với Thiên Chúa, đó là : nhẫn nhục chịu những đau khổ thể xác, chấp nhận cuộc sống lưu vong nơi đất khách quê người và chọn lối sống nghèo khó vì yêu mến Thiên Chúa.”
Thánh nữ Giuditha Prusia qua đời vì cơn bệnh sốt vào năm 1260.

Bất cứ khi nào chúng ta lo lắng về ấn tượng cảm xúc chúng ta gây nên, chúng ta hãy cầu nguyện với thánh nữ Giuditha Prusia. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ giúp chúng ta biết hướng nhìn về Thiên Chúa. Điều đó quan trọng hơn là lo lắng tới những chuyện người ta nói về chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-09-2012, 01:49 PM
Ngày 06 tháng Năm




CHÂN PHƯỚC PHANXICÔ MÔNMÔRENCY LAVAL



Chân phước Phanxicô Mônmôrency Laval là giám mục tiên khởi của thành phố Quebéc nước Canada. Phanxicô cất tiếng khóc chào đời năm 1623 trong một thị trấn nhỏ bên Pháp.
Phanxicô được hấp thụ một nền giáo dục Kitô giáo tuyệt vời. Ngài học với các tu sĩ dòng Tên và sau đó tới Paris để hoàn tất việc chuẩn bị cho thiên chức linh mục. Phanxicô Monmôrency Laval thụ phong linh mục vào tháng 05/1647. Ngày 08/12/1658, Phanxicô Mônmôrency Laval được tấn phong giám mục, và qua năm 1659, ngài đến vùng Đất Mới của nước Pháp.
Giám mục Phanxicô Laval rất giàu tinh thần truyền giáo. Ngài chấp nhận cuộc sống khai hoang của bổn đạo mình. Thậm chí, Phanxicô Laval đã can đảm tiếp nhận một nhiệm vụ lớn lao hơn thế nữa. Ngài thiết lập một Giáo hội ở Canada, nơi trước đây chỉ là khu vực truyền giáo. Giám mục Phanxicô Laval xin các vị thừa sai dòng Tên giúp đỡ những cư dân bản xứ. Ngài lập ra những xứ đạo mới dành cho các Kitô hữu nói tiếng Pháp. Đến năm 1663, Phanxicô Mônmôrency Laval thành lập chủng viện Quebéc. Đây là một việc rất quan trọng bởi vì chủng viện quý báu này sẽ giúp đào luyện các linh mục tương lai cho dân Chúa.
Giám mục Phanxicô Mônmôrency Laval yêu mến mọi con chiên trong giáo phận rộng lớn của ngài. Phanxicô là vị giám mục biết quan tâm lo lắng và là một người có tâm hồn cầu nguyện. Thánh giá đặc biệt nhất của Phanxicô là vấn đề cản trở liên tục từ phía các nhà cầm quyền dân sự. Cách riêng, Phanxicô thẳng thắn vạch ra những tai hại của việc buôn bán các loại rượu mạnh.
Năm 1688, Phanxicô về hưu và giám mục Vallie lên thay thế. Giám mục Phanxicô Laval cũng cống hiến trọn 20 năm sau cùng của đời ngài cho những hoạt động bác ái từ thiện.
Phanxicô Mônmôrency Laval về trời năm 1708. Khách hành hương đến cầu nguyện tại ngôi mộ của Phanxicô, và họ đã thuật lại nhiều phép lạ ngài làm.
Ngày 22/06/1980, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong giám mục Phanxicô Mônmôrency Laval lên hàng chân phước.

Giám mục Phanxicô Mônmôrency Laval giúp chúng ta nhận thức được ý nghĩa của hai chữ “truyền giáo”. Ngài đã can đảm rời bỏ quê hương thân yêu của ngài để đi đến Canada khi miền đất này mới chỉ là một cứ điểm truyền giáo. Chúng ta hãy nài xin giám mục Phanxicô Mônmôrency Laval giúp chúng ta nhận biết về Giáo hội trên khắp hoàn vũ. Chúng ta cũng hãy nhớ đến mọi người mỗi khi đọc kinh nguyện.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-09-2012, 12:01 PM
Ngày 07 tháng Năm


CHÂN PHƯỚC ROSA VENERINI



Chân phước Rosa Venerini sinh tại thành Viteo, nước Ý, vào năm 1656. Thân phụ của Rosa là một thầy thuốc khoa nội. Rosa Venerini gia nhập tu viện nhưng sau vài tháng lại trở về nhà. Rồi thân phụ Rosa qua đời và Rosa cảm thấy mình có bổn phận phải chăm sóc phụng dưỡng người mẹ góa.
Rosa Venerini tuy vẫn sống độc thân nhưng nhận thấy mình có khả năng lãnh đạo. Vào mỗi buổi tối, Rosa tập hợp các bạn thanh nữ trong xóm lại và cùng nhau đọc kinh Mân Côi. Khi đã hiểu nhau rồi, Rosa thấy các bạn trẻ nhận biết về đức tin của mình còn quá kém. Vì vậy năm 1685, Rosa Venerini và hai chị giúp việc đã mở một trường học miễn phí dành cho các trẻ nữ. Các bậc phụ huynh gởi con em của họ nơi đây rất hài lòng với bầu khí và phương pháp giáo dục.
Rosa Venerini là một nhà giáo dục có tài. Nhưng trên hết, Rosa có thể thông trao cho người khác cách thức truyền đạt của ngài. Vào năm 1692, đức Hồng y Barbarigo mời Rosa Venerini tới giáo phận của ngài. Đức Hồng y muốn Rosa thiết lập các trường học và đào tạo các giáo viên cho ngài. Chính nhờ ở trong giáo phận của đức Hồng y Barbarigo mà Rosa Venerini đã trở thành người bạn và là giảng viên của một vị thánh tương lai. Vị ấy là thánh nữ Lucia Philippini lập dòng. (Nữ tu Lucia Philippini được tôn phong hiển thánh vào năm 1930).
Rosa Venerini cũng thiết lập các trường ở nhiều nơi khác nữa. Có vài người bực tức với công việc của Rosa đã quấy phá Rosa và các giáo viên của ngài. Nhưng các giáo chức vẫn luôn luôn tin tưởng vào thiện ích của việc giáo dục. Thậm chí Rosa Venerini còn mở một trường học ở Roma vào năm 1713. Đức Thánh cha Clemente XI đã vui sướng chúc mừng Rosa Venerini về việc đã thiết lập được một trường học tuyệt vời như vậy.
Người giảng viên trung tín này mất tại Roma vào ngày 07/05/1728, lúc được 72 tuổi. Sau khi qua đời, các chị giáo không thuộc giới tu sĩ của chân phước Rosa Venerini đã trở thành các nữ tu. Các nữ tu Venerini tiếp tục thực hiện sứ vụ giáo dục của họ theo cách thức mà chân phước Rosa Venerini đã làm.
Năm 1952, Rosa Venerini được Đức Thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc chân phước.

Chân phước Rosa Venerini đã nhận thức được chân giá trị của việc giáo dục. Nếu chúng ta muốn quyết tâm cố gắng hơn trong việc học tập của mình, chúng ta hãy nài xin chân phước Rosa Venerini giúp đỡ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-09-2012, 12:03 PM
Ngày 08 tháng Năm


CHÂN PHƯỚC CATARINA dòng Thánh Augustino



Chân phước Catarina sinh ngày 03/05/1632 trong một ngôi làng nhỏ bên nước Pháp. Ngài được chịu phép Thanh tẩy cùng ngày hôm ấy.
Các thành viên trong gia đình Catarina là những Kitô hữu rất đạo đức. Ông bà nội của Catarina đã nêu gương đặc biệt qua việc quan tâm đến những người nghèo khổ. Catarina chăm chú quan sát với đôi mắt tròn xoe ngây thơ khi bà nội của ngài dắt về nhà một người hành khất khuyết tật cả về thể xác lẫn tinh thần. Bà đã cho ông ta nước tắm, quần áo sạch và cả một bữa ăn ngon. Tối hôm ấy khi Catarina và ông bà ngồi xung quanh bếp lửa, họ đã cùng nhau đọc to kinh Lạy Cha. Họ cảm tạ Thiên Chúa vì những phúc lành Người đã thương ban.
Bởi vì chẳng có bệnh viện nào trong thị trấn nhỏ bé của họ, nên những người đau bệnh đã được điều trị ngay tại căn nhà của ông bà nội. Catarina hiểu rằng bệnh tật và đau khổ đòi phải có lòng kiên nhẫn và chịu đựng. Chỉ mới là một cô gái nhỏ nhưng Catarina cũng biết cầu nguyện xin Đức Chúa Giêsu cất bớt đau khổ cho họ.
Ngay khi còn rất trẻ, Catarina đã gia nhập dòng nữ Augustino, lúc ấy mới được thành lập. Họ chăm sóc bệnh nhân trong các bệnh viện. Ngày 24/10/1646, Catarina nhận áo dòng. Đó cũng là ngày người chị gái Catarina tuyên lời khấn thánh. Năm 1648, Catarina nghe biết các linh mục thừa sai xin các nữ tu đến truyền giáo tại vùng Đất Mới của nước Pháp và Canada. Chị của Catarina được chọn làm người đầu tiên trong hội dòng đi Canada truyền giáo. Lúc ấy, Catarina chỉ mới được 16 tuổi nhưng cũng tình nguyện xin đi. Catarina tuyên các lời khấn thánh ngày 04/05/1648. Rồi ngày hôm sau, Catarina trẩy tàu đến Canada. Hôm đó là ngày áp sinh nhật lần thứ 16 của ngài.
Cuộc sống nơi Quebéc, Canada, thật khó khăn. Sơ Catarina yêu mến các cư dân sống ở đây. Những người thổ dân cảm thấy thật dễ chịu vì thái độ vui vẻ của Catarina. Catarina nấu nướng và chăm sóc những người đau ốm trong khu bệnh xá nghèo nàn của dòng. Nhưng Catarina cũng cảm thấy sợ hãi. Những người thổ dân Irôquơ đang giết chết nhiều người và đốt phá nhiều làng mạc. Catarina cầu nguyện cho thánh Brêbô, một linh mục dòng Tên, đã bị những người Irôquơ giết hại năm 1649. Catarina xin thánh nhân giúp mình trung thành bền đỗ trong ơn gọi tu trì. Trong lòng, Catarina nghe thấy thánh nhân khuyên hãy ở lại. Thế rồi, thực phẩm dần dần khan hiếm, và về mùa đông, khí hậu trở nên cực kỳ giá lạnh. Vài người trong số các nữ tu không thể chịu đựng nổi cuộc sống khắc nghiệt và sự đe dọa của thần chết. Và thật tiếc thay, họ đã trở về nước Pháp. Sơ Catarina cũng lo sợ. Đôi lúc sơ hầu như không thể cầu nguyện được. Sơ cảm thấy buồn sầu đang khi mỉm cười với hết thảy những người thân yêu mà sơ chăm sóc trong dãy nhà thương dành cho các bệnh nhân. Thế rồi, chính trong lúc mọi sự mù mịt và đen tối nhất xảy đến, sơ Catarina đã khấn là sẽ không bao giờ rời bỏ Canada. Sơ đoan hứa rằng sẽ ở lại làm những công việc bác ái cho đến chết. Khi thực hiện lời khấn này, sơ Catarina mới chỉ có 22 tuổi.
Tuy cuộc sống khai hoang mở đường nơi vùng đất Pháp thuộc có nhiều khó khăn, thì càng ngày vẫn càng có thêm nhiều người đến đây cư trú. Giáo hội phát triển. Thiên Chúa chúc lành cho miền đất mới qua việc ban thêm các vị thừa sai. Vào năm 1665, sơ Catarina trở thành Mẹ tập sự của cộng đoàn. Sơ vẫn tiếp tục sống đời cầu nguyện và giúp việc bệnh xá cho tới lúc qua đời.
Sơ Maria Catarina dòng thánh Augustino mất ngày 08/05/1668, hưởng dương 36 tuổi. Đến năm 1989, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong sơ Catarina lên bậc chân phước.

Đức Chúa Giêsu không hứa với chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta sẽ được thoải mái dễ chịu, không có đau khổ hoặc phiền toái chi. Người chỉ hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta. Khi gặp sợ hãi hay chán nản, chúng ta hãy cầu xin chân phước Catarina dòng thánh Augustino ban cho chúng ta chút lòng can đảm của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-09-2012, 01:43 PM
Ngày 09 tháng Năm


CHÂN PHƯỚC NICOLA ALBERGARTI



Chân phước Nicola Albergarti sinh tại Bologna, nước Ý. Gia đình Nicola đã chu cấp cho ngài đi học đại học, nơi ngài sẽ học môn luật. Nhưng sau vài năm, Nicola lại quyết định không chọn làm luật sư.
Khi lên 20 tuổi, Nicola Albergarti gia nhập dòng Bruno. Năm 1417, vị tu sĩ Bruno này được chọn làm giám mục giáo phận quê hương ngài. Nicola không hề kỳ vọng điều đó bao giờ. Thậm chí, ngài cũng không thể tin rằng đó là ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng các bề trên của Nicola thì quả quyết đây là thánh ý của Thiên Chúa.
Dân chúng yêu thích giám mục Nicola Albergarti. Ngài sống trong một căn nhà đơn sơ và bé nhỏ. Nicola Albergarti sinh hoạt giống như họ. Ngài khởi sự thăm nom các bổn đạo trong giáo phận của ngài. Trước tiên, Nicola Albergarti tới thăm các gia đình nghèo khổ bất hạnh. Nicola Albergarti nói chuyện với họ và giúp đỡ họ những nhu cầu cần thiết. Nicola Albergarti chúc lành cho gia đình của họ và họ rất biết ơn ngài.
Năm 1426, Đức Giám mục Nicola Albergarti được phong làm Hồng y. Ngài nổi tiếng là người khôn ngoan và thánh thiện. Hai vị Giáo hoàng Martino V và Êugiêniô IV đã năng bàn hỏi với Nicola Albergarti khi gặp những vấn đề quan trọng của Giáo hội. Chân phước Nicola Albergarti cũng khuyến khích việc trau dồi kiến thức. Thực vậy, chính Nicola Albergarti đã viết rất nhiều sách.
Hồng y Nicola Albergarti qua đời trong một chuyến công du tới Siena, nước Ý. Đức Thánh cha Êugiêniô IV đã tham dự thánh lễ an táng và chôn cất ngài.
Chân phước Nicola Albergarti về trời năm 1443.

Có bao giờ bạn cảm thấy tức giận khi không được người khác lưu tâm đến? Lúc ấy bạn hãy cầu nguyện với chân phước Nicola Albergarti. Ngài đã tiếp nhận sự ưu ái quan tâm mà chẳng bao giờ ngài muốn. Chân phước Nicola Albergarti sẽ chỉ cho chúng ta biết rằng việc dùng thời giờ để tôn vinh Thiên Chúa thật sự quý giá biết là chừng nào!



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-09-2012, 01:47 PM
Ngày 10 tháng Năm




THÁNH ANTÔNIÔ



Thánh Antôniô sống vào thế kỷ thứ XV.
Ngay lúc còn trẻ, Antôniô đã tỏ ra là một người có năng lực tuyệt vời. Người ta kể chuyện rằng khi lên 15 tuổi, Antôniô xin gia nhập dòng thánh ĐaMinh. Trông Antôniô lúc ấy rất bé nhỏ và non trẻ. Cha bề trên chăm chú nhìn Antôniô hồi lâu rồi nói :
“Được, ta sẽ nhận con với điều kiện con phải học thuộc lòng “Sắc lệnh về Ân Sủng!”
“Sắc lệnh về Ân Sủng” là một cuốn sách dầy hàng trăm trang.
“Bằng không,” – cha bề trên nói tiếp – “ta sẽ không nhận!”
Nhưng Antôniô đã chấp nhận lời yêu cầu khó khăn ấy. Một năm sau, Antôniô trở lại. Thật là khó diễn tả sự ngỡ ngàng của cha bề trên khi ngài nhận thấy Antôniô đã nhớ thuộc lòng toàn bộ sắc lệnh! Không cần nói thêm lời nào, Antôniô lập tức được nhận vào dòng. (Tuy nhiên, không phải do khả năng ghi nhớ của thánh Antôniô đã làm thay đổi ý định của cha bề trên mà là vì thánh nhân đã chứng tỏ mình thật nghiêm túc và chân thành đối với ơn kêu gọi tu trì.)
Dù chỉ mới 16 tuổi, Antôniô đã không ngớt làm cho mọi người phải ngạc nhiên bởi lối sống của ngài trong tu viện. Khi lớn hơn, Antôniô được trao cho hết nhiệm vụ quan trọng này tới nhiệm vụ quan trọng khác. Gương sáng đạo đức của Antôniô ảnh hưởng trên các anh em tu sĩ dòng ĐaMinh cùng tu với ngài. Họ yêu mến và kính trọng Antôniô. Điều này được minh chứng cách hùng hồn trong đời sống của chân phước Antôn Nâyrô, (lễ kính ngày 10/04).
Vào tháng 03/1446, thánh Antôniô được chọn làm Tổng Giám mục giáo phận Florencia, nước Ý. “Cha của người nghèo khó” là danh xưng người ta đặt cho vị thánh này. Thánh Antôniô không bao giờ từ chối giúp đỡ ai. Khi hết tiền, thánh Antôniô đã bố thí cho họ áo quần, giầy ủng, đồ đạc hay cả con la duy nhất mà ngài đang cưỡi. Nhiều lần, con la này đã được bán đi để lấy tiền giúp đỡ người nghèo. Rồi những người dân giàu có lại giúp tiền chuộc lại cho ngài. Dĩ nhiên, thánh Antôniô lại bán nó để lấy tiền giúp đỡ những người nghèo khổ khác!
Thánh Antôniô thường nói : “Người kế vị các tông đồ không nên tích trữ cho mình bất cứ của gì ngoại trừ sự giàu có về các nhân đức.”
Thánh Antôniô về trời năm 1459. Ngài được tôn phong hiển thánh năm 1523.

Thánh Antôniô sẽ giúp chúng ta giữ vững những điều quan yếu. Trong cuộc sống, thánh nhân biết rõ mình đang đi đâu. Thánh nhân đã muốn sống trung thành với lý tưởng của mình cho đến lúc mãn đời. Chúng ta hãy nài xin thánh Antôniô giúp chúng ta được trung thành với Đức Chúa Giêsu như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-09-2012, 04:55 PM
Ngày 11 tháng Năm




THÁNH INHAXIÔ LACONI



Thánh Inhaxiô là con trai của một gia đình nông dân nghèo khó miền Laconi, nước Ý. Ngài cất tiếng khóc chào đời ngày 17/12/1701.
Khi lên 17 tuổi, Inhaxiô bị bệnh rất nặng. Ngài hứa sẽ đi tu dòng Phanxicô nếu được khỏi bệnh. Nhưng khi lành bệnh, người cha lại thuyết phục Inhaxiô chờ đợi. Hai năm sau, Inhaxiô suýt bị tiêu đời do sự lồng lộn ngang bướng bởi con ngựa của ngài. Tuy nhiên, thình lình con ngựa đứng sựng lại và thong thả phi nước kiệu. Sau đó, Inhaxiô nhận ra rằng Thiên Chúa đã cứu chữa ngài, và ngay lập tức, Inhaxiô Laconi đã quyết định theo đuổi ơn kêu gọi tu trì.
Thầy Inhaxiô Laconi chẳng nắm giữ một địa vị quan trọng nào trong dòng Phanxicô. Suốt 15 năm trời, thầy làm việc trong xưởng dệt. Rồi trong 40 năm tiếp theo, Inhaxiô Laconi đã giúp việc cùng với một nhóm anh em đi từ nhà này sang nhà khác xin thức ăn và tiền bố thí để chu cấp cho các tu sĩ. Inhaxiô Laconi thăm viếng các gia đình và tiếp nhận đồ biếu của họ. Nhưng chẳng bao lâu dân chúng đều biết là họ lại được nhận một món quà gởi trả lại. Thầy Inhaxiô Laconi an ủi những người đau yếu và khích lệ những người sầu khổ. Thầy hòa giải các kẻ thù địch, làm cho những người tội lỗi trở về cùng Thiên Chúa và khuyên bảo những người gặp cảnh khó khăn. Tất cả mọi người đều mong mỏi sự viếng thăm của thầy.
Cũng có những ngày cơ khổ khác nữa! Lần kia, người ta đóng sầm cửa lại trước mặt Inhaxiô, và trong hầu hết các trường hợp như vậy, thời tiết trở nên xấu tệ. Thầy Inhaxiô Laconi thường phải đi bộ hàng dặm nhưng vẫn luôn luôn trung thành với công việc của thầy. Lúc ấy, người ta quan sát thấy thầy Inhaxiô hay bỏ qua một căn nhà. Chủ nhà là một người giàu có cho vay nặng lãi. Ông bắt những người nghèo khổ phải trả lãi rất cao. Người đàn ông này cảm thấy tủi hổ vì Inhaxiô Laconi chẳng bao giờ ghé thăm nhà ông để xin tiền bố thí. Ông phàn nàn với bề trên của thầy Inhaxiô. Vị bề trên không biết người cho vay nặng lãi này là ai nên đã sai Inhaxiô Laconi tới nhà của ông. Thầy Inhaxiô Laconi không nói lời nào nhưng đã vâng phục lệnh bề trên truyền. Inhaxiô Laconi trở về kèm theo một giỏ thức ăn lớn. Lúc ấy, Thiên Chúa làm một phép lạ. Khi người ta trút thức ăn trong chiếc giỏ ra thì thấy máu me ướt đẫm.
“Đây là máu của những người nghèo.” – Inhaxiô Laconi đơn sơ giải thích – “Đó là lý do tại sao con không bao giờ xin bất cứ của gì nơi nhà người ấy!”
Các tu sĩ bắt đầu cầu nguyện để người cho vay này được ơn ăn năn trở lại.
Thầy Inhaxiô Laconi qua đời vào ngày 11/05/1781, lúc được 80 tuổi. Đến năm 1951, Inhaxiô được Đức Thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh.

Thầy Inhaxiô là một tu sĩ Phanxicô hạnh phúc và trung thành. Thầy giúp chúng ta nhận biết rằng món quà quý nhất chúng ta có thể trao ban cho tha nhân chính là gương sáng của chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-09-2012, 04:58 PM
Ngày 12 tháng Năm




THÁNH NÊRÔ, AKILÊÔ và PANCRASIÔ



Thánh Nêrô và thánh Akilêô là những binh sĩ Roma qua đời khoảng năm 304. Có thể các ngài là những vệ sĩ của hoàng đế Roma dưới thời vua Trajano.
Chúng ta không được biết nhiều chi tiết về các ngài. Thế nhưng những điều chúng ta biết được là do hai vị Giáo hoàng Sirisiô và Đamasô sống vào thế kỷ thứ IV kể lại.
Vào năm 398, Đức Giáo hoàng Sirisiô đã xây một ngôi thánh đường ở Roma để tôn kính các ngài. Đức Giáo hoàng Đamasô thì soạn một bài viết tóm tắt cuộc đời của hai vị tử đạo này. Ngài giải thích rằng Nêrô và Akilêô được ơn trở lại với đức tin Công giáo. Các ngài đã vĩnh viễn từ bỏ vũ khí lại đằng sau. Các ngài là những môn đệ đích thực của Đức Chúa Giêsu dù phải trả giá cả mạng sống mình. Nêrô và Akilêô bị đày ra đảo Térasina và bị xử trảm tại đó. Vào thế kỷ thứ IV, ngôi thánh đường thứ hai đã được xây cất tại một nơi khác trong thành Roma để tôn kính hai vị tử đạo này.

Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi 14 tuổi, cũng sống vào thời gian này. Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên.
Pancrasiô không phải là người bản xứ Roma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh Tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa Giêsu. Dù chỉ mới là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy, ngài đã bị kết án tử. Pancrasiô bị trảm quyết.
Pancrasiô là vị thánh tử đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng thánh nhân đã rất can đảm và anh dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Roma để tôn kính thánh Pancrasiô.
Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh Augustino Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên của mình.

Các thánh tử đạo Roma nhắc nhớ chúng ta ý nghĩa quan trọng của đức tin Công giáo. Mỗi người chúng ta hãy biết quý mến, đề cao cũng như thực hành đức tin này. Nếu muốn kiện toàn đức tin của mình, chúng ta hãy nài xin các thánh Nêrô, Akilêô và Pancrasiô giúp đỡ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-10-2012, 03:43 PM
Ngày 13 tháng Năm


THÁNH ANRÊ PHƠNÊ



Thánh Anrê Phơnê sinh ngày 06/12/1752. Quê thánh nhân ở Mailé, một thị trấn nhỏ gần Pointier, nước Pháp. Song thân của Anrê là những tín hữu sùng đạo. Bà Phơnê ước mong cho Anrê trở thành linh mục. Đứa nhỏ được nghe điều này thường xuyên nhưng lòng cậu không muốn. Một lần kia, Anrê tuyên bố :
“Con sẽ là đứa con tốt, nhưng con sẽ không làm linh mục hay tu sĩ gì hết!”
Khi lớn lên, Anrê Phơnê tới Pointier để học các môn ở đại học. Nhưng việc học hành chẳng được lâu bền. Anrê chỉ lo ăn chơi đua đòi. Thân mẫu Anrê đã phải theo sau Anrê và đã hướng dẫn Anrê vào những nghề nghiệp tốt. Nhưng hết nghề này tới nghề kia, tất cả đều thất bại! Bà mẹ hết sức lo lắng. Chỉ còn duy một cơ hội nữa thôi. Bà thuyết phục Anrê Phơnê đến ở với người cậu, hiện là linh mục, một thời gian. Xứ đạo của cậu tuy nghèo nhưng cậu là một mục tử thánh thiện. Không hiểu vì lý do nào mà Anrê Phơnê đã đồng ý. Đây có lẽ là “cách thức huấn luyện” đặc biệt của Thiên Chúa.
Người cậu của Anrê nhận ra những đức tính quý hiếm nơi cháu trai mình. Gương sáng của cậu phản chiếu một điều gì đó vào tâm hồn Anrê và Anrê đã bình tâm lại. Anrê bắt đầu học hành nghiêm túc để bù lại quãng thời giờ đã đánh mất. Sau đó, Anrê thụ phong linh mục và được bổ nhiệm đến xứ đạo của người cậu. Năm 1781, Anrê được thuyên chuyển về xứ đạo quê nhà ở Mailé. Thân mẫu Anrê rất vui mừng. Anrê đã trở nên một linh mục tốt và có tâm hồn cầu nguyện.
Khi cuộc cách mạng Pháp xảy ra, thánh Anrê Phơnê vẫn giữ vững lời đã thề hứa trung thành với Giáo hội. Ngài bị người ta săn đuổi. Đến năm 1792, thánh nhân bị ép buộc phải chạy trốn sang Tây Ban Nha. Anrê lưu lại đó suốt 5 năm. Nhưng vì lo lắng cho các bổn đạo của mình nên sau đó Anrê đã tìm cách trở về Pháp. Mối nguy hiểm vẫn dâng cao như trước. Cha Phơnê được các giáo dân của ngài bảo vệ. Cha hầu như đã 7 lần thoát chết. Trong thời gian đó cha ban Bí tích Hòa Giải, cử hành Bí tích Thánh Thể, ban các phép sau cùng cho những người hấp hối. Khi Giáo hội được tự do trở lại, thánh Anrê Phơnê không phải lẫn trốn nữa. Ngài luôn luôn kêu gọi các bổn đạo của ngài hãy yêu mến phục vụ Thiên Chúa. Một trong các phụ nữ tốt lành ở vùng đó là thánh nữ Elisabeth Bikiơ đã giúp thánh Anrê Phơnê rất nhiều. Các ngài đã cùng nhau thiết lập một hội dòng nữ gọi là dòng Nữ Tử Thánh Giá. (Lễ kính thánh Elisabeth Bikiơ được mừng ngày 26/08).
Ngày 13/05/1834, thánh Anrê Phơnê qua đời, thọ 82 tuổi.
Đến ngày 04/06/1933, Anrê Phơnê được Đức Thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh.

Khi cần nhiều can đảm và nghị lực, chúng ta hãy nài xin thánh Anrê Phơnê giúp đỡ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-10-2012, 03:49 PM
Ngày 14 tháng Năm




THÁNH MATTHIA



Thánh Matthia là một trong số 72 môn đệ của Đức Chúa Giêsu. Ngài là môn đệ của Đức Chúa Giêsu trong suốt quãng đời sống công khai của Người. Thánh Phêrô đã xin 120 người họp lại để cầu nguyện và chọn một tông đồ thay thế Giuđa. Việc này rất quan trọng vì người ấy sẽ làm giám mục như các tông đồ khác. Thánh nhân nói rằng nên chọn một người đã từng ở với Đức Chúa Giêsu từ lúc Chúa chịu thanh tẩy nơi sông Giođan cho tới khi Chúa về trời.
Chương thứ Nhất của sách Tông đồ Công vụ thuật rằng nhóm họ đã đề cử 2 người. Một người là Matthia và người kia là Giuse, gọi là Basaba. Người ta cũng gọi Giuse là Justô. Cả Giuse và Matthia đều là những người rất được các môn đệ của Đức Chúa Giêsu ưu ái. Vì thế họ là 2 người được đề cử thay thế cho Giuđa. Nhưng các tông đồ chỉ chọn có một người! Vậy các ngài đã làm gì? Đơn giản thôi, các ngài đã rút thăm và tên Matthia được chọn.
Thánh Matthia là một tông đồ rất tốt lành. Ngài rao giảng Tin Mừng ở miền Giuđêa. Rồi ngài đến Cappadosia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ). Nhiều người đã nghe thánh Matthia thuyết giảng. Họ tin vào sứ điệp kỳ diệu của ngài.
Các kẻ thù của Đức Chúa Giêsu rất căm giận khi thấy người ta lắng nghe Matthia. Họ quyết định ngăn cản ngài. Sau cùng, Matthia đã chết như một vị tử đạo.

Thánh Matthia nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có phúc may vì được làm môn đệ của Đức Chúa Giêsu và là một chi thể trong Giáo hội của Người. Chúng ta hãy nài xin thánh Matthia giúp chúng ta năng sống biết ơn đối với điều chúng ta được nhận lãnh.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-10-2012, 05:21 PM
Ngày 16 tháng Năm




THÁNH UBAL



Vị thánh này sống vào thế kỷ thứ XII ở nước Ý. Ngài là một đứa trẻ mồ côi được người cậu làm giám mục nuôi dưỡng. Ubal được hấp thụ một nền giáo dục rất khá. Khi hoàn tất việc học, Ubal gặp một dịp thuận tiện để lập gia đình. Nhưng thay vì sống bậc hôn nhân, Ubal đã chọn làm linh mục. Cuối cùng Đức Thánh cha đặt Ubal làm giám mục giáo phận Gubbio, là thành phố nơi ngài sinh trưởng.
Thánh Ubal nổi tiếng vì đức tính dịu dàng và nhẫn nại. Chẳng hạn, một lần kia công nhân sửa chữa bức tường của trung tâm thương mại đã làm tổn hại nặng tới vườn nho của Đức Giám mục Ubal. Vị thánh dịu dàng chỉ cho anh ta xem. Nhưng anh công nhân chắc là đã thấm mệt, thậm chí có lẽ anh không nhận ra Đức Giám mục. Anh thô bạo xô Đức Giám mục Ubal mạnh đến nỗi ngài đã té ngã vào đống xi măng ướt. Mình dính đầy xi măng, Ubal từ từ chỗi dậy, lau chùi sạch sẽ và trở về nhà. Vài người xem biết sự việc đã đòi anh công nhân phải ra tòa. Và chính Đức Giám mục Ubal có mặt trong phòng xử án đã biện hộ cho anh ta được tự do.
Đức Giám mục Ubal thánh thiện rất yêu mến hòa bình và ngài đã can đảm gìn giữ nền hòa bình. Lần kia, khi dân chúng trong thành Gubbio ẩu đả nhau trên đường phố, giám mục Ubal đã xông vào giữa hai nhóm người đang giận dữ. Dường như Ubal chẳng hề sợ gì những lưỡi gươm đang bổ nhau chan chát và những hòn đá đang liệng qua ném lại! Rồi đột nhiên Ubal té ngã xuống đất. Nhóm người đánh nhau lập tức ngưng lại. Họ tưởng Đức Giám mục đã bị giết chết. Nhưng Ubal trỗi dậy. Ubal làm hiệu cho họ biết rằng ngài không sao cả. Dân chúng tạ ơn Thiên Chúa. Họ thôi đánh nhau và trở về nhà.
Lần khác, khi biết hoàng đế Frédéric Barbarosa đang trên đường đến tấn công thành phố Gubbio, thánh Ubal đã không đợi cho Barbarosa và đội quân của ông tới thành. Ubal liền ra nói chuyện với ông trên đường. Chẳng ai biết được Giám mục Ubal đã nói điều gì. Họ chỉ biết là thánh nhân đã thuyết phục được hoàng đế Barbarosa rời bỏ thành phố Gubbio.
Đức Giám mục Ubal có nhiều bệnh tật thể lý nhưng ngài chẳng bao giờ nói về chuyện ấy. Vào Chúa nhật Phục Sinh năm 1160, Ubal chỗi dậy dâng thánh lễ. Thánh nhân đã giảng một bài rất hay và chúc lành cho giáo dân. Sau đó, ngài trở về giường nằm và không thể chỗi dậy được nữa.
Đức Giám mục Ubal đã qua đời vào ngày 16/05/1160. Hết thảy giáo dân đã kéo đến tỏ lòng cảm mến tri ân ngài. Họ khóc thương và cầu khẩn thánh Ubal từ trời xin hãy phù trợ họ.

Nhiều lần, chúng ta dễ tức giận và khó tha thứ cho tha nhân khi họ xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin với thánh Ubal cho được sống hiền lành và dễ tha thứ như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-10-2012, 05:24 PM
Ngày 17 tháng Năm




THÁNH PASCAL BAYLON



Pascal Baylon là vị thánh người Tây Ban Nha, sinh năm 1540.
Ngài phải chăn giữ đàn chiên từ khi lên 7 tuổi. Tuy Pascal Baylon chẳng có cơ hội để đi học nhưng ngài đã tự học đọc và học viết. Pascal Baylon làm việc này phần lớn là do sự giúp đỡ của những người ngài gặp gỡ. Thánh Pascal Baylon đã gắng sức rèn luyện để có thể đọc được các sách đạo đức. Ngài thường thầm thĩ cầu nguyện suốt ngày khi chăn giữ đàn chiên.
Khi lên 24 tuổi, anh chàng giữ chiên này trở thành thầy dòng Phanxicô. Các bạn cùng chí hướng với Pascal Baylon rất quý mến ngài. Pascal Baylon có tấm lòng quảng đại rộng mở và dễ tính. Mọi người trong cộng đoàn đều nhận thấy Pascal Baylon thường làm những công việc khó khăn và vất vả nhất. Thậm chí ngài thực hành việc đền tội nghiêm ngặt hơn cả luật dòng đòi buộc. Tuy nhiên, Pascal rất sung sướng hạnh phúc.
Khi còn là cậu bé chăn chiên, Pascal đã ao ước được ở trong nhà thờ cầu nguyện với Đức Chúa Giêsu nhưng không được. Giờ đây, Pascal đã có thể. Ngài yêu thích được làm bạn với Đức Chúa Giêsu đang ẩn thân trong phép Thánh Thể. Pascal Baylon cũng vinh dự được làm người giúp lễ. Hai mối tình đặc biệt của thánh Pascal Baylon là Chúa Giêsu Thánh Thể và Đức Mẹ Maria. Thánh nhân đọc kinh Mân Côi hàng ngày với tấm lòng yêu mến sâu xa. Ngài cũng viết những lời nguyện sốt sắng dâng kính Mẹ thiên đàng.
Với những mẫu giấy vụn, thánh Pascal Baylon đã tự mình làm thành một quyển sổ tay nhỏ. Trong đó, thánh nhân viết một số lời nguyện và những tư tưởng hay. Sau khi Pascal Baylon qua đời, bề trên của ngài đã trình cuốn sổ nhỏ lên đức tổng giám mục địa phương. Đức tổng đã đọc và nói rằng : “Thật các tâm hồn đơn sơ dốt nát này đã cướp nước trời từ tay chúng ta!”
Pascal Baylon về trời năm 1592, lúc được 52 tuổi.
Đến năm 1690, Đức Thánh cha Alexandre VIII đã tôn phong Pascal Baylon lên bậc hiển thánh.

Phải làm điều gì để trở nên một vị thánh? Pascal Baylon đã sống ơn kêu gọi tu trì của mình cách hoàn hảo hết sức có thể. Ngài có được nghị lực để thực thi việc này là nhờ lòng trung thành tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể và yêu mến Đức Mẹ Maria. Chúng ta hãy nài xin với thánh Pascal Baylon giúp chúng ta sống thân mật với Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-10-2012, 09:29 AM
Ngày 18 tháng Năm
THÁNH GIOAN I



Thánh Gioan I là linh mục của Roma. Năm 523, thánh nhân làm giáo hoàng tiếp sau Đức Thánh Giáo hoàng Hormisda. Lúc ấy, nhà cầm quyền nước Ý là Théodoric, thuộc gốc người Gothique, theo bè rối Ariô (những người theo bè rối Ariô không tin nhận Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa). Khởi đầu triều đại của mình, Théodoric đã cho các tín hữu Công giáo được tự do. Tuy nhiên về sau, ông thay đổi ý định và trở nên kiêu căng nghi ngờ hết mọi người. Ông mường tượng có một âm mưu nào đó đang chống đối ông. Ít lâu sau, ông lại tin rằng tất cả mọi người đang chuẩn bị lật đổ ngai vàng và quyền cai trị của ông. Nhưng có một người chắc chắn không muốn điều đó là Đức Thánh cha.
Théodoric cố gắng làm cho Đức Thánh cha Gioan I can dự vào những vấn đề chính trị của ông. Ông đang có chuyện bực tức với hoàng đế Justino I thành Constantinop. Người ta đồn đại rằng Justino I đang khó chịu với những người theo bè rối Ariô ở Đông phương. Théodoric cho người đại diện đến thương lượng với Justino I. Đứng đầu đoàn đại biểu là Giáo hoàng Gioan I. Hoàng đế Justino I vui sướng tiếp đón Đức Thánh cha và những người đồng hành với ngài. Justino I rất sẵn lòng thay đổi chính sách hà khắc của ông. Tuy sứ vụ của Đức Thánh cha Gioan I được hoàn thành hết sức tốt đẹp nhưng hoàng đế Théodoric vẫn không hài lòng. Ông tưởng Đức Thánh cha Gioan I và Justino I hợp nhau chống lại ông.
Rồi, Đức Thánh cha trở về Roma và phải rời xa Ravenna, thủ phủ của Théodoric. Sau đó, Đức Thánh cha Gioan I đã bị các vệ sĩ của Théodoric bắt cóc và bỏ tù.
Thánh nhân đã qua đời vì khát và đói ở đó năm 526.

Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình nghĩ tưởng những điều xấu xa cho tha nhân không? Đó là lúc chúng ta cần cầu xin với thánh Giáo hoàng Gioan I. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta tránh được lỗi lầm khủng khiếp là thói để cho những tư tưởng ghen tỵ và sai lầm điều khiển các hành động của chúng ta. Thánh Giáo hoàng Gioan I sẽ hướng dẫn chúng ta cách thức trở nên những Kitô hữu can trường và quả cảm như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-10-2012, 09:32 AM
Ngày 19 tháng Năm




THÁNH CELESTINO V



Phêrô Môrôn là người con thứ 11 trong gia đình có 12 người con. Ngài được sinh khoảng năm 1210 ở Isênia, nước Ý.
Thân phụ của Phêrô qua đời khi ngài còn rất nhỏ. Tuy gia cảnh nghèo khó nhưng thân mẫu của Phêrô vẫn cố gắng nuôi dạy các con với một tình yêu thương đặc biệt. Bà cho Phêrô đi học bởi vì cậu hứa là quyết chăm chỉ học hành. Lần kia bà hỏi các con như thường lệ :
“Ai trong các con sẽ làm thánh?”
Cậu nhỏ Phêrô, người sẽ là Giáo hoàng Celestino sau này, trả lời với tất cả tấm lòng của mình :
“Mẹ ơi! Chính con, con sẽ làm thánh!”
Và Phêrô Môrôn đã là thánh! Nhưng thật không dễ dàng chút nào!?
Lúc 20 tuổi, Phêrô Môrôn trở thành một ẩn sĩ. Ngài đã trải qua những chuỗi ngày cầu nguyện, đọc Kinh Thánh và làm việc. Các vị ẩn sĩ khác vẫn đến xin Phêrô Môrôn hướng dẫn. Sau cùng, Phêrô Môrôn thiết lập một dòng tu mới.
Khi 84 tuổi, Phêrô Môrôn được chọn làm giáo hoàng. Nhưng sự việc xảy ra thật lạ thường. Suốt 2 năm trời, Tòa thánh Vatican trống ngôi giáo hoàng. Lý do là vì các Hồng y không đồng ý chọn ai cả. Phêrô Môrôn gởi cho các vị một bức tâm thư. Ngài khuyên các vị hãy quyết định nhanh chóng vì Thiên Chúa không hài lòng với việc trì hoãn lâu dài như vậy. Các Hồng y đã thực hiện như lời vị tu sĩ nói. Ngay lúc ấy, họ chọn ẩn sĩ Phêrô Môrôn làm giáo hoàng! Vị tu sĩ khó nghèo đã rơi lệ khi nghe biết tin này. Phêrô Môrôn buồn bã chấp nhận và lấy tên hiệu là Celestino V.
Thánh Celestino V làm Giáo hoàng chỉ được khoảng 5 tháng. Vì quá khiêm tốn đơn sơ nên người ta đã lợi dụng ngài. Celestino V không thể nói “không” với bất cứ ai. Chẳng bao lâu đã có sự lộn xộn đáng lo ngại. Đức Thánh cha Celestino V cảm thấy bị ràng buộc bởi mọi khó khăn trắc trở. Ngài quyết định chọn một việc tốt nhất mà ngài có thể làm được cho Giáo hội là xin từ chức. Và Celestino V đã thực hiện. Thánh nhân xin mọi người tha thứ vì đã không cai quản Giáo hội cách chu đáo như lòng mong ước.
Thánh Celestino V chỉ muốn sống an bình tại một trong các tu viện của ngài. Nhưng Đức tân Giáo hoàng Bonifacio VIII nghĩ rằng để ngài sống ẩn mình trong căn phòng nhỏ của một lâu đài Roma thì an toàn hơn. Thánh Celestino V đã sống 10 tháng cuối cùng của đời ngài trong một căn phòng đơn sơ giản dị. Nhưng thánh nhân đã rất vui. Ngài tự nhắc đi nhắc lại với mình rằng :
“Hỡi Phêrô, anh chỉ mong muốn sống trong một căn phòng nhỏ bé… Giờ này anh đã được mãn nguyện rồi đó!”
Celestino V qua đời ngày 19/05/1296.
Đến năm 1313, Celestino V được Đức Thánh cha Clémenté VI tôn phong hiển thánh.

Thánh Celestino V là một tu sĩ đặc biệt. Cách thức thánh nhân sẵn lòng giơ tay đón nhận lấy đau khổ khi làm giáo hoàng chứng tỏ rằng ngài thực sự thánh thiện. Thánh Celestino V chỉ cho chúng ta biết rằng khi chúng ta đã hết sức cố gắng làm một việc gì đó, chúng ta hãy phó dâng kết quả cho Thiên Chúa và hãy cứ an tâm.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-10-2012, 05:14 PM
Ngày 20 tháng Năm




THÁNH BÊNAĐINÔ SIÊNA



Thánh Bênađinô Siêna sinh năm 1380 tại một thị trấn gần thành phố Siêna, nước Ý. Ngài là con trai của một chức sắc người Ý. Song thân Bênađinô qua đời khi ngài mới lên 7. Những người bà con của Bênađinô quý mến ngài như con ruột của họ. Họ cũng cho Bênađinô ăn học đến nơi đến chốn.
Bênađinô trưởng thành với dáng vẻ một cậu trai cao to đĩnh đạc. Bênađinô có tính pha trò nên các bạn bè của Bênađinô ham thích được ở bên ngài. Tuy nhiên, họ biết rằng không nên nói bất cứ lời lẽ thô tục nào khi có sự hiện diện của Bênađinô, vì ngài sẽ không khoan thứ cho điều đó. Hai lần khi một gã thanh niên kia dụ dỗ Bênađinô phạm tội, cả hai lần Bênađinô đã tặng cho hắn một quả đấm và đuổi hắn đi.
Thánh Bênađinô Siêna có một tình yêu đặc biệt nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Chính Đức Mẹ là Đấng gìn giữ tâm hồn ngài trong sạch. Ngay khi còn ở tuổi niên thiếu, thánh Bênađinô Siêna đã đơn sơ cầu nguyện với Đức Mẹ y như một con trẻ thưa chuyện với mẹ nó vậy.
Bênađinô Siêna có tâm hồn nhạy cảm. Ngài rất thương mến những người nghèo khổ. Lần kia, người cô của Bênađinô Siêna không còn thức ăn cho thêm một người hành khất nữa, cậu bé liền la lớn tiếng :
“Thà con chịu bỏ đói còn hơn là để cho người đàn ông đáng thương kia phải ra đi mà chẳng được chút gì!”
Năm 1400, khi cơn dịch tả tấn công thành phố, thánh Bênađinô và các đồng bạn của ngài đã tình nguyện tới giúp bệnh viện. Họ ngày đêm săn sóc những người đau yếu và hấp hối suốt 6 tuần lễ cho tới khi cơn dịch chấm dứt.
Khi lên 22 tuổi, Bênađinô Siêna gia nhập dòng thánh Phanxicô Khó Khăn. Rồi Bênađinô Siêna làm linh mục. Sau nhiều năm phục vụ, thánh nhân được chỉ định tới các thị trấn và thành phố rao giảng. Thánh Bênađinô đã nhắc nhớ cho mọi người về lòng yêu thương của Đức Chúa Giêsu. Trong những ngày ấy, các thói xấu làm suy vi tinh thần đạo đức của người già lẫn con trẻ.
“Làm sao con có thể tự mình cứu lấy những người này?” - trong lời kinh, Bênađinô Siêna đã hỏi Thiên Chúa. - “Con có thể dùng thứ vũ khí nào để chống lại ma quỷ?”
Và Thiên Chúa trả lời :
“Thánh Danh Ta đủ cho con!”
Vì thế, Bênađinô Siêna đã rao giảng lòng tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu. Ngài sử dụng Thánh Danh này rất nhiều lần trong mỗi bài giảng. Thánh nhân xin người ta in Thánh Danh Chúa Giêsu và dán trên các cổng ra vào của thành phố, trên khắp các cánh cửa… Nhờ việc tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu và lòng sùng kính đối với Mẹ Maria, Bênađinô đã đem hàng ngàn người trên khắp nước Ý trở về với Giáo hội.
Thánh Bênađinô Siêna trải qua 42 năm trong đời tu dòng Phanxicô. Thánh nhân qua đời ngày 20/05/1444 tại Aquila, nước Ý, hưởng thọ 64 tuổi.
Chỉ 6 năm sau, năm 1450, Bênađinô được Đức Thánh cha Nicola V tôn phong hiển thánh.

Thánh Bênađinô Siêna đã thực sự quan tâm đến mọi người. Thánh nhân đã dùng tất cả nghị lực và niềm vui của mình để phục vụ Đức Chúa Giêsu và làm cho người ta yêu mến Thánh Danh Chúa. Chúng ta cũng hãy năng cầu xin “Thánh Danh Chúa Giêsu”.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-10-2012, 05:16 PM
Ngày 21 tháng Năm




CHÂN PHƯỚC ÊUGIÊNIÔ MAGIÊNÔ



Chân phước Êugiêniô Magiênô sinh tại Pháp năm 1782.
Ngài được thụ phong linh mục năm 1811. Cha Êugiêniô Magiênô rất có lòng thương cảm đối với hoàn cảnh khó khăn của những người dân nghèo, và ngài đã giúp đỡ họ. Êugiêniô Magiênô luôn nhiệt tình xoay xở tìm những phương cách mới để vươn tới với giới trẻ. Ngài muốn họ yêu mến và sống đức tin của mình. Cha Êugiêniô Magiênô nhận thấy rằng các linh mục thừa sai trong mỗi xứ đạo có thể làm được rất nhiều việc ích lợi để thức tỉnh giáo dân trung thành giữ vững đức tin.
Năm 1826, cha Êugiêniô Magiênô thiết lập một dòng mới dành cho các linh mục và các anh em giáo dân. Họ được gọi là những nhà truyền giáo thuộc tu hội Tận Hiến Đức Mẹ Vô Nhiễm. Sứ mệnh đặc biệt của họ là tiếp cận với những người chưa nhận biết Đức Chúa Giêsu và Giáo hội. Cha Magiênô và các anh em dòng ngài đã tỏ ra can đảm trong việc đáp ứng những lời thỉnh cầu của các đức giám mục đang cần sự giúp đỡ. Các giám mục ở Bắc Mỹ thao thức đợi chờ anh em dòng. Giám mục Inhaxiô Bơget giáo phận Montrieux đặc biệt thao thức hơn. Ngài rất hài lòng vì vị sáng lập đã gởi nhiều anh em của ngài đến đây phục vụ. Chỉ trong vòng 10 năm, hội dòng đã phát triển mau lẹ. Họ phục vụ khắp đất nước Canada và cũng bắt đầu thi hành thừa tác vụ ở Mỹ quốc.
Năm 1837, cha Êugiêniô Magiênô được tấn phong làm giám mục giáo phận Marseille, nước Pháp. Ngài nổi tiếng về lòng trung thành và yêu mến Đức Thánh cha. Ngài cũng là nhà giáo dục và là một nhà tổ chức có tài. Giám mục Êugiêniô Magiênô vẫn làm bề trên của dòng cho đến khi qua đời năm 1861.
Công việc cao cả mà Đức Giám mục Êugiêniô Magiênô đã khởi xướng ngày nay vẫn còn được tiếp tục trên khắp thế giới qua các vị thừa sai thuộc hội dòng Tận Hiến Đức Mẹ Vô Nhiễm. Họ phục vụ tại các điểm truyền giáo, các giáo xứ và các trường đại học.

Đức Giám mục Êugiêniô Magiênô đã can đảm đáp ứng những đòi hỏi thiết yếu của dân Chúa khi ngài gặp gỡ họ. Chúng ta hãy nài xin giám mục Êugiêniô Magiênô giúp chúng ta ý thức rằng chúng ta cũng có thể giúp đỡ những người sống chung quanh mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-10-2012, 11:03 AM
Ngày 23 tháng Năm




THÁNH GIOAN BAOTIXITA RÔSI



Thánh Gioan Baotixita Rôsi sinh năm 1698 tại một ngôi làng gần Giơnoa, nước Ý. Gia đình Gioan rất quý mến ngài. Họ hãnh diện khi một đôi vợ chồng giàu có tới thăm thành phố của họ đã chấp nhận cung cấp cho Gioan ăn học. Song thân Gioan biết vợ chồng này và tin tưởng họ. Gioan sung sướng vì có thể được đi đến nhà họ ở Giơnoa, và sau đó có thể tham dự lớp học. Mọi sự xảy đến cho Gioan thật xuông xẻ. Gioan trở thành một sinh viên chuẩn bị cho thiên chức linh mục tại Học viện Roma. Gioan nhận thấy đối với ngài việc học thật dễ dàng, và càng ngày Gioan càng thu lượm được thêm nhiều kiến thức.
Nhưng rồi Gioan Baotixita Rôsi ngã bệnh rất nặng và phải ngưng việc học một thời gian. Sau khi hoàn toàn bình phục, Gioan đã hoàn tất việc dọn lòng và lĩnh chức linh mục. Dù sức khỏe không được khá lắm nhưng cha Gioan Baotixita Rôsi đã làm nhiều việc tốt cho người dân Roma. Biết được đau khổ và bệnh tật là thế nào nên cha Gioan Baotixita Rôsi đã lưu tâm đặc biệt đến những người yếu bệnh. Ngài năng lui tới các bệnh viện ở Roma (ngài là vị khách hay đến các bệnh viện ở Roma nhất). Đặc biệt cha Rôsi thích trải qua hàng giờ ở “Nhà nghỉ thánh Gal” với những người nghèo khổ. Đây là nơi cư trú cho những người nghèo khổ và vô gia cư. Thế nhưng cha Rôsi thích để tâm tới những người nghèo mà không ai chăm lo cho tinh thần của họ. Cha nhận thấy những người này mang chiên cừu và gia súc đến bán nơi hội chợ Roma. Họ có đời sống thật nặng nề chừng nào! Cha Rôsi tiến đến giữa họ rồi ngừng lại nói chuyện với họ. Khi có thể, cha chỉ dạy họ đức tin và ban Bí tích Hòa Giải cho họ. Sứ vụ linh mục của cha Rôsi đã tạo được một ảnh hưởng to lớn trong đời sống của họ.
Vị linh mục cũng có tấm lòng thương cảm sâu xa đối với các chị em vô gia cư. Ngày đêm họ lang thang qua các đường phố chầu chực xin ăn. Vấn đề này nguy hiểm và đáng thương thay! Đức Thánh cha đã trao cho cha Rôsi tiền bạc để thiết lập một nơi cư trú cho các chị em vô gia cư này. Khu nhà được xây cất ngay bên Nhà nghỉ thánh Gal. Cha Rôsi đặt ngôi nhà dưới sự bảo trợ của thánh Luy Gonzaga, một trong các vị thánh mà ngài yêu thích. (Lễ kính thánh Luy Gonzaga được mừng vào ngày 21/06). Cha Rôsi rất nổi tiếng về lòng khoan dung và dịu dàng trong việc ban Bí tích Hòa Giải. Giáo dân xếp thành các hàng dài gần tòa giải tội của cha và nhẫn nại chờ đến phiên mình. Lần kia, cha Rôsi tâm sự với một người bạn :
“Đối với một linh mục, phương thế hữu hiệu nhất để lên thiên đàng là giúp đỡ giáo dân qua Bí tích Hòa Giải.”
Đức Thánh cha Bênêđictô XIV cũng trao cho cha Rôsi một công việc lý thú nữa là giảng dạy các khóa học về tinh thần cho những người cai tù và những viên chức nhà nước.
Cha Gioan Baotixita Rôsi bị chứng đột quỵ năm 1763. Sức khỏe của cha chẳng sao hồi phục lại được. Cha Gioan Baotixita Rôsi vẫn có thể cử hành thánh lễ nhưng rất đau đớn.
Vị linh mục phi thường này qua đời lúc được 66 tuổi. Đó là ngày 23/05/1764. Đến năm 1881, Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong cha Gioan Baotixita Rôsi lên bậc hiển thánh.

Chúng ta có thể học được nơi đời sống của thánh Gioan Baotixita Rôsi lòng biết ơn đối với các linh mục. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài an ủi các linh mục vì những điều thiện hảo mà các ngài trao ban.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-10-2012, 11:06 AM
Ngày 24 tháng Năm


THÁNH ĐAVÍT I Scốtlen



Thánh Đavít I sinh năm 1080. Ngài là người con út của thánh nữ Magaritta, hoàng hậu xứ Scốtlen và vua Malcom tốt lành. Chính Đavít I cũng làm vua lúc khoảng 40 tuổi. Ai biết rõ Đavít I thì đều nhận thấy rằng ngài chẳng muốn nhận lấy vương miện của hoàng gia chút nào. Nhưng khi lên ngôi, Đavít I đã là một quân vương rất tốt. Thánh Đavít I cai trị vương quốc ngài với quyền tài phán đặc biệt. Thánh nhân rất có lòng từ tâm đối với những người nghèo khổ. Hết mọi thần dân được tự do thăm viếng ngài bất cứ lúc nào họ muốn. Thánh nhân nêu gương sáng cho mọi người bằng tấm lòng yêu mến cầu nguyện. Dưới sự trị vì của quân vương thánh thiện này, thần dân xứ Scốtlen càng ngày càng hiệp nhất hơn trong một đất nước. Họ cũng trở nên những Kitô hữu ngoan đạo hơn.
Vua Đavít I đã thiết lập nhiều giáo phận mới. Ngài cũng xây cất thêm nhiều tu viện. Trong thời gian khoảng 20 năm trị vì của mình, thánh vương Đavít I đã cung cấp cho Giáo hội rất nhiều tiền của.
Hai ngày trước khi qua đời, thánh Đavít I đã lãnh nhận các phép Bí tích sau cùng. Thánh nhân dùng thời giờ cầu nguyện với những người hiện diện xung quanh ngài. Ngày hôm sau, họ nài xin thánh nhân nghỉ ngơi đôi chút. Nhưng Đavít I trả lời :
“Hãy để ta tưởng nghĩ tới những sự thuộc về Thiên Chúa, để linh hồn ta được kiện toàn trên hành trình tiến về quê nhà từ nơi lưu đày này.”
“Về quê nhà”, thánh vương Đavít I có ý nói đến “quê nhà trên trời” của chúng ta.
“Khi ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, các ngươi đâu có thể trả lời hay biện hộ thay ta được.” – ngài nói – “Không ai có thể cứu ta khỏi tay Thiên Chúa được!”
Vì thế, thánh nhân cứ tiếp tục cầu nguyện cho tới lúc qua đời.
Thánh Đavít I Scốtlen về trời ngày 24/05/1153.

Chúng ta có thể bị cám dỗ tự khoan thứ cho những lầm lỗi của mình bằng cách nói : “Người ta cũng đều làm như vậy mà!” Nhưng chúng ta biết rằng sự tự miễn thứ này chẳng có giá trị gì khi chúng ta đứng chịu phân xử trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta có thể nài xin thánh vương Đavít I Scốtlen giúp chúng ta có được tấm lòng chân thành và lương thiện như ngài trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-10-2012, 01:32 PM
Ngày 25 tháng Năm


Lịch Roma hiện hành ghi danh sách ba vị thánh mừng kính ngày 25/05.



THÁNH BÊĐA Khả Kính



Vị linh mục người Anh này nổi danh là một vị thánh, một linh mục, một đan sĩ, một thầy dạy và một nhà viết sử.
Thánh nhân được sinh tại Anh quốc vào năm 673. Song thân Bêđa gởi ngài tới đan viện Bênêđictô ở miền ấy để học hành. Bêđa rất yêu thích đời sống của các đan sĩ đến nỗi khi lớn lên, thánh nhân đã đi tu làm đan sĩ. Bêđa đã lưu lại đan viện ấy trọn cả cuộc đời ngài.
Thánh Bêđa rất yêu mến Kinh Thánh. Ngài nói rằng việc nghiên cứu Kinh Thánh đối với ngài quả thật là một niềm khoái thú. Bêđa thích giảng dạy và ghi chép Kinh Thánh. Khi về già, bệnh tật đã bắt Bêđa phải ở yên trên giường. Vì thế, các học trò của Bêđa phải đến học bên giường của ngài. Thánh Bêđa tiếp tục dạy học và làm công việc chuyển dịch bộ Phúc Âm của thánh Gioan sang tiếng Anh, vì nhiều người không thể đọc được tiếng Latinh. Thánh nhân muốn họ có thể đọc được lời Chúa bằng chính ngôn ngữ riêng của họ.
Khi yếu bệnh hơn, thánh Bêđa nhận thấy mình sắp về với Thiên Chúa. Các đan sĩ thương nhớ Bêđa nhiều lắm. Ngài vẫn tiếp tục kiên trì làm việc ngay cả khi bệnh tình trở nên nguy kịch. Sau cùng, cậu bé giúp ghi chép nói với ngài :
“Thưa cha, chỉ còn một câu nữa chưa được chép lại thôi!”
Vị thánh trả lời :
“Hãy viết mau đi!”
Và khi cậu bé nói :
“Đã hoàn tất!”
Thánh nhân liền trả lời :
“Tốt lắm! Được rồi, đã hoàn tất. Bây giờ hãy nâng đầu cha lên. Cha muốn được ngồi nhìn về chỗ mà cha thường hay cầu nguyện. Cha muốn réo gọi Cha trên trời của cha!”
Sau đó ít lâu, thánh Bêđa qua đời. Hôm ấy là ngày 25/05/735.
Cuốn sách nổi tiếng nhất của thánh Bêđa có nhan đề Lịch sử Giáo hội của dân tộc Anh là nguồn tài liệu cung cấp thông tin duy nhất về nhiều vấn đề lịch sử của Anh quốc thời sơ khai.
Người ta gọi Bêđa bằng danh xưng kính trọng : “đấng khả kính”. Ngài cũng được Giáo hội tôn nhận là Tiến sĩ Hội thánh.

Nếu đấng khả kính Bêđa còn sống, bạn thử nghĩ coi ngài sẽ dùng bao nhiêu giờ mỗi ngày để xem tivi? Hằng ngày, bạn dùng mấy tiếng đồng hồ để xem tivi? Bạn sẽ phải điều chỉnh những gì để dùng thời giờ cho những việc quan trọng như học hành, tham khảo tài liệu sách vở để tăng thêm kiến thức, phụ giúp công việc gia đình…v.v…?



THÁNH GRÊGÔRIÔ VII



Tên của vị Giáo hoàng này là Hilđơbran. Ngài được sinh tại nước Ý vào khoảng năm 1023. Người cậu của Hilđơbran là một đan sĩ ở Roma, vì thế, Hilđơbran đã đến đan viện của cậu để học hành. Sau này, Hilđơbran trở thành một đan sĩ thuộc nhà dòng Bênêđictô ở Pháp. Tuy nhiên chẳng bao lâu, Hilđơbran được gọi về Roma. Tại đây, Hilđơbran nắm giữ những chức vụ quan trọng dưới nhiều triều đại giáo hoàng cho tới khi chính ngài được chọn làm giáo hoàng.
Suốt 25 năm, Hilđơbran đã xin từ chối được bầu chọn. Nhưng khi Đức Thánh cha Alexandre II qua đời, các Hồng y đã quyết định chọn Hilđơbran làm giáo hoàng. Họ đồng thanh kêu lớn tiếng :
“Hilđơbran là người được tuyển chọn kế vị thánh Phêrô!”
“Và họ đã đưa tôi lên ngai.” – vị thánh viết sau đó – “Những lời phản đối của tôi thật vô hiệu. Sợ hãi tràn ngập tâm hồn tôi và bóng tối vây hãm quanh tôi.”
Hilđơbran lấy tên hiệu là Grêgôriô VII.
Đây thực sự là một thời kỳ đen tối đối với Giáo hội Công giáo. Vua chúa xen vào làm cản trở những vấn đề thuộc Giáo hội. Họ tự ý đặt lấy một số người làm giám mục, hồng y và cả giáo hoàng nữa. Nhiều người trong số được bổ nhiệm chẳng có đời sống tốt lành. Họ chỉ làm gương xấu cho giáo dân mà thôi!
Việc đầu tiên mà thánh Giáo hoàng Grêgôriô VII làm là dùng nhiều ngày cầu nguyện. Thánh nhân cũng xin người khác cầu nguyện cho ngài. Grêgôriô VII nhận thấy rằng nếu không cầu nguyện thì không thể làm được việc gì tốt cho Thiên Chúa. Sau đó, thánh Grêgôriô VII bắt đầu công việc canh tân giới tu sĩ. Ngài cũng dần dần loại bỏ những nhà cầm quyền chính trị ra khỏi những công việc thuộc quyền Giáo hội. Điều này rất khó bởi vì tất cả các chính trị gia đều chống lại sự thay đổi của ngài. Tuy nhiên, có một số vị đã nhượng bộ.
Có một chính trị gia, vua Henri IV của nước Đức, đã gây cho Đức Thánh cha Grêgôriô VII rất nhiều đau khổ. Ông vua trẻ này có tội mê tham vàng bạc. Không những ông chẳng ngưng việc xen vào những vấn đề của Giáo hội mà thậm chí ông còn sai người đến bắt giam Đức Thánh cha. Nhưng dân thành Roma đã cứu thánh nhân thoát khỏi chốn ngục tù. Sau đó, Đức Thánh cha Grêgôriô VII phạt vạ tuyệt thông nhà vua. Việc này chẳng ăn nhằm gì đối với Henri IV hết! Ông tự chọn cho mình một giáo hoàng. Dĩ nhiên, người được ông chọn không phải là thủ lãnh thật. Thế rối, một lần nữa, vua lại sai quân đi bắt thánh nhân. Đức Thánh cha Grêgôriô VII bị ép phải rời bỏ Roma. Người ta đã đem ngài tới Salênô cách an toàn và ngài đã qua đời tại đây năm 1085. Thánh nhân nói những lời sau cùng :
“Tôi đã yêu mến công bình và ghét bỏ sự dữ. Đó là lý do tại sao tôi phải chết ở chốn lưu đày này!”
Năm 1606, Đức Thánh cha Phaolô V đã tôn phong Grêgôriô VII lên bậc hiển thánh.

Đức Thánh cha Grêgôriô VII (Hilđơbran) nổi tiếng vì tư chất can đảm phi thường. Ngài đã bảo vệ niềm tin vào Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người. Nếu chúng ta muốn là những Kitô hữu nhiệt thành thời nay, chúng ta cũng phải can đảm. Nhờ lời cầu nguyện, vị thánh này đã có được sự can đảm. Chúng ta cũng hãy bắt chước gương cầu nguyện của thánh nhân.



THÁNH MARIA MAĐALÊNA PAZZI



Catarina Pazzi sinh tại Florentia, nước Ý, vào năm 1566.
Thánh nữ là cô gái duy nhất của một gia đình rất giàu có. Khi lên 14 tuổi, Catarina Pazzi đến học nội trú tại một trường dòng. Ở đó, thánh nữ đã hấp thụ lòng mộ mến đời sống tu trì. Nhưng khoảng một năm sau, Catarina Pazzi được thân phụ đưa về nhà. Ông bắt đầu nghĩ đến việc chọn cho Catarina một người chồng giàu sang. Tuy nhiên, Catarina Pazzi đang chuẩn bị tâm hồn để trở nên một nữ tu. Catarina Pazzi làm cho cha mẹ của ngài hoảng hồn bằng cách nói rằng mình đã tuyên khấn giữ đức trinh khiết. Họ không thể tin nổi điều này! Sau cùng, song thân cũng đành chấp nhận để cho Catarina Pazzi vào tu dòng Cát Minh. Tuy vậy, chỉ 15 ngày sau, họ lại đến bắt Catarina Pazzi về nhà. Họ hy vọng rằng lần này sẽ làm cho Catarina Pazzi thay đổi ý định. Nhưng sau 3 tháng cố gắng, song thân của Catarina Pazzi đã phải nhượng bộ. Họ đành phải chúc lành và để cho Catarina Pazzi đi luôn. Đó là năm 1582, năm thánh nữ Têrêsa Avila qua đời tại Tây Ban Nha.
Khi là tập sinh, Catarina Pazzi lấy tên là Maria Mađalêna. Sức khỏe của Maria Mađalêna rất kém. Mẹ bề trên sợ Maria Mađalêna có thể qua đời nên đã cho phép ngài được tuyên các lời khấn dòng trước hạn định. Khi thấy Maria Mađalêna đau khổ dữ dội, một trong các nữ tu hỏi ngài sao có thể chịu được nỗi đau mà chẳng ca thán lời nào. Maria Mađalêna liền trả lời :
“Hãy coi tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa đã khổ sầu vì phần rỗi chúng ta. Chính tình yêu này hiểu biết sự yếu đuối của em và ban cho em sức mạnh.”
Thánh nữ Maria Mađalêna đã chịu nhiều đau khổ đặc biệt suốt cả cuộc đời. Thánh nữ cũng bị cám dỗ rất mạnh về tội nghịch đức trinh khiết và tính ham ăn, nhưng thánh nữ Maria Mađalêna đã chiến thắng mọi sự nhờ kết hợp tình yêu mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể và với Đức Mẹ Maria. Thánh nữ chỉ quen dùng chút ít bánh mì và nước lã. Thánh nữ cũng làm những việc hy sinh quên mình khác nữa. Tuy nhiên, tình yêu của Maria Mađalêna dành cho Đức Chúa Giêsu thật quá nồng nàn và mãnh liệt đến nỗi ngài nói :
“Đấng Yêu Mến đã không được các thụ tạo của mình nhận biết và yêu mến!”
Chìm ngập trong nước mắt, thánh nữ đã cầu nguyện và dâng những đau khổ trong suốt cuộc đời của ngài cho các tội nhân và những người vô đạo.
Lần kia, Maria Mađalêna nói :
“Ôi, Chúa Giêsu của con! Nếu con có một giọng nói lớn và vang đủ để cho mọi người trên khắp thế giới này nghe được, thì con sẽ hô to để mọi người nhận biết và yêu mến Chúa!”
Thánh nữ Maria Mađalêna Pazzi về trời ngày 25/05/1607, lúc được 41 tuổi. Đến năm 1669, Maria Mađalêna Pazzi được Đức Thánh cha Clemente IX tôn phong lên bậc hiển thánh.

Thật là hữu ích khi thỉnh thoảng chúng ta nhìn lên Tượng Chịu Nạn. Việc này làm cho chúng ta dần dà cảm hiểu được tình yêu của Đức Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta có thể cầu nguyện : “Lạy Chúa Giêsu! Con yêu mến Chúa. Con cám ơn Chúa đã chết thay cho con!”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-10-2012, 01:37 PM
Ngày 27 tháng Năm


THÁNH AUGUSTINO CANTƠBƠRI



Thánh Augustino Cantơbơri là đan viện phụ của đan viện thánh Anrê ở Roma. Đức Thánh cha Grêgôriô Cả đã chọn ngài và 40 đan sĩ khác thực hiện một sứ vụ truyền giáo cao quý. Họ sẽ đến rao giảng Tin Mừng Nước Chúa cho dân tộc Anh. Đan phụ Augustino và các đan sĩ liền bắt đầu cuộc hành trình. Khi đến miền Nam nước Pháp, người ta báo cho các ngài biết rằng dân Anh rất hung bạo. các đan sĩ cảm thấy chùn chân, chán nản và thất vọng. Họ xin Augustino trở về thưa với Đức Thánh cha hãy bỏ đi ý định. Và họ đã thực hiện. Nhưng Đức Thánh cha lại xin họ tới nước Anh một chuyến nữa. Đức Thánh cha nói rằng dân Anh rất muốn lãnh nhận đức tin Công giáo. Vì thế, năm 596, các đan sĩ lại lên đường đến nước Anh.
Các vị thừa sai được vua Êbôtơ tiếp đón rất nồng hậu. Vợ của vua là một bà hoàng người Pháp theo đạo Công giáo. Khi vừa đặt chân lên đất liền, các đan sĩ đã xếp thành một cuộc rước. Họ vừa đi vừa hát thánh vịnh. Họ mang theo một cây Thánh Giá và một bức ảnh Đức Chúa Giêsu. Nhiều người đã lãnh nhận sứ điệp của các đan sĩ. Chính vua Êbôtơ cũng chịu phép Thanh Tẩy vào dịp lễ Hiện Xuống năm 597. Cùng năm ấy, đan phụ Augustino được tấn phong làm giám mục.
Thánh Augustino thường gởi thư xin Đức Thánh cha những lời khuyên bảo. Và Đức Thánh cha Grêgôriô cũng ban cho ngài nhiều lời khuyên. Đề cập về các phép lạ thánh Augustino Cantơbơri đã làm, Đức Thánh cha nói :
“Con phải vui mừng trong niềm lo sợ và sợ hãi trong sự vui mừng vì hồng ân này!”
Ngài có ý nói Augustino hãy nên vui mừng vì nhờ các phép lạ mà dân Anh đã trở lại đường ngay nẻo chính nhưng cũng nên cẩn phòng để khỏi kiêu căng tự phụ.
Tại vùng Cantơbơri, thánh Augustino xây cất một ngôi thánh đường và một đan viện mà đan viện này trở nên quan trọng nhất ở Anh. Augustino cũng được chôn táng tại đó.
Thánh Augustino Cantơbơri qua đời ngày 26/05/605, 7 năm sau cuộc hành trình đến nước Anh.

Khi cha mẹ hoặc những vị hữu trách bảo ta làm một việc gì đó, chúng ta hãy làm. Nếu công việc dường như khó khăn hoặc giả như chúng ta không thích công việc đó, chúng ta hãy xin thánh Augustino Cantơbơri trợ giúp.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-10-2012, 06:37 AM
Ngày 28 tháng Năm




CHÂN PHƯỚC MAGARITTA POLÉ



Chân phước Magaritta Polé sinh năm 1471. Ngài là cháu gái của hai vị hoàng đế người Anh, vua Edward IV và Richard III.
Henri VII đã xếp đặt cuộc hôn nhân của Magaritta với bá tước Rêginô Polé. Ông là một sĩ quan can đảm và là bạn thân của hoàng tộc. Khi vua Henri VIII lên nắm quyền, Magaritta Polé là một quả phụ có 5 người con. Đối với ngai vàng và quyền cai trị, Henri VIII vừa trẻ trung vừa mới lạ. Ông gọi Magaritta Polé là “người phụ nữ đức hạnh nhất nước Anh”. Vì chịu ảnh hưởng sâu sắc nơi Magaritta Polé nên Henri VIII đã trả lại một số tài sản mà gia đình Magaritta Polé đã bị mất trong quá khứ. Ông cũng phong cho Magaritta Polé danh hiệu “nữ bá tước”.
Henri VIII rất tin tưởng nữ bá tước Magaritta Polé đến nỗi ông đã bổ nhiệm ngài làm cô giáo dạy hoàng hậu Catarina và công chúa Maria, con gái của ông. Nhưng lúc ấy, Henri muốn lấy Annê Bôlây làm vợ dù ông đã có vợ rồi. Magaritta không chấp nhận lối hành xử của nhà vua, và vì vậy, vua đã bắt Magaritta Polé phải rời khỏi hoàng cung. Ông cho Magaritta biết là ông rất bực mình với ngài. Thậm chí ông đã tức giận hơn khi có một linh mục, là con trai của Magaritta, đã viết một bài báo dài chống lại việc đòi hỏi của Henri VIII muốn đứng dầu Giáo hội Anh quốc. (Người con trai của Magaritta sau này trở thành Hồng y Rêginô Polé danh tiếng). Henri VIII mất hết tự chủ. Ông trở nên độc ác và căm giận. Ông đe dọa sẽ khử diệt cả gia đình Magaritta Polé.
Henri VIII sai người đến thẩm vấn nữ bá tước Magaritta Polé. Họ có nhiệm vụ cần phải chứng thực Magaritta Polé là một kẻ phản quốc. Họ tra hỏi Magaritta từ trưa đến tối. Magaritta không hề phạm một lỗi lầm gì! Magaritta chẳng có gì để che giấu! Nhưng rồi, Magaritta Polé cũng bị quản chế tại lâu đài của một nhà quý tộc. Sau đó người ta chuyển Magaritta đến pháo đài vĩ đại của Luân Đôn. Magaritta Polé chẳng được xét xử. Suốt những tháng đông dài đằng đẵng, Magaritta Polé phải chịu khổ rất nhiều bởi cái giá lạnh và thời tiết ẩm thấp. Magaritta Polé chẳng có lò sưởi và quần áo ấm để dùng.
Cuối cùng, ngày 28/05/1541, người ta đem nữ chân phước Magaritta Polé ra khỏi pháo đài đến nơi xử tử. Tuy mệt mỏi và yếu bệnh nhưng Magaritta Polé vẫn hiên ngang và hãnh diện được chết cho đức tin của mình.
“Tôi không phải là kẻ phản bội!” – Ngài can đảm tuyên bố.
Sau đó, Magaritta Polé bị chém đầu, hưởng thọ 70 tuổi.

Khi chúng ta cảm thấy hèn nhát về một quyết định phải làm vì vinh danh Chúa, lúc ấy chúng ta hãy kêu nài chân phước Magaritta Polé. Hãy xin ngài ban cho chúng ta được lòng can đảm như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-10-2012, 06:39 AM
Ngày 29 tháng Năm




THÁNH MAXIMINIÔ



Thánh Maximiniô là giám mục sống ở thế kỷ thứ IV. Người ta cho rằng ngài sinh ở miền Pointier, nước Pháp.
Khi còn trẻ, Maximiniô nghe biết tiếng tăm của vị thánh giám mục giáo phận Trieux ở Gaul. Maximiniô đã hành trình tới thành phố này, và sau đó trở thành môn đệ của thánh Agrisiô. Vị giám mục thánh thiện Agrisiô đoan chắc rằng Maximiniô đã được giáo dục kỹ lưỡng. Sau nhiều năm học hành và chuẩn bị tâm hồn, Maximiniô được thụ phong linh mục, và sau đó được tấn phong giám mục. Thánh nhân coi sóc giáo phận Trieux. Giám mục Agrisiô hẳn là không thể hài lòng và vui sướng hơn được nữa vì biết rằng đoàn chiên của mình có một vị chủ chăn tuyệt vời.
Thánh Maximiniô sống vào thời kỳ rất căng thẳng. (Bạn hãy đọc tích chuyện của vị thánh kính ngày 02/05 để biết thêm chi tiết). Khi thánh Athanasiô, Tổng Giám mục thành Alexandria, nước Ai Cập, bị đày ải đến Trieux, chính Maximiniô đã đón tiếp thánh nhân. Ngài đã tạo mọi điều kiện để nâng đỡ thánh Athanasiô và giúp ngài bớt đau khổ hơn khi phải xa lìa đoàn chiên của ngài. Một giám mục khác trong thời gian ấy, thánh Phaolô, giám mục thành Constantinop, cũng bảo vệ Maximiniô thoát khỏi cơn tức giận của hoàng đế Constantino.
Thánh Athanasiô viết rằng Maximiniô là người can đảm và thánh thiện. Thậm chí ngài nói rằng người ta đều biết rõ Maximiniô là người hay làm phép lạ. Dù cho người ta tin vị giám mục này đã viết nhiều tác phẩm nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều đã bị thất lạc. Cái còn sót lại là ý chí ngài dâng hiến cho Đức Chúa Giêsu và cho Giáo hội. Vì là con người có tâm hồn cao cả nên Maximiniô đã sẵn sàng đứng lên chống lại những kẻ bách hại Giáo hội. Ngài cũng sẵn lòng bảo vệ những vị giám mục can đảm là những người bị các thế lực chính trị ghét bỏ. Thánh Maximiniô đã sống thẳng thắn dù phải thiệt mất địa vị hoặc phải hy sinh cả mạng sống nếu cần.
Thánh nhân qua đời khoảng năm 347.

Ở trường học, có bao giờ bạn thấy một người bạn nào đó bị la rầy hoặc bị đuổi học không? Nếu bạn muốn bắt chước gương thánh Maximiniô, hãy kết bạn với người ấy. Bạn sẽ thấy Thiên Chúa sẽ đối xử với bạn y như vậy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-10-2012, 06:42 AM
Ngày 31 tháng Năm




Lễ THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA



Lễ này chỉ một cuộc thăm viếng. Đức Tổng thần Gabriel nói với Đức Trinh Nữ Maria rằng bà chị họ Elisabeth của Mẹ sắp sửa sinh con. Elisabeth đã cao niên. Mẹ Maria nhận thấy cần phải đến giúp đỡ người chị của mình, và lập tức Mẹ đã lên đường.
Cuộc hành trình của Mẹ Maria thật dài và nguy hiểm! Nó cũng không thoải mái chút nào! Nhưng, những lý do này không thể ngăn cản được Mẹ. Mẹ cưỡi trên mình một con lừa và Mẹ đã tới nhà bà chị. Đầu tiên, Mẹ Maria chào Elisabeth. Lúc ấy, Thiên Chúa tỏ cho Elisabeth biết rằng Đức Maria đã trở nên Mẹ Thiên Chúa. Elisabeth hân hoan thốt lên :
“Sao tôi lại được Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi như vậy?”
Nhưng Mẹ Maria vẫn một mực khiêm tốn. Mẹ vội vã dâng mọi lời chúc tụng tán dương lên Thiên Chúa và Thiên Chúa đã chúc phúc cho Mẹ thật dư đầy.
“Linh hồn tôi ca ngợi Thiên Chúa và thần trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi,” – Mẹ nói – “vì Người đã trông đến sự thấp hèn của tôi tớ Người… và Danh Người là Thánh!”
Ôi! Biết bao ân sủng Mẹ Maria đã đem đến cho gia đình người chị họ của Mẹ! Thánh Gioan được khỏi tội nguyên tổ ngay khi vẫn còn trong lòng mẹ. Zacaria được ơn nói trở lại, vì trước ông bị câm. Còn Elisabeth thì được đầy tràn linh ân của Chúa Thánh Thần.
Mẹ Maria ở lại với gia đình này khoảng ba tháng. Mẹ đã giúp đỡ Elisabeth với tấm lòng quảng đại và yêu mến đặc biệt.

Gia đình bà Elisabeth được đầy tràn ân sủng nhờ sự viếng thăm của Mẹ Maria. Chúng ta cũng sẽ được đầy tràn ân sủng nếu chúng ta tận hiến mình cho Đức Mẹ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-10-2012, 11:16 AM
Ngày 01 tháng Sáu




THÁNH JUSTINÔ



Thánh Justinô quê ở Samaria. Ngài sống vào thế kỷ thứ II.
Thân phụ của Justinô đã dưỡng dục ngài trong tinh thần ngoại giáo, không tin có Thiên Chúa. Khi còn trẻ, Justinô đọc các sách thi ca, sử ký và khoa học. Đến tuổi trưởng thành, thánh nhân tiếp tục tìm tòi nghiên cứu những sách ấy. Mục đích chính yếu của việc tra cứu là tìm hiểu chân lý về Thiên Chúa.
Một ngày kia, đang khi đi dạo trên bờ biển, Justinô gặp một cụ già. Cả hai bắt đầu trò chuyện với nhau. Khi thấy Justinô có vẻ đăm chiêu suy tư, cụ già liền hỏi xem ngài đang suy nghĩ gì. Justinô trả lời cụ rằng mình thật bất hạnh vì chẳng tìm thấy được bất cứ chân lý chắc chắn nào về Thiên Chúa trong các sách ngài đọc cả. Và cụ già đã nói với Justinô về Đức Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Cụ khuyến khích Justinô cầu nguyện để có thể am hiểu những chân lý về Thiên Chúa.
Thánh Justinô bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Dần dà, ngài trở nên người rất mộ mến Lời Chúa. Rồi thánh nhân cũng cảm động khi thấy các Kitô hữu thật can đảm trong việc dám hy sinh chết cho niềm tin và lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu. Sau khi học hỏi sâu hơn về đạo Công giáo, Justinô trở nên một Kitô hữu. Sau đó, thánh nhân đã dùng kiến thức đặc biệt của ngài để trình bày và bảo vệ đức tin qua nhiều bài viết.
Chính tại Roma, thánh Justino đã bị bắt vì là Kitô hữu. Quan tòa hỏi ngài :
“Anh có nghĩ rằng khi chết đi anh sẽ lên thiên đàng và được ân thưởng không?”
“Tôi không những chỉ nghĩ như thế,” – vị thánh trả lời – “mà tôi còn tin chắc như vậy nữa!”
Và thánh Justinô đã chịu tử đạo khoảng năm 166.

Để giữ đức tin vững vàng, chúng ta hãy năng cầu nguyện với lòng tin tưởng. Thỉnh thoảng chúng ta hãy lặp đi lặp lại tác động đức tin ngắn gọn và đơn sơ này : “Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa!”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-10-2012, 11:18 AM
Ngày 02 tháng Sáu




THÁNH MAXÊLINÔ và THÁNH PHÊRÔ



Tên hai vị thánh này được nhắc đến ở kinh nguyện Thánh Thể thứ Nhất trong thánh lễ. Các ngài được các Kitô hữu tiên khởi khẩn cầu và tôn kính khắp nơi. Lễ mừng kính hai vị tử đạo này được Đức Thánh cha Viligiô gồm chung trong lịch kính các thánh Roma năm 555.
Thánh Maxêlinô là linh mục và thánh Phêrô giúp đỡ thánh Maxêlinô trong sứ vụ của ngài. Cả hai đều rất can đảm trong việc sống niềm tin Kitô giáo. Các ngài phục vụ cộng đoàn tín hữu với một lòng hy sinh quên mình đặc biệt. Trong suốt cuộc khủng bố bắt đạo của Điôclêsiô, nhiều Kitô hữu đã bị giết. Hai vị thánh này cũng ở trong số họ. Các ngài bị xử trảm. Tuy vậy, hình như trước khi chết thì người ta đã bắt chính các ngài phải đào các nấm mồ chôn mình. Các ngài được đưa tới một nơi bí ẩn để thực hiện nhiệm vụ khó nhọc ấy. Đó là khu rừng mang tên Silva Nigra. Một thời gian sau người ta phát hiện ra mộ các ngài ở trong nơi sâu thẳm này. Người hành quyết các ngài sau cùng cũng sám hối ăn năn về sự giết chóc tàn bạo của mình, và ông đã trở nên một Kitô hữu. Ông đã dẫn các tín hữu mộ đạo đến nơi chôn cất các tử thi, và sau đó, họ mai táng các ngài trong hang toại đạo thánh Tibêriô.
Vào năm 827, Đức Thánh cha Grêgôriô IV đã cho đem các thánh tích tới Franfurk, nước Đức. Ngài tin rằng các thánh tích của hai vị thánh tử đạo này sẽ mang những ân phúc đến cho Giáo hội ở quốc gia ấy.

Chúng ta có thể học hỏi nơi các thánh tử đạo để cuộc sống của mình trở nên những tấm gương phản chiếu niềm tin vào Đức Chúa Giêsu. Chúng ta có thể cầu nguyện với hai thánh Maxêlinô và Phêrô, và hãy xin các ngài ban ơn giúp sức để tăng triển thêm niềm tin và lòng yêu mến của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-10-2012, 10:34 AM
Ngày 03 tháng Sáu




THÁNH CARÔLÔ LWANGA và Các Bạn Tử Đạo




(Bổn mạng giới trẻ da màu Phi châu)


Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng.
Vua Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ. Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tiền của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá. Thế là vào ngày 18/11/1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử trảm. Cuộc khủng bố bách hại bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm người đã bị thiệt mạng. 22 người trong số họ được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy chính yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26/05/1886, vua Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật rửa tội cho 4 chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, Chú bé 13 tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng ham muốn dâm dật của vua Mwanga.
Hầu như 22 vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết vào cùng ngày 03/06/1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng 59 cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các ngài vào một đống lửa lớn. 17 người trong số ấy là những chú tiểu đồng thuộc vương gia.
Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mgaba. Hôm ấy chính thân phụ ngài là người đao phủ.
Một vị tử đạo khác là thánh Anrê Kagwa, mất ngày 27/01/1887, cũng ở trong số 22 vị tử đạo được Đức Thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1964.

Carôlô Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da màu Phi châu. Ngài và các bạn tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-10-2012, 10:39 AM
Ngày 04 tháng Sáu




THÁNH PHANXICÔ CARAXIÔLÔ



Thánh Phanxicô Caraxiôlô sinh ngày 13/10/1563 tại miền Abruzi, nước Ý. Thân phụ ngài là một quý tộc vùng Napoli. Thân mẫu ngài có liên hệ bà con với tộc họ Aquinô, tộc họ này có một người làm thánh ở thế kỷ XIII là thánh Tôma Aquinô. Phanxicô Caraxiôlô được hấp thụ một nền giáo dục tốt lành. Thánh nhân rất năng động trong các môn thể thao.
Rồi khi lên 22 tuổi, một chứng bệnh giống như phong hủi đã làm cho Phanxicô Caraxiôlô gần chết. Đang lúc chịu bệnh, Phanxicô Caraxiôlô suy gẫm về sự giả dối của các thú vui trần thế. Ngài nhận thấy rằng hạnh phúc đích thực chỉ có thể tìm được trong một cái gì đó thâm sâu hơn. Phanxicô Caraxiôlô khấn hứa nếu được bình phục thì sẽ tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Chứng bệnh đã mau chóng rời khỏi Phanxicô Caraxiôlô như một phép lạ. Và Phanxicô Caraxiôlô đã giữ trọn lời hứa. Ngài bắt đầu học làm linh mục.
Sau khi được thụ phong, cha Phanxicô Caraxiôlô gia nhập nhóm tận hiến phục vụ nhà giam. Họ trông nom coi sóc các tù nhân và chuẩn bị cho những người bị kết án tử được hưởng ơn chết lành. Rồi Phanxicô Caraxiôlô và một linh mục khác, cha Augustino Ađônô, đã thiết lập một dòng tu mới. Khi cha Ađônô qua đời, Phanxicô Caraxiôlô được chọn làm bề trên tổng quyền. Ngài không cảm thấy được thoải mái chút nào trong chức vị này. Phanxicô Caraxiôlô thật khiêm nhường đến độ ở cuối mỗi lá thư, ngài thường hay ký tên : “Phanxicô, kẻ tội lỗi.” Thánh nhân cũng lần lượt làm các việc lau chùi nhà cửa, dọn giường và rửa chén dĩa cùng với các anh em linh mục khác.
Cha thánh Phanxicô Caraxiôlô thường hay trải qua cả đêm dài cầu nguyện trong nhà thờ. Ngài muốn hết thảy các linh mục của mình phải dùng ít nhất một giờ trong ngày để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Thánh Phanxicô Caraxiôlô thường hay nói về tình Chúa yêu thương con người đến nỗi ngài nổi tiếng là “nhà giảng thuyết về tình yêu Thiên Chúa.”
Thánh Phanxicô Caraxiôlô sống không thọ lắm. Ngài qua đời năm 1607 khi mới được 44 tuổi. Ngay trước lúc chết, thánh nhân đột nhiên kêu lên : “Chúng ta hãy đi!”
“Cha muốn đi đâu?” – Vị linh mục bên cạnh giường hỏi ngài.
“Lên thiên đàng! Lên thiên đàng!” – Phanxicô Caraxiôlô trả lời với một giọng đầy vui tươi và rõ ràng. Sau đó ít phút ngài qua đời.
Năm 1807, Phanxicô Caraxiôlô được Đức Thánh cha Piô VII tôn phong lên bậc hiển thánh.

Trong lá thư thứ hai gửi cho các tín hữu thánh Côrintô, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương người trao ban cách vui vẻ. Đây chính là mẫu người mà thánh Phanxicô Caraxiôlô là điển hình. Nếu muốn cần một chút giúp đỡ trong việc dùng thời giờ và sức lực của mình cách quảng đại hơn, chúng ta có thể nài xin vị thánh này trợ giúp. Chúng ta cũng hãy xin thánh nhân làm cho chúng ta trở nên những người trao ban cách vui vẻ như thánh Phaolô đã mô tả.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-10-2012, 09:00 AM
Ngày 06 tháng Sáu


THÁNH NÔBETÔ



Lúc ở tuổi thiếu niên, thánh nhân rất tốt lành. Nhưng rồi tại cung điện của vua Henri V, Nôbetô đã phung phí tất cả thời giờ của ngài vào những chuyện bỡn cợt phù phiếm. Nôbetô chỉ nghĩ tưởng đến việc dành cho được những địa vị sang trọng. Nôbetô là người đầu tiên có mặt tại các buổi tiệc và các cuộc lễ. Ngài hết sức sung sướng với “cuộc sống lý thú” này. Tuy thế, vào một ngày kia, một tia chớp đã làm Nôbetô hoảng sợ. Con ngựa của Nôbetô lồng lên. Nôbetô bị hất tung xuống đất và bất tỉnh.
Khi tỉnh dậy, Nôbetô bắt đầu suy nghĩ cách nghiêm túc về lối sống của mình. Cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi, Nôbetô nhận ra rằng Thiên Chúa đang ban cho mình ân sủng để thay đổi đời sống. Dần dần, Nôbetô hồi tưởng về hoài bão mà ngài đã có cách đây nhiều năm. Nôbetô đã suy nghĩ đến việc làm linh mục. Giờ đây, Nôbetô thực hiện ước vọng ấy, và Nôbetô được thụ phong linh mục năm 1115.
Cha Nôbetô ra sức hoạt động để làm cho người ta từ bỏ lối sống trần tục của họ. Cha làm gương sáng qua việc bán tất cả những gì ngài có để bố thí cho những người nghèo. Sau đó, thánh Nôbetô trở thành vị sáng lập dòng Thuyết Giảng Đức Tin. Nhóm tu sĩ đầu tiên gồm 13 người bắt đầu sống đời tu trì dưới hình thức cộng đoàn. Họ sống trong thung lũng Prêmông. Đó là lý do tại sao họ được gọi là các kinh sĩ Prêmông. Họ cũng được gọi là các kinh sĩ Nôbetô, theo tên vị sáng lập của họ.
Sau đó, thánh Nôbetô được chọn làm giám mục thành Mađêbơ. Ngài ăn mặc rất đơn sơ nghèo khó và đi chân không vào thành phố. Người gác cổng tòa Giám mục không biết Nôbetô nên đã không cho ngài vào. Anh ta bảo Nôbetô hãy nhập bọn với lũ ăn mày khác.
“Nhưng ngài là đức Tân Giám mục đó!” – những người biết vị thánh kêu lên. Anh gác cổng rất đỗi kinh hoàng và tỏ vẻ hối hận.
“Không sao cả, anh bạn yêu quý ạ!” – thánh Nôbetô nói với anh một cách thân thiện – “Anh đã cư xử với tôi thật đúng hơn những người đã mang tôi tới đây!”
Thánh Nôbetô phải đương đầu với một bè rối không tin nhận Đức Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Nhưng những lời giảng thuyết hùng hồn của thánh nhân về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Bí tích Thánh Thể đã làm cho người ta trở về với đức tin thánh thiện.
Vào tháng 03/1133, Nôbetô và một người bạn rất thân của ngài là thánh Bênađô (lễ kính ngày 20/08) đã tham gia một đám rước khác thường. Các ngài cùng với đức vua và quân đội của ông hộ tống Đức Thánh cha thật là Đức Innôcentê II trở về Vatican an toàn.
Thánh Nôbetô qua đời năm 1134.
Đến năm 1582, Đức Thánh cha Grêgôriô XIII đã tôn phong Nôbetô lên bậc hiển thánh.

Chúng ta hãy học nơi thánh Nôbetô nhiều điểm hay, nhất là đời sống nghiêm túc. Chúng ta cũng hãy học hỏi nơi ngài lòng biết ơn và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, và hãy tiếp rước Người với lòng tin yêu.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-10-2012, 09:02 AM
Ngày 07 tháng Sáu




CHÂN PHƯỚC ANNÊ BATÔLÔMÊÔ



Chân phước Annê Batôlômêô là con gái của một gia đình dân quê. Ngài chăn giữ chiên cừu cho tới khi lên 20 tuổi.
Avila, thành phố nơi thánh nữ Têrêsa và các nữ tu dòng CátMinh đang sống, cách quê hương của chân phước Annê Batôlômêô ở khoảng 6 cây số. Rồi, Annê Batôlômêô được nhận vào dòng. Annê Batôlômêô là chị nữ tu ngoài nội vi hơn là chị nữ tu dòng kín theo luật nội vi, vì Annê có thể ra ngoài lo những công việc nho nhỏ cần thiết cho đan viện.
Suốt 7 năm cuối đời, thánh nữ Têrêsa Avila đã chọn chị nữ tu này, là chân phước Annê Batôlômêô, làm bạn đồng hành đó đây với mình. Thánh nữ Têrêsa Avila đi khắp nơi thăm nom các nữ tu viện của ngài. Đôi khi thánh nữ cũng thiết lập một tu viện mới. Thỉnh thoảng thánh nữ giúp các nữ tu sống hăng hái nhiệt thành hơn với ơn gọi đã chọn. Thánh nữ Têrêsa Avila rất coi trọng chân phước Annê và khen ngợi ngài với các chị em khác.
Dù chân phước Annê Batôlômêô không có cơ hội đi học nhưng ngài cũng biết đọc biết viết. Annê ghi lại những chuyến tháp tùng của mình với thánh nữ Têrêsa Avila. Chính chân phước Annê đã ở bên thánh Têrêsa Avila lúc ngài lìa đời.
Đời sống của chân phước Annê Batôlômêô vẫn tiếp diễn cách hoàn toàn bình lặng suốt 6 năm sau cái chết của thánh nữ Têrêsa. Rồi các bề trên quyết định thiết lập một tu viện mới ở Paris, nước Pháp. Năm người được chọn đi và chân phước Annê Batôlômêô là một trong số họ. Đang lúc dân thành Paris chào đón các nữ tu cách nồng hậu thì chân phước Annê Batôlômêô liền vội chạy vào nhà bếp chuẩn bị bữa ăn cho các chị em đang đói mệt. Sau đó, 4 trong số 5 chị nữ tu chuyển đến Hà Lan. Annê Batôlômêô ở lại vì họ chỉ định ngài làm bề trên nhà ấy. Dường như Annê đã thưa với Thiên Chúa rằng hầu hết các chị em người Pháp gia nhập cộng đoàn đều xuất thân từ các gia đình quý phái giàu có. Annê trình bày với Thiên Chúa rằng ngài chỉ là một cô bé chăn chiên nghèo nàn mà thôi! Và sau đó, chân phước Annê được nghe Thiên Chúa trả lời trong lòng rằng :
“Với những cọng rơm, Ta sẽ đốt thành đống lửa của Ta!”
Rồi, Annê Batôlômêô được sai đến Hà Lan để lập thêm nhiều tu viện mới. Trước tiên, Annê đến Mons và sau đó tới Anwep. Các chị em đến tu dòng CátMinh đều xem Annê Batôlômêô như một vị thánh.
Annê Batôlômêô qua đời tại Anwep năm 1626. Ngài được Đức Thánh cha Bênêđictô XV tôn phong chân phước.

Chân phước Annê Batôlômêô không ham thích giữ địa vị gì quan trọng. Ngài chẳng hoài bão điều gì! Bất cứ khi nào chúng ta thấy mình ham muốn làm người quan trọng, chúng ta có thể cầu xin với chị nữ tu thánh thiện này. Chân phước Annê Batôlômêô sẽ giúp chúng ta biết để tâm vào việc làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn là làm mủi lòng người ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-10-2012, 11:00 AM
Ngày 08 tháng Sáu


THÁNH WILLIAM GIOÓC



Thánh William Fizơbơ sinh tại Anh quốc vào thế kỷ thứ XII. Ngài là cháu trai vua Stephano.
Lúc còn trẻ, William thích sống vô tư thoải mái và hơi lười biếng. Dường như một số người có ấn tượng về William cho rằng ngài là người ít nghiêm túc, chẳng quan tâm gì đến những trách nhiệm của cuộc sống. Tuy thế, William rất được dân thành Gioóc hâm mộ.
Nhiều năm sau đó, khi Đức Tổng Giám mục Gioóc qua đời, người ta đã chọn William thay thế địa vị này. Vào thời ấy, các nhà quý tộc thường hay xen vào công việc bầu chọn giám mục. Đây là lý do tại sao nhiều linh mục nghĩ rằng William đã không được chọn lựa cách hợp lệ. Chính nhà vua, người cậu của William, đã chỉ định ngài. Ngay cả thánh Bênađô thời danh lúc ấy cũng góp ý thuyết phục Đức Thánh cha nên chọn một người khác làm tổng giám mục thành Gioóc. Người ta yêu cầu William không được nhận chức vì họ cảm thấy việc ngài được chỉ định không có cơ sở vững chắc. William rời khỏi tòa Giám mục với cảm nghĩ mình bị xúc phạm và bị phế bỏ. Ngài tìm đến sống với một người cậu khác cũng làm giám mục. Hình như William đã trở nên một người sống nội tâm nhiều hơn. William chẳng nhận lấy bất cứ một thứ tiện nghi nào của cậu ban tặng. William sống trong tinh thần cầu nguyện và sám hối. William bắt đầu biểu lộ tấm lòng quan tâm đến Giáo hội và đức tin của mình.
Dân thành Gioóc rất tức giận về chuyện xảy đến cho đức Tổng giám mục của họ. Họ không hiểu được tại sao một việc như thế lại có thể xảy ra! Đã có những cuộc ẩu đả trên đường phố giữa những người ủng hộ và không ủng hộ William. 6 năm trôi qua! William vẫn sống trầm lặng cầu nguyện trong căn nhà của Đức Giám mục cậu ngài. William nài xin Thiên Chúa ban bình an xuống cho tổng giáo phận của ngài. Việc William bị đối xử cách bất công chẳng quan trọng gì. Quan trọng là đoàn chiên của William được yêu thương chăm sóc mà thôi!
Cuối cùng, lời khẩn nguyện của William cũng được Thiên Chúa chấp nhận. Khi Đức Tổng Giám mục kia qua đời, Đức Thánh cha sai William trở về thành Gioóc. Ngài đã tới thành vào tháng 05/1154. Dân chúng rất đỗi vui mừng. Nhưng lúc này trông William đã già yếu, và khoảng một tháng sau William qua đời.
Năm 1227, Đức Thánh cha Hônôriô III đã tôn phong William Gioóc lên bậc hiển thánh.

Đôi khi người ta thổi phồng quá đáng hoặc nói những chuyện không thật về chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta hãy nài xin thánh William Gioóc giúp cho biết sống quảng đại và tha thứ như ngài. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân chỉ cho chúng ta biết cách điều hòa cuộc sống và không lãng phí thời giờ để tưởng nghĩ về những nỗi thương đau của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-10-2012, 11:04 AM
Ngày 09 tháng Sáu




THÁNH EPHREM



Thánh Ephrem sinh ở Mésopotamia khoảng năm 306.
Ngài được chịu phép Thanh Tẩy năm lên 18 tuổi. Sau đó, Ephrem lui vào sa mạc và trở thành ẩn sĩ. Ephrem tìm thấy một cái hang gần thành phố Edessa ở Syria. Quần áo Ephrem mang theo chỉ là những mảnh vải vụn chắp vá lại, và thức ăn thánh nhân dùng là những thứ hoa màu đất mẹ cung cấp.
Thánh Ephrem có tính hay nóng giận. Nhưng dần dần, thánh nhân đã làm chủ được mình. Và rồi, những ai gặp gỡ Ephrem đều nghĩ rằng con người của Ephrem thật là điềm tĩnh! Ephrem thường hay đi giảng ở Edessa. Khi Ephrem nói về sự phán xét của Thiên Chúa, dân chúng đã cảm động òa khóc. Thánh nhân kể cho họ nghe rằng xưa kia ngài là một tội nhân rất khốn nạn. Ephrem thật sự có ý nói như vậy vì dù lầm lỗi ngài chỉ rất nhỏ mọn nhưng đối với Ephrem, chúng cũng được xem như là những tội phạm rất nặng. Khi thánh Basiliô gặp ngài, thánh nhân hỏi :
“Có phải ngài là Ephrem, đầy tớ danh tiếng của Đức Chúa Giêsu không?”
Ephrem liền vội trả lời :
“Tôi là Ephrem, người kéo lê những bước bất xứng trên đường dẫn tới ơn cứu độ!”
Sau đó, Ephrem nài xin và nhận được lời khuyên của thánh Basiliô về cách thức làm tăng triển đời sống nội tâm.
Thánh Ephrem dùng thời giờ để viết những sách thiêng liêng. Thánh nhân viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau : Syria, Hy Lạp, Latinh và Arménia. Những sách này rất hay và rất đạo đức đến nỗi chúng đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng. Ngày nay những sách ấy vẫn còn được người ta tìm đọc. Ephrem cũng viết những bài thánh ca dùng cho phần phụng vụ cộng đoàn. Những thánh ca này rất được ưa chuộng và mỗi khi hát lên, người tín hữu học hỏi được nhiều điều về đức tin. Đó là lý do tại sao Ephrem được gọi là “cây đàn hạc của Chúa Thánh Linh”.
Vì là thầy dạy uyên bác qua các tác phẩm của mình, nên vào năm 1920, thánh Ephrem được tôn lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh.
Thánh Ephrem qua đời vào thánh 06/373.

Một cách để tôn vinh Chúa Giêsu Thánh Thể là cùng nhau hát những bài thánh ca. Đây là việc thánh Ephrem sẽ làm nếu như ngài quỳ gối bên cạnh chúng ta khi tham dự thánh lễ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-10-2012, 09:47 AM
Ngày 10 tháng Sáu


CHÂN PHƯỚC HENRI TRÊVISÔ



Henri Trêvisô sinh ở Bolzano, nước Ý. Ngài sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ XIII đầu thế kỷ thứ XIV.
Gia đình của Henri rất nghèo nên ngài chẳng có cơ hội để học hành. Đến tuổi niên thiếu, Henri trẩy đến thành phố Trêvisô tìm việc làm. Henri là người làm thuê tính theo công nhật. Một vài người nhận thấy rằng Henri đã bố thí cho người nghèo hầu hết số tiền ngài kiếm được. Hằng ngày Henri tham dự thánh lễ và thường xuyên chịu lễ như được phép. Henri cũng yêu mến Bí tích Hòa Giải và cảm nghiệm nơi Bí tích Tha Thứ này một vị Thiên Chúa đầy tình khoan dung và hay thương xót.
Người ta bắt đầu để ý xem cách giữ đạo của Henri. Henri thực thi sám hối qua cách thức chăm chỉ làm việc. Mỗi ngày chân phước Henri Trêvisô dành ra nhiều giờ để cầu nguyện riêng, thông thường tại nhà thờ. Henri Trêvosô trổi vượt về hai đức tính dịu dàng và điềm tĩnh. Đôi lúc người ta trêu chọc Henri vì lối sống của ngài thật bình dị. Khi về già, Henri Trêvisô trông có vẻ tiều tụy. Trẻ con nhiều lúc nhạo báng diện mạo kỳ dị của ngài. Nhưng Henri Trêvisô chẳng màng chi cả! Ngài nhận thấy rằng họ chẳng ý thức được việc họ đang làm cho ngài đau lòng.
Khi Henri Trêvisô già nua không còn đủ sức để làm việc nữa, có một người bạn tên là Giacôbê Castagnolis đã đem Henri Trêvisô về nhà của ông. Castagnolis cho Henri một căn phòng và có nhã ý muốn nuôi dưỡng ngài, nhưng chân phước Henri Trêvisô nhất định đòi chỉ sống nhờ vào những đồ bố thí của dân thành Trêvisô. Họ đã rộng rãi bố thí cho Henri nhiều thực phẩm vì họ biết ngài sẽ san sẻ quà bố thí của họ cho những người vô gia cư và những người nghèo khó. Về cuối đời, Henri Trêvisô hầu như không thể đi bộ được nữa. Và người ta đã kinh ngạc khi xem thấy ông già mỗi ngày vẫn chậm chạp lê mình tới tham dự thánh lễ ban sáng. Henri Trêvisô cũng hay thăm viếng các nhà thờ lân cận dù cho việc di chuyển tới mỗi nơi làm cho Henri Trêvisô hết sức đau đớn.
Ông già tốt phúc này thật là một mầu nhiệm kỳ bí. Khi Henri Trêvisô qua đời ngày 10/06/1315, người ta đã lũ lượt kéo đến căn phòng bé nhỏ của Henri Trêvisô. Họ muốn có một di vật kỷ niệm. Họ tìm thấy các tài sản của Henri Trêvisô : một chiếc áo vải thô gai, một khúc gỗ dùng để gối đầu, và một ít rơm dùng làm nệm giường. Xác Henri Trêvisô được đưa tới nhà thờ chính tòa để mọi người có thể tôn kính. Trên 200 phép lạ đã được ghi nhận chỉ trong vòng vài ngày sau khi Henri Trêvisô qua đời.
Đức Thánh cha Bênêđictô XIV đã tôn phong Henri Trêvisô lên bậc chân phước.

Chân phước Henri Trêvisô dạy chúng ta rằng để làm thánh không nhất thiết phài làm được những việc to lớn. Chúng ta hãy xin chân phước Henri Trêvisô chỉ cho chúng ta biết cách hăng say sống đời Kitô hữu mỗi ngày.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-10-2012, 09:52 AM
Ngày 12 tháng Sáu




THÁNH GIOAN SAHAGUN



Thánh Gioan sinh tại Sahagun, nước Tây Ban Nha, vào thế kỷ thứ XV.
Ngài được hấp thụ nền giáo dục của các đan sĩ Bênêđictô trong thị trấn ngài ở. Sau đó, Gioan làm cha xứ của một họ đạo. Hẳn là Gioan đã có thể sống một cuộc đời thoải mái tiện nghi trong nhà thờ chính tòa hay ở các xứ đạo giàu có khác. Tuy vậy, Gioan cảm thấy bị hấp dẫn bởi lối sống đơn sơ khó nghèo mà Đức Chúa Giêsu đã sống. Cha Gioan chỉ chọn coi sóc một họ đạo nhỏ. Ở đó ngài dâng thánh lễ, thuyết giảng và dạy giáo lý.
Cha Gioan Sahagun nhận thấy cần phải hiểu biết hơn về khoa thần học và ngài đã đăng ký học các lớp tại trường đại học Công giáo danh tiếng thuộc thành phố Salamanca. Sau 4 năm chăm chỉ học tập, cha Gioan trở nên một nhà giảng thuyết nổi danh. 9 năm sau, Gioan Sahagun gia nhập dòng Augustino. Các anh em tu sĩ rất được ấn tượng bởi phương cách ngài thực hành các nhân đức Kitô giáo. Thánh Gioan cũng sống rất mực khiêm tốn và vâng phục các đấng bề trên của ngài. Thánh nhân vẫn tiếp tục công việc giảng huấn. Các bài giảng tâm tình của Gioan Sahagun đã làm cho dân thành Salamanca được biến cải. Trước đây họ hay tranh chấp cãi vã nhau dữ dội. Những chàng trai quý tộc thường hay đánh trả thù nhau. Thánh Gioan Sahagun đã thành công trong việc chấm dứt những cuộc ẩu đả gay gắt này. Thậm chí thánh nhân đã thuyết phục được người ta tha thứ cho nhau.
Thánh Gioan Sahagun chẳng e sợ việc sửa chữa những tội ác xấu xa, ngay cả khi những người mắc tội là những người có thế lực và họ có thể trả thù ngài. Lần kia, thánh Gioan Sahagun sửa lỗi cho một công tước vì cách thức ông làm cho những người dân nghèo phải chịu khổ. Điều vị linh mục nói là sự thật! Nhưng trong cơn giận dữ, công tước đã sai hai người đầy tớ của mình tới giết thánh Gioan. Các ông này tìm thấy vị linh mục và tiến lại gần ngài. Cha Gioan Sahagun rất bình thản và phúc hậu. Rồi, cả hai ông tự nhiên cảm thấy bị chìm ngập trong nỗi sầu khổ và cả hai người đã xin thánh nhân tha thứ cho. Sau đó, vị công tước ngã bệnh. Qua những lời cầu nguyện của thánh Gioan Sahagun, công tước đã ăn năn tội lỗi của mình và được bình phục.
Chính những ân sủng mà cha thánh Gioan Sahagun nhận được từ lời cầu nguyện và thánh lễ đã giúp cho ngài có được khả năng rao giảng. Thánh Gioan Sahagun đã cử hành thánh lễ với lòng rất sốt sắng.
Thánh Gioan Sahagun qua đời ngày 11/06/1479. Ngài được Đức Thánh cha Alexandre VIII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1690.

Chúng ta sẽ là những Kitô hữu gây ấn tượng hơn nhiều nếu chúng ta bình tĩnh và an hòa trong cả cách nói lẫn cách sống. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ rao giảng Tin Mừng được nếu tâm tính chúng ta thô lỗ cộc cằn và bị đè nặng bởi lo âu sợ sệt. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Sahagun chỉ cho chúng ta biết cách sống bình thản và quảng đại như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-10-2012, 07:39 PM
Ngày 14 tháng Sáu




THÁNH MÊTÔĐIÔ I



Thánh Mêtôđiô I sống vào thế kỷ thứ IX. Ngài được sinh ra và lớn lên tại Sicily.
Mêtôđiô được lãnh nhận một nền học vấn rất xuất sắc và ngài muốn có một địa vị xứng hợp với trình độ của ngài. Mêtôđiô quyết định trẩy tàu tới Constantinôp để tìm một công việc quan trọng tại triều đình nhà vua. Trong chuyến hải hành, Mêtôđiô gặp một tu sĩ thánh thiện và vị này đã chia sẻ với ngài về những điều bí nhiệm. Tất cả mọi vấn nạn về Thiên Chúa và đời sau thấm nhập vào tâm trí Mêtôđiô. Vị tu sĩ giúp Mêtôđiô nhận thấy rằng để tìm được niềm vui đích thực trong cuộc sống thì phải hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa trong bậc sống tu trì. Vì thế, khi đến Constantinôp, Mêtôđiô đã từ khước cung điện, thay vào đó, Mêtôđiô đã vào ẩn thân trong một đan viện.
Ở Constantinôp, các Kitô hữu đang gặp phải những vấn đề khó khăn. Một số người cảm thấy rằng thật sai lầm khi có các bức vẽ đạo đức và các ảnh tượng Chúa Kitô. Họ nghĩ lầm rằng giáo dân cầu nguyện với các bức tranh hoặc ảnh tượng chứ không phải với đấng mà các tranh ảnh biểu thị. Đã xảy ra những cuộc ẩu đả gay gắt và nhà vua cũng liên quan đến vụ này. Ông đồng ý với những người nghĩ rằng các bức vẽ và ảnh tượng là chuyện xấu. Ngược lại, thánh Mêtôđiô không đồng ý với nhà vua. Ngài hiểu được lý do tại sao các Kitô hữu cần đến ảnh tượng. Rồi người ta đã chọn Mêtôđiô tới Roma để xin Đức Thánh cha làm sáng tỏ vấn đề này. Khi Mêtôđiô trở về, nhà vua đã trừng phạt ngài với án lệnh 7 năm tù. Thánh Mêtôđiô chấp nhận cảnh tù đày tăm tối và ẩm thấp, nhưng ngài không để cho tinh thần của mình bị đè bẹp. Ngài biết rằng Đức Chúa Giêsu có ý dùng các nỗi đau khổ ngài chịu để giúp đỡ Giáo hội.
Sau cùng, vào năm 842, hoàng đế băng hà. Hoàng hậu Thêôđôra lên nắm quyền cai trị, bởi vì con trai của bà còn quá nhỏ. Thêôđôra có quan điểm khác với quan điểm của chồng. Bà cho rằng người ta nên được tự do sử dụng các bức vẽ, ảnh tượng Chúa Kitô và các tranh ảnh đạo đức nếu họ muốn. Mêtôđiô I và những người đã phải chịu đau khổ suốt một thời gian dài cảm thấy rất sung sướng. Giờ đây họ đã được tự do.
Một trong số những người đã làm cho Mêtôđiô I đau khổ nhất đã bị hoàng hậu trục xuất khỏi xứ sở. Sau đó, Mêtôđiô I làm Thượng phụ Giáo chủ Constantinôp. Giáo dân rất yêu mến ngài.
Thánh Mêtôđiô I viết nhiều bài tiểu luận rất hay về các lãnh vực thần học và đời sống thiêng liêng. Ngài cũng viết nhiều truyện về các thánh và thơ ca.
Sau 4 năm làm Thượng phụ Giáo chủ, thánh Mêtôđiô I đã qua đời ngày 14/06/847.

Thánh Mêtôđiô I đã khởi đầu sự nghiệp bằng việc tìm kiếm danh vọng, địa vị và của cải. Rồi ngài nghe theo vị tu sĩ thánh thiện và chọn lấy cho mình một cuộc sống đầy khó khăn. Khi được quyền tự chọn, ngay cả trong những điều thật nhỏ bé, chúng ta có thể dâng một lời nguyện đơn sơ lên thánh Mêtôđiô I. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan để biết chọn lựa điều tốt nhất cho đời tạm này và đời sau vĩnh cửu bên Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-10-2012, 07:42 PM
Ngày 15 tháng Sáu




THÁNH GIƠMANH PIBRAC



Pibrac là một ngôi làng nhỏ bên nước Pháp nơi Giơmanh chào đời vào khoảng năm 1579, và thánh nữ Giơmanh đã sống cả cuộc đời ở đây.
Bề ngoài trông Giơmanh không được xinh xắn và ngài luôn yếu bệnh. Thân phụ Giơmanh chỉ quan tâm chút ít tới ngài. Bà mẹ kế của Giơmanh lại không muốn cho Giơmanh được ở gần bên các đứa con lành mạnh của bà. Vì vậy, Giơmanh phải ngủ chung với đàn chiên trong nhà kho ngay cả khi tiết trời giá lạnh. Giơmanh vận những bộ đồ rách nát và thường bị các trẻ em khác nhạo cười. Giơmanh chăn chiên suốt ngày ngoài đồng. Ban đêm khi trở về nhà, Giơmanh thường bị mẹ ghẻ la rầy đánh đập.
Thế nhưng cô bé nghèo khó này đã học cách nói chuyện với Thiên Chúa và nhớ rằng Người luôn luôn hiện diện bên mình. Giơmanh Pibrac luôn cố gắng xoay xở để tham dự thánh lễ mỗi ngày. Thánh nữ nhờ vị thiên thần bản mệnh của ngài coi sóc đàn chiên giùm. Vì thế, chẳng bao giờ có con chiên nào đi rong chơi lang thang khỏi ràn mà Giơmanh đã đặt để trên bãi đất!
Giơmanh Pibrac thường hay tập họp các trẻ em trong xóm lại xung quanh mình và dạy chúng học biết đức tin. Giơmanh muốn tâm hồn chúng được tràn đầy lòng yêu mến Thiên Chúa. Giơmanh cũng hết sức cố gắng giúp đỡ người nghèo. Giơmanh chia sẻ cho họ chút phần lương thực của ngài. Vào một ngày mùa đông nọ, mẹ ghẻ buộc tội Giơmanh vì đã ăn cắp bánh mì. Bà vác gậy rượt đuổi Giơmanh. Nhưng, lạ lùng thay! Những thứ rơi ra từ chiếc tạp dề của Giơmanh không phải là bánh mì! Đó lại là những đóa hoa mùa hè xinh đẹp!
Từ đây, người ta không còn nhạo cười và chế giễu Giơmanh nữa. Thật ra họ quý mến và khâm phục ngài. Hẳn là Giơmanh đã có thể sống trong căn nhà của cha ngài, nhưng Giơmanh vẫn tiếp tục ngủ ở nhà kho.
Rồi vào một buổi sáng năm 1601, lúc được 22 tuổi, người ta thấy Giơmanh Pibrac nằm chết trên một chiếc nệm rơm. Cuộc đời quá nhiều đau khổ của Giơmanh Pibrac đã khép lại. Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ để tỏ cho biết Giơmanh Pibrac là vị thánh.

Nhân đức chính yếu của vị thánh này là kiên nhẫn. Giơmanh Pibrac đã mang cây thánh giá to lớn của ngài cách dễ dàng vì thánh nữ đã năng chịu Bí tích Thánh Thể. Khi gặp những đau khổ nhỏ mọn, chúng ta hãy quay ánh nhìn về Đức Chúa Giêsu đang hiện thân trong Bí tích Thánh Thể và xin Người giúp đỡ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-10-2012, 06:27 AM
Ngày 16 tháng Sáu




THÁNH GIOAN PHANXICÔ RÉGIS



Vị thánh người Pháp này sinh năm 1597.
Khi lên 18 tuổi, Gioan Phanxicô Régis gia nhập dòng Tên. Ở chủng viện, lòng yêu mến Thiên Chúa và ơn gọi của Gioan được tỏ lộ qua cách thức ngài cầu nguyện. Thánh nhân cũng nhiệt thành ham thích dạy giáo lý trong các xứ đạo mỗi khi có thể.
Sau khi được thụ phong linh mục, thánh Gioan Phanxicô Régis bắt đầu công việc truyền giáo. Những bài giảng thuyết của ngài rất đơn sơ nhưng phát xuất từ nội tâm. Thánh nhân đặc biệt hay giảng cho những người nghèo khổ và những người bình dân. Họ tập trung lại thành những đám đông để nghe ngài thuyết giảng. Thánh Gioan Phanxicô Régis dành thời giờ ban sáng để cầu nguyện, ban Bí tích Hòa Giải và thuyết giảng. Ban chiều, thánh nhân viếng thăm các trại tù và các bệnh viện. Với những người nói rằng các tù nhân và các phụ nữ trắc nết mà Gioan Phanxicô Régis đã cải tà quy chính sẽ không tốt lành mãi đâu thì thánh nhân trả lời họ :
“Nếu những cố gắng của tôi dù chỉ ngăn cản được một tội khỏi bị sa phạm mà thôi, thì tôi vẫn sẽ coi chúng thật đáng giá!”
Thánh Gioan Phanxicô Régis hành trình đến các xứ đạo nơi miền thôn dã, ngay cả trong những ngày đông giá rét, để giảng thuyết.
“Tôi đã thấy ngài đứng suốt ngày trên đống tuyết tận trên đỉnh núi để giảng dạy,” – một linh mục đã nói – “và sau đó lại dùng cả đêm dài để giải tội.”
Đôi khi mới 3 giờ sáng, Gioan Phanxicô Régis đã lên đường trẩy tới một thị trấn hẻo lánh mà trong túi chỉ có một vài quả táo dùng làm lương thực trong ngày.
Một lần kia, trên đường tới một ngôi làng, thánh Gioan Phanxicô Régis bị té ngã và gãy chân. Tuy vậy, thánh nhân vẫn tiếp tục hành trình dù một tay chống gậy và tay kia phải vịn lấy vai của một người bạn. Nhưng khi tới làng, thánh nhân liền ban Bí tích Hòa Giải cho các hối nhân. Gioan Phanxicô Régis chẳng nhờ người chăm sóc băng bó cái chân bị gãy của ngài. Vào cuối ngày, khi bác sĩ tới xem xét thì cái chân gãy của Gioan Phanxicô Régis đã hoàn toàn được chữa lành từ lúc nào rồi vậy!
Thánh Gioan Phanxicô Régis qua đời trong một chuyến đi truyền giáo. Ngài lâm bệnh rất nặng đang khi bị lạc trong rừng vào ban đêm. Ngay trước lúc trút hơi thở sau cùng, thánh Gioan Phanxicô Régis reo lên :
“Tôi thấy Thiên Chúa và thân mẫu Người đang mở cửa thiên đàng cho tôi!”
Thánh Gioan Phanxicô Régis qua đời ngày 31/12/1640.
Năm 1806, có một khách hành hương đã cùng nhập bọn với nhóm người tới cầu nguyện tại đền thánh Gioan Phanxicô Régis. Người khách ấy tin rằng vị thánh này đã đạt tới cùng đích của đời linh mục. Người khách ấy chính là thánh Gioan Maria Viannê, cha sở họ Ars (lễ mừng kính ngài được cử hành vào ngày 04/08.)

Đời sống của thánh Gioan Phanxicô Régis nhắc nhớ chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ ban nhiều phúc lành và ân sủng của Người cho chúng ta nếu chúng ta sẵn lòng quên đi những đòi hỏi thiết yếu của riêng bản thân mình. Bằng lối này, chúng ta có thể giúp đỡ cha mẹ, gia đình và bạn bè của chúng ta những nhu cầu cần thiết.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-10-2012, 06:30 AM
Ngày 17 tháng Sáu




THÁNH EMILY VIALAR



Emily Vialar là cô gái độc nhất trong một gia đình giàu có. Thánh nữ sinh tại Pháp năm 1797. Song thân của Emily gởi ngài đến học ở Paris. Khi thân mẫu qua đời, Emily trở về thị trấn Gailac nhỏ bé của ngài.
Emily 15 tuổi vừa là người con vừa là người bạn tốt đối với thân phụ của cô. Ông Vialar quan tâm tới chuyện tìm cho con gái ông một tấm chồng thích hợp. Ông rất giận dữ khi nghe biết Emily từ chối chuyện lập gia đình. Thất vọng! Vỡ mộng! Ông đâm ra hay tranh luận và la rầy Emily. Emily nhận thấy mình muốn làm một nữ tu đạo hạnh hiến dâng cuộc đời phụng sự Thiên Chúa.
Khi Emily 21 tuổi thì có một linh mục tới thị trấn Gailac. Ngài là cha Mercier. Ngài hướng dẫn Emily theo đuổi ơn gọi của mình. Emily muốn giúp đỡ những người nghèo khổ và đau yếu. Cha Mercier giúp Emily thiết lập một địa sở dành cho các bệnh nhân ngoại trú ngay trên thửa đất của gia đình Vialar. Thân phụ của Emily rất lấy làm bực mình. Tình trạng căng thẳng giữa Emily và người cha kéo dài suốt 15 năm trời. Sau đó ông nội của Emily, ông Baron Portan, qua đời. Ông để lại cho Emily một gia tài, và thế là, cuối cùng Emily đã có thể có được sự tự lập cần thiết để khởi sự làm công việc đặc biệt cho Thiên Chúa.
Với sự trợ giúp của cha Mercier, Emily mua một căn nhà lớn trong thị trấn quê hương của ngài. Rồi Emily và ba chị em khác bắt đầu thiết lập một hội dòng. Họ phác họa ra một bộ tu phục và chọn một tên gọi. Họ nhận tên là dòng Nữ Thánh Giuse Hiện Ra. (Phúc âm thánh Matthêô thuật lại việc thiên thần đã hiện ra với thánh Giuse và bảo ngài rằng Người Con của Đức Trinh Nữ Maria sinh ra là do bởi Thiên Chúa.) Đức Tổng Giám mục đã chúc lành cho hội dòng và sứ vụ của họ. Các chị nữ tu này tận hiến cuộc đời phục vụ và chăm sóc những người đau yếu, nghèo khổ và giáo dục trẻ em. Trong khoảng 3 tháng, đã có 12 chị em xin gia nhập hội dòng. Sơ Emily tuyên giữ các lời khấn năm 1835 cùng với 17 chị nữ tu khác. Đức Tổng Giám mục đã chuẩn y bản quy luật của các nữ tu.
Dòng Nữ Thánh Giuse bắt đầu thiết lập thêm các tu viện nhánh. Năm 1847, các nữ tu tới Burma ; và năm 1854, họ tới Úc. Trong khoảng 40 năm, Mẹ Emily Vialar đã xem thấy hội dòng mình phát triển từ sân nhà của Mẹ ở Gailac, nước Pháp, dần dà lên tới khoảng 40 cơ sở trên khắp thế giới.
Mẹ Emily Vialar viết nhiều thư bày tỏ lòng yêu mến tha thiết đối với Thiên Chúa, với Giáo hội và các tín hữu. Mẹ quan tâm đến mỗi người. Trong trái tim mình, Mẹ Emily Vialar nhận thấy dân chúng khắp nơi đang cần Giáo hội đem chân lý Tin Mừng và tình yêu thương đến cho họ. Mẹ nài xin Đức Chúa Giêsu ban thêm cho sức mạnh cần thiết để tiếp tục công việc.
Sức khỏe của Mẹ Emily Vialar bắt đầu suy giảm từ năm 1850. Rồi vào ngày 24/08/1856, Mẹ qua đời.
Đến năm 1951, Đức Thánh cha Piô XII đã tôn phong Mẹ Emily Vialar lên bậc hiển thánh.

Khi gặp những việc khó, thay vì bỏ cuộc, chúng ta hãy nài xin thánh nữ Emily Vialar làm cho chúng ta được mạnh mẽ và nhẫn nại như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-10-2012, 08:42 AM
Ngày 18 tháng Sáu


CHÂN PHƯỚC GRÊGÔRIÔ BARBARIGÔ



Chân phước Grêgôriô Barbarigô sinh năm 1625. Ngài được nuôi dưỡng và giáo dục tại thành Venice bên nước Ý.
Đang lúc còn ở tuổi 20, nhân một sự kiện quan trọng, Grêgôriô Barbarigô đã được các viên chức chính quyền thành phố Venice chọn làm đại biểu thay mặt họ ở Munstơ, nước Đức. Vào ngày 24/10/1648, các nhà lãnh đạo đã họp lại để ký bản Hiệp ước Wesphalia. Hiệp ước này sẽ kết thúc cuộc chiến “Ba mươi năm”. Cuộc chiến này nổ ra ở Đức vào năm 1618. Nó bao gồm những đội quân láng giềng Pháp và Thụy Điển, và được gây nên bởi sự hiểu lầm căn bản giữa Công giáo và Thệ phản.
Tại Munstơ, chân phước Grêgôriô Barbarigô gặp vị đại diện của Đức Thánh cha. Vị này về sau trở thành Đức Thánh cha Alexandre VII vào năm 1655. Ngài nhận thấy những phẩm chất đạo đức tốt lành nơi cha Grêgôriô. Ngài đã đặt cha làm giám mục và bổ nhiệm Grêgôriô đến giáo phận Begamo, nước Ý. Năm 1660, Đức Thánh cha lại gọi Grêgôriô Barbarigô về Roma. Lần này, ngài đặt chân phước Grêgôriô Barbarigô làm Hồng y và chỉ định ngài đến Pađua.
Chân phước Grêgôriô Barbarigô sống phần đời còn lại của ngài trong thành phố ấy, thành phố được nổi danh nhờ thánh Antôn. Người ta thường hay nói rằng Hồng y Barbarigô trông giống như đức Hồng y Bôrômêô thứ hai vậy, (chúng ta mừng lễ kính thánh Carôlô Bôrômêô ngày 04/11).
Hồng y Grêgôriô Barbarigô đã sống một cuộc đời hy sinh giản dị. Ngài chi một số tiền lớn cho những nhu cầu bác ái từ thiện. Ngài luôn mở rộng cửa nhà để sẵn sàng tiếp đón những người lâm cảnh túng thiếu. Ngài mở một trường đại học danh tiếng và một chủng viện để đào tạo các chủng sinh thành linh mục. Ngài ban tặng chủng viện một phòng thư viện hạng nhất gồm nhiều loại sách quý của các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai và các sách Kinh Thánh. Thậm chí Grêgôriô Barbarigô còn trang bị cho chủng viện một máy in.
Chân phước Grêgôriô Barbarigô qua đời ngày 15/06/1697, thọ 72 tuổi.
Ngài được Đức Thánh cha Clémenté XIII tôn phong chân phước năm 1761.

Khi cầu nguyện, thật là ý tưởng hay nếu như chúng ta nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn biết nhận ra kế hoạch của Người trong đời sống mình. Khi gặp khó khăn hay chán nản, chúng ta nên dùng ít phút để suy nghĩ về cách thức chân phước Grêgôriô Barbarigô đã dùng thời giờ của ngài. Grêgôriô Barbarigô là một người đáng yêu và giàu lòng quảng đại. Ngài đã đem nhiều người tới gần Thiên Chúa hơn bằng gương sáng của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-10-2012, 08:47 AM
Ngày 19 tháng Sáu


THÁNH RÔMUALĐÔ



Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại Ravenna, nước Ý.
Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì ngài đã quen với nếp sống sang trọng, sa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình. Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện – bởi vì con trai ông đã tự mình chấp nhận sống ở đó. Và đó là điều Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.
Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu, thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi trong 3 năm tiếp theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy sinh này, thánh Rômualđô đã sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Thánh Rômualđô về trời ngày 19/06/1027 tại đan viện Valdi Castro. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm thầm.
Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này :
“Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của mọi sự con ước ao!”

Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên lỉ. Thánh nhân biết khó khăn thách đố là làm sao mà!



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-10-2012, 10:37 AM
Ngày 20 tháng Sáu




CHÂN PHƯỚC MIKÊLINA



Chân phước Mikêlina sinh năm 1300 tại Pesaro, nước Ý.
Gia đình Mikêlina rất giàu có và Mikêlina kết hôn với một người đàn ông cũng rất giàu. Mikêlina là người sung sướng bẩm sinh. Dường như trên đời này Mikêlina chẳng bao giờ gây phiền toái gì cho ai! Nhưng khi chỉ mới 20 tuổi, người chồng của Mikêlina qua đời. Đột nhiên, Mikêlina cảm thấy mình cô đơn trong việc nuôi dưỡng những đứa con thơ nhỏ.
Người mẹ trẻ có vẻ lo lắng khi tìm kiếm hạnh phúc trong những sự vật xung quanh mình. Cuộc sống của Mikêlina trở thành một chuỗi liên hoan tiệc tùng với các bữa ăn vui lạ. Dường như Mikêlina cảm thấy chán ngấy những của tốt lành mà cuộc đời ban tặng. Sau đó, Mikêlina nhận thức được bổn phận của mình là phải chăm lo cho đứa con nhiều hơn. Mikêlina cũng ý thức sẽ phải trả lẽ về việc sử dụng tiền của và thời giờ của mình. Tâm hồn Mikêlina cảm thấy quá trống rỗng. Cuối cùng, Mikêlina đã hồi tâm và ngài trở nên một người trưởng thành và có trách nhiệm.
Có một bà đạo đức thuộc dòng Ba Phanxicô sống ở Pesaro tên là Syriaca. Bà nhận ra Mikêlina thực là một người phụ nữ tuyệt vời đang cần sự hướng dẫn và giúp đỡ để sống đạo đức hơn. Sau đó, Syriaca và Mikêlina trở thành đôi bạn thân và gương sáng của Syriaca đã ảnh hưởng rất đặc biệt trên cuộc đời Mikêlina.
Mikêlina sống cầu nguyện. Ngài năng quan tâm tới đứa con và nhà cửa. Mikêlina dùng thời giờ rảnh rỗi phục vụ những người nghèo túng. Mikêlina viếng thăm những người cô đơn và săn sóc những người đau bệnh hoặc quá già yếu không thể tự lo cho bản thân mình. Cuối cùng, Mikêlina trở thành một chị dòng Ba Phanxicô. Thoạt đầu, những người thân của Mikêlina cảm thấy lo lắng khi Mikêlina cho đi hết những quần áo đẹp đẽ sang trọng và bắt đầu ăn uống giản dị. Nhưng sau đó, họ hiểu ra Mikêlina đã thực sự là một người nữ sống nội tâm.
Mikêlina sống cả cuộc đời trong căn nhà ở Pesaro. Ngài qua đời năm 1356, lúc được 56 tuổi.
Để tưởng nhớ nữ chân phước Mikêlina, người dân của thành phố này đã cất giữ một chiếc đèn dầu luôn cháy sáng trong căn nhà Mikêlina. Năm 1590, căn nhà của chân phước Mikêlina được kiến thiết thành một ngôi thánh đường.

Chân phước Mikêlina đã chọn một cuộc sống thoải mái và ích kỷ nếu không chọn làm một Kitô hữu hy sinh và yêu mến. Chính nhờ gương sáng của Syriaca mà Mikêlina trở nên thánh thiện. Chúng ta hãy nài xin chân phước Mikêlina giúp chúng ta dám can đảm học hỏi và bắt chước những người có đời sống mẫu mực tốt lành.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-10-2012, 10:40 AM
Ngày 22 tháng Sáu



Lịch Roma hiện hành ghi danh sách ba vị thánh mừng kính ngày 22/06.



THÁNH PAULINÔ NÔLA



Thánh Paulinô Nôla được sinh vào khoảng năm 353 tại Bordeaux, nước Pháp. Thân phụ ngài là một quan chức nhà nước và là một địa chủ giàu có.
Paulinô học hành đỗ đạt. Ngài trở thành luật sư và thi sĩ. Ngài đi du lịch khắp các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý và ở bất kỳ nơi nào mà công việc hoặc thú vui khoái lạc đòi hỏi. Năm 381, lúc 28 tuổi, Paulinô Nôla trở thành một quan chức miền Campania, nước Ý.
Năm 36 tuổi, thánh Paulinô Nôla trở thành tín hữu Công giáo. Thánh nhân và người vợ Têrêsia của ngài sinh được một câu con trai. Sau khi đứa con qua đời, đôi vợ chồng bố thí tài sản của mình cho những người nghèo đói. Họ chỉ giữ lại những gì cần thiết để nuôi sống bản thân. Paulinô và Têrêsia, cả hai đều bằng lòng muốn sống cuộc đời đơn sơ bình dị. Hai người cùng cầu nguyện, hy sinh và làm những công việc hữu ích. Các ngài cũng quyết định tuân giữ lời khấn trong sạch để minh chứng tình yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa. Cộng đoàn Kitô hữu hết sức nể trọng Paulinô và người vợ của ngài. Họ rất hài lòng khi Paulinô trở thành linh mục vào năm 394. Sau đó, thánh Paulinô và Têrêsia thiết lập một cộng đoàn nhỏ dành cho các đan sĩ ở Nôla, nước Ý. Các ngài cũng mở một nhà tế bần cho những người nghèo và các lữ khách.
Paulinô và Têrêsia quyết định ở lại Nôla. Paulinô muốn ở gần đền thánh Phêlích Nôla, một trong các đấng thánh mà ngài yêu mến. Thánh Phêlích, mất năm 260, đã làm linh mục và giám mục. Thánh nhân đã can đảm bảo vệ bổn đạo của mình trong suốt cuộc khủng bố bách hại của hoàng đế Đêsiô. Thánh giám mục Phêlích Nôla nổi tiếng về đời sống cầu nguyện, về tình yêu đối với đàn chiên và về lối sống đơn sơ nghèo khó. Qua một thế kỷ sau, Paulinô Nôla cầu nguyện với thánh nhân và viết sách về ngài. Paulinô Nôla cảm thấy hết sức tin tưởng vào quyền năng của thánh Phêlích. Vậy điều gì đã có thể làm cho cựu quan chức Roma này trở nên giống như thánh Phêlích? Ngoài thánh Paulinô ra, hẳn là chẳng ai trong chúng ta có thể phỏng đoán được.
Năm 409, Paulinô được chọn làm giám mục thành Nôla. Dân chúng rất sung sướng vui mừng. Paulinô Nôla là vị giám mục khôn ngoan, dịu dàng, hiền lành giống như thánh Phêlích trước đây. Nhiều vị thánh sống vào thời kỳ ấy đã ca ngợi Paulinô Nôla như thánh Ambrôsiô, thánh Augustino, thánh Giêrônimô, thánh Martinô thành Tours và nhiều vị khác. Dù một số tác phẩm hay của Paulinô Nôla đã bị thất lạc nhưng hiện vẫn còn lại 32 bài thơ và 51 lá thư.
Thánh Paulinô Nôla làm giám mục thành Nôla cho tới khi qua đời năm 431.

Thánh Paulinô Nôla đã trở nên một tín hữu Công giáo tuyệt vời như vậy bởi vì ngài rất quý trọng ơn đức tin. Chúng ta hãy khẩn cầu cùng thánh Paulinô Nôla và xin ngài giúp chúng ta tăng triển lòng biết ơn đối với đức tin đã lãnh nhận.




THÁNH GIOAN PHÍTSƠ



Thánh Gioan Phítsơ sinh tại Gioócsi, nước Anh vào năm 1469.
Gioan học tại trường Cambrigd và được làm linh mục. Cha Phítsơ cũng dạy học tại Cambrigd. Ngài là một nhà giáo ưu tú chuyên giúp các sinh viên tăng triển và đào sâu thêm tri thức về đức tin của họ. Cha Phítsơ cũng là một thần học gia. Cha đặc biệt giúp ích trong việc chỉ ra những nhầm lẫn tôn giáo của thời đại mà những nhầm lẫn này đã làm cho một số người bối rối.
Năm 1504, cha Gioan Phítsơ trở thành giám mục thành Rochester, nước Anh. Đó là một giáo phận nghèo và giám mục Phítsơ đã lưu lại với đàn chiên của ngài suốt 30 năm. Vì thế, giám mục Phítsơ kiêm một lúc hai nhiệm vụ quan trọng. Ngài vừa là giám mục của giáo phận, vừa là hiệu trưởng của trường đại học Cambrigd. Năm 1514, Phítsơ được chỉ định làm hiệu trưởng trường đại học vì sự sống còn của nó. Giám mục Phítsơ cũng là cha giải tội của thân mẫu vua Henri VIII. Tên của bà là Elisabeth Gioóc.
Giám mục Gioan Phítsơ có nhiều bạn bè, gồm cả học giả danh tiếng Êrasmô và thánh cả Tôma Môrê. Ít người biết được thánh giám mục Gioan Phítsơ và thánh Tôma Môrê cùng được mừng kính chung một ngày lễ trong niên lịch kính nhớ các thánh.
Chắc chắn chưa có cuộc mừng khi Đức Giám mục Phítsơ bị giam tù năm 1533. Ngài bị bắt giam vì đã nhất định minh chứng cuộc hôn nhân giữa nhà vua và hoàng hậu Catarina là đúng đắn. Sau đó, vua Henri VIII ly dị Catarina và kết hôn với Annê Bôlây trong một nghi thức dân sự. Ông yêu cầu thần dân ký tên vào văn bản thề hứa trung thành với ông. Ông tự phong cho mình là thủ lãnh của Giáo hội Anh quốc. Giám mục Phítsơ không ký tên. Và liền sau đó, ngài đã bị đem tới tháp đài Luân Đôn, một chiếc tháp thật ẩm ướt và cách đối xử ở đó rất ư khắc nghiệt. Thánh giám mục Gioan Phítsơ tuy phải chịu đựng nhiều đau khổ nhưng ngài đã không phản bội niềm tin của mình. Thậm chí dù chưa có tivi và máy thu thanh nhưng người ta vẫn nhận biết được những việc mà giám mục Phítsơ, ngài Tôma Môrê và những người khác đã thực hiện. Họ xúc động và đau buồn.
Ngày 12/06/1535, Đức Thánh cha Phaolô III đã đặt giám mục Gioan Phítsơ làm Hồng y. Đức Thánh cha hy vọng rằng việc này sẽ làm cho Henri VIII trả lại tự do cho Phítsơ. Nhưng vua càng thêm tức giận và độc ác. Ông yêu cầu Hồng y Phítsơ phải chết.
Gioan Phítsơ bị giết chết ngày 22/06/1535.
Cùng với người bạn Tôma Môrê, Hồng y Gioan Phítsơ được Đức Thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1935.

Đôi lúc bạn dễ đồng tình với đám đông hơn là đứng ra bênh vực chân lý. Khi thấy mình lâm vào tình trạng như vậy, bạn hãy cầu nguyện xin thánh Gioan Phítsơ ban cho một chút lòng can đảm của ngài.




THÁNH TOMA MORE



(Đã có ở đây : http://thanhcavietnam.net/ThieuNhi/showthread.php?2239-Truy%E1%BB%87n-C%C3%A1c-Th%C3%A1nh)



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-10-2012, 01:31 PM
Ngày 23 tháng Sáu




THÁNH GIUSE CAPHASÔ



Thánh Giuse Caphasô sinh năm 1811 tại miền Bắc nước Ý, gần thành phố Turino. 4 năm sau, năm 1815, một trong các sinh viên danh tiếng của Giuse Caphasô là thánh Gioan Bosco cũng được sinh ra trong thành phố này (chúng ta cử hành thánh lễ kính thánh nhân ngày 31/01).
Giuse Caphasô có song thân thật đáng quý. Họ sẵn lòng hy sinh cho ngài ăn học thành tài. Giuse Caphasô đến Turino để học hành và làm linh mục.
Giuse Caphasô gặp Bosco năm 1827, lúc Bosco lên 12 tuổi. Bosco nói chuyện với chủng sinh Caphasô tại nhà thờ rồi chạy một mạch về nhà.
“Mẹ ơi! Mẹ ơi!” – Gioan Bosco gọi to – “Con đã gặp ngài, con đã gặp ngài!”
“Con đã gặp ai vậy?” – Thân mẫu Bosco hỏi.
“Mẹ ơi, Giuse Caphasô. Con nói cho mẹ biết ngài là một vị thánh đó!”
Bà mẹ Bosco chỉ mỉm cười với con mình và nhẹ nhàng gật đầu.
Năm 1833, Giuse Caphasô được thụ phong linh mục. Thánh nhân bắt đầu thi hành công việc mục vụ của ngài và đến theo học tại trường dạy thần học danh tiếng dành cho các linh mục. Sau khi tốt nghiệp, cha Giuse Caphasô trở thành giáo sư thần học. Ngài dạy rất nhiều linh mục trẻ suốt nhiều năm. Họ có thể nói được rằng cha Giuse Caphasô đã thực sự yêu thương họ.
Cha Giuse Caphasô nổi tiếng là vị linh mục tin tưởng vào lòng thương xót dịu hiền và nhân hậu của Thiên Chúa. Vì có tấm lòng rất quảng đại nên Giuse Caphasô đã thông trao cho tha nhân sự can đảm và niềm hy vọng của ngài. Cha Giuse Caphasô hướng dẫn nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân. Giuse Caphasô giúp Gioan Bosco khởi sự thừa tác vụ linh mục cao quý của ngài với các cậu trẻ, và cũng hướng dẫn Bosco thiết lập hội dòng Salésien. Cha Giuse Caphasô cũng hướng dẫn nhiều nhà sáng lập khác nữa.
Có nhiều nhu cầu xã hội trong thời đại của cha Caphasô. Một trong các vấn đề khẩn thiết nhất là hệ thống nhà tù. Tình trạng nhà tù thật kinh tởm! Nhưng điều làm cho cha Caphasô xúc động nhất là án lệ treo cổ các tù nhân nơi công cộng. Cha Caphasô đến với họ và giải tội cho họ. Cha ở lại với họ, nói cho họ nghe về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho tời lúc họ chết. Cha Caphasô đã giúp trên 60 người bị kết án. Tất cả đều đã ăn năn thống hối và được chết trong bình an của Đức Chúa Giêsu. Cha Caphasô gọi họ là “những vị thánh bị treo cổ”.
Năm 1848, cha Caphasô trở thành chủ chăn của giáo xứ thánh Phanxicô. Không ai có thể đo lường được ảnh hưởng lớn lao của cha trên cộng đoàn dân Chúa và các việc cha đã làm cho Giáo hội.
Cha Caphasô qua đời ngày 23/06/1860. Người bạn trung tín của Giuse Caphasô là thánh Gioan Bosco đã thuyết giảng trong thánh lễ an táng ngài.
Năm 1947, Đức Thánh cha Piô XII đã tôn phong Giuse Caphasô lên bậc hiển thánh.

Chúng ta chẳng bao giờ có thể quảng đại và thông cảm với tha nhân cho đủ. Nếu chúng ta lỡ bị cám dỗ coi thường người khác vì quá quen, hoặc chỉ lo quan tâm đến bản thân mình thôi, chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh Giuse Caphasô. Ngài sẽ giúp chúng ta có được tấm lòng rộng rãi như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-10-2012, 01:35 PM
Ngày 25 tháng Sáu




THÁNH WILLIAM núi Đức Trinh Nữ



Thánh William sinh tại Veceli, nước Ý vào năm 1085. Song thân của William qua đời khi ngài còn rất nhỏ. Những người bà con của William đã nuôi dưỡng ngài.
Khi William trưởng thành, ngài trở nên một ẩn sĩ. William đã làm phép lạ chữa lành một người đàn ông bị mù lòa, và vì vậy, danh tiếng ngài vang xa. William hết sức khiêm tốn đến nỗi không vui thích sự ngưỡng mộ của người đời. Thánh nhân thật lòng muốn sống đời ẩn tu để có thể kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Thánh William đã ra đi sống ẩn mình trên một ngọn núi hoang cao vút. Bây giờ thì chẳng còn ai quấy rầy William được nữa! Nhưng ngay cả nơi ấy William cũng chẳng được yên thân. Người ta lại tìm đến tụ tập quanh thánh nhân và họ xây cất một đan viện dâng kính Đức Trinh Nữ Maria. Do bởi đan viện của William mà người ta đặt cho quả núi một tên gọi mới. Họ gọi nó là “núi Đức Trinh Nữ”.
Một thời gian sau, có vài đan sĩ bắt đầu kêu ca rằng lối sống thật quá khó. Họ muốn được dùng những món ăn khá hơn và thời gian biểu thoải mái hơn. Nhưng thánh William không tự giảm bớt hoặc châm chước kỷ luật cho mình. Thay vào đó, thánh nhân đã chọn một vị bề trên mới cho các đan sĩ. Rồi William và 5 đồ đệ trung thành đã ra đi và thiết lập một đan viện khác cũng giữ nguyên kỷ luật khắt khe như trước. Một trong các bạn đồng hành của William là thánh Gioan Mantua. Cả William và Mantua đều là những nhà lãnh đạo. Các ngài nhận thấy nếu chia tay nhau để mỗi người thiết lập một đan viện mới thì ích lợi hơn. Các ngài là những người bạn vĩ đại nhưng có lối nhìn sự việc khác nhau. Gioan tiến lên phía Đông và William trẩy xuống phía Tây. Cả hai đều rất thành công. Thật vậy, cả hai đều là những vị thánh.
Sau đó, vua Roger xứ Napoli giúp đỡ thánh William. Ảnh hưởng tốt của William trên nhà vua đã làm cho một vài người xấu bụng trong cung điện tức giận. Họ cố chứng tỏ cho vua biết William thật là một người xấu xa và ác độc, chỉ ẩn nấp sau lớp vỏ thánh thiện bề ngoài mà thôi. Và họ đã sai một đàn bà trắc nết đến cám dỗ William nhưng bà ta đã không thành công. Dường như bà đã ăn năn hoán cải và từ bỏ lối sống tội lỗi.
Thánh William núi Đức Trinh Nữ qua đời ngày 25/06/1142.

Nếu bạn có chuyện bực tức và giận ghét ai, bạn hãy nài xin thánh William núi Đức Trinh Nữ tỏ cho bạn thấy những điểm tốt nơi con người ấy. Thánh nhân sẽ gợi hứng cho bạn biết cách làm thế nào để sống thân thiện với người ấy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-10-2012, 10:55 AM
Ngày 26 tháng Sáu




THÁNH PÊLAGIÔ



Vị thánh tử đạo trẻ tuổi gốc người Tây Ban Nha này sống vào thời những người Hồi giáo xứ Bắc Phi cai trị phần đất quê hương của ngài. Quân Hồi giáo xông đánh những tín hữu Công giáo Tây Ban Nha. Khi người cậu của Pêlagiô phải bỏ ngài ở lại để làm con tin trong thành Codova, Pêlagiô lúc ấy mới chỉ lên 10 tuổi. Pêlagiô không được phép tự do đi đâu cho tới khi người cậu gởi cho ngài những thứ mà bọn Hồi giáo yêu cầu.
3 năm trôi qua và người Kitô hữu trẻ tuổi này vẫn bị cầm giữ như một tù binh. Lúc này, Pêlagiô là một cậu bé 13 tuổi bảnh trai và rất năng động. Dù nhiều anh bạn tù chung với mình có những hành vi xấu, nhưng Pêlagiô cũng không vì thế mà bắt chước họ. Thậm chí dù tuổi còn nhỏ nhưng Pêlagiô đã có một chí khí mạnh mẽ và biết cách giữ mình cho khỏi bị lây nhiễm những thói tục xấu xa ấy.
Nhà lãnh đạo quân Hồi giáo nghe biết những phong cách đối xử tốt lành của Pêlagiô. Ông đã cho gọi cậu bé. Pêlagiô trông thật bảnh trai và rất lịch duyệt. Ông tỏ lòng rộng rãi khoan dung muốn cho Pêlagiô ra khỏi tù. Rốt cuộc, Pêlagiô mới chỉ là một cậu nhỏ. Pêlagiô sẽ được thả tự do cộng thêm mấy bộ đồ tốt để mặc. Không những thế, Pêlagiô còn nhận được vài chú ngựa quý và tiền bạc nữa. Tất cả những thứ này sẽ thuộc về Pêlagiô nếu như Pêlagiô chối bỏ đức tin và trở nên một tín đồ Hồi giáo như những người đã bắt giam ngài.
“Tất cả những thứ mà ông ban tặng đó chẳng có nghĩa lý gì đối với tôi cả!” – Cậu bé trả lời cách cương quyết và dứt khoát. – “Tôi đã là một Kitô hữu. Hiện nay tôi đang là Kitô hữu và tôi sẽ tiếp tục là Kitô hữu!”
Nhà lãnh đạo hết sức ngạc nhiên. Rồi ông thay đổi phương sách của mình. Ông ngăm đe nạt nộ thay vì hứa hẹn… nhưng kết cục chẳng ăn thua gì!
Cậu Pêlagiô 13 tuổi đã tử vì đạo năm 925.

Thánh Pêlagiô nhắc nhớ chúng ta rằng sự cam kết của chúng ta đối với Chúa Giêsu rất can hệ và có ảnh hưởng trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Khi chúng ta thấy mình yếu đuối, không thể chịu đựng nổi áp lực xã hội, chúng ta hãy nài xin thánh Pêlagiô làm cho chúng ta được mạnh mẽ và trưởng thành trong đức tin như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-10-2012, 10:57 AM
Ngày 27 tháng Sáu




THÁNH XYRILÔ ALEXANDRIA



Thánh Xyrilô sinh tại Alexandria, nước Ai Cập vào năm 370.
Người cậu của Xirylô, Thêôphilô, là Thượng phụ Giáo chủ hay còn gọi là Tổng Giám mục. Cậu ngài là người có khả năng nhưng tính tình dễ bực tức và đôi lúc cứng cỏi đến bướng bỉnh. Hẳn là người cậu đã không thể biết trước được, cũng như chúng ta, rằng Gioan Kim Khẩu thời danh một ngày kia sẽ là thánh. (Chúng ta mừng lễ kính thánh Gioan Kim Khẩu ngày 13/09). Đức Tổng Giám mục Thêôphilô có trách nhiệm về việc trục xuất Gioan khỏi xứ sở vào năm 403. Nhưng nhà vua lại đưa vị giám mục danh tiếng trở về tổng giáo phận Constantinop của ngài. Dường như Xyrilô cũng bị ảnh hưởng bởi thành kiến của người cậu về Đức Giám mục Gioan, và Xyrilô đã tán thành việc trục xuất này.
Năm 412, khi người cậu qua đời, Xyrilô lên kế vị chức Tổng Giám mục. Xyrilô có một lòng yêu mến Chúa Giêsu và Giáo hội rất bền chặt. Trong thời buổi rối ren lộn xộn, chính thánh Xyrilô là người can đảm luôn rao giảng những điều Giáo hội truyền dạy. Thánh Xyrilô sống chân thực, cởi mở và giản dị. Thánh nhân không tìm kiếm danh vọng hay địa vị nào. Tuy nhiên, đôi lúc Xyrilô cũng tỏ ra bốc đồng và rất cứng cỏi. Thánh nhân muốn diễn tả những chân lý của Giáo hội qua việc giảng dạy và viết lách của mình, và ngài đã thực hiện. Nhưng khi nóng giận, những điều Xyrilô nói thật không luôn luôn dễ hiểu chút nào. Dĩ nhiên, Xyrilô chẳng quan tâm đến việc nói năng cách dịu dàng nên đôi lúc ngài cũng thốt ra những lời giận dữ.
Điều này đã làm cho Xyrilô cảm thấy sầu khổ. Tuy nhiên, các Kitô hữu biết ơn và vẫn cảm thấy rất dễ chịu vì nhiều đức tính quý báu nơi ngài. Chẳng hạn, Xyrilô đã can đảm đứng ra bảo vệ Giáo hội và các điều Giáo hội truyền dạy phải tin.
Thánh Xyrilô là vị đại diện của Đức Thánh cha Celestino I tại Công đồng chung Êphêsô năm 431. Đây là Hội nghị Giáo hội chính thức của trên 200 giám mục. Các vị phải suy cứu những giáo huấn của một linh mục tên là Nestôriô. Công đồng cắt nghĩa rõ ràng là Nestôriô đã sai lầm về một số chân lý quan trọng buộc giáo hữu phải tin. Đức Thánh cha cho Nestôriô 10 ngày để xác quyết là ông sẽ không tiếp tục giảng dạy những ý tưởng sai lầm của ông nữa. Nhưng Nestôriô ngoan cố không chịu nhượng bộ. Công đồng đã giải thích cho cộng đoàn dân Chúa hiểu rằng không thể chấp nhận những ý tưởng sai lầm ấy. Các giám mục đã cắt nghĩa rất sáng sủa và minh bạch đến nỗi những giáo huấn sai lầm này về sau đã không trở thành những hiểm họa nghiêm trọng.
Dân chúng biết ơn thánh Xyrilô Alexandria là người đã chủ tọa những buổi hội thảo của Công đồng. Nestôriô âm thầm trở về đan viện của ông và chấm dứt việc làm cho dân chúng hoang mang lo lắng.
Còn Xyrilô thì trở về tòa tổng giám mục và tích cực làm việc phục vụ Giáo hội cho tới khi qua đời năm 444.
Đến năm 1883, Đức Thánh cha Lêô XIII đã tôn phong thánh Xyrilô Alexandria làm Tiến sĩ Hội Thánh.

Chẳng có gì phải lo âu chán nản khi thấy chúng ta không làm được việc này việc kia như chúng ta phải làm. Chúng ta hãy nài xin thánh Xyrilô Alexandria giúp chúng ta biết sống với những giới hạn của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-10-2012, 03:32 PM
Ngày 28 tháng Sáu




THÁNH IRÊNÊ



Thánh Irênê là người gốc Hy Lạp, được sinh vào khoảng giữa những năm 120 và 140.
Irênê có đặc ân lớn lao là được giáo huấn bởi thánh Pôlycapô, môn đệ thánh Gioan tông đồ. Lần kia, thánh Irênê nói với một người bạn :
“Tôi rất cẩn trọng lắng nghe những lời chỉ dạy của thánh Pôlycapô. Tôi không ghi lại những hành động và lời nói của ngài trên giấy tờ nhưng trong tận trái tim tôi!”
Sau khi làm linh mục, thánh Irênê được sai đến thành Lyon, nước Pháp. Chính trong thành phố này, giám mục Pôtiniô đã được phúc tử đạo cùng với rất nhiều vị thánh khác. Lúc đó, thánh Irênê không được tử đạo vì các anh em linh mục của Irênê đã xin ngài chuyển giúp một sứ điệp quan trọng tới Đức Thánh cha ở Roma. Trong lá thư ấy, họ nói Irênê là một người đầy hăng hái và nhiệt thành đối với đức tin Công giáo.
Khi thánh Irênê trở về để nhận chức giám mục thành Lyon thì cuộc bách hại chấm dứt. Nhưng lại có một hiểm họa khác : đó là lạc thuyết gọi là thuyết Ngộ Đạo. Tà thuyết này đã hấp dẫn thu hút được một số người bởi nó hứa hẹn sẽ cho người ta được biết những mầu nhiệm huyền bí. Thánh Irênê nghiên cứu tất cả giáo thuyết của tà đạo này, và sau đó, thánh nhân đã chỉ ra những điểm sai lầm của nó trong 5 cuốn sách. Irênê trình bày rất thanh nhã vì ngài muốn đem mọi người trở về với Chúa Giêsu. Tuy thế, đôi chỗ Irênê cũng sử dụng những từ ngữ mạnh nghĩa. Chẳng hạn như ngài nói :
“Khi một người vừa theo phái Ngộ Đạo, nó liền lên mặt hãnh diện kiêu căng.Nó có dáng vẻ oai vệ của một chú gà trống tập đi khệnh khạng…”
Nhiều người đã đọc sách của thánh Irênê. Sau đó ít lâu, cả lạc thuyết bắt đầu tự phân tán hủy diệt.
Thánh Irênê qua đời khoảng năm 202. Nhiều người cho rằng Irênê đã chịu tử đạo.

Thánh Irênê luôn luôn ghi nhớ những điều thánh Pôlycapô truyền dạy. Chúng ta cũng có thể tạo cho mình một tập quán biết ơn đối với những người đã dạy bảo chúng ta những điều hay lẽ phải. Chúng ta hãy cố gắng mang những điều đã học ra thực hành. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho những người đã dạy dỗ chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-10-2012, 03:35 PM
Ngày 30 tháng Sáu




Các THÁNH TỬ ĐẠO Tiên Khởi Roma



Những người mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có một điểm chung : đó là các ngài đã hy sinh từ bỏ mạng sống mình vì Chúa Kitô. Các ngài được phúc tử đạo bởi vì các ngài là những người đã noi theo lối Chúa Giêsu.
Vào năm 64, những vi phạm luật nhân quyền của hoàng đế Nêrô đã vươn tới những chiều kích nằm ngoài sự mô tả. Khi đám cháy bất ngờ phát tỏa trong thành Roma ngày 16/07, thì người ta đều cho rằng chính hoàng đế là người phải lãnh trách nhiệm. Khi 2/3 thành phố Roma bị thiêu rụi, sự căm tức phẫn nộ bắt đầu dâng cao. Nêrô hoảng hồn lo sợ. ông cần một người đứng mũi chịu sào! Và thế là, ông đã đổ tội gây ra vụ hỏa hoạn cho các Kitô hữu.
Tacio, một sử gia danh tiếng thời ấy, đã ghi nhận rằng các Kitô hữu đã phải chịu những cái chết thật dã man hiểm độc. Một số bị ném cho các thú hoang ăn thịt. Số khác bị trói vào các cột trụ và trở nên những “ngọn đuốc người” thắp sáng các đường phố Roma. Chúng ta không biết được chính xác tổng số các vị tử đạo là bao nhiêu nhưng chứng từ đời sống và lễ vật của các ngài đã gây một ấn tượng đặc biệt cho mọi người.
Cuộc bách hại khủng bố đầu tiên của Nêrô dù là hoàng đế Roma cũng chẳng kéo dài mãi được. Giáo hội càng bị bách hại thì Giáo hội càng phát triển. Các thánh tử vì đạo đã trả một giá rất đắt để những ai bước theo các ngài sẽ có cơ hội giữ vững đức tin.

Chúng ta hãy cầu xin các Thánh Tử Đạo Tiên Khởi Roma ban cho lòng can đảm để trung thành với những điều Giáo hội truyền dạy. Các Thánh Tử Đạo này cũng nhắc nhớ chúng ta hãy nên nghiêm túc học hỏi về đức tin và đọc các sách vở Công giáo lành mạnh.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-10-2012, 12:31 AM
Ngày 01 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC JUNIPERO SERRA



Chân phước Junipero Serra sinh ngày 24/11/1713 tại ngôi làng Pétra, trên một hòn đảo mang tên Mallocca thuộc nước Tây Ban Nha.
Khi còn nhỏ, Junipero học tại trường dòng thánh Phanxicô ở Palma, cách xa nhà 25 dặm. Sau đó, Junipero gia nhập hội dòng này nhân ngày 14/09/1730, vài tháng trước kỷ niệm sinh nhật lần thứ 17 của ngài. Suốt thời gian nhà tập, Junipero đọc tiểu sử các thánh dòng Phanxicô. Vị thánh mà đời sống đã làm Junipero say mê nhất là thánh Phanxicô Sôlanô, sống từ năm 1549 đến 1610. Vị linh mục truyền giáo cho dân Nam Mỹ này được Đức Thánh cha Bênêđictô XIII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1726. Lúc đó, chàng tập sinh trẻ tuổi Junipero quyết tâm rằng nếu Thiên Chúa muốn thì chàng cũng sẽ trở thành một nhà truyền giáo.
Năm 1736, Junipero được thụ phong linh mục. Ngài là giáo sư dạy triết học tại học viện của dòng. Sau 20 năm làm việc, Junipero nhận được một cơ hội khá lý tưởng. Các linh mục dòng Phanxicô được kêu gọi tình nguyện đến truyền giáo tại những vùng đất “Tân Tây Ban Nha” (ngày nay là Mexico và California). Junipero và người bạn thân của ngài, cha Phanxicô Palo, đã tham gia nhóm truyền giáo tại Cadiz, một thành phố cảng thuộc Tây Ban Nha. Từ đó, các ngài vượt tàu từ Đại Tây Dương tới Vera Cruz, Mexico. Các ngài đặt chân tới đất liền ngày 06/12/1749. Junipero và một linh mục khác đã lội bộ tới phần tiếp theo của cuộc hành trình từ Vera Cruz tới thành phố Mexico, một đoạn đường dài 240 dặm. Các ngài khởi hành từ ngày 15/12/1749 và tới thành phố ngày 01/01/1750. Từ thành phố Mexico, cha Junipero và cha Phanxicô Palo lại được sai tới làm việc giữa những người Pamé Indiens tại trụ sở truyền giáo của dòng ở Sierra Gorda.
Nhiều linh mục lúc ấy được chỉ định tới các cứ điểm truyền giáo tại vùng thấp California. Junipero, Phanxicô và một nhóm nhỏ các tu sĩ Phanxicô khác thì được sai đem Tin Mừng cho những dân bản xứ trên vùng cao California. Cha Junipero khởi sự việc mục vụ truyền giáo tại San Diego ngày 16/07/1769, lúc cha 56 tuổi.
Cuộc truyền giáo là một lời mời gọi công khai những giáo dân thân yêu của ngài hãy đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Dần dần, họ đã tin vào các linh mục truyền giáo này. Một số người đã chịu phép Thanh Tẩy và bắt đầu sống đức tin Công giáo. Cha Serra và các linh mục dòng Phanxicô đã yêu mến và bảo vệ bổn đạo của mình.
Rồi một chuỗi những chuyến mục vụ truyền giáo mới lại bắt đầu :
- San Carlos ở Montery ngày 01/06/1770.
- San Antonio Padour ngày 14/07/1771.
- San Archangel Gabriel ngày 08/09/1771.
- San Luis Obispo ngày 01/09/1772.
- San Phanxicô Assisi ngày 09/10/1776.
- San Gioan Caspitrano ngày 01/11/1776.
- Santa Clara Assisi ngày 12/01/1777.
- San Bonaventura ngày 31/03/1782.
Cuối cùng, 6000 người dân bản xứ đã được lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Chân phước Junipero thực hiện chuyến mục vụ sau hết của ngài tại vùng cao California từ cuối năm 1783 đến tháng 07/1784.
Junipero qua đời trong an bình đang lúc thực hiện chuyến mục vụ San Carlos ngày 28/08/1784, và Junipero được mai táng tại đó.
Năm 1988, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Junipero Serra lên bậc chân phước.

Thế giới của chúng ta sẽ trở nên rất bé nhỏ nếu mỗi người tự thu gọn lại trong chính bản thân mình. Chúng ta hãy nài xin chân phước Junipero Serra chỉ cho chúng ta biết cách tỏ lòng thương cảm và quan tâm tới những người khác. Điều này sẽ giúp chúng ta khám phá ra những nhu cầu của tha nhân với tinh thần của Tin Mừng.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-10-2012, 12:35 AM
Ngày 02 tháng Bảy


THÁNH ÔLIVƠ PLUNKET



Thánh Ôlivơ Plunket sinh tại Ai Len vào ngày 01/11/1629. Ngài học tại trường thánh Maria thuộc đan viện Bênêđictô ở Dublin. Lên 16 tuổi, Ôlivơ Plunket sang Roma để tiếp tục việc học và chuẩn bị cho thiên chức linh mục.
Ôlivơ được thụ phong linh mục năm 1654, và sau đó, ngài lưu lại Roma suốt 15 năm phục vụ trong chức vị giáo sư thần học. Ôlivơ cũng là đại diện của các giám mục Ai Len tại tòa thánh. Vào năm 1669, cha Ôlivơ Plunket được đặt làm Tổng Giám mục giáo phận Armagh và là Giáo chủ của toàn cõi Ai Len.
Vào thời gian này, vua nước Anh, Carôlô II, đang cố gắng tìm cách ổn định Anh giáo ở Anh quốc, Scotland và Ai Len. Ông thực hiện điều đó bằng việc thủ tiêu các tôn giáo khác, bao gồm cả Công giáo. Đức Tổng Giám mục Plunket trở về Ai Len trong tư thế ngụy trang. Ngài mặc thường phục và lấy tên là thuyền trưởng Brown.
Vào tháng 05/1670, cuộc bách hại các Kitô hữu có phần dịu xuống, và Đức Tổng Giám mục Plunket có thể công khai làm việc trong giáo phận của mình. Trong 3 năm tiếp đó, ngài đã ban Bí tích Thêm Sức cho khoảng 10.000 tín hữu, ngài tổ chức lại giáo phận, truyền chức thánh cho các tân linh mục và mở nhiều trường học.
Nhưng đến năm 1673, cuộc bách hại các Kitô hữu lại tiếp diễn. Đức Tổng Giám mục Ôlivơ Plunket bị ép phải lẩn trốn. Năm 1678, một người tên là Titô Oates tung tin rằng các Kitô hữu đang lập kế hoạch mưu sát nhà vua và sẽ đặt em trai của vua, người theo đạo Công giáo, lên ngai vàng. Sau đó, người ta nhận biết là Oates đã tạo ra toàn bộ câu chuyện, và họ đã bỏ tù anh ta vì tội khai man trước tòa án (tức nói dối sau khi đã thề nói sự thật). Trong lúc đó, các giám mục và các linh mục Công giáo bị bắt buộc phải rời khỏi Ai Len.
Đức Tổng Giám mục Ôlivơ Plunket bị bắt ngày 06/12/1679, và bị biệt giam suốt 9 tháng tại Luân Đôn. Trong một án xử bất công, ngài đã bị kết án vì tội phản quốc. Ôlivơ Plunket bị treo cổ sáng ngày 01/07/1680 tại Tybơn, và ngài là người Công giáo sau cùng được phúc tử đạo tại Anh quốc.
Ôlivơ Plunket được Đức Thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1975.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Giáo hội để các ngài có đủ can đảm và lòng nhiệt thành phục vụ những người đã được trao phó cho các ngài, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm. Chúng ta cũng hãy cầu xin để các ngài được các bổn đạo của mình an ủi và nâng đỡ.


(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-10-2012, 01:22 PM
Ngày 04 tháng Bảy




THÁNH ELISABETH Bồ Đào Nha



Thánh nữ Elisabeth, công chúa nước Tây Ban Nha, sinh năm 1271. Ngài được đặt tên theo người cô, là thánh Elisabeth Hungary (lễ kính ngày 17/11).
Elisabeth kết hôn với vua Denis nước Bồ Đào Nha khi lên 12 tuổi. (Vì những lý do chính trị, lúc đó người ta xem là chuyện bình thường đối với những cuộc hôn nhân quan trọng, cô dâu hoặc chú rể thường rất trẻ, có khi mới chỉ là một em thiếu nhi). Elisabeth rất xinh đẹp và đáng yêu. Ngài cũng rất đạo đức và năng đi tham dự thánh lễ hàng ngày. Lúc đầu, vị hôn phu của Elisabeth rất yêu quý ngài, nhưng chẳng bao lâu ông đã làm cho ngài phải đau khổ nhiều. Dù là một nhà lãnh đạo tốt, Denis cũng không có được lòng yêu mến cầu nguyện và các nhân đức như người vợ của mình. Thực ra, các tội ô uế của ông là những vụ tai tiếng khắp nước ai ai cũng biết.
Thánh nữ Elisabeth đã cố gắng trở nên người mẹ đáng yêu đối với hai đứa con của mình : Alphongsô và Constancia. Thánh nữ cũng sống quảng đại và tỏ ra dễ mến đối với thần dân trong nước Bồ Đào Nha. Thậm chí dù chồng ngài có bất trung, thì Elisabeth vẫn kiên tâm cầu nguyện để một ngày nào đó ông sẽ thay đổi tâm hồn. Elisabeth không bao giờ tỏ ra bực dọc hoặc cay cú. Dần dần, vua Denis bị xúc động bởi lòng kiên nhẫn và gương sống tốt lành của Elisabeth. Ông bắt đầu cải thiện đời sống. Ông nhìn nhận tất cả là nhờ Elisabeth, và ông tỏ lòng tôn trọng rất mực đối với ngài. Trong cơn bạo bệnh cuối đời của vua, hoàng hậu đã luôn luôn có mặt ở bên giường ông, chỉ trừ thời gian tham dự thánh lễ. Vua Denis qua đời ngày 06/01/1325. Ông đã rất hối hận vì những tội lỗi của ông và qua đời trong an bình.
Elisabeth sống thêm 11 năm nữa. Thánh nữ đã gia nhập dòng Ba Phanxicô, làm nhiều việc bác ái và đền tội. Elisabeth là một mẫu gương tuyệt vời về lòng tử tế đối với những người nghèo khổ. Thánh nữ cũng là người kiến tạo hòa bình giữa các thành viên trong gia đình và giữa các quốc gia.
Thánh nữ Elisabeth Bồ Đào Nha qua đời ngày 04/07/1336. Ngài được Đức Thánh cha Urbano VIII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1626.

Thánh nữ Elisabeth Bồ Đào Nha đã tìm được sức mạnh để chu toàn cuộc sống hàng ngày nhờ tham dự thánh lễ ban sáng. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ giúp chúng ta cũng biết trân quý kho tàng thánh lễ vô giá này, bằng cách tham dự với lòng yêu mến và sốt sắng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-10-2012, 01:24 PM
Ngày 05 tháng Bảy




THÁNH ANTÔN MARIA ZACARIA



Thánh Antôn Maria Zacaria sinh tại nước Ý vào năm 1502.
Thân phụ Antôn qua đời lúc ngài còn rất nhỏ. Thân mẫu Antôn khuyến khích ngài với một tình yêu thương đặc biệt, và chính nhờ tình yêu thương này mà Antôn rất dễ cảm thông đối với những đau khổ của người nghèo. Bà Zacaria đã gửi Antôn tới theo học tại trường đại học Pađua để sau này Antôn có thể trở thành bác sĩ. Và chỉ mới 22 tuổi, Antôn đã tốt nghiệp đại học.
Bác sĩ trẻ Antôn Maria Zacaria làm việc rất thành công. Tuy vậy, Antôn vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn. Antôn nhận thấy mình muốn trở thành một linh mục. Và Antôn bắt đầu học thần học. Ngài cũng tiếp tục chăm sóc những người đau bệnh, an ủi và khích lệ những người hấp hối. Antôn cố gắng dùng mọi giờ rảnh để đọc và suy niệm các thư của thánh Phaolô trong Kinh Thánh. Antôn đã đọc truyện về vị tông đồ vĩ đại Phaolô nhiều lần và cũng suy tư rất nhiều về các nhân đức của thánh Phaolô. Giờ đây tâm hồn Antôn Maria Zacaria đang trào lên một niềm khao khát mãnh liệt muốn trở nên một vị thánh để đem mọi người về với Chúa Giêsu.
Sau khi thụ phong linh mục, thánh Antôn Maria chuyển tới sống tại một thành phố lớn và rất nổi tiếng là Milan. Ở đó, thánh nhân có dịp giúp đỡ nhiều người hơn. Thánh Antôn cũng thiết lập một hội dòng gọi là dòng Các Linh Mục. Các linh mục tu ở đây được gọi là các giáo sĩ dòng Thánh Phaolô. Người ta cũng gọi các ngài là “Các giáo sĩ Barnaba”, vì nhà mẹ của hội dòng được xây cất gần nhà thờ kính thánh Barnaba ở Milan, nước Ý.
Noi gương thánh tông đồ Phaolô, thánh Antôn và các linh mục dòng ngài đã đi rao giảng khắp nơi. Các ngài năng sử dụng và hay lặp lại những câu nói của thánh Phaolô. Các ngài giải thích sứ điệp của thánh Phaolô bằng những từ dễ hiểu. Dân chúng đã yêu thích và rất ưa chuộng lối giảng giải này. Thánh Antôn Maria Zacaria cũng có một tình yêu say mê đối với Chúa Giêsu Thánh Thể, và thánh nhân hay khuyến khích việc chầu Thánh Thể Bốn Mươi Giờ.
Thánh Antôn Maria Zacaria qua đời ngày 05/07/1539, lúc mới được 37 tuổi.
Đức Thánh cha Lêô XIII đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh năm 1897.

Thánh Antôn Maria Zacaria có một lòng mộ mến đặc biệt đối với thánh Phaolô tông đồ. Ngài thường nói : “Tôi chưa bao giờ xin thánh Phaolô điều gì mà lại bị từ chối.” Chúng ta cũng hãy đọc các thư của thánh Phaolô và nài xin thánh nhân ban cho những ơn cần thiết.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-10-2012, 01:31 PM
Ngày 07 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC RÔGIƠ ĐICKENSƠN, RALPH MILNƠ




và LAURENSÔ HUMPHRÊY


Cả ba vị chân phước tử đạo này sống ở nước Anh vào thời nữ hoàng Elisabeth I bách hại Giáo hội Công giáo.
Ralph Milnơ là người chồng và là người cha. Ngài là một nông dân lo việc đồng áng và được gia nhập Giáo hội vì có đời sống rất mực đạo hạnh. Ngày Ralph Milnơ được Rước lễ lần đầu cũng chính là ngày ngài phải ngồi tù vì tội danh là Kitô hữu. Tuy nhiên, người cai tù có cảm tình với Milnơ, vì thế, việc giam cầm đối với Milnơ thoạt đầu không mấy nghiêm ngặt. Suốt nhiều năm, Milnơ đã thực hiện tốt “lời cam kết của tù nhân” và giúp cung cấp lương thực cũng như vật dụng cho các tù nhân bạn. Khi được tha vì đã cam kết tốt, Milnơ trở nên cánh tay rất đắc lực của cha Stanny, một linh mục thuộc dòng Tên, và “ông” Rôgiơ Đickensơn, một linh mục triều đang hoạt động bí mật.
Rồi cha Đickensơn cũng bị bắt. Cha và Milnơ bị đưa ra xét xử cùng ngày. Cha Đickensơn bị xử vì tội danh là linh mục Công giáo, Milnơ bị xử vì tội đã giúp cha Đickensơn thi hành sứ vụ. Viên quan tòa đưa mắt nhìn về phía đám đông đang ngồi trong phòng xử. Ông nghĩ tới bà Milnơ và 8 người con. Ông muốn phóng thích Milnơ bằng bất cứ giá nào.
“Việc ông phải làm,” – viên quan tòa nói – “là tới thăm viếng một nhà thờ Thệ phản, chỉ trong ít phút thôi, và hãy nói là ông đã ở đó. Tôi sẽ thả ông về với gia đình của ông.”
Milnơ yên lặng và kiên quyết từ chối. Milnơ và cha Đickensơn đã anh dũng nhận lấy cái chết. Đó là ngày 07/07/1591.
Vị tử đạo thứ ba, Laurensô Humphrêy, đã được cha Stanny đưa vào Giáo hội. Ngài cũng kiên quyết giữ vững đức tin đã lãnh nhận. Laurensô Humphrêy vừa tròn 21 tuổi khi chịu tử vì đạo.

Mỗi một vị tử đạo nhắc nhớ chúng ta rằng có một kho tàng quý giá rất đáng được chúng ta ra công bảo vệ. Các ngài nhận thấy giá trị đích thực của đức tin Công giáo và không chịu bỏ mất vì bất cứ lý do gì. Chúng ta hãy cầu xin với các chân phước Rôgiơ, Ralph và Laurensô. Các ngài sẽ giúp chúng ta yêu mến và trân quý niềm tin của mình như các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-10-2012, 01:34 PM
Ngày 08 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC GIORGIÔ FRASSATI



Pier Giorgiô Frassati sinh ngày 06/04/1901 tại thành phố Turino, nước Ý. Cha của ngài, ông Alfredo, là nhà sáng lập và là giám đốc tờ báo Italia, đồng thời ông cũng là một chính trị gia. Mẹ của Pier Giorgiô, bà Ađêlaiđê, là một họa sĩ. Ông bà Frassati không phải là một mẫu cha mẹ lý tưởng chút nào. Ông Alfredo thì chống đối con cái và bà Ađêlaiđê thì có tính bối rối và hay phê phán. Họ tham dự thánh lễ chỉ vì đó là một bổn phận.
Từ thuở nhỏ, Pier Giorgiô đã rất nhạy cảm với những nhu cầu của người khác. Ngày kia, có một bà hành khất nghèo khó tới gõ cửa nhà của gia đình Frassati. Bà ôm trong vòng tay một đứa trẻ không mang giầy. Không chút do dự, cậu nhỏ Pier Giorgiô lúc ấy 4 tuổi liền cởi ngay giầy đang mang ở chân ra và trao cho đứa bé nghèo khổ kia.
Pier Giorgiô có đời sống đạo hạnh hơn cha mẹ. Lên 14 tuổi, ngài bắt đầu tham dự thánh lễ và rước lễ hầu như mỗi ngày. Pier Giorgiô gia nhập dòng Ba ĐaMinh do bị lôi cuốn bởi linh đạo vừa chiêm niệm vừa hoạt động của hội dòng này. Sứ vụ của Pier Giorgiô là chăm lo cho những người nghèo khổ. Ngài tới những căn nhà dơ bẩn của những người nghèo lưu lại bên giường của những bệnh nhân và luôn luôn tâm niệm rằng mình đang thăm viếng Đức Kitô. Dù gia đình khá giả, Pier Giorgiô cũng chỉ ra đi làm việc bác ái với hai bàn tay trắng. Ngài không muốn sử dụng tài sản của gia đình.
Bạn bè của Pier Giorgiô nhận biết ngài như một người tinh nghịch, ham thích leo núi và trượt tuyết. Pier Giorgiô cũng là người hoạt động cho công bằng xã hội, tham gia các nhóm ủng hộ tôn giáo và chống lại chủ nghĩa phát-xít. Và Pier Giorgiô đã phải vào tù sau một trong nhiều lần biểu tình, tại đây Pier đã dùng nhiều thời giờ để đọc kinh Mân Côi và khích lệ bạn bè.
Đến năm 1925, Pier Giorgiô bị lây nhiễm bại liệt từ một bệnh nhân của ngài. Vào tháng 6, Pier Giorgiô bị ốm nặng nhưng ngài vẫn âm thầm chịu đựng, vì cùng lúc ấy tại gia đình Frassati, bà ngoại của ngài đang hấp hối. Pier Giorgiô cho biết là bị cảm sốt nhưng gia đình chẳng quan tâm nhiều tới ngài. Khi bà ngoại qua đời, chẳng ai biết được là Pier Giorgiô cũng sắp lìa bỏ thế gian này mà về cùng Chúa. Thân mẫu Pier, không đi dự lễ tang bà ngoại mà ở nhà với Pier, đã trách cứ Pier vì bị cảm cúm vào thời điểm bất tiện như thế. Nhưng chẳng bao lâu, bà nhận ra rằng con trai mình thật bị bệnh rất nặng chứ không phải chỉ là cảm sốt qua loa như bà tưởng. Ba ngày sau, Pier Giorgiô về trời!
Những giờ phút cuối đời của Pier Giorgiô diễn ra trong bầu khí thinh lặng cầu nguyện, và ngài đã để lại những chỉ dẫn sau cùng trong việc giúp đỡ người nghèo, những người luôn hiện diện trong trái tim của Pier.
Thế rồi, buổi sáng ngày 04/07/1925, Pier Giorgiô đã an bình ra đi sau khi lãnh nhận Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Khi ấy, Pier Giorgiô được 24 tuổi. Ít lâu sau cái chết của Pier Giorgiô, gia đình Frassati rất đỗi sửng sốt khi thấy từng đám người chen chúc nhau tới nhà thờ để tham dự thánh lễ an táng Pier Giorgiô. Họ là những người nghèo khổ mà Pier Giorgiô đã giúp đỡ trong cuộc đời vắn vỏi của ngài. Họ đến để bày tỏ tấm lòng tôn kính đối với vị ân nhân trẻ tuổi rất đặc biệt này.
Pier Giorgiô được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 1990.

Chân phước Pier Giorgiô Frassati đã đặt Đức Kitô làm trung tâm cuộc đời của ngài. Thay vì cảm thấy buồn tủi vì gia đình không hiểu mình, Pier Giorgiô đã dồn mọi quan tâm để lo cho những người kém may mắn hơn ngài. Với việc làm này, Pier Giorgiô là chứng nhân đích thực của niềm vui Tin Mừng. Chúng ta hãy nài xin chân phước Pier Giorgiô Frassati giúp chúng ta cũng biết chia sẻ niềm vui của mình cho người khác.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-10-2012, 01:05 PM
Ngày 09 tháng Bảy


THÁNH AUGUSTINO ZHAO RONG và Các Bạn Tử Đạo



Ngày hôm nay, Giáo hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa.
Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustino Zhao Rong, đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 122 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.
Vào năm 1815, một giám mục tên Gioan Grabiel Dufresse bị bắt. Lúc ấy, việc thực hành đạo Kitô bị coi là một hành vi chống lại luật lệ của đất nước Trung Hoa. Một anh lính Trung Hoa canh giữ Đức Giám mục rất đỗi khâm phục ngài bởi sự bình thản và lòng kiên nhẫn đối với cuộc bách hại. Sau khi Giám mục Dufresse bị giết, người lính này đã xin gia nhập Giáo hội. Anh được chịu phép Thanh Tẩy và nhận tên là Augustino. Sau này, Augustino gia nhập chủng viện và học làm linh mục.
Thụ phong linh mục chẳng bao lâu, Augustino cũng bị bắt vì là Kitô hữu. Người ta đã tra tấn Augustino dữ dội hầu làm cho ngài chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, những đau khổ ấy lại chỉ giúp cho Augustino Zhao Rong thêm can đảm và làm xác tín hơn niềm tin của ngài. Augustino Zhao Rong bị lên án tử và tên ngài được ghi vào danh sách các tín hữu Trung Hoa anh dũng đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin của mình.
Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới 7 tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.

Chúng ta hãy noi gương thánh Augustino Zhao Rong và Các Bạn Tử Đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-10-2012, 01:09 PM
Ngày 10 tháng Bảy




THÁNH VERONICA JULIANI



Thánh nữ Ursula Juliani sinh tại nước Ý vào năm 1660.
Ngay từ thiếu thời, thánh nữ đã ham ước sống cuộc đời thánh thiện. Dù cho thân phụ muốn Juliani kết hôn, nhưng năm lên 17 tuổi, Juliani đã xin vào dòng nữ Capuxinô. Và ngài nhận tên là Veronica.
Năm 37 tuổi, dì Veronica bắt đầu cảm thấy có sự đau đớn trong thân thể mình, đó là những thống khổ mà Chúa Kitô đã chịu trong suốt cuộc tử nạn đau thương của Người. Sau đó, Veronica được nhận Năm Dấu Thánh của Chúa Giêsu.
Đức Giám mục, sau khi điều tra về các vết đinh ở tay và chân của Veronica, đã tuyên bố đó là tặng ân siêu nhiên của Thiên Chúa. Dì Veronica tận hiến đời mình để sống chiêm niệm và cầu nguyện. Dì cũng nhận một nhiệm vụ quan trọng là tập sư. Với cương vị tập sư, Veronica hướng dẫn các nữ tập sinh trong tu viện. Veronica thi hành chức vụ này suốt 34 năm. Rồi chị em trong dòng chọn thánh nữ làm bề trên, và Veronica đã hướng dẫn hội dòng suốt 11 năm sau cùng của cuộc đời ngài.
Lúc về già, cha giải tội của thánh nữ Veronica trao cho ngài nhiệm vụ ghi lại những kinh nghiệm thiêng liêng.
Veronica qua đời ngày 09/07/1727. Ngài được phong thánh năm 1839 và được coi là một trong những nhà thần bí lớn nhất của thế kỷ thứ XVIII.

Thánh nữ Veronica Juliani rất trung thành trong công việc chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô. Cách tuyệt hảo nhất để thực hiện lòng trung thành này là năng đọc sách về cuộc khổ nạn của Chúa trong Tin Mừng. Điều này sẽ thúc đẩy chúng ta sống thánh thiện, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân nhiều hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-10-2012, 09:05 PM
Ngày 12 tháng Bảy


THÁNH GIOAN GAULBÊTÔ



Thánh Gioan Gaulbêtô sinh tại thành Florentia, nước Ý, vào cuối thế kỷ thứ X.
Ngài và thân phụ đã phải choáng váng rụng rời khi nghe tin Hugh, người em trai duy nhất của Gioan bị sát hại. Người gây ra án mạng được cho là bạn thân của Hugh. Bị thân phụ thúc giục và bị thúc đẩy bởi cơn nóng giận, Gioan bắt đầu tìm cách để trả thù cho cái chết của em trai mình. Gioan cảm thấy danh dự của ngài tùy thuộc vào chuyện đó.
Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, Gioan Gaulbêtô đã giáp mặt với kẻ sát nhân trong một lối đi hẹp của thành phố. Gioan rút gươm ra khỏi vỏ và bắt đầu xông vào kẻ giết người. Bấy giờ kẻ giết Hugh đã quỳ xuống dưới chân Gioan. Anh làm dấu Thánh Giá trên mình và, nhân danh tình yêu của Chúa Giêsu chịu tử hình thập giá, anh xin Gioan tha thứ. Với một cố gắng lạ thường, Gioan Gaulbêtô đã hạ gươm xuống! Ngài ôm hôn kẻ thù rồi đi về phía cuối đường. Khi tới nhà thờ của một tu viện nọ, Gioan Gaulbêtô đã bước vào và đến quỳ trước bức tượng Chúa Chịu Nạn. Ngài xin Chúa tha tội cho mình. Rồi một phép lạ đã xảy ra! Chúa Kitô trên Thánh Giá đã cúi đầu chào Gioan Gaulbêtô. Dường như Chúa nói với Gioan rằng Chúa rất hài lòng vì hành động Gian tha thứ cho kẻ thù. Lúc ấy, Gioan Gaulbêtô cũng cảm thấy tội lỗi mình được tha. Một sự biến đổi bao phủ lấy Gioan Gaulbêtô khiến ngài đi thẳng tới gặp vị bề trên của tu viện ấy và xin gia nhập cộng đoàn.
Khi thân phụ của Gioan nghe biết việc này, ông tuyên bố sẽ đốt cháy cả tu viện nếu con trai ông không trở về nhà. Các tu sĩ lo lắng không biết phải làm gì? Gioan Gaulbêtô liền giải quyết vấn đề bằng cách cắt tóc và mượn một bộ tu phục của một tu sĩ. Ngài mặc áo vào và ra gặp thân phụ. Quá khâm phục trước nghĩa cử dấn thân của con mình, người cha đã để cho Gioan ở lại. Thánh Gioan Gaulbêtô về sau lại muốn sống cuộc đời khắc khổ hơn. Ngài đã ra đi và lập một hội dòng cho riêng mình.
Thánh Gioan Gaulbêtô là kiểu mẫu cho việc bắt chước lối sống giản dị của Chúa Giêsu. Thánh nhân cũng hết lòng quan tâm tới những người nghèo khổ đến xin ngài giúp đỡ tại cổng tu viện. Thiên Chúa đã ban cho Gioan Gaulbêtô ơn làm phép lạ và ơn hướng dẫn tâm hồn người khác. Ngay cả thánh Giáo hoàng Lêô IX cũng đến với Gioan Gaulbêtô để xin lời khuyên bảo.
Thánh Gioan Gaulbêtô về trời ngày 12/07/1073. Đến năm 1193, Đức Thánh cha Cêlmentê III đã tôn phong Gioan Gaulbêtô lên bậc hiển thánh.

Ngay cả những tội nặng nề nhất cũng có thể được Thiên Chúa tha thứ. Nếu chúng ta tha thứ cho những người mắc lỗi với chúng ta, Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho những lỗi phạm của chúng ta. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Gaulbêtô giúp chúng ta có được trái tim tha thứ như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-10-2012, 09:09 PM
Ngày 14 tháng Bảy


CHÂN PHƯỚC KATERI TÊKAKWITHA



Vào giữa những năm 1642 và 1649, thánh Isaac Giogiơ và Các Bạn Tử Đạo đã từ Pháp trẩy tàu sang vùng Đất Mới để rao giảng Tin Mừng. các ngài đã bị những người Mohawk giết hại đang khi rao giảng Lời Chúa cho những người Indiens Huron.
10 năm sau khi thánh Isaac qua đời. Kateri Têkakwitha được sinh ra ngay tại ngôi làng mà thánh Isaac đã tử vì đạo, (chúng ta cử hành thánh lễ kính thánh Isaac và Các Bạn Tử Đạo vùng Bắc Mỹ ngày 19/10).
Têkakwitha sinh tại Auriesville, New York vào năm 1656. Thân mẫu ngài là một Kitô hữu người Mỹ gốc Algonquin. Thân phụ ngài là tù trưởng của dân Mohawk, chưa gia nhập đạo. Cha mẹ và anh trai của Têkakwitha đã chết vì căn bệnh đậu mùa khi Tekakwitha mới lên 4 tuổi. Cũng căn bệnh này đã hủy hoại vẻ đẹp và làm cho khuôn mặt của Têkakwitha bị biến dạng. Người chú, cũng là tù trưởng của dân Mohawk, đã nuôi nấng Têkakwitha. Đây là cách thế Tekakwitha gặp gỡ các nhà truyền giáo. Vào một dịp kia, chú của Têkakwitha tiếp đón 3 nhà truyền giáo thuộc dòng Tên. Têkakwitha được nghe những lời chỉ dạy về đức tin. Rồi ngài được chịu phép Thanh Tẩy vào Chúa nhật Phục Sinh năm 1676. Đó cũng là dịp Têkakwitha nhận tên thánh Kateri, nghĩa là Catarina.
Ngôi làng Têkakwitha đang sống chưa phải là ngôi làng Công giáo. Thực sự, chẳng có Kitô hữu nào sống trong căn nhà của Têkakwitha. Việc Têkakwitha chọn lối sống độc thân đã làm cho những người Indiens phật lòng. Họ đã lăng mạ Têkakwitha và có vài người đã phẫn nộ vì Têkakwitha không chịu làm việc trong ngày Chúa nhật. Nhưng Kateri vẫn giữ vững lập trường của mình. Ngài đã đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, ngay cả khi bị người ta giễu cợt. Kateri đã nhẫn nại chấp nhận và âm thầm chịu đựng.
Cuộc sống của Kateri càng trở nên khó khăn vì sự bách hại của những người cùng làng. Sau hết, Kateri đã trẩy tới sống tại một ngôi làng Công giáo gần Montrieux. Tại đây, vào ngày lễ Chúa Giáng Sinh năm 1677, Kateri đã được Rước lễ lần đầu. Và đó là một ngày hồng phúc! Cha Phêrô Côlônec, một linh mục thuộc dòng Tên, đã hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho Kateri suốt 3 năm sau đó.
Kateri và một phụ nữ Irôquơ tên Anastasia đã sống đời Kitô hữu rất quảng đại và phấn khởi. Vào ngày 25/03/1679, Kateri đã tuyên lời khấn tự giữ mình đồng trinh.
Ngài chỉ mới được 24 tuổi khi phải lìa thế ngày 17/04/1680. Sau đó đúng 300 năm, vào ngày 22/06/1980, Kateri Têkakwitha được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước.
Người ta đã đặt cho Kateri Têkakwitha một tên gọi rất dễ thương, “bông hoa huệ của những người Mohawk”.

Chân phước Kateri Têkakwitha đã nhận được hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu qua những hy sinh gian khó của các vị thừa sai. Chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa Giêsu vì Người đã sai các thừa tác viên đem Tin Mừng đến cho chúng ta. Họ là ai? Là ông bà, cha mẹ, người thân, cha xứ, giáo lý viên… Chúng ta hãy nài xin chân phước Kateri Têkakwitha dạy chúng ta sống biết ơn qua việc chia sẻ đức tin của mình cho những người khác.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-10-2012, 07:21 AM
Ngày 16 tháng Bảy




ĐỨC MẸ núi CátMinh



CátMinh là ngọn núi trông xuống vùng đồng bằng Galilê. Đó là một ngọn núi danh tiếng bởi vì tiên tri Êlia, vị tiên tri sống trước thời Chúa Giêsu, đã được sinh ra tại đây. Và tiên tri Êlia cũng đã làm phép lạ ở đó. Chương thứ 18 trong sách Các Vua quyển thứ I kể rằng Êlia đã đương đầu chống lại 450 nhà tiên tri của vị thần Baal. Bằng lời cầu nguyện, Êlia đã xin Thiên Chúa làm một phép lạ để minh chứng rằng Thiên Chúa của Êlia là Thiên Chúa chân thật. Và Thiên Chúa đã nhận lời Êlia cầu xin.
Sau đó nhiều thế kỷ, vào thế kỷ thứ XIII, có một nhóm tu sĩ Âu châu bắt đầu đến sống trên núi CátMinh. Họ tôn kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, với tước hiệu Đức Mẹ núi CátMinh. Vì lý do này mà người ta gọi họ là các cha dòng Đức Mẹ CátMinh. Đây là lý do dòng CátMinh được thành lập. Đức Thánh cha Hônôriô III phê chuẩn tu luật của hội dòng vào năm 1226.
Vào năm 1247, Simon Stock, một linh mục gốc Anh, trở thành bề trên của tất cả mọi tu sĩ CátMinh. Ngài đã giúp hội dòng phát triển và thích nghi với thời đại. Ngài đã hướng dẫn hội dòng bắt chước kiểu mẫu của ĐaMinh và của Phanxicô.
Vào ngày 16/07/1251, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Simon Stock và trao cho thánh nhân Áo Đức Bà Nâu (còn gọi là Áo Đức Bà Camêlô). Lúc ấy, Đức Mẹ hứa sẽ bảo trợ những ai mang áo thánh này. Và nhiều phép lạ đã xảy ra để minh chứng cho lời Đức Mẹ đã nói.
Thánh Piô XX, được bầu làm giáo hoàng từ năm 1903 tới năm 1914, nói rằng người ta cũng nhận được những phúc lành tương tự như thế nếu họ mang ảnh đeo thay Áo Đức Bà. Ảnh đeo này một mặt có hình Đức Mẹ Camêlô và mặt kia có hình Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Simon Stock qua đời tại Bordeaux, nước Pháp vào năm 1265.

Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, cũng chính là Mẹ của mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy nài xin Mẹ giúp đỡ để ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Mẹ sẽ bảo vệ chúng ta trong cuộc sống và giúp đỡ chúng ta khi lâm tử. Chúng ta có thể bày tỏ lòng tôn kính Mẹ bằng việc mang Áo Đức Bà Nâu hay ảnh đeo thay Áo Đức Bà.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-10-2012, 07:24 AM
Ngày 17 tháng Bảy


THÁNH LÊÔ IV



Thánh Lêô IV sống vào thế kỷ thứ IX. Thánh nhân sinh tại thành Roma và đã sống trọn cuộc đời tại thành phố này.
Lêô được giáo dục tại tu viện dòng thánh Bênêđictô tọa lạc gần vương cung thánh đường thánh Phêrô. Lêô được thụ phong linh mục và đã thi hành sứ vụ của mình tại vương cung thánh đường thánh Gioan Latêranô. Lêô rất ư nổi danh và được cả hai Đức Giáo hoàng ngưỡng mộ. Đức Grêgôriô IV truyền chức phó tế, và Đức Sêgiô II đặt Lêô làm Hồng y.
Những lời đồn đại về cuộc xâm lăng của quân man di Saraxen đã làm cho người dân Roma hoảng sợ. Họ không muốn bị đi đày mà không có Giáo hoàng. Cả các Hồng y cũng vậy. Họ đã nhanh chóng chọn một vị lên kế nhiệm Đức Sêgiô II. Và vị kế nhiệm được lịch sử biết đến đó chính là Đức Thánh cha Lêô IV.
Với cương vị là Giáo hoàng, thánh Lêô IV đã cho sửa lại các bức tường của thành phố. Những bức tường này đã bị quân Saraxen tấn công và làm hỏng hồi năm ngoái. Thánh nhân đã phục hồi nhiều ngôi thánh đường và đã đưa nhiều thánh tích trở về Roma. Ngài bắt đầu chương trình canh tân hàng giáo sĩ. Thực ra, thánh nhân đã triệu tập hội nghị các linh mục Roma vào năm 853. Ngài đã duyệt y 42 điều luật nhằm giúp các linh mục sống nhiệt thành hơn, ham mộ cầu nguyện hơn và vui sướng hơn với sứ vụ thánh thiện của mình.
Có vài giám mục đã làm cho Đức Thánh cha Lêô IV phải đau khổ vì gương xấu. Họ công khai chống đối Giáo hoàng và không chịu thay đổi lối sống. Dù cho Giáo hoàng Lêô bị lăng nhục cách nào thì ngài vẫn nhẫn nại và cương quyết. Thánh nhân vẫn không chịu để cho những khó khăn hay lo lắng nào thắng lướt ngài. Lêô vẫn tiếp tục dâng hiến thời giờ và sức lực cho Chúa Giêsu và Giáo hội. Ngài yêu thích những kinh nguyện hay trong phụng vụ, và ngài đã khuyến khích nền thánh nhạc và thánh ca phụng vụ.
Dân chúng yêu mến thánh Lêô. Trong cuộc đời của mình, hình như Lêô đã làm một phép lạ. Người ta kể rằng ngài đã dập tắt một đám cháy khủng khiếp ở Roma chỉ bằng một dấu Thánh Giá. Đức Thánh cha Lêô IV tiếp tục phục vụ Giáo hội với niềm hăng say phấn khởi cho đến tận giây phút sau cùng.
Thánh nhân về trời ngày 17/07/855.

Thánh Giáo hoàng Lêô IV đã sống trong một thời đại hoảng loạn. Thánh nhân đã gặp nhiều khó khăn và thử thách nhưng ngài đã luôn luôn bình thản và vui tươi. Mỗi khi nóng giận, chúng ta hãy nài xin thánh Giáo hoàng Lêô IV giúp chúng ta biết tin cậy vào Thiên Chúa để tìm được niềm vui và bình an đích thực.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-10-2012, 03:48 PM
Ngày 18 tháng Bảy
THÁNH CAMILLO LELLIS
(Bổn mạng các bệnh nhân và Quan thầy của giới y tá)



Thánh Camillo Lellis sinh tại thành Napoli, nước Ý vào năm 1550.
Cuộc sống thơ ấu của Camillo không mấy tốt đẹp. Tuổi thanh niên Camillo gia nhập quân đội và mắc phải thói cờ bạc. Nết xấu này làm cho Camillo lúc 24 tuổi phải nghèo xơ nghèo xác. Vì muốn thay đổi cuộc đời, Camillo đã xin vào tu trong dòng Capuxinô ở thành Napoli. Thế nhưng Camillo không thể tuyên khấn ở trong dòng được bởi cái chân của ngài bị thương trong một trận chiến hồi ngài là quân nhân mà cho tới nay vẫn không thể chữa trị được. Và thay vào đó, Camillo bắt đầu đi chăm sóc các người đau ốm trong thành phố Roma, rồi ngài đã trở thành giám đốc bệnh viện thánh Giacôbê.
Vị hướng dẫn tinh thần của Camillo, thánh Philipphê Nêri (lễ kính ngày 26/05), là một linh mục rất thánh thiện ở Roma. Cha Philipphê đã giúp Camillo học làm linh mục. Sau đó, Camillo được thụ phong. Cha Camillo quyết định thành lập một nhóm đạo đức tình nguyện chăm sóc những người đau ốm. Cùng với hai người phụ tá, Camillo đã thiết lập một hội dòng chuyên lo cho những người đau bệnh, gọi là dòng Camêlô.
Các tu sĩ Camêlô phục vụ trong các bệnh xá ở Roma và Napoli, cũng như giúp các nạn nhân mắc bệnh dịch tả trên các boong tàu ở hải cảng Roma. Camillo cùng các anh em linh mục và tu sĩ dòng ngài cũng đến với những người nghèo, người bệnh không ai chăm sóc. Các ngài đã liều mạng sống mình để đem an vui và hy vọng đến cho những bệnh nhân mắc bệnh lây nhiễm. Với thời gian, hội dòng phát triển và có thêm nhiều thành viên mới. Thánh Camillo Lellis cũng gởi người tới giúp các binh lính bị thương tại Hungary và Croatia. Đây là đơn vị y khoa đầu tiên có mặt trên chiến trường.
Thánh Camillo Lellis qua đời tại Roma ngày 14/07/1614 sau một cơn bệnh lâu dài. Ngài được phong thánh năm 1746.
Đức Thánh cha Lêô XIII đã đặt thánh Camillo Lellis làm thánh bổn mạng của các bệnh nhân. Đức Thánh cha Piô X thì tôn ngài làm thánh quan thầy của giới y tá.

Thánh Camillo Lellis đã ước muốn phục vụ Thiên Chúa nhưng ý tưởng ban đầu của thánh nhân lại không thực hiện được. Thay vì buông xuôi mọi sự, thánh nhân đã cố gắng xoay xở để tìm một giải pháp khác. Đặt mình dưới sự hướng dẫn của thánh ý Thiên Chúa, thánh Camillo Lellis đã thực hiện được giấc mơ là trở thành linh mục. Chúng ta không biết được chính xác Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì, nhưng nếu chúng ta cứ mở lòng đón nhận Ngài và phục vụ Ngài trong những anh chị em của chúng ta, thì lúc ấy Thiên Chúa sẽ thực hiện kế hoạch đặc biệt của Ngài trong cuộc đời chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”
của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
31-10-2012, 03:56 PM
Ngày 19 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC PHÊRÔ TÔRÔ



Phêrô Tôrô sinh năm 1912 tại đảo Papua, thuộc Tân Guinéa. Thân phụ ngài giữ chức trưởng làng, đã mời những nhà truyền giáo tới dạy dỗ dân làng. Cha mẹ của Phêrô là những tín hữu nhiệt thành, hay giúp đỡ những người nghèo khổ và mồ côi trong làng.
Vào độ tuổi niên thiếu, Phêrô rất ham thích cầu nguyện và viếng Thánh Thể. Cha xứ và thân phụ của Phêrô, nhận thấy niềm tin và những khả năng nơi Phêrô, đã khích lệ Phêrô trở thành một giáo lý viên. Hầu hết công việc rao giảng Tin Mừng ở Tân Guinéa được thực hiện bởi các giảng viên giáo lý. Vai trò chủ yếu của họ là hướng dẫn các anh chị em tân tòng, tổ chức các buổi cầu nguyện và chăm sóc những người đau yếu tật nguyền.
Phêrô được giao cho công việc phục vụ trong làng. Ngài đã tổ chức các nhóm cầu nguyện và dạy các lớp giáo lý. Phêrô rất am hiểu Kinh Thánh, luôn luôn mang bên mình một quyển Phúc Âm và ngài dựa vào đó để cắt nghĩa các bài học giáo lý. Đức tính hiền hậu và sự quan tâm chân thành đối với mọi người trong bộ tộc đã lôi kéo nhiều người đến với Phêrô. Họ nói rằng Phêrô đã thực hiện hết mọi điều ngài giảng dạy.
Vào ngày 11/11/1936, Phêrô Tôrô kết hôn với Paula La Varpit, một thiếu nữ Công giáo ở ngôi làng cạnh bên. Họ đã có với nhau tất cả 3 người con. Phêrô là người chồng và là người cha thật dễ thương và tuyệt vời. Mỗi ngày Phêrô cùng cả gia đình họp nhau đọc kinh và cầu nguyện chung.
Vào tháng 03/1942, trong Đại Thế chiến thứ II, người Nhật đã chiếm lấy hòn đảo nhỏ bé này. Sau một thời gian khoan nhượng với tôn giáo, người Nhật đã hạn chế các hoạt động truyền giáo. Chẳng bao lâu, tất cả các nhà truyền giáo, cả Công giáo lẫn Giám Lý hội đều bị bắt giam. Khi vị linh mục ở làng của Phêrô bị ép phải ra đi, ngài đã bắt tay Phêrô và nói :
“Cha trao công việc của cha lại cho con. Con hãy cẩn thận chăm sóc những người này. Đừng để họ lãng quên Thiên Chúa!”
Phêrô Tôrô đã thực hiện kỹ càng điều đó. Ngài và các giảng viên giáo lý khác đã giúp giữ cho đức tin Công giáo luôn được sống mãi. Phêrô cũng học được một ít tiếng Nhật và ngài có thể làm quen với các giới chức hải quân Nhật. Nhưng sau khi quân cảnh nắm quyền, họ tưởng là các Kitô hữu đã cầu nguyện cho quân Nhật bại trận. Và họ đã cấm chế các hình thức phụng vụ Công giáo. Rồi một sắc chỉ được ban hành, bắt buộc dân chúng phải quay về với phong tục cổ truyền là người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Phêrô đã công khai phản đối điều lệnh này.
Phêrô Tôtô tiếp tục tổ chức các buổi họp nhau cầu nguyện, nhưng với các nhóm nhỏ hơn để tránh sự chú ý. Ngài khuyến khích cộng đoàn xứ đạo hãy trung thành cầu nguyện để giữ vững đức tin. Đó là công việc của Phêrô với tư cách là giảng viên giáo lý.
Rồi Phêrô Tôrô bị quân cảnh Nhật bắt giữ trong khi đang tổ chức các nhóm cầu nguyện. Gia đình Phêrô đến nhà giam hàng ngày để đem thức ăn cho ngài. Các giới chức lãnh đạo Công giáo và Giám Lý hội của các bộ tộc khác đã tìm cách giải thoát Phêrô nhưng không được. Phêrô Tôrô nói với họ :
“Anh em chớ lo lắng! Tôi là một giảng viên giáo lý. Nếu tôi chết, tôi sẽ chết vì đức tin!”
Vào tháng 07/1945, một bác sĩ Nhật đã tiêm vào Phêrô Tôrô một mũi thuốc làm chết người. Một người bạn tù quan sát từ xa đã thông báo cho các tù nhân khác hay tin Phêrô Tôrô đã chết. Rồi người ta đã gọi gia đình của Phêrô đến lấy xác và an táng ngài. Nhóm người họp nhau tiễn biệt Phêrô trong đám tang giản dị này đã tôn kính Phêrô Tôrô như một vị thánh tử đạo.
Sau khi điều tra, Giáo hội đã chấp nhận và Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn Phêrô Tôrô lên bậc chân phước ngày 17/01/1995.

Chân phước Phêrô Tôrô đã khiêm tốn nhận mình chỉ là một giảng viên giáo lý và chỉ chu toàn bổn phận của mình, nhưng ngài đã trung thành với bổn phận ngay cả trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Niềm tin của Phêrô Tôrô thật quyết liệt và trong sáng, và ngài đã anh dũng bảo vệ niềm tin ấy. Chân phước Phêrô Tôrô đã là một tấm gương trung kiên cho những học viên giáo lý của ngài. Ngài cũng nêu gương sáng cho mỗi người chúng ta học hỏi.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-11-2012, 12:54 PM
Ngày 20 tháng Bảy




THÁNH APÔLLINARIÔ



Vị thánh này sống ở thế kỷ thứ I. Những điều chúng ta biết về thánh nhân được trích từ các tài liệu và bài giảng của hai thánh Bêđa và Phêrô Kim Ngôn.
Thánh Apôllinariô sinh tại Antiôkia. Ngài là môn đệ của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã đặt Apôllinariô làm giám mục và sai ngài tới truyền giáo tại Ravenna, nước Ý. Ở đó, Apôllinariô đã làm cho nhiều người trở về với Giáo hội bằng gương sáng đời sống thánh thiện cũng như bằng những lời ngài rao giảng. Nhân danh Đức Kitô, thánh Apôllinariô có thể chữa lành những người đau bệnh.
Thánh Apôllinariô làm giám mục trong thời trị vì của hoàng đế Vespasianô. Vì những cuộc bách hại các Kitô hữu, Apôllinariô đã bị đi đày 4 lần. Thực sự, không chắc Apôllinariô đã bị chết vì đức tin, nhưng thánh nhân đã bị giam cầm và bị hành hạ rất nhiều lần trong suốt 20 năm làm giám mục giáo phận Ravenna. Thánh nhân được dân chúng tôn nhận như vị thánh tử đạo bởi những cuộc bách hại ngài chịu vì Chúa Kitô, thậm chí dù ngài đã làm ơn cứu sống những người bách hại ngài.

Các thánh tử đạo là những chứng nhân của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Hết thảy chúng ta cũng được mời gọi để trở nên những chứng nhân của Chúa qua cuộc sống đức tin. Đời sống của thánh Apôllinariô cho chúng ta biết các thánh tử đạo không chỉ là những người làm chứng cho Chúa Kitô vì đã dám hy sinh mạng sống, mà các ngài còn trung thành sống Tin Mừng của Chúa suốt trọn cuộc đời, ngay cả trong những nghịch cảnh đau thương.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-11-2012, 12:58 PM
Ngày 21 tháng Bảy




THÁNH LAURENSO BRINDISI



Césaré Rossi sinh năm 1559 tại Brindisi, nước Ý. Brindisi là một phần lãnh thổ của tiểu quốc Napoli.
Césaré nhận tên là Laurenso khi trở thành một tu sĩ dòng Capuxinô Phanxicô lúc 16 tuổi. Sau đó, ngài được gửi tới trường đại học Paris để học các môn thần học, triết học và Kinh Thánh. Laurenso cũng học các tiếng Latinh, Hy Lạp, Hipri, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Syria nữa.
Sau khi thụ phong linh mục, thánh Laurenso Brindisi đã trở thành một thầy dạy danh tiếng. Vì biết nhiều ngoại ngữ, thánh Laurenso đã có thể tiếp cận với nhiều người khác nhau. Rồi Laurenso được sai đi thiết lập tu viện của dòng tại Áo. Vua nước Áo, Rudolph II, không muốn cho hội dòng đến đất nước của ông, nhưng sự quan tâm và dịu dàng của thánh Laurenso đối với các bệnh nhân dịch tả đã khiến cho hoàng đế Rudolph cuối cùng phải ưng thuận.
Tiếp đến, hoàng đế lại xin thánh Laurenso Brindisi thuyết phục các ông hoàng nước Đức chinh phạt quân Thổ, vì Thổ đang tìm cách chinh phục nước Hungary. Và Laurenso đã thuyết phục được các ông hoàng bên Đức. Tuy nhiên, các thống lãnh đã nài xin thánh Laurenso cùng họ ra trận để chiến đấu và chiến thắng. Khi binh lính thấy lực lượng đông đảo và hùng hậu của quân Thổ, chân tay họ đã bủn rủn và muốn bỏ cuộc. Vì thế, thánh Laurenso đã phải cưỡi ngựa đi trước đoàn quân. Laurenso chỉ được trang bị bằng một cây Thánh Giá duy nhất. Rồi các binh sĩ Đức lấy lại nhuệ khí và họ đã chiến đấu rất can đảm. Cuối cùng, quân Thổ hoàn toàn bị bại trận. Thánh Laurenso Brindisi được hoan hô nhiệt liệt, nhưng ngài chẳng bao giờ tự hào vì đã thành công. Laurenso Brindisi đặt tin tưởng nơi Chúa là Đấng đã ban cho ngài chiến thắng.
Năm 1602, thánh Laurenso Brindisi được cử làm tổng đại diện của hội dòng. Thánh nhân đã làm việc, giảng dạy và viết sách để truyền bá Tin Mừng. Thánh nhân cũng thực hiện những cuộc đàm phán hoà bình quan trọng tại Munich ở Đức và Madrit ở Tây Ban Nha. Các vị lãnh đạo của những nơi này đã lắng nghe Laurenso Brindisi và kết quả rất thành công.
Sau đó thánh Laurenso Brindisi trải qua một cơn bạo bệnh. Thánh nhân đã kiệt lực đang khi du lịch trong cái nóng mùa hè khắc nghiệt. Laurenso Brindisi qua đời đúng vào ngày kỷ niệm sinh nhật của ngài, 22/07/1619.
Laurenso Brindisi được Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong hiển thánh năm 1881. Đến năm 1959, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã ban tặng thánh Laurenso Brindisi danh hiệu Tiến sĩ Hội Thánh.

Cầu nguyện là bí quyết để thành công trong cuộc sống. Chúng ta hãy nài xin thánh Laurenso Brindisi giúp chúng ta mỗi ngày biết dành ra một chút thời giờ để trò chuyện với Thiên Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-11-2012, 09:41 AM
Ngày 24 tháng Bảy




THÁNH SABEL MALOF



Giuse Malof sinh năm 1828 tại Lebanon.
Gia đình Giuse rất nghèo, và thân phụ Giuse đã qua đời khi ngài còn rất nhỏ. Giuse và các anh chị em được nuôi dạy bởi thân mẫu và người cậu. Vì được hấp thụ một nền giáo dục chân thành nên Giuse và các anh chị em đã cảm hiểu và yêu mến đức tin của mình cách rất tha thiết. Nơi nhà thờ, Giuse tham gia giúp lễ và ca đoàn. Ở nhà tư, Giuse giúp chăn giữ chiên cừu và dành nhiều thời giờ để cầu nguyện cũng như suy ngẫm một mình.
Guise có hai người cậu đi tu, và ngài thích viếng thăm các cậu để bắt chước lối sống của các cậu. Khi Giuse lên 23, ngài đã xin vào một tu viện và nhận tên là Sabel. Khấn dòng xong, Sabel theo học triết học và thần học. Sau đó, Sabel được thụ phong linh mục và ngài đã sống cuộc đời cầu nguyện, hãm mình đền tội và chăm chỉ làm việc. Đó là những công việc Sabel Malof rất ưa thích và ngài cảm thấy rất hạnh phúc.
Năm 1866, Sabel lui vào trong một ẩn am sống cuộc đời biệt lập. Sabel cảm thấy Thiên Chúa mời gọi mình sống thân mật với Người qua lối sống này. Và Sabel đã sống trong căn phòng nhỏ bé đó suốt 23 năm, dành hầu hết thời giờ để cầu nguyện và dâng thánh lễ. Dù là cố gắng sống ẩn mình, nhiều người vẫn tìm đến với thánh nhân để xin ngài cầu nguyện và khuyên bảo.
Năm 1898, Sabel Malof đã bị đột quỵ đang lúc cử hành thánh lễ. Ngài được đưa về phòng và không thể dâng lễ được nữa.
Sabel Malof qua đời 8 ngày sau đó, vào dịp lễ Giáng Sinh. Ngôi mộ của ngài đã biến thành địa điểm hành hương. Trong năm 1950, mỗi ngày có khoảng 15.000 người đã đến kính viếng mộ ngài.
Đức Thánh cha Phaolô VI đã phong thánh cho Sabel Malof vào năm 1977.

Khi cầu nguyện, chúng ta làm một việc rất quan trọng và hữu ích không chỉ cho riêng bản thân chúng ta mà còn cho toàn thể thế giới. Khi gặp những khó khăn hay vấn đề nan giải, chúng ta hãy noi gương thánh Sabel Malof và hãy dùng những phương thế thích hợp cho riêng mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-11-2012, 09:43 AM
Ngày 27 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC TITÔ BRANSMA



Annô Bransma được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khổ tại Hà Lan vào năm 1881.
Năm 17 tuổi, ngài vào tu dòng CátMinh và nhận tên là Titô. Khi còn là tập sinh, Titô đã xuất bản tập sách ngài chuyển ngữ qua tiếng Hà Lan với nhan đề “Thánh nữ Têrêsa thành Avilla”. Titô cũng lập ra tờ tạp chí cho dòng CátMinh, mà sau này đã phục vụ đông đảo các tín hữu Hà Lan.
Titô được thụ phong linh mục lúc 24 tuổi. Sau khi du học Roma, ngài trở về Hà Lan và tiếp tục công việc chuyển dịch các tác phẩm của thánh Têrêsa Avilla. Titô lại thiết lập thêm tờ tạp chí truyền bá linh đạo CátMinh và ngài cũng biên tập cho tờ báo địa phương.
Từ năm 1923 tới 1942, Titô Bransma dạy triết học. Suốt thời gian này, Titô nổi danh như một phóng viên. Ngài đã thẳng thắn chống lại đảng Quốc xã, chống lại các triết lý và tội ác giết người Do Thái của họ. Titô đã bảo vệ các trường Công giáo và không để cho các sinh viên gốc Do Thái bị đuổi khỏi trường khi Đức Quốc xã chiếm đóng Hà Lan. Lợi dụng tiếng tăm của mình như một phóng viên, Titô Bransma đã thuyết phục các biên tập viên tờ báo Công giáo không xuất bản những tập tin cho đảng Quốc xã.
Cảnh sát mật của Đức Quốc xã đã bắt giam Titô Bransma ngày 19/01/1942. Trong lúc ở tù, Titô đã sáng tác văn thơ và viết lại những suy niệm về các chặng đàng Thánh Giá. Vào tháng 6, Titô Bransma được gởi tới trại tập trung Đacô gần Munich, nước Đức. Titô chết vì bị tiêm thuốc độc ngày 26/07/1942.
Đến năm 1985, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Titô Bransma lên bậc chân phước.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy yêu thương mọi người – không phân biệt quốc gia, chủng tộc, tôn giáo… vì Thiên Chúa là Cha của hết thảy mọi người. Chúng ta hãy nghĩ về mọi người như là anh chị em của mình. Là những Kitô hữu, chúng ta hãy cố gắng làm những gì có thể để mọi người được đối xử công bằng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-11-2012, 06:29 AM
Ngày 28 tháng Bảy




CHÂN PHƯỚC MARIA MAGDALENA MATINENGO



Maria Magdalena Matinengo sinh năm 1687, tại Brescia, nước Ý. Thân mẫu Maria qua đời ít lâu sau khi sinh hạ ngài. Lúc còn nhỏ, Maria chịu ảnh hưởng của các vị thánh, và ngài đã cố gắng bắt chước họ trong cầu nguyện và thực hành các việc đền tội.
Lên 18 tuổi, Maria Magdalena Metinengo gia nhập hội dòng các nữ tu Capuxinô ngay tại quê nhà. Ngài đã sống một cuộc đời cầu nguyện, đền tội, và Thiên Chúa đã ban cho ngài những ân sủng đặc biệt, kể cả ơn làm được phép lạ. Sơ Maria đặc biệt tận hiến đời mình cho Chúa Giêsu Tử Nạn và thường hay suy ngẫm từng cực hình mà Người đã chịu để cứu chuộc các tội nhân.
Nhiều người đã đến với sơ Maria xin lời cầu nguyện, và sơ đã khích lệ cũng như giúp họ nhận ra những điều cần làm để loại bớt những khó khăn trong cuộc sống. Đôi lúc, sơ Maria có thể đọc được những tư tưởng của họ và tiên báo cả những biến cố tương lai.
Sơ Maria Magdalena Matinengo phục vụ cộng đoàn qua các chức vụ tập sự và giữ cổng, và chị em cũng chọn ngài làm Mẹ bề trên hai nhiệm kỳ. Maria là người khôn ngoan, quảng đại và có thể làm bất cứ việc gì khi chị em cần đến.
Maria Magdalena Matinengo qua đời năm 1737, lúc được 50 tuổi.
Ngài được Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong lên bậc chân phước.

Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu Tử Nạn bằng việc chu toàn thật tốt những nhiệm vụ được trao phó cho mình, nhất là những công việc chúng ta không ưa thích. Thay vì phàn nàn về những chuyện vặt vãnh trong nhà hay việc học ở trường, chúng ta hãy xem đó như các việc đền tội mà các việc này sẽ giúp chúng ta càng ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-11-2012, 06:32 AM
Ngày 29 tháng Bảy




THÁNH MATTA



Thánh nữ Matta là chị ruột của Maria và Lazaro. Các ngài sống tại một ngôi làng nhỏ bé tên Bêtania, gần thành phố Giêrusalem.
Các ngài là những người bạn rất thân của Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu cũng thường hay đến thăm các ngài. Thật vậy, sách Tin Mừng nói cho chúng ta biết : “Chúa Giêsu yêu Matta, Maria và Lazaro.”
Chính thánh nữ Matta đã phục vụ Chúa Giêsu cách rất âu yếm khi Người đến thăm gia đình Matta.
Một ngày kia, thánh nữ Matta đang bận sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các tông đồ của Người. Thánh nữ nhận thấy rằng công việc sẽ dễ dàng hơn nếu cô Maria em ngài phụ giúp ngài một tay. Matta thấy Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người. Matta liền đề nghị :
“Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!”
Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Matta. Tuy vậy, Người muốn cho Matta hiểu rằng việc nghe Lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn. Vì thế, Chúa Giêsu đã dịu dàng nói :
“Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!”
Lòng tin tưởng mãnh liệt vào Chúa Giêsu của thánh nữ Matta còn được biểu lộ khi em trai Lazaro qua đời. Ngay lúc nghe tin Chúa Giêsu đang đến Bêtania, Matta đã đi ra đón tiếp Người. Matta tin tưởng vào Chúa Giêsu và thốt cách rất tự nhiên :
“Lạy Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết!”
Sau đó, Chúa Giêsu nói với Matta rằng em Lazaro sẽ sống lại. Người nói :
“Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống. Con có tin điều đó không?”
Và Matta thưa :
“Lạy Thầy, vâng, con tin rằng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian.”
Hôm ấy, Đức Chúa Giêsu đã làm một phép lạ vĩ đại là cho Lazaro sống lại từ cõi chết!
Sau đó, Chúa Giêsu lại đến dùng bữa với Lazaro, Matta và Maria. Thánh nữ Matta phục vụ bàn ăn như thường lệ. Tuy nhiên, lần này với một thái độ đáng yêu hơn : Matta đã phục vụ với một trái tim thật vui tươi!

Thánh nữ Matta đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng hiếu khách. Khi chúng ta chào đón hay phục vụ ai, Chúa Giêsu coi đó như là chúng ta làm cho chính bản thân Người. Thánh nữ Matta cũng nêu gương sáng về lòng tin tưởng và niềm trông cậy. Ngài là bạn thân của Chúa Giêsu và ngài biết có thể tin tưởng vào lời Chúa Giêsu đã nói. Xin thánh nữ Matta cũng giúp chúng ta biết tạo mối tương quan thân thiện với Chúa Giêsu như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-11-2012, 09:40 AM
Ngày 30 tháng Bảy




THÁNH PHÊRÔ Kim Ngôn



Thánh Phêrô Kim Ngôn sinh trưởng tại một thị trấn nhỏ miền Imola, nước Ý. Ngài sống vào thế kỷ thứ V.
Giám mục Cornélio thuộc giáo phận Imola đã dạy dỗ và phong cho Phêrô thừa tác vụ Phó tế. Ngay từ nhỏ, Phêrô đã hiểu được rằng người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết mặc lấy tinh thần của Chúa Kitô và làm chủ các đam mê của mình.
Khi Đức Tổng Giám mục Ravenna, nước Ý, qua đời, Đức Thánh cha Sixtô III đã chỉ định Phêrô lên thay thế ngài. Lúc ấy khoảng năm 433. Với cương vị là linh mục và giám mục, thánh Phêrô đã làm việc rất có hiệu quả. Ngài đã loại bỏ hết các thói tục của dân ngoại vốn tồn tại trong giáo phận suốt nhiều năm qua. Ngài nâng đỡ niềm tin của các Kitô hữu trong giáo phận của ngài.
Thánh Phêrô nổi danh nhờ tài giảng thuyết. Từ ngữ “Chrysologos” có nghĩa là “lời vàng”. Quả vậy, các bài giảng lễ và các huấn từ của thánh Phêrô thật vắn gọn và súc tích, và sứ điệp của thánh nhân quả thật có giá trị hơn vàng. Thánh Phêrô thuyết giảng với tấm lòng nhiệt thành bốc lửa đến nỗi người ta phải nín thở mỗi khi nghe ngài. Trong các bài giảng của mình, thánh Phêrô khuyến khích mọi người hãy năng đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể hơn. Ngài muốn mọi người nhận thức rằng Mình Thánh Chúa Kitô chính là lương thực hàng ngày nuôi sống linh hồn ta.
Đức Tổng Giám mục tốt phúc này cũng ra sức hoạt động cho sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đã giúp người ta phân biệt những điều thuộc và không thuộc đức tin Công giáo. Ngài cũng cố gắng gìn giữ hoà bình.
Thánh Phêrô Kim Ngôn qua đời năm 450 tại Imola, quê hương ngài sinh trưởng. Vì những bài giảng thuyết tuyệt vời kèm theo những giáo huấn rất mực sâu sắc, thánh Phêrô Kim Ngôn đã được Đức Thánh cha Bênêđictô XIII tôn nhận là Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1729. Ngày nay người ta còn giữ lại được khoảng 180 bài thuyết giảng của ngài.

Thánh Phêrô Kim Ngôn đã rao giảng một sứ điệp đơn sơ dễ hiểu. Chúng ta hãy nên giống ngài qua việc đem Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu ra thực hành với lòng yêu mến và quảng đại. Đó là sứ điệp mà mọi người sẽ hiểu biết và trân quý.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-11-2012, 09:42 AM
Ngày 03 tháng Tám




THÁNH PHILIPPHÊ BÊNIZI



Thánh Philipphê Bênizi sinh ngày 15/08/1233 tại Florentia, nước Ý. Philipphê trở thành bác sĩ khi mới 19 tuổi, và ngài đã mở một phòng khám bệnh tại quê nhà. Chỉ một năm sau, Philipphê Bênizi bỏ nghề bác sĩ và xin gia nhập hội dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Philipphê Bênizi được thụ phong linh mục tại Siena năm 1258.
Chẳng bao lâu, cha Philipphê Bênizi trở nên rất nổi danh vì tài thuyết giảng. Ngài cũng phục vụ hội dòng với chức vụ tập sự và bề trên. Năm 1267, Philipphê Bênizi được bầu làm bề trên tổng quyền của hội dòng dù ngài đã cố gắng từ chối việc đề cử này. Philipphê Bênizi đã chăm chỉ làm việc để thiết lập quy luật của dòng, và người ta rất ngưỡng mộ Philipphê vì đời sống thánh thiện. Cha Philipphê Bênizi cũng được ơn làm nhiều phép lạ.
Năm 1268, Đức Thánh cha Clêmentê V qua đời, và cha Philipphê Bênizi là một trong những ứng viên sẽ được chọn lên kế vị. Sợ rằng mình có thể sẽ đắc cử, Philipphê Bênizi đã chạy trốn vào một hang động và ẩn mình cho tới khi đức Grêgôriô X được chọn.
Do đức khiêm nhường và lòng yêu mến, cha Philipphê Bênizi đã đem nhiều người trở về với Giáo hội. Ngài cũng là người hay giải hoà. Về cuối đời, cha Philipphê xin từ chức bề trên tổng quyền, và cha đã sống những ngày cuối đời tại một căn nhà khiêm tốn và nghèo khó của dòng.
Cha Philipphê Bênizi đã qua đời tại đó vào ngày 22/08/1285. Ngài được tôn phong hiển thánh năm 1671.

Như thánh Philipphê Bênizi, chúng ta hãy cố gắng trau dồi những đức tính đơn thành và khiêm tốn. Những đức tính này giúp chúng ta tin tưởng vào Chúa chứ không vào mình, và cũng với đức tính này, chúng ta sẽ nên gương thánh thiện đích thực cho người khác.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-11-2012, 09:44 AM
Ngày 05 tháng Tám




Lễ Cung Hiến Thánh Đường ĐỨC BÀ Cả



Hôm nay chúng ta cử hành thánh lễ cung hiến một trong những đại thánh đường ở Roma. Thánh đường Đức Maria được xây cất vào thế kỷ thứ IV dưới thời Đức Giáo hoàng Libêriô.
Truyện kể rằng chính Đức Mẹ đã chọn nơi này để người ta xây ngôi thánh đường tôn kính Mẹ. Mẹ đã hiện thân ra với đôi vợ chồng sở hữu mảnh đất cũng như với Đức Giáo hoàng, bảo họ rằng khoảnh đất trên ngọn đồi được bao phủ đầy tuyết kia chính là nơi Đức Mẹ đã chọn. Sáng hôm sau, nhằm ngày 05/08, một thời điểm rất nóng trong năm ở Roma, có một lớp tuyết bao phủ ngọn đồi Esquiline. Đôi vợ chồng đã xin dâng phần đất cũng như tiền bạc cần thiết để xây ngôi thánh đường như là món quà dâng kính Đức Mẹ.
Thoạt tiên, ngôi thánh đường này mang tên là Vương cung thánh đường Libêriô, theo tên của Đức Giáo hoàng Libêriô. Nó cũng được gọi là thánh đường Đức Mẹ Xuống Tuyết để nhắc nhở sự kiện Đức Mẹ đã chỉ cho biết mảnh đất dành cho việc xây cất. Sau đó, ngôi thánh đường được Đức Thánh cha Sixtô III cung hiến cho Đức Maria sau khi Công đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ngôi thánh đường chính là một nhắc nhở tuyệt đẹp về tình yêu và lòng tôn kính mà Giáo hội dành tặng cho Mẹ Thiên Chúa. Danh xưng “Cả” được thêm vào danh hiệu “Thánh đường Đức Bà” bởi vì đây là ngôi thánh đường đầu tiên được xây cất ở Tây phương để tôn kính Đức Mẹ.
Bên trong thánh đường có máng cỏ Bêlem nơi Đức Maria đã đưa nôi Chúa Hài Nhi Giêsu. Điều này biểu lộ lòng tôn kính ngày Chúa Giáng sinh, với bức hình Chúa Hài Nhi nhỏ bằng bạc đang nằm trong máng cỏ.

Giáo hội tôn kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa với những ngôi đền và thánh đường rất đặc biệt để các Kitô hữu có thể đến viếng thăm nhằm bày tỏ lòng yêu mến đối với Đức Mẹ và cầu xin Người ban cho ơn lành. Hành hương đến một trong các đền thờ hay thánh đường này thật là một cảm nghiệm đức tin thú vị.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-11-2012, 09:25 AM
Ngày 06 tháng Tám




CHÚA GIÊSU Hiển Dung



Các Tin Mừng nhất lãm (Matthêô, Marcô, Luca) đều thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Hôm trước ngày chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã cho ba tông đồ của Chúa nhìn thấy vinh quang Người tỏ rạng. Người làm như thế nhằm kiện cường lòng tin của các tông đồ.
Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng với Người lên ngọn núi Tabor, nhọn núi nằm giữa miền Galilêa. Lúc đang ở với nhau, đột nhiên khuôn mặt của Chúa Giêsu trở nên xán lạn như mặt trời, và áo Người trắng tinh như tuyết. Các tông đồ xúc động đến lặng người! Khi các ông còn đang mải nhìn thì có hai ngôn sứ rất nổi danh trong Cựu Ước hiện ra. Đó Môsê và Êlia. Hai ngài đang đàm đạo với Chúa Giêsu. Bạn hãy hình dung xem niềm vui mà các tông đồ được cảm nghiệm lúc ấy :
“Thưa Thầy!” – thánh Phêrô nói – “Chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, chúng con sẽ làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.”
Thực sự, lúc ấy thánh Phêrô không biết mình nói gì nữa, vì ngài vừa run rẩy, vừa ngạc nhiên lại vừa kính sợ. Khi Phêrô đang nói thì một đám mây sáng chói bao phủ lấy các ngài, và từ đám mây có tiếng của Chúa Cha phán rằng :
“Này là Con Ta yêu dấu! Hãy vâng nghe lời Người!”
Nghe lời đó, các tông đồ sợ hãi đến nỗi đã ngã nhào xuống đất. Rồi Chúa Giêsu đến gần và chạm tới các ông. Người nói :
“Hãy chỗi dậy! Đừng sợ!”
Khi nhìn lên, các ông chẳng thấy ai trừ ra một mình Chúa Giêsu. Lúc xuống núi, Chúa Giêsu căn dặn họ đừng nói với ai về chuyện vừa xảy ra cho đến khi Người từ cõi chết sống lại Lúc ấy, họ không hiểu lời Người nói. Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh vinh hiển, họ mới hiểu được lời của Người.

Chúng ta hãy lắng nghe điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua Kinh Thánh, qua Đức Thánh cha, các đức giám mục, các linh mục và qua những giảng viên giáo lý trong Hội Thánh của Chúa.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-11-2012, 09:28 AM
Ngày 07 tháng Tám




THÁNH CAJETAN



Thánh Cajetan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là con trai của một bá tước.
Cajetan tốt nghiệp trường đại học Padua với văn bằng cử nhân lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó, Cajetan phục vụ tại văn phòng của giáo triều Roma. Cajetan thụ phong linh mục năm 1516. Rồi ngài trở về thành phố quê hương Vicenza và làm việc mục vụ tại đây.
Dù cho những bạn bé quý tộc của Cajetan ra sức phản đối và giận dữ thì thánh nhân vẫn tham gia với nhóm người khiêm tốn, chuyên phục vụ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Cajetan đi khắp thành phố tìm kiếm những người bất hạnh và chính ngài đã tự tay phục vụ họ. Cajetan vào bệnh viện săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh tởm nhất.
Tại các thành phố khác, thánh Cajetan cũng làm các việc từ thiện ấy. Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Ngài nói :
“Tôi sẽ không bao giờ vui sướng cho tới khi nào được thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm hở vui mừng, chứ không lo buồn tủi hổ.”
Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajetan đã thiết lập một tu hội giáo sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin, chuyên đi thuyết giảng. Họ khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, giúp bệnh nhân và làm những công việc từ thiện khác.
Thánh Cajetan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối cùng, thánh nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác sĩ khuyên ngài nên dùng nệm êm. Nhưng Cajetan nói :
“Đấng Cứu Chuộc của tôi đã chết trên cây thập giá. Vậy ít ra, hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này!”
Cajetan về trời ngày 07/08/1547 tại thành phố Napoli. Tới năm 1671, Đức Thánh cha Clêmentê X tôn phong Cajetan lên bậc hiển thánh.

Để noi gương vị thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cajetan giúp chúng ta biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-11-2012, 09:53 AM
Ngày 09 tháng Tám




THÁNH EDIT STEIN



Thánh nữ Edit Stein sinh ngày 12/10/1891 tại phần đất của nước Đức, ngày nay gọi là Ba Lan.
Thân phụ Edit qua đời khi Edit mới lên 2, và vì thế thân mẫu ngài, một phụ nữ Do Thái có đức tin sâu xa, đã cật lực xoay xở để nuôi sống gia đình và chăm lo cho những đứa con của bà.
Vào tuổi niên thiếu, Edit Stein bỏ đạo Do Thái và sống như một người vô thần. Năm 1911, Edit bắt đầu học triết học tại trường đại học Breslaw, sau đó chuyển sang một trường khác để có thể ghi tên vào các lớp học của Edmund Husserl, một triết gia danh tiếng thời đó. Khi Đệ I Thế Chiến bùng nổ, Edit Stein tạm gác việc học sang một bên và tình nguyện làm y tá săn sóc các thương binh. Sau cùng, Edit Stein cũng lấy được học vị tiến sĩ vào năm 1916, và nhận làm giảng viên phụ khảo cho Husserl.
Sau khi đọc tự truyện của thánh nữ Têrêsa Avilla, Edit Stein cảm thấy có một năng lực lôi kéo mình trở về với đức tin Công giáo. Edit xin được rửa tội, và ngày 01/01/1922, Edit Stein trở thành Kitô hữu. Gia đình cũng như bạn bè của Edit cảm thấy khó hiểu trước quyết định của ngài, vì từ khi đảng Quốc xã đang dần lớn mạnh, họ cảm thấy Edit đã quay lưng lại với Do Thái giáo vào thời điểm mà những người Do Thái đang cần được khích lệ và nâng đỡ hơn bao giờ hết.
Rồi Edit trở thành người lãnh đạo phong trào Phụ nữ Công giáo. Ngài dạy học tại một trường do các linh mục dòng ĐaMinh điều hành, và Edit cũng chuyển ngữ một số tác phẩm của thánh Tôma Aquinô.
Vào năm 1934, Edit Stein trở thành nữ tu dòng CátMinh Chân Đất ở Cologna, và nhận tên mới là sơ Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá. Edit Stein tiếp tục viết lách nhưng hầu hết các tác phẩm của thánh nữ không được xuất bản vào thời điểm ấy, vì lẽ Edit Stein thuộc giới nữ và có gốc là Do Thái. Vì đảng Quốc xã ngày một bành trướng và đe doạ hơn, Edit Stein đã buộc phải trốn sang một tu viện CátMinh bên Hà Lan.
Khi Đức xâm lược Hà Lan, nhiều Kitô hữu có gốc Do Thái đã bị bắt giam và bị đày tới các trại tập trung ở Auchwitz. Edit Stein cũng là thành viên trong số họ.
Edit Stein qua đời ngày 09/08/1942 tại Auchwitz, bị chết trong phòng hơi ngạt.
Đến ngày 11/10/1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Edit Stein lên bậc hiển thánh.

Là triết gia, Edit Stein đã hăng say đi tìm chân lý. Niềm tin vào Đức Kitô đã giúp thánh nữ can đảm chấp nhận cái chết vì là người Do Thái. Chớ gì niềm tin của chúng ta cũng làm cho chúng ta thêm can đảm khi nhìn thấy những người đang phải chịu kỳ thị vì niềm tin.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-11-2012, 09:57 AM
Ngày 12 tháng Tám




THÁNH STANISLAO KOSTKA




(Bổn mạng nước Ba Lan)


Thánh Stanislao Kostka sinh năm 1550, là con trai của một thượng nghị sĩ Ba Lan. Song thân ngài đã thuê một gia sư riêng để giáo dục ngài. Năm lên 14 tuổi, Stanislao Kostka được gởi tới học tại đại học Vienna do các cha dòng Tên phụ trách.
Chẳng bao lâu, Stanislao Kostka nổi bật về lòng sốt sắng cầu nguyện và nghiên cứu học tập. Ngài mạnh mẽ phản đối những chuyện đùa giỡn thô tục. Gia đình Stanislao thường khuyến cáo những khách mời của họ đừng nói điều gì khiếm nhã trước mặt Stanislao, rằng :
“Chúng tôi không muốn Stanislao bị ngất!”
Còn Phaolô, anh trai của Stanislao, thì thường hay chọc ghẹo và bắt nạt Stanislao cũng như chế giễu việc cầu nguyện của ngài.
Sau một cơn bạo bệnh, Stanislao Kostka cảm thấy Thiên Chúa mời gọi ngài vào tu trong dòng Tên. Thân phụ Stanislao khi biết chuyện này đã phản đối, và vị bề trên giám tỉnh dòng Tên Vienna cũng không muốn làm trái ý của ông thượng nghị sĩ. Nhưng điều đó không ngăn cản được Stanislao. Tin rằng mình có ơn kêu gọi đi tu dòng Tên, Stanislao đã trẩy bộ suốt quãng đường 350 dặm lên miền thượng Đức, nơi thánh Phêrô Canisiô đã nhận ngài. Sau đó, Stanislao được gởi sang Roma và được thánh Phanxicô Borgia, hiện đang là bề trên tổng quyền dòng Tên, đón nhận vào dòng. Lúc ấy, Stanislao Kostka mới 17 tuổi.
Stanislao Kostka bắt đầu cuộc sống của một tu sĩ dòng Tên với việc đền tội và cầu nguyện rất sốt sắng. Ngài coi trọng nhân đức tuân phục và luôn cố gắng chu toàn các việc bổn phận hàng ngày cách hoàn hảo hết sức có thể.
Nhưng Stanislao cũng sớm nhận thấy cái nóng mùa hè của Roma rất ư khắc nghiệt. Stanislao thường bị ngất xỉu. Vào ngày 10/08, Stanislao bệnh nặng đến nỗi phải liệt giường. Đến ngày 15/08, chỉ 9 tháng sau khi gia nhập dòng Tên, Stanislao Kostka đã qua đời tại Roma. Khi nghe tin em mình qua đời, Phaolô, anh trai của Stanislao, đã hối hận về cách xử tệ đối với người em. Sau đó, anh cũng xin gia nhập dòng Tên.
Stanislao Kostka được phong thánh năm 1726, và ngài là một trong các vị thánh bổn mạng của đất nước Ba Lan.

Thánh Stanislao Kostka chẳng lo lắng gì khi bị chế giễu về việc thực hành niềm tin của mình. Thánh nhân đã có thể tha thứ cho những người nhạo báng ngài cũng như luôn kính trọng và cầu nguyện cho họ. Càng gần Chúa hơn, chúng ta sẽ càng bớt được những thành kiến về người khác.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-11-2012, 06:50 AM
Ngày 13 tháng Tám




THÁNH PONTIANO và THÁNH HIPPOLYTO



Thánh Hippolyto là linh mục và cũng là một học giả của Giáo hội Roma. Thánh nhân đã viết nhiều tác phẩm danh tiếng về lãnh vực thần học, và ngài cũng là một giáo sư vĩ đại. Tuy nhiên, Hippolyto không hài lòng với thánh Giáo hoàng Zêphyrino vì ngài cảm thấy vị Giáo hoàng này chưa mấy nhanh chóng ngăn cấm những người giảng dạy các học thuyết sai lầm. Khi thánh Giáo hoàng Zêphyrino tử đạo năm 217, thánh Callisto I được bầu lên kế vị. Hippolyto cũng không hài lòng với việc lựa chọn tân giáo hoàng này. Chính Hippolyto cũng có một đám đông người ủng hộ ngài, và ngài cũng đồng ý khi họ chọn ngài làm giáo hoàng. Hippolyto đã bỏ quan hệ với Giáo hội và trở thành “nguỵ giáo hoàng” hay còn gọi là “giáo hoàng giả”.

Thánh Pontiano được bầu làm giáo hoàng năm 230. Đến năm 235, Maximino trở thành hoàng đế của Roma. Hầu như ngay lập tức, ông bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Hình phạt thông thường nhất dành cho các giám mục và các linh mục là đày các ngài tới những hầm mỏ nguy hiểm ở Sadinia, nước Ý. Giáo hoàng Pontiano là một trong số những người bị đày tới các hầm mỏ này. Và “nguỵ giáo hoàng” Hippolyto cũng bị đi đày như vậy.

Giáo hoàng Pontiano và Hippolyto đã bị đày ải. Gương khiêm nhường của Giáo hoàng Pontiano đã làm cho Hippolyto xúc động, và ngài đã xin trở lại với Giáo hội dù cảm thấy cơn giận vẫn dâng trào trong tim. Giáo hoàng Pontiano đã thông cảm và yêu mến cha Hippolyto. Ngài nhận thấy những nhu cầu cần giúp đỡ và khích lệ nhau trong tình yêu mà các ngài dành cho Chúa Giêsu. Cả hai cùng là thánh tử đạo và là những chứng nhân cho mọi thời đại về sự tha thứ và niềm hy vọng của mọi người tín hữu.

Nếu lúc nào chúng ta nóng giận về một điều gì đó, chúng ta có tới hai vị thánh này sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Chúng ta hãy nài xin thánh Pontiano ban cho chúng ta quả tim biết cảm thông, và thánh Hippolyto ban cho đức vâng phục dễ thương của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-11-2012, 06:52 AM
Ngày 15 tháng Tám


Lễ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI



Hôm nay chúng ta cử hành thánh lễ kính một đặc ân chuyên hữu, đặc ân độc nhất vô nhị của Đức Maria, Mẹ chúng ta.
Lúc ngày đời Mẹ chấm dứt nơi dương thế, Mẹ đã được Thiên Chúa mời gọi lên trời và đưa vào hưởng vinh quang thiên đàng – không chỉ có linh hồn mà cả thân xác thánh thiện của Mẹ cũng được đưa lên trời. Con Thiên Chúa đã khởi đầu cuộc sống làm người ngay tại cung lòng trinh khiết của Mẹ Maria. Cho nên, thật hợp lý khi nghĩ rằng thân xác Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa tôn vinh ngay khi ngày đời của Đức Mẹ chấm dứt tại thế.
Giờ đây Mẹ Maria đang ở trên thiên đàng. Mẹ là Nữ Vương của cả trời đất. Mẹ là Mẹ của Giáo hội. Mỗi khi Mẹ xin Đức Chúa Giêsu ban cho chúng ta những ơn sủng nào thì Thiên Chúa liền thực hiện theo lời Đức Mẹ kêu xin.
Sau khi sống lại từ cõi chết, thân xác chúng ta cũng được chia sẻ phần thưởng thiên đàng. Sau khi phục sinh, thân xác chúng ta sẽ nên hoàn hảo. Chúng không còn bị bệnh tật chi phối nữa. Chúng không cần thực phẩm và nước uống để sống nữa. Chúng không bị mỏi mệt hay kiệt sức nữa. Chúng có thể đi bất cứ nơi đâu mà không cần thời giờ hay cố gắng. Thân xác chúng ta sẽ trở nên xinh đẹp và diễm lệ.
Tín điều Đức Maria Mông Triệu Thăng Thiên, tức linh hồn và thân xác của Đức Maria được đưa lên thiên đàng ân thưởng, là một giáo huấn của Giáo hội Công giáo. Chân lý tuyệt vời này được Đức Thánh cha Piô XII công bố ngày 01/11/1950.

Thật là tuyệt vời khi nhớ rằng Đức Maria là Mẹ yêu dấu của mỗi người chúng ta trên thiên đàng. Mẹ thực sự yêu thương chúng ta. Mẹ vẫn ở đó để giúp đỡ chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Mẹ. Mẹ muốn giúp chúng ta để, khi lìa cõi đời này, chúng ta cũng được vui hưởng hạnh phúc thiên đàng. Trong ngày sống, chúng ta hãy năng cầu khẩn với Mẹ bằng kinh Kính Mừng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-11-2012, 08:19 AM
Ngày 16 tháng Tám


THÁNH STÉPHANO Hungary



Thánh Stéphano sinh khoảng năm 970 tại Hungary.
Thánh nhân tên là Vaik, nhưng khi trở thành Kitô hữu lúc 10 tuổi, người ta lại gọi ngài là Stéphano. Cùng lúc ấy, thân phụ ngài là công tước xứ Hungary và nhiều quý tộc nữa cũng gia nhập đạo Công giáo. Tuy nhiên, khi Stéphano lên ngôi vua, cả quốc gia vẫn còn thờ ngẫu thần. Một số người đã có lối sống rất bạo lực và hung tợn. Vì thế, Stéphano quyết định thiết lập Giáo hội cách vững chắc tại Hungary, và các nỗ lực của ngài đã được Thiên Chúa chúc phúc. Thánh Stéphano đã thành công cách lạ lùng trong việc dẫn đưa các thần dân của ngài tìm đến với đức tin Công giáo. Bí quyết đó là do lòng sùng kính của Stéphano đối với Đức Mẹ Maria. Thánh Stéphano đã đặt toàn vương quốc dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ, và ngài đã cho xây một thánh đường nguy nga để tôn kính Đức Mẹ.
Đức Thánh cha Sylvester II đã gửi cho Stéphano một vương miện tuyệt đẹp. Báu vật này được biết tới như vương miện của thánh Stéphano. Suốt Đại Thế chiến thứ II, binh lính Mỹ đã chiếm lấy chiếc vương miện này. Họ đã cất giữ nó cách an toàn và gửi trả lại cho Hungary hồi năm 1978.
Stéphano là một nhà lãnh đạo khôn ngoan và kiên quyết. Ngài buộc mọi người phải giữ giới luật công bằng. Nhưng thánh nhân cũng có lòng quảng đại và tử tế đối với những người nghèo khổ. Stéphano thích bố thí cho những người hành khất những gói tiền mà không cho họ biết ngài là ai.
Một lần kia, khi Stéphano đang nguỵ trang phân phát những gói tiền này thì một đám ăn mày thô bạo đã xông tới đánh ngài. Họ kéo tóc, giật râu và lấy cắp túi tiền của Stéphano. Họ chẳng ngờ rằng họ đang bắt nạt đức vua của họ, vì lẽ họ không nhận ra ngài. Stéphano đã chấp nhận tủi nhục một cách lặng lẽ và khiêm tốn. Ngài nâng lòng trí lên Đức Mẹ và cầu nguyện :
“Lạy Đức Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ hãy coi thần dân của Mẹ đã xử với con, là người mà Mẹ đã đặt làm vua, như thế đó! Vì họ là thần dân của Con Mẹ, nên con sẽ vui vẻ chấp nhận việc này, và con xin cám ơn Mẹ về việc ấy!”
Thực sự, vua thánh Stéphano lúc ấy đã hứa rằng sẽ bố thí cho những người ăn mày này nhiều tiền hơn thế nữa.
Thánh Stéphano làm vua nước Hungary suốt 42 năm. Ngài qua đời ngày 15/08/1038. Đức Thánh cha Grêgôriô VII đã phong thánh cho Stéphano năm 1083.

Không phải cứ làm vua hay làm tổng thống thì gương sáng của chúng ta mới gây được ảnh hưởng. Một số người hàng ngày đã giảng những bài thật tuyệt vời bằng chính lối sống của họ. Khi cần nhiều can đảm để bắt chước gương lành của những người sống thánh thiện, chúng ta hãy nài xin thánh Stéphano Hungary trợ giúp.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-11-2012, 08:23 AM
Ngày 17 tháng Tám




THÁNH GIOANNA ĐILĂNG



Thánh nữ Gioanna Đilăng sinh năm 1666 tại miền Samour, nước Pháp. Ngài là con út trong gia đình có 12 người con.
Gia đình Gioanna làm nghề buôn bán nhỏ nhưng rất thành công. Khi bà mẹ goá qua đời, Gioanna đã làm chủ cửa tiệm này. Gioanna ích kỷ và tham lam, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện làm tiền, và vì thế, đã phạm nhiều tội mọn. Gioanna trước đây rất sốt sắng đạo đức, nhưng bây giờ thì chỉ còn lại một chút lòng yêu mến hời hợt trong trái tim mà thôi. Trước đây thân mẫu Gioanna luôn luôn rộng rãi với những người hành khất. Phần Gioanna, thay vào đó, chỉ mua thức ăn vừa đủ cho bữa ăn tối. Như thế Gioanna mới có thể nói với bất cứ người hành khất nào đến gõ cửa mình rằng :
“Xin lỗi, tôi không có gì để bố thí cho bạn cả!”
Gioanna Đilăng cũng chẳng thấy vui gì với lối sống này. Rồi lúc được 30 tuổi, tấm gương sáng của một quả phụ tên Phanxica Chauset đã giúp Gioanna thay đổi cuộc sống. Gioanna nhận thấy rằng “việc kinh doanh” của mình không phải là để tích trữ tiền bạc nhưng là dùng để giúp đỡ tha nhân. Gioanna bắt đầu quan tâm tới những gia đình nghèo khó và chăm sóc các trẻ mồ côi. Sau cùng, Gioanna đã đóng hẳn cửa tiệm của mình để dành trọn thời giờ phục vụ tha nhân. Người ta gọi căn nhà chứa đầy trẻ mồ côi của Gioanna là “Nhà Chúa Quan Phòng”. Rồi Gioanna thuyết phục các phụ nữ khác cùng tới giúp mình. Và họ đã trở thành các nữ tu dòng thánh Anna Chúa Quan Phòng Samour.
Thánh nữ Gioanna Đilăng sống rất mực hy sinh. Chính thánh Louis Grignon de Monfort đã gặp ngài. Thoạt đầu Louis tưởng rằng niềm kiêu hãnh đã làm cho Gioanna tỏ ra vẻ khổ sở như thế, nhưng rồi thánh nhân nhận thấy trái tim của Gioanna thực sự tràn đầy tình yêu Thiên Chúa. Thánh Louis nói :
“Con hãy cứ tiếp tục công trình mà con đã khởi sự. Thần Khí của Chúa sẽ ở với con. Hãy vâng theo tiếng Người và đừng sợ gì!”
Gioanna Đilăng qua đời cách an bình năm 1736, hưởng thọ 70 tuổi.
Dân thành Samour nói rằng :
“Người chủ cửa tiệm nhỏ bé này đã giúp đỡ những người nghèo khổ tại đây nhiều hơn tất cả các ông uỷ viên của thành phố gộp lại. Ôi một phụ nữ! Ôi một vị thánh!”
Năm 1947, Gioanna Đilăng được Đức Thánh cha Piô XII tôn phong chân phước. Và đến năm 1982, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước Gioanna Đilăng lên bậc hiển thánh.

Hằng ngày có nhiều người phải chịu cảnh đói khát. Chúng ta có thể nhận thấy được tầm quan trọng của việc tiết kiệm thực phẩm. Thậm chí, có lần chúng ta được mời ăn một thứ gì đó mà chúng ta không thích, chúng ta cũng vẫn cứ dùng. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Gioanna Đilăng ban cho chúng ta tinh thần tự chế của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-11-2012, 12:55 PM
Ngày 18 tháng Tám




THÁNH JEANNE CHANTAL



Thánh nữ Jeanne Chantal sinh năm 1572 tại thành Dijion, nước Pháp.
Thân phụ ngài, ông chủ tịch quốc hội Beaugont, là một người đạo hạnh. Ông đã nuôi dạy con cái rất chu đáo sau khi người vợ qua đời. Jeanne, đứa con ông hết sức yêu quý, kết hôn với Christopher, nam tước vùng Chantal. Jeanne và Christopher đã tha thiết yêu nhau. Thiên Chúa đã ban cho họ 6 người con. Jeanne bày tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa bằng việc yêu thương chồng con rất mực. Rồi đột nhiên, một đau khổ khủng khiếp đã ập xuống trên gia đình hạnh phúc ấy. Nam tước Christopher bất ngờ bị một người bạn bắn chết trong một chuyến đi săn. Jeanne Chantal rất đau khổ. Khi Christopher qua đời, Jeanne Chantal đã tha thứ cho người đã cướp đi sinh mạng của chồng và thậm chí, thánh nữ đã nhận làm mẹ đỡ đầu cho đứa con của người ấy.
Thánh nữ Jeanne Chantal xin Chúa ban cho một linh mục thánh thiện để hướng dẫn cuộc đời của ngài. Trong lúc chờ đợi, Jeanne Chantal đã cầu nguyện và nuôi dạy con cái với tình yêu thương của Thiên Chúa. Thánh nữ Jeanne Chantal thăm viếng những người nghèo khổ, bệnh tật và những người đang hấp hối. Khi gặp được thánh Phanxicô Salêsiô, Jeanne biết đây chính là vị linh mục thánh thiện mà Thiên Chúa sai tới hướng dẫn ngài. (Chúng ta mừng lễ kính thánh Phanxicô Salêsiô ngày 24/01).
Theo kế hoạch của thánh Phanxicô Salêsiô, Jeanne Chantal và ba người chị em khác đã thiết lập hội dòng Thăm Viếng. Nhưng trước tiên, Jeanne phải lo cho con cái của mình, hiện đã khôn lớn, được an cư lạc nghiệp. Jeanne Chantal cũng có nhiều trách nhiệm và thách đố khác nữa. Nhưng Jeanne đã cố gắng noi theo chương trình của Thiên Chúa lúc vừa kịp biết dù cho khó khăn đến mức nào. Thánh nữ Jeanne Chantal đã can đảm trong hết mọi gian khó ngài gặp phải.
Thánh nữ mở nhiều tu viện mới và ngài cũng phải chiến đấu với những cám dỗ bản thân. Thánh VinhSơn Phaolô viết :
“Trong mọi khó khăn của cuộc sống, gương mặt Jeanne Chantal đã không khi nào mất đi vẻ bình thản. Jeanne Chantal đã luôn luôn trung thành với Thiên Chúa. Vì thế, tôi cho rằng Jeanne Chantal là một trong số các linh hồn rất thánh thiện mà tôi đã từng gặp thấy.”
Jeanne Chantal về trời ngày 13/12/1641.
Đến năm 1767, Đức Thánh cha Clêmentê XIII đã tôn phong Jeanne Chantal lên bậc hiển thánh.

Như thánh nữ Jeanne Chantal, chúng ta cũng hãy trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho mình, dù cho có lúc phải hy sinh. Chúng ta hãy bắt chước lòng can đảm và chí cương quyết của thánh nữ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-11-2012, 12:57 PM
Ngày 22 tháng Tám




Lễ ĐỨC MARIA NỮ VƯƠNG



Chúng ta hãy liên kết ngày lễ hôm nay với ngày lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, mà chúng ta đã mừng ngày 15/08.
Hôm nay, chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria được hiệp nhất với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ trên thiên đàng. Mẹ đang ở đó, với cả linh hồn và trọn thân xác của Mẹ.
Dù cho các chính phủ ngày nay thường là những chính phủ cai trị theo nguyên tắc của chế độ dân chủ, chúng ta cũng vẫn có thể hiểu được tầm quan trọng của các vua chúa cũng như các bà hoàng trong lịch sử của nhiều quốc gia. Một bà hoàng tốt thì luôn được thần dân hết lòng phục vụ và yêu mến. Đó là hình ảnh bà hoàng mà chúng ta gặp thấy nơi Đức Mẹ Maria. Mẹ thật là một Bà Hoàng dễ thương và nhân hậu. Mẹ cũng là Mẹ và là Thầy của mỗi người chúng ta.
Với tư cách là Mẹ, Mẹ Maria luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Đừng bao giờ xấu hổ khi phải cầu xin Đức Mẹ bất cứ điều gì. Đức Mẹ sẽ ban cho ta được những ơn phần hồn. Mẹ sẽ trợ giúp ta cả những ơn phần xác. Đức Mẹ cũng là người Thầy của chúng ta, vì Mẹ để lại cho chúng ta một mẫu gương, dạy ta biết cách trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, Con Mẹ. Nếu ta đón nhận Mẹ làm Nữ Vương của mình, ta sẽ được Mẹ dạy cho biết nhiều điều kỳ diệu về sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Mẹ sẽ dẫn ta đến với Con của Mẹ.
Chúng ta có thể tôn kính Mẹ Maria mỗi ngày bằng nhiều cách. Chúng ta có thể đọc kinh Kính Mừng trong ngày. Chúng ta có thể dùng một quãng thời gian thanh vắng nào đó để cầu nguyện và đọc kinh Mân Côi. Chúng ta có thể mang trong mình một mẫu ảnh hay một bức tượng nhỏ của Mẹ để nhắc nhớ ta tôn kính Mẹ bằng những lời kinh. Đó là phương thế chúng ta đặt Mẹ làm trung tâm và là Nữ Vương của lòng mình.

Chúng ta hãy năng đọc kinh Kính Mừng trong ngày : Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-11-2012, 06:49 AM
Ngày 25 tháng Tám




THÁNH LOUIS



Thánh Louis sinh ngày 25/04/1214. Thân phụ ngài là vua Louis VIII cai trị nước Pháp, và thân mẫu ngài là hoàng hậu Blanche.
Người ta thuật truyện rằng khi hoàng tử Louis còn nhỏ, hoàng hậu Blanche đã ôm ghì ngài vào lòng và nói :
“Mẹ yêu con, hỡi con yêu dấu của mẹ, mẹ yêu con rất nhiều, nhiều như bất cứ người mẹ nào có thể yêu thương đứa con của mình. Nhưng mẹ thà thấy con chết dưới chân của mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng.”
Louis hằng ghi tâm khắc cốt lời dạy của thân mẫu. Louis lớn lên trong sự dưỡng dục và ấp ủ của niềm tin Công giáo. Khi Louis lên 12 tuổi, vua cha băng hà, và Louis lên ngôi kế vị cha. Tuy nhiên, hoàng hậu Blanche đã nắm quyền cai trị nước cho tới khi Louis được 21 tuổi.
Thánh Louis là một vị quân vương rất đặc biệt. Ngài kết hôn với cô Margaret, con gái của một bá tước. Cả hai rất tha thiết yêu nhau. Họ sinh được 11 người con. Louis là người chồng và là người cha tốt lành. Khi hoàng hậu Blanche còn sống, bà là cố vấn rất được Louis quý trọng. Dù bận rộn với trăm công nghìn việc, Louis cũng gắng sắp xếp thời giờ để tham dự thánh lễ và nguyện kinh Thần vụ hàng ngày. Vua thánh Louis là hội viên của dòng Ba Phanxicô và ngài sống rất mực giản dị. Louis rất quảng đại và rất có công tâm. Ngài cai trị thần dân với đức khôn ngoan, bác ái theo giáo huấn của Chúa Kitô. Đối với vua thánh Louis, tin và sống chỉ là một. Louis biết cách dàn xếp những cuộc cãi vã và tranh chấp. Ngài lắng nghe những người nghèo khổ và thiệt thòi về quyền lợi. Ngài dành thời giờ cho mọi người chứ không riêng cho những người giàu có và quyền thế. Ngài cũng ủng hộ nền giáo dục Công giáo và đã xây cất nhiều tu viện.
Nhà sử học Joinville đã viết một cuốn tiểu sử về vua thánh Louis. Ông nói rằng mình đã trải qua 22 năm phục vụ nhà vua. Ông làm bạn hàng ngày với vua và ông nói rằng trong suốt những năm ấy, chưa bao giờ nghe thấy vua Louis chửi thề hay nói một lời tục tĩu nào. Vua Louis cũng không cho phép ai được dùng loại ngôn ngữ thô bỉ đó trong lâu đài của vua.
Thánh vương Louis cảm thấy phải khẩn trương giúp đỡ các Kitô hữu đang chịu đau khổ tại đất thánh. Ngài muốn tham gia các cuộc thánh chiến để dành lại đất thánh đang bị những người Hồi giáo chiếm giữ. Lần đầu vua Louis bị bắt làm tù binh. Thế nhưng ngay cả ở trong tù, Louis cũng sống như một hiệp sĩ của Chúa Kitô. Louis tỏ ra hiên ngang và cao thượng trong mọi lối hành xử. Sau đó, Louis được trả tự do và được trở về cai trị vương quốc của mình ở Pháp. Tuy nhiên, chớp lấy cơ hội, Louis lại sang đất thánh lần nữa, nhưng trên đường đi Louis bị bệnh sốt thương hàn.
Trước lúc qua đời, thánh Louis đã cầu nguyện :
“Lạy Chúa Giêsu, con sẽ tiến vào Nhà Chúa, thờ lạy Chúa trong thánh điện của Ngài và dâng Chúa vinh quang xứng với danh Ngài!”
Thánh Louis qua đời ngày 25/08/1270, lúc được 56 tuổi.
Đến năm 1297, Đức Thánh cha Bonifacio VIII đã tôn phong Louis lên bậc hiển thánh.

Sống trọn vẹn những giá trị Tin Mừng ở bất cứ thời đại lịch sử nào cũng thật là điều không mấy dễ dàng. Vua thánh Louis nước Pháp, bằng gương sáng của mình, đã dạy chúng ta phải dành thời giờ cho Thiên Chúa và cho việc cầu nguyện. Nếu bị cám dỗ là quá bận rộn với công việc đến nỗi không thể cầu nguyện được, chúng ta hãy nài xin thánh vương Louis chỉ cho chúng ta bí quyết của ngài.



(Hôm nay chúng ta cũng mừng kính lễ thánh Giuse Calaxansiô)





(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-11-2012, 06:52 AM
Ngày 26 tháng Tám




THÁNH ELISABETH BITIER



Thánh nữ Elisabeth Bitier sinh năm 1773 tại nước Pháp.
Khi còn nhỏ, Elisabeth rất thích chơi trò xây các lâu đài trên cát. Nhiều năm sau, Elisabeth phải xây các tu viện cho các chị em trong hội dòng ngài thành lập.
“Tôi đoan chắc nghề xây cất là công việc của tôi.” – Elisabeth đùa vui – “Vì tôi đã thực tập công việc này ngay từ thuở nhỏ.”
Thực ra, tính đến năm 1830, 8 năm trước khi về trời, thánh nữ Elisabeth Bitier đã xây cất được tất cả hơn 60 tu viện.
Trong thời gian cuộc cách mạng Pháp nổ ra, gia đình của Elisabeth đã mất hết mọi sự. Lý do là những người theo chế độ cộng hoà đã chiếm hết tài sản của giới quý tộc. Nhưng Elisabeth 19 tuổi lúc ấy rất thông minh. Ngài học luật và đã giúp gia đình làm đơn kiện và đòi lại tài sản. Khi Elisabeth được kiện và đã cứu giúp gia đình thoát khỏi hoàn cảnh hoang tàn, thì có người thợ đóng giày ở cùng xóm nói với Elisabeth :
“Tôi thấy việc cô phải làm lúc này là hãy kết hôn với một ông đảng viên đảng Cộng hoà!”
Tuy vậy, Elisabeth không có ý định lập gia đình với bất cứ ai – dù là quý tộc hay đảng viên đảng Cộng hoà. Phía sau bức ảnh Đức Mẹ, Elisabeth đã viết dòng chữ :
“Con xin tận hiến mình con cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ mãi mãi!”
Với sự trợ giúp của thánh Anrê Phơnê, Elisabeth Bitier đã thiết lập một hội dòng mới trong Giáo hội, gọi là dòng Nữ Tử Thánh Giá. Mục đích của hội dòng là giáo dục trẻ em và chăm sóc bệnh nhân. Để giúp đỡ tha nhân, Elisabeth Bitier đã phải đương đầu với bất cứ nguy hiểm nào. Lần kia, thánh nữ gặp một người đàn ông vô gia cư đang nằm liệt trong một chuồng ngựa, Elisabeth đã đem ông vào bệnh viện của dòng để săn sóc cho tới khi ông qua đời. Sáng hôm sau, viên cảnh sát trưởng đến gặp sơ Elisabeth Bitier và nói rằng sơ có thể sẽ bị bắt vì đã cất giấu một tên tội phạm. Elisabeth không tỏ ra chút gì sợ hãi. Thánh nữ nói :
“Thưa ông, tôi đã chỉ làm một điều mà có lẽ bản thân ông cũng sẽ làm. Tôi đã tìm thấy bệnh nhân đáng thương này và đã săn sóc ông ấy cho tới khi ông ấy qua đời. Tôi sẵn sàng thuật lại cho quan toà biết những gì đã xảy ra.”
Dĩ nhiên, lòng bác ái và chân thành của thánh nữ Elisabeth đã làm cho thánh nữ được nể trọng. Dân chúng rất khâm phục lối trả lời thẳng thắn và trong sáng của ngài.
Thánh Anrê Phơnê, đấng sáng lập hội dòng Nữ Tử Thánh Giá, qua đời năm 1834. Thánh nữ Elisabeth Bitier đã viết thư cho các chị em dòng ngài rằng :
“Đây thật là nỗi đau buồn và mất mát to lớn đối với chúng ta!”
Elisabeth về trời ngày 26/08/1838. Ngài được Đức Thánh cha Piô XII tôn phong hiển thánh năm 1947.

Thánh nữ Elisabeth Bitier thật can đảm và giàu nghị lực. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ ban cho chúng ta ơn sống đời Kitô hữu cách nhiệt tình hơn nữa. Thánh nữ sẽ giúp chúng ta trở thành những môn đệ hào hiệp của Chúa Giêsu.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-11-2012, 09:51 AM
Ngày 29 tháng Tám




Lễ THÁNH GIOAN Tẩy Giả Bị Trảm Quyết



Thánh Gioan Tẩy Giả là người anh họ của Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Elisabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria.
Chương đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin Mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan Tẩy Giả.
Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan Tẩy Giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta hối cải cuộc đời, và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hoà cùng Thiên Chúa.
Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà ta đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc Âm.
Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép Rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép Rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Gio-đan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự.
Gioan Tẩy Giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Chúa Giêsu. Ngài biết rằng Danh Chúa phải toả sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ Nhất Phúc Âm theo thánh Gioan, thánh Gioan Tẩy Giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia.
Sứ điệp của Gioan Tẩy Giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?

Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-11-2012, 09:52 AM
Ngày 30 tháng Tám


THÁNH FIACRÊ


(Bổn mạng của những người làm vườn)



Thánh Fiacrê sinh tại Ai Len vào thế kỷ thứ VII.
Để tìm kiếm một nơi thanh vắng hầu được sống thân mật với Thiên Chúa, Fiacrê đã trẩy tàu sang Pháp. Đức Giám mục Mêô đã ban cho Fiacrê một phần đất trong một khu rừng. Truyền thuyết kể rằng Đức Giám mục dẫn Fiacrê tới một khu rừng và nói với Fiacrê :
“Trong vòng một ngày con xới được bao nhiêu đất thì bấy nhiêu sẽ thuộc về phần con!”
Nhưng thay vì dùng cày để xới cho được nhiều đất hơn thì thánh Fiacrê lại cho thấy ngài muốn sống thật giản dị bằng cách chỉ dùng đầu gậy đi đường của ngài để xới đất.
Thánh Fiacrê dọn dẹp khu đất và dựng một căn nhà nhỏ cho mình cũng như làm một căn nhà cho các du khách có chỗ dừng chân và nghỉ ngơi. Ít lâu sau, người ta tuôn đến với Fiacrê để xin ngài khuyên nhủ. Thánh Fiacrê chia sẻ cho người nghèo những gì ngài có, và ngài cũng chăm sóc những người đau yếu. Đôi lúc, Fiacrê chữa bệnh cho họ bằng những phép lạ.
Ngay cả sau khi qua đời, nhiều phép lạ đã xảy ra khi người ta đến thăm ngôi nguyện đường bé nhỏ của thánh Fiacrê.
Thánh Fiacrê được đặt làm thánh bổn mạng của những người làm vườn.

Thánh Fiacrê chỉ cho chúng ta thấy việc giúp đỡ những người nghèo khổ không chỉ là bổn phận của riêng những người giàu có. Ngay cả khi không có nhiều, chúng ta cũng luôn luôn có thể chia sẻ cái chúng ta đang có với những người kém may mắn hơn mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-11-2012, 09:55 AM
Ngày 31 tháng Tám




THÁNH AIĐAN LINĐISPHAN



Thánh Aiđan Linđisphan là một tu sĩ gốc người Ai Len sống vào thế kỷ thứ VII. Thánh nhân sống tại một tu viện rất nổi tiếng ở Iôna do thánh Côlumba thiết lập.
Thánh Oswald, lên ngôi vua cai trị miền Bắc nước Anh năm 634, đã xin các nhà truyền giáo tới giảng cho thần dân ngoại đạo của ngài. Người đầu tiên đến nhưng chẳng bao lâu đã trở về phàn nàn rằng dân Anh rất ư cục tính, bướng bỉnh và phóng túng. Rồi các tu sĩ họp nhau lại để cùng giải quyết vấn đề. Thánh Aiđan lúc ấy mới nói với vị tu sĩ đã trở về :
“Theo tôi nghĩ, anh đã xử quá nghiêm khắc với những người ấy.”
Sau đó, thánh nhân giải thích rằng, như thánh Phaolô dạy, trước hết ta hãy trình bày những điều dể hiểu. Rồi khi đức tin của họ trưởng thành hơn, lúc ấy ta mới có thể khuyên họ làm nhiều việc trọn lành hơn theo thánh luật của Thiên Chúa.
Khi các tu sĩ nghe những lời lẽ khôn ngoan ấy, họ mới quay sang nói với Aiđan :
“Anh hãy là người tới đó rao giảng Tin Mừng đi!”
Và Aiđan đã nhận lời lên đường. Ngài lãnh nhiệm vụ mới với lòng khiêm nhượng và tinh thần cầu nguyện. Rồi Aiđan bắt đầu rao giảng. Chính vua Oswald đã phiên dịch các bài giảng thuyết của Aiđan ra tiếng Anh cho tới khi Aiđan sử dụng được ngôn ngữ này. Thánh Aiđan cũng du lịch đây đó, nhưng ngài luôn luôn đi bộ. Ngài giảng dạy và giúp đỡ nhiều người. Aiđan tử tế với người nghèo khổ và ham thích lối sống dung dị. Thánh nhân làm nhiều việc tốt và được mọi người yêu mến. Sau 30 năm kể từ lúc thánh Aiđan đặt chân tới truyền giáo tại vùng đất này, bất cứ tu sĩ hay linh mục nào đến đây cũng đều được người dân trong làng vui vẻ tiếp đón.
Trên đảo Linđisphan, thánh Aiđan đã xây cất một tu viện lớn. Vì có nhiều vị thánh đã xuất thân từ đây nên địa danh Linđisphan cũng trở nên nổi tiếng như đất thánh. Dần dần, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo nhiệt thành này đã làm cho vùng đất phía Bắc nước Anh trở nên một vùng đất văn minh và Kitô hoá.
Thánh Aiđan Linđisphan qua đời năm 651.

Chúng ta học được nơi đời sống của thánh Aiđan Linđisphan điều này : Lời chứng của người có tâm hồn vui vẻ và hào hiệp sẽ đích thực chạm tới tha nhân. Khi cần giúp sức để khám phá ra điều tốt nơi tha nhân, chúng ta hãy cầu xin với thánh Aiđan Linđisphan.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-11-2012, 01:37 PM
Ngày 01 tháng Chín




THÁNH GILÊ



Thánh Gilê sinh vào thế kỷ thứ VIII tại thành phố Athen, nước Hy Lạp.
Khi song thân qua đời, Gilê đã dùng phần lớn tài sản cha mẹ để lại mà đem cho người nghèo. Vì lý do đó, và nhất là vì làm nhiều phép lạ, Gilê rất được ngưỡng mộ. Nhưng Gilê lại không muốn những lời khen ngợi và tiếng tăm này. Do vậy, để có thể phục vụ Thiên Chúa với cuộc đời mai danh ẩn tích, Gilê đã rời bỏ quê hương và trẩy tàu sang Pháp.
Khi qua Pháp, Gilê tới sống một mình trong một khu rừng u ám. Ngài làm nhà trong một cái hang thô phía sau bụi gai rậm. Gilê sống ở đó và cảm thấy toại nguyện vì tránh được mối nguy hiểm tự cao tự đại khi nghe người ta khen mình.
Nhưng một ngày kia, bỗng có ông vua lạ và đoàn tuỳ tùng của ông vào rừng săn bắn. Họ đuổi theo một con nai đang chạy về phía cái hang của Gilê. Con nai trốn thoát bằng cách phóng vào trong hang, cái hang nằm đàng sau bụi gai rậm rạp. Và một người trong đoàn đã bắn một mũi tên vào bụi gai, hy vọng giết được con nai. Nhưng khi cả đoàn người lao tới, họ mới phát hiện ra Gilê đang ngồi trong hang và bị thương bởi mũi tên.
“Ngươi là ai và đang làm gì ở đây vậy?” – Nhà vua lên tiếng hỏi.
Thánh Gilê liền thuật lại cho họ nghe toàn bộ câu chuyện về cuộc đời của ngài. Nghe xong họ liền xin lỗi Gilê. Rồi nhà vua đã sai các danh y của mình tới băng bó vết thương cho Gilê. Về sau, với lòng kính trọng, nhà vua đã tới thăm Gilê nhiều lần dù thánh nhân đã nài xin được sống thanh vắng một mình. Gilê không nhận quà biếu của vua bao giờ. Tuy nhiên, sau cùng Gilê đã bằng lòng để nhà vua xây cất một tu viện lớn tại đó. Và thánh Gilê là tu viện trưởng đầu tiên của tu viện này.
Tu viện đã trở nên nổi danh đến nỗi vể sau cả một thị trấn đã được hình thành tại đây.
Khi thánh Gilê qua đời, ngôi mộ an táng ngài nơi tu viện đã biến thành một ngôi đền danh tiếng và là nơi hành hương cho nhiều du khách.

Thánh Gilê nhận thức rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Khi nào cảm thấy cái tôi của mình là hòn đảo, là trung tâm, khi ấy chúng ta hãy dâng lên thánh Gilê một lời nguyện. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta biết cách đặt Thiên Chúa làm trung tâm cuộc đời và biết sống quảng đại với quỹ thời gian của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-11-2012, 01:40 PM
Ngày 02 tháng Chín


CHÂN PHƯỚC GIOAN DULAUT và Các Bạn Tử Đạo Tháng Chín



Chân phước Gioan Dulaut là Tổng Giám mục giáo phận Arles, nước Pháp. Gioan và các bạn tử đạo của ngài được mừng kính hôm nay bởi vì các ngài đã anh dũng tử đạo trong suốt cuộc cách mạng Pháp.
Sự kiện là người ta bị ép buộc phải tuyên thệ giữ bản Hiến chương 1790, bản Hiến chương này có nội dung chống lại Giáo hội. Nếu ai không tuyên thệ thì sẽ bị tống ngục. Vào năm 1792, hình phạt được chuyển thành án tử hình. Có nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đã can đảm không ký vào bản tuyên thệ ủng hộ Hiến luật mới này. Và các ngài biết rằng làm như thế thì sẽ bị xử trảm. Đức Thánh cha Piô VI đã ủng hộ các ngài và lên án bản Hiến luật. Đó là thời kỳ đau buồn nhất đối với người dân Pháp.
Vào ngày 02/09/1792, một đám đông gồm hàng trăm người đã bạo loạn và đột nhập vào một tu viện cổ, hiện là nhà giam các linh mục và tu sĩ. Đám đông hỗn loạn đã xông tới nhiều linh mục và bắt các ngài phải ký vào bản tuyên thệ. Từng linh mục đã kiên quyết từ chối. Lập tức, các ngài bị giết chết.
Trong số các vị tử đạo có chân phước Alexandre Lenphan, một linh mục thuộc dòng Tên. Chỉ vài phút trước khi qua đời, Alexandre đã giải tội cho một linh mục bạn. Lát sau, cả hai đều bị giết chết. Sau đó, những kẻ bạo loạn đi tới nhà thờ CátMinh, sau này cũng được dùng làm nhà tù. Chân phước Gioan Tổng Giám mục thành Arles cùng với các giám mục và linh mục khác đang bị giam tại đó. Tất cả đều từ chối tuyên thệ và tất cả đều bị sát hại. Vào ngày 03/09, cũng đám đông hỗn tạp ấy kéo nhau tới nhà dòng Lazarit. Nơi đây cũng bị biến thành nhà tù, gồm có 90 linh mục và các thầy dòng. Chỉ có 4 người thoát nạn được thôi!
Tính tới lúc cuộc cách mạng kinh khủng chấm dứt, đã có 1500 Kitô hữu bị giết hại. Nhiều vị là giám mục, linh mục và tu sĩ. Các vị tử đạo tháng Chín này có 191 vị.
Các ngài được Đức Thánh cha Piô XI phong chân phước năm 1926.

Chúng ta hãy nài xin các vị tử đạo tháng Chín này giúp chúng ta hiểu biết và trân trọng ân huệ rất quý giá là đức tin Công giáo. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng với hồng ân này.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
13-11-2012, 06:29 AM
Ngày 04 tháng Chín


THÁNH ROSA VITEBO



Thánh nữ Rosa sinh khoảng năm 1235 tại thành Vitebo, nước Ý.
Rosa là một thiếu nữ nghèo sống vào thời hoàng đế Frédéric đem quân chiếm đoạt đất đai của Giáo hội. Sứ mệnh đặc biệt của Rosa là làm cho người dân trong thành Vitebo và các thành lân cận vững tin vào Thiên Chúa và vào Giáo hội. Thánh Rosa thực hiện sứ vụ này khi mới chỉ là một thiếu nữ. Thật vậy, khi lên 8 tuổi, Đức Mẹ đã hiện ra với Rosa khi Rosa bị bệnh. Đức Mẹ bảo Rosa phải nêu gương sáng trong lời nói và việc làm. Dần dần, sức khoẻ Rosa được hồi phục. Thánh nữ bắt đầu suy nghĩ nhiều đến những đau khổ Chúa Giêsu phải chịu vì tội lỗi loài người. Rosa đã cầu nguyện và làm nhiều việc hãm mình để tỏ lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu.
Lúc lên 12 tuổi, thánh nữ Rosa bắt đầu rao giảng tại các ngả đường thành Vitebo. Thánh nữ kêu gọi mọi người đứng lên chống lại hoàng đế vì ông đã chiếm đất của Giáo hội. Nhiều người nghe theo Rosa và điều này đã khiến cho thân phụ Rosa hoảng sợ. Ông đe sẽ trừng phạt nếu Rosa không chịu ngưng rao giảng. Nhưng Rosa đã dịu dàng trả lời thân phụ rằng :
“Nếu Đức Chúa Giêsu đã chịu khổ vì con, con cũng sẽ chấp nhận chịu khổ vì Người. Con chỉ muốn thực hiện điều Thiên Chúa nói với con và con phải vâng theo lời Người.”
Suốt 2 năm sau, thánh nữ Rosa vẫn tiếp tục rao giảng và ngài đã thành công đến nỗi các kẻ thù của Đức Thánh cha muốn tìm sát hại ngài. Cuối cùng, Rosa và song thân phải rời khỏi thành Vitebo. Thánh nữ tiên báo hoàng đế sẽ chết, và vài ngày sau đã xảy ra như vậy. Trở về Vitebo, Rosa đã xin vào dòng tu nhưng không được chấp nhận, vì vậy, thánh nữ phải về lại gia đình.
Rosa Vitebo qua đời năm 1252, lúc mới 17 tuổi. Xác thánh nữ hiện vẫn được lưu giữ và tôn kính tại thành Vitebo.

Tuy cuộc sống ngắn ngủi nhưng thánh nữ Rosa Vitebo vẫn làm được nhiều công việc tốt. Điều gì biết là đúng thì thánh nữ quyết tâm làm dù phải gặp khó khăn hay phải thiệt vào thân. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Rosa Vitebo giúp chúng ta có được can đảm và sức mạnh như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
13-11-2012, 06:34 AM
Ngày 06 tháng Chín




CHÂN PHƯỚC BÉTRANT GARRIGUEST



Bétrant Garriguest sống vào đầu thế kỷ thứ XIII. Lúc ấy nước Pháp, quê hương của Bétrant, đang gặp nội chiến. Cũng có nhiều lộn xộn về vấn đề giáo huấn của Giáo hội.
Song thân của Bétrant đã cố gắng sống cuộc đời thanh thản và họ đã nuôi dưỡng con trai mình trong niềm tin chân thật. Vào năm 1200, Raymuldo người thành Toulouse đã dẫn một đạo quân tấn công vào các đan viện Xitô. Ông tin vào một lạc thuyết gọi là lạc thuyết Anbigen. Ông tấn công những ai không có cùng niềm tin như ông. Raymuldo Toulouse đặc biệt bách hại các đan sĩ Xitô bởi vì các đan sĩ này đang rất nỗ lực giúp người ta tìm về và hiểu biết đức tin Công giáo.
Bétrant Garriguest là linh mục thuộc dòng Xitô. Vào khoảng năm 1208, ngài gặp thánh ĐaMinh. Đó là lời mời gọi của Thiên Chúa để Bétrant bắt đầu một sứ vụ rất mực quan trọng. Bétrant là một trong số 6 thành viên cùng cộng tác với ĐaMinh lập nên một dòng mới, dòng Anh Em Thuyết Giáo, vào năm 1215. Họ thường được gọi là “dòng ĐaMinh” theo tên của thánh sáng lập.
Sau đó, chân phước Bétrant Garriguest được sai tới Paris để thiết lập cơ sở. Sau một quãng thời gian ngắn, thánh ĐaMinh lại sai cha Bétrant sang Bologna để lập thêm cơ sở tại đó. Bétrant Garriguest vui vẻ vâng lời. Lúc ấy, dòng ĐaMinh phát triển mạnh. Họ rao giảng sứ điệp Tin Mừng từ thành thị tới thôn quê. Họ mong muốn mọi người hiểu biết và yêu mến đức tin Công giáo. Năm 1219, Bétrant Garriguest tháp tùng thánh ĐaMinh trong chuyến kinh lý Paris. Ngài cũng rất ngưỡng mộ và yêu mến thánh ĐaMinh.
Năm 1221, anh em dòng ĐaMinh tổ chức một cuộc họp lớn gọi là Tổng Tu nghị. Bétrant Garriguest cũng tham dự cuộc họp này. Hội dòng quyết định phân chia thành 8 Tỉnh dòng nhỏ để sinh hoạt của các anh em tu sĩ cũng như các công việc của dòng mang lại kết quả hơn. Bétrant Garriguest được đặt làm bề trên giám tỉnh khu vực thuộc mạn nam nước Pháp.
Ngài đã dùng phần đời còn lại của mình để lo giảng dạy và giúp tha nhân sống thân mật hơn với Thiên Chúa.
Bétrant Garriguest qua đời năm 1230 và được Đức Thánh cha Lêô XIII tôn phong chân phước năm 1881.

Khi phân vân không biết phải làm gì cho cuộc sống này, chúng ta hãy cầu nguyện với chân phước Bétrant Garriguest. Bằng việc sống đức tin và cầu nguyện hàng ngày, chúng ta sẽ biết được chương trình của Thiên Chúa dành cho cuộc đời của mỗi người chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
14-11-2012, 07:46 AM
Ngày 07 tháng Chín


CHÂN PHƯỚC GIOAN ĐUKÊ và CHÂN PHƯỚC RALPH CORBY



Đây là lần thứ hai chúng ta gặp thấy danh xưng Đukê xuất hiện trong lịch kính các thánh và chân phước. (Chân phước Giacôbê Đukê, vị tử đạo người Anh, được mừng ngày 19/04. Một cách nào đó, tích truyện của ngài cũng gần giống như tích truyện của các vị tử đạo hôm này, cách riêng là Gioan Đukê). Cả Gioan Đukê và Ralph Corby đều là những linh mục. Các ngài sống vào thế kỷ thứ XVII. Các ngài đã lấy máu mình để minh chứng đức tin hồi năm 1644.
Cha Gioan Đukê theo học tại đại học Đôê bên nước Anh và trở thành linh mục năm 1639. Ngài du học thêm 3 năm nữa tại Pháp, và trong khi học hành, Gioan Đukê đã dành nhiều thời giờ trong ngày để cầu nguyện. Trước khi về lại đất nước thân yêu đang bị bách hại, Gioan Đukê đã trải qua 2 tháng với các tu sĩ Xitô, sống cầu nguyện và chiêm niệm. Sau đó, vị linh mục trẻ này hoạt động một năm tại Anh quốc, và ngài đã bị bắt vì tội cất giữ quyển sách Các Nghi thức và lọ dầu thánh. Khi những kẻ bắt giam Gioan Đukê dọa sẽ làm hại đến gia đình và bạn bè nếu không khai rõ lý lịch, lúc ấy Gioan mới thú nhận mình là linh mục.
Rồi Gioan Đukê bị nhốt vào một nhà tù tại Luân Đôn. Ở đó, Gioan Đukê gặp lại một linh mục bạn, cha Ralph Corby thuộc dòng Tên. Cha Ralph Corby đã làm việc tại Anh quốc suốt 12 năm trước khi ngài bị bắt vì tội dâng thánh lễ. Dòng Tên đã ra sức tìm cách cứu cha Ralph Corby. Sau cùng, cha Ralph Corby nhận được lệnh ân xá. Ralph Corby nài nỉ cha Gioan Đukê, trẻ tuổi hơn, nhận lệnh ân xá thay mình, nhưng cha Gioan Đukê không cho phép mình ra đi mà để bạn ở lại.
Thực sự, không linh mục nào được phép ân xá cả! Quan toà đã lờ đi và đã xử cả hai phải chết!
Vào ngày 07/09/1644, lúc 10 giờ sáng, cả hai lên xe ngựa đi thẳng tới Tybơn, nơi hành quyết. Người ta đã cạo đầu các ngài và mặc áo chùng thâm cho các ngài. Trước lúc hành quyết, mỗi người được phát biểu vài lời, và sau đó, người này ôm hôn người kia.
Các ngài sẽ gặp lại nhau trong vinh quang thiên quốc.

Có ai từng hiểu thấu được tại sao lại có bất công trên đời này? Thật khó mà tha thứ khi nhìn thấy những người vô tội phải chịu đau khổ! Chúng ta hãy cầu xin với chân phước Gioan Đukê và chân phước Ralph Borby mỗi khi chúng ta cảm thấy tức giận vì một bất công nào đó. Chúng ta hãy nài xin các ngài giúp chúng ta biết sống tha thứ như các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
14-11-2012, 07:50 AM
Ngày 08 tháng Chín




Lễ Sinh Nhật ĐỨC MẸ MARIA



Chúng ta ít khi mừng lễ sinh nhật của các thánh. Thay vào đó, chúng ta lại mừng kỷ niệm ngày các ngài qua đời, vì đó là ngày mỗi vị được sinh vào trong vinh quang thiên quốc.
Nhưng lễ sinh nhật của Đức Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, là một dịp ngoại lệ. Chúng ta mừng ngày sinh của Mẹ vì Mẹ đến thế gian này mang theo đầy tràn ân sủng và vì Mẹ chính là Mẹ của Chúa Giêsu.
Lễ sinh nhật của Mẹ ví tựa như bình minh vậy. Khi bầu trời bắt đầu ửng hồng vào mỗi buổi sáng, chúng ta nhận thấy chẳng mấy chốc mặt trời sẽ ló dạng. Tương tự như thế, ngày Đức Mẹ Maria chào đời đã đem lại cho nhân loại chúng ta một nguồn vui lớn. Ngày sinh của Mẹ mang ý nghĩa là Đức Giêsu, Đấng là Mặt Trời Công Chính, sẽ bắt đầu xuất hiện. Mẹ Maria là người phụ nữ diệu kỳ được đặc ân đem Đức Chúa Giêsu đến cho nhân loại.
Cho tới nay, nếu chúng ta có Đức Maria, chúng ta ắt hẳn sẽ có Đức Chúa Giêsu. Lý do là vì Đức Mẹ luôn luôn mang theo mình Đức Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ.
Khi chúng ta chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến với Đức Chúa Giêsu. Ai sống mật thiết với Mẹ, thì cũng sẽ sống mật thiết với Thánh Tâm Con Chí Thánh của Mẹ.

Chúng ta hãy làm cho ngày sinh của Mẹ Maria hôm nay trở nên một ngày thật đặc biệt bằng cách năng đọc đi đọc lại kinh Kính Mừng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-11-2012, 03:20 PM
Ngày 10 tháng Chín




THÁNH NICÔLA TÔLENTINÔ



Thánh Nicôla Tôlentinô sinh năm 1245 tại Ancona, nước Ý.
Song thân ngài đã phải lo lắng chờ đợi rất lâu cho tới khi có được mụn con. Nicôla là hoa trái của lời cầu nguyện và của chuyến hành hương kính viếng đền thánh Nicôla Bari. Song thân rất biết ơn thánh Nicôla Bari đến nỗi đã nhận tên ngài mà đặt cho con trai của mình.
Khi lớn lên, Nicôla cho biết ngài muốn làm linh mục. Nicôla đã cầu nguyện và sống thân mật với Thiên Chúa. Các bạn hữu của gia đình Nicôla thì muốn ngài làm linh mục trông coi một xứ đạo thật giàu có để dễ được thăng quan tiến chức. Phần Nicôla, ngài không nói nhiều mà chỉ im lặng tìm hiểu. Ngày kia, Nicôla ghé vào một nhà thờ. Ngài được nghe thấy vị linh mục rất nhiệt thành thuộc dòng Augustino giảng rằng :
“Đừng để lòng mình dính bén thế gian và những của cải đời tạm, vì thế gian này đang qua đi!”
Nicôla suy nghĩ rất nhiều về câu nói ấy. Ngài đã bỏ đi mà những lời thuyết giảng của vị linh mục cứ vang mãi trong đầu. Nicôla nhận ra rằng chính Thiên Chúa đã dùng vị giảng thuyết này để tỏ cho ngài biết ơn gọi của ngài, đồng thời Nicôla cũng nhận biết tầm quan trọng của việc rao giảng Lời Chúa. Và Nicôla quyết định gia nhập vào dòng của vị linh mục này.
Đó là dòng Augustino và vị linh mục kia chính là cha Rêginô, sau này làm cha tập sư của Nicôla. Nicôla tuyên những lời khấn thánh khi mới được 18 tuổi trọn. Sau đó, Nicôla học làm linh mục. Ngài được thụ phong khoảng năm 1270.
Rồi cha Nicôla đã thuyết giảng tại nhiều xứ đạo. Một ngày kia, đang lúc cầu nguyện trong một nhà thờ. Nicôla dường như nghe thấy một giọng nói :
“Hãy tới Tôlentinô! Hãy tới Tôlentinô! Hãy ở lại đó!”
Ít lâu sau, Nicôla được sai tới thành phố Tôlentinô, và ngài đã trải qua 30 năm sống tại đây.
Vào thời ấy, tình trạng chính trị không mấy ổn định. Nhiều người không chịu đi lễ để nghe giảng và tôn thờ Thiên Chúa. Các cha dòng thánh Augustino thấy rằng cần thiết phải rao giảng ngay trên các đường phố, và thánh Nicôla được chọn để thực hiện quyết định này. Thánh nhân đã thuyết giảng tại các nơi có đông người tụ họp. Người ta lắng nghe Nicôla giảng giải và nhiều người đã từ bỏ lối sống tội lỗi và các đam mê xấu. Họ nhất quyết sống cuộc đời tốt hơn.
Cha Nicôla đã trải qua hàng giờ mục vụ tại các khu nghèo nàn của thành phố Tôlentinô. Ngài viếng thăm những người cô thế, ban Bí tích cho người bệnh hoạn và hấp hối, quan tâm đến các nhu cầu của trẻ em và thăm viếng tù nhân.
Thánh Nicôla được ơn làm phép lạ ngay khi còn sống. Lần kia, thánh nhân đặt tay trên một em nhỏ và nói :
“Xin Thiên Chúa nhân từ cứu chữa con!”
Và lập tức em nhỏ được lành bệnh.
Thánh Nicôla Tôlentinô trải qua một năm chịu bệnh trước lúc qua đời ngày 10/09/1305.
Ngài được Đức Thánh cha Êugiêniô IV tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1446.

Thánh Nicôla Tôlentinô là hoa trái lời cầu nguyện của song thân ngài. Vì lắng nghe tiếng Chúa, thánh nhân đã có thể giúp đỡ nhiều người thành tâm tìm kiếm Chúa Giêsu. Chúng ta hãy nài xin thánh Nicôla Tôlentinô giúp chúng ta cũng biết để ý lắng nghe tiếng Chúa như thánh nhân.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
15-11-2012, 03:23 PM
Ngày 11 tháng Chín




THÁNH LAURENSÔ JUSTINIANÔ



Thánh Laurensô Justinianô sinh năm 1381 tại thành Venice, nước Ý.
Thân mẫu ngài đôi lúc đã nghĩ rằng con trai bà có ước vọng quá cao. Laurensô luôn nói với mẹ là mình muốn trở nên một vị thánh. Năm lên 19, Laurensô cảm thấy muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt. Laurensô đã tới xin lời khuyên của người cậu, một linh mục thánh thiện thuộc dòng thánh Gioóc.
“Cháu có can đảm khước từ những vui thú trần thế và sống cuộc đời sám hối đền tội không?”
Người cậu hỏi cháu Laurensô. Laurensô thinh lặng hồi lâu. Sau đó, ngài nhìn lên tượng Chịu Nạn và nói :
“Lạy Chúa Giêsu, Chúa là niềm hy vọng của con. Trong Thánh Giá Chúa con tìm được an ủi và sức mạnh.”
Thân mẫu Laurensô muốn ngài lập gia đình nhưng Laurensô đã gia nhập dòng thánh Gioóc. Công việc đầu tiên Laurensô phải làm là đi ra các ngả đường của thành phố để xin của bố thí về nuôi cộng đoàn. Laurensô Justinianô không xấu hổ với việc hành khất. Ngài nhận thấy rằng những của dâng cúng dù tiền bạc hay thực phẩm của tha nhân đều giúp hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Thậm chí Laurensô đã tới trước nhà mình và xin bố thí. Thân mẫu ngài chất đầy thức ăn vào chiếc túi của Laurensô để ngài có thể trở về tu viện sớm hơn. Thế nhưng Laurensô Justinianô chỉ nhận lấy 2 ổ bánh mì và sau đó lại trẩy qua nhà khác. Làm như thế, Laurensô Justinianô học được cách bỏ mình trong những điều nhỏ mọn và sống mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Ngày kia, người bạn của Laurensô Justinianô tìm cách thuyết phục ngài rời bỏ tu viện. Nhưng thay vào đó, thánh nhân lại nói về ý nghĩa của cuộc đời ngắn ngủi và thật khôn ngoan chừng nào khi biết sống cho Nước Trời. Nghe xong, người bạn rất cảm động và quyết tâm sống đời đạo hạnh.
Sau đó, thánh Laurensô Justinianô được đặt làm giám mục. Bổn đạo của ngài chẳng mấy chốc đã nhận biết Đức Giám mục của họ thật là một người tốt lành và thánh thiện. Mỗi ngày đều có rất nhiều người tới xin thánh nhân giúp đỡ. Giám mục Laurensô Justinianô nổi tiếng về lòng bác ái và rất thành công trong việc xây dựng hòa bình. Khi hấp hối, Laurensô Justinianô cũng chẳng cho phép mình được nằm trên giường nệm thoải mái. Thánh nhân khiêm tốn kêu lên :
“Không được phép! Đức Giêsu yêu quý của tôi đã chỉ nằm giang tay trên cây gỗ thô cứng và đau khổ!”
Thánh Laurensô Justinianô về trời năm 1455.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục để các ngài được tràn đầy lòng tin tưởng và yêu mến trong việc phục vụ dân Chúa và Giáo hội. Chúng ta cũng hãy nài xin Thiên Chúa ban cho các ngài sức mạnh, niềm vui và nhiều an ủi.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-11-2012, 07:22 AM
Ngày 12 tháng Chín




Thánh Danh ĐỨC MARIA



Việc tôn kính Thánh Danh Đức Maria trong phụng vụ bắt nguồn từ thế kỷ thứ VI, lúc ấy tại mỗi giáo xứ đã có lệ cử hành thánh lễ tôn kính Thánh Danh Đức Maria. Đến năm 1683, Đức Thánh cha Innôcentê XI mới chọn ngày 12/09 hàng năm làm ngày toàn thể Giáo hội hoàn vũ long trọng mừng lễ tôn kính Thánh Danh Đức Maria, để cám ơn sự bảo trợ của Đức Mẹ đối với Giáo hội.
Danh xưng “Maria” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “ngôi sao biển”. Khi các thủy thủ gặp phải bão tố ngoài biển khơi, họ sẽ nhìn xem các ngôi sao trên bầu trời để xác định phương hướng. Chúng ta có thể ngước trông lên Mẹ như “ngôi sao” chỉ lối soi đường mà Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta. Nếu bị trệch đường, chúng ta hãy đưa mắt nhìn lên Mẹ Maria, Mẹ sẽ hướng dẫn chúng ta trở về với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Thánh Bênađô viết :
“Khi bạn phải chiến đấu với bão táp trên biển cuộc đời, hãy ngước nhìn lên sao biển là Mẹ Maria. Nếu những ngọn gió cám dỗ thổi vào chiếc thuyền lòng bạn, hay nếu bạn bị va đụng bởi những tảng đá đau khổ, hãy nhìn lên ngôi sao – và hãy gọi tên Mẹ! Nếu bạn bị những đợt sóng tham vọng hay đố kỵ xô đẩy, hãy nhìn lên ngôi sao – hãy gọi tên của Mẹ! Nếu cơn nóng giận hay tham lam đánh bạt chiếc thuyền lòng bạn, hãy nhìn lên Mẹ Maria! Nếu bạn đang thất vọng vì tội lỗi quá nhiều, hãy tưởng nghĩ đến Mẹ! Trong những khó khăn và nguy hiểm, hãy nhớ đến Mẹ - hãy réo gọi Mẹ! Đừng để Danh Thánh Mẹ rời xa môi miệng bạn. hãy tưởng nghĩ đến Mẹ luôn luôn! Có Mẹ bạn sẽ không lạc lối. Được Mẹ chở che, bạn sẽ không sợ gì. Mẹ sẽ dẫn đưa bạn đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của bạn!”

Lúc chúng ta trải qua những buồn nản, nghi ngờ hay thất vọng, chúng ta có năng tưởng nghĩ đến Thánh Danh Mẹ Maria và réo gọi Mẹ không? Chúng ta có tin rằng Mẹ Maria thực sự yêu thương chúng ta và luôn ao ước cho chúng ta được hạnh phúc không? Vậy Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu bằng cách nào?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
16-11-2012, 07:24 AM
Ngày 13 tháng Chín




THÁNH GIOAN Kim Khẩu



Thánh Gioan Kim Khẩu sinh tại Antiokia vào khoảng năm 344.
Thân phụ Gioan qua đời lúc ngài còn rất nhỏ. Thân mẫu quyết định ở vậy không tái hôn. Bà dành tất cả sự quan tâm để giáo dục hai người con của bà, một trai và một gái. Bà đã cố gắng hy sinh và lo liệu để Gioan được học với các danh sư lỗi lạc thời ấy. Gioan rất đỗi thông minh và có thể cũng sẽ trở nên rất danh tiếng. Mỗi khi Gioan thuyết trình thì mọi người đều chăm chú lắng nghe. Thật ra, danh xưng “kim khẩu” có nghĩa là “miệng vàng”. Tuy thế, Gioan lại muốn tận hiến đời mình cho Thiên Chúa. Gioan được thụ phong linh mục, và sau đó được đặt làm giám mục cai quản thành phố rất vĩ đại là Constantinop.
Thánh Gioan Kim Khẩu là một giám mục tuyệt vời và ngài đã làm được những việc rất phi thường. Mỗi ngày, Gioan thuyết giảng một hoặc hai lần, ngoài ra Gioan còn nuôi dưỡng những người nghèo và chăm sóc các trẻ mồ côi. Gioan đã sửa lại những tập tục sai trái và ngăn cấm việc trình diễn những vở kịch xấu. Thánh nhân yêu thương mọi người, nhưng ngài không sợ lên tiếng phản đối ngay cả nữ hoàng mỗi khi bà làm điều sai quấy.
Vì chống lại tội lỗi nên thánh Gioan có nhiều kẻ thù, thậm chí chính nữ hoàng cũng trở nên kẻ thù của Gioan. Bà đã trục xuất thánh nhân ra khỏi thành Constantinop. Trên đường đi đày, thánh Gioan đã bị sốt nặng, thiếu thực phẩm và thiếu ngủ. Tuy vậy, thánh nhân vẫn vui mừng chịu khổ vì Chúa Giêsu. Ngay trước lúc qua đời, thánh Gioan đã lớn tiếng thốt lên :
“Xin sáng danh Đức Chúa!”
Thánh Gioan Kim Khẩu về trời ngày 14/09/407 tại Thổ Nhĩ Kỳ. Có một trận mưa đá khủng khiếp đã xảy ra tại Constantinop khi Gioan qua đời. Bốn ngày sau, bà hoàng cũng băng hà. Nhưng con trai của bà đã tôn kính xác thánh Gioan và tỏ lòng hối hận vì những tổn hại mà mẹ ông đã gây ra.

Thiên Chúa biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta biết ta. Nếu chúng ta làm mọi việc vì lòng yêu mến Thiên Chúa, chúng ta sẽ không lo sợ người khác nói xấu hay làm hại chúng ta. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Kim Khẩu ban cho chúng ta lòng can đảm của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-11-2012, 09:23 AM
Ngày 14 tháng Chín




Lễ SUY TÔN THÁNH GIÁ



Hôm nay chúng ta biểu lộ tình yêu mến và lòng biết ơn của chúng ta với Chúa Giêsu qua việc Suy Tôn Thánh Giá Chúa.
Ngày xưa thập giá là một trong các biểu tượng nhục nhã nhất. Hình phạt đóng đinh thập giá được dành cho những phạm nhân hết sức gian ác. Chúa Giêsu chấp nhận khổ hình thập giá là để dành lấy ơn cứu độ cho mỗi người chúng ta. Và khổ hình ấy dĩ nhiên đi kèm với sự nhục nhã.
Bằng vào cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã làm cho thập giá trở nên biểu tượng của vinh quang và sự sống bất diệt. Thập giá là biểu tượng thánh thiêng nhất của Kitô giáo. Khi thập giá có mang hình ảnh của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, lúc ấy nó được gọi là Tượng Chịu Nạn hay Thánh Giá Chúa. Thánh Giá trên bức tường trong phòng ngủ hay Thánh Giá mà chúng ta đeo quanh cổ của mình là những dấu hiệu nhắc nhở chúng ta rằng Đức Giêsu Kitô đã trả giá cho ơn cứu độ của từng người chúng ta.
Trải qua nhiều thế kỷ, các Kitô hữu đạo hạnh đã cất giữ cùng bảo quản tốt những thánh tích của Thánh Giá Chúa. Người ta tin rằng hoàng đế Hêraclitô đã tìm lại được những mảnh gỗ từ cây Thánh Giá của Đức Kitô hồi năm 629. Chẳng những ông và cả đoàn du khách hành hương đã tôn kính các thánh tích này mà ông còn mời gọi tất cả mọi người trong miền ấy cùng tham gia với ông. Trước thời gian đó, các Kitô hữu cũng đã tôn kính và yêu quý biểu tượng thập giá này.
Từ ngữ “Thánh Giá” cũng mang ý nghĩa những đau khổ xảy đến trên đường đời của ta. Khi ta biết chấp nhận những đau khổ này với lòng nhẫn nại và yêu mến, thì như Chúa Giêsu đã vác thập giá của Ngài, ta cũng sẽ trở nên những “người-vác-thập-giá” như Chúa Giêsu.

Chúng ta hãy suy nghĩ xem coi biểu tượng thập giá mang ý nghĩa gì đối với chúng ta là những Kitô hữu. Hôm nay chúng ta hãy ưa thích thưa lên với Chúa Giêsu lời nguyện tắt này :
“Lạy Chúa Giêsu, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
17-11-2012, 09:25 AM
Ngày 15 tháng Chín




Lễ ĐỨC MẸ SẦU BI



Vì là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria có rất nhiều niềm vui nhưng Mẹ cũng phải chịu nhiều đau khổ. Tình yêu quảng đại đối với Con Chí Thánh đã khiến Mẹ Maria phải đau khổ khi nhìn thấy Chúa Giêsu bị các kẻ thù đối xử tàn bạo. Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo vì Mẹ đã trải qua những đau khổ tinh thần mà những đau khổ này khủng khiếp hơn rất nhiều lần so với những khổ hình thể xác của các thánh tử đạo. Trái tim Mẹ ví tựa bàn thờ khi Mẹ dâng Con yêu quý của Mẹ là Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta trên ngọn đồi Canvê. Thật là đau khổ biết bao khi một người mẹ rất mực đáng yêu phải chứng kiến cảnh tượng con mình chịu chết trên thập giá!
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ Bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ :
- Niềm đau thứ Nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ. Việc đó sẽ xảy ra khi Chúa Giêsu bị lên án tử.
- Niềm đau thứ Hai là Đức Mẹ và thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập với Chúa Giêsu vì quân lính của vua Hêrôđê đang tìm giết Người.
- Niềm đau thứ Ba xảy ra lúc Đức Mẹ tìm kiếm Chúa Giêsu suốt ba ngày tại đền thánh Giêrusalem. Sau cùng, Mẹ đã tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ.
- Niềm đau thứ Tư của Mẹ là khi Chúa Giêsu bị quân dữ đánh đòn và đội mão gai.
- Niềm đau thứ Năm là khi Mẹ xem thấy Chúa Giêsu bị treo trên cây thập giá, nơi Chúa tắt thở sau ba giờ hấp hối.
- Niềm đau thứ Sáu của Mẹ là lúc thân xác bất động của Chúa Giêsu được trao phó trong vòng tay Mẹ.
- Và niềm đau thứ Bảy mà Mẹ phải chịu là lúc Chúa Giêsu chịu mai táng trong mồ.
Mẹ Maria đã chẳng hối tiếc hay phàn nàn gì khi phải chịu đau khổ quá nhiều trong suốt cuộc đời của Mẹ. Thay vào đó, Mẹ dâng lên Thiên Chúa những nỗi thống khổ của Mẹ vì chúng ta. Mẹ chính là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Bởi quá yêu thương chúng ta, Mẹ đã vui sướng cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu Con Mẹ để một ngày kia chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ cùng với Chúa Giêsu trên thiên đàng.

Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Sầu Bi, hôm nay chúng ta hãy dâng lên Mẹ vài hy sinh nhỏ mà không phàn nàn chi. Chúng ta cũng hãy suy ngắm từng niềm đau của Mẹ và cảm ơn Mẹ về tình yêu cao cả mà Mẹ đã dành cho mỗi người chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-11-2012, 09:26 AM
Ngày 16 tháng Chín




THÁNH CORNÊLIÔ và THÁNH CYPRIANÔ



Vào giữa thế kỷ thứ III, Giáo hội vẫn còn bị đàn áp. Cuộc bách hại tàn khốc của hoàng đế Đêsiô đã cướp đi sinh mạng của thánh Giáo hoàng Fabianô. Giáo hội phải trống ngôi giáo hoàng gần một năm.
Vào năm 251, người ta đã bầu một linh mục thánh thiện của Roma, là Cornêliô, lên làm Giáo hoàng. Cornêliô chấp nhận vì ngài yêu mến Chúa Kitô. Ngài sẽ phục vụ Giáo hội với cương vị Giáo hoàng ngay cả khi phải mất mạng sống mình vì nhiệm vụ. Đó là lý do thánh Giáo hoàng Cornêliô được cả thế giới ngưỡng mộ. Các giám mục Phi châu đặc biệt tuyên xưng lòng trung thành và yêu mến đối với Đức Giáo hoàng.
Giám mục Cyprianô giáo phận Cartago đã gửi cho Đức Giáo hoàng những lá thư an ủi và khích lệ. Cyprianô được ơn trở lại Kitô giáo lúc 25 tuổi. Ngài rất ngạc nhiên khi thấy các Kitô hữu thành Cartago tuyên khấn giữ đức trinh khiết trọn đời ngay trước lúc ngài chịu phép Thanh Tẩy. Cuối cùng, Cyprianô thụ phong linh mục và năm 248, ngài được tấn phong giám mục.
Giám mục Cyprianô hết lòng khích lệ và nâng đỡ Giáo hoàng Cornêliô. Các tác phẩm của thánh nhân minh chứng tình yêu mà các Kitô hữu đã dành cho toàn thể Giáo hội. Tình yêu này không chỉ dành riêng cho một mình giáo hoàng mà còn cho cả giáo phận và các giáo xứ địa phương. Cyprianô viết một tác phẩm sâu xa bàn về tính duy nhất của Giáo hội. Tác phẩm này vẫn là một chủ đề quan trọng đối với mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta.
Thánh Giáo hoàng Cornêliô qua đời đang lúc bị lưu đày tại hải cảng Roma vào tháng 09/253. Vì phải chịu đau khổ rất nhiều với tư cách là Giáo hoàng, Cornêliô được mọi người xem như là thánh tử đạo.
Thánh Cyprianô qua đời 5 năm sau đó, trong thời bách hại của hoàng đế Valêrianô. Thánh nhân bị xử trảm tại thành Cartago ngày 14/09/258.
Việc thánh Cornêliô và thánh Cyprianô chia sẻ chung một ngày lễ nhắc nhở chúng ta về tính duy nhất mà Giáo hội luôn luôn vui hưởng. Tính duy nhất này là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu, Vị Thủ Lãnh Giáo hội.

Chúng ta hãy nài xin thánh Cornêliô và thánh Cyprianô giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với Giáo hội, với Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên hoàn vũ. Các đấng có thể giúp chúng ta sống trung thực với niềm tin Công giáo của mình ngay cả trong những nghịch cảnh của cuộc sống.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
18-11-2012, 09:29 AM
Ngày 18 tháng Chín




THÁNH GIUSE CUPERTINÔ



Thánh Giuse Cupertinô sinh ngày 17/06/1630 tại một ngôi làng nhỏ bên nước Ý.
Gia đình Giuse rất nghèo và thời thơ ấu của Giuse rất bất hạnh. Thân mẫu của Giuse Cupertinô coi ngài là một mối phiền lòng và bà đã xử đãi với Giuse rất ư ác nghiệt. Chẳng mấy chốc, Giuse trở nên trì độn và đãng trí. Giuse lang thang hết chỗ này tới chỗ nọ mà như thể chẳng đi đâu cả. Và Giuse cũng dễ nóng giận nên không được người khác quý chuộng.
Rồi Giuse Cupertinô gắng sức học nghề đóng giày nhưng không thành công. Ngài đã xin vào tu dòng Phanxicô nhưng bị từ chối. Tiếp đến, Giuse gia nhập dòng Capuxinô, nhưng 8 tháng sau, Giuse Cupertinô được khuyên nên về lại gia đình. Giuse dường như chẳng thể làm được việc gì cho đàng hoàng cả! Giuse đánh rơi nhiều chồng chén đĩa và sau đó lại quên hết mọi sự. Thân mẫu Giuse Cupertinô không hài lòng khi để cậu trai 18 tuổi của bà ở lại nhà. Sau cùng, bà cũng thuyết phục được Giuse nhận làm người giúp việc cho một tu viện của dòng Phanxicô. Giuse nhận tu phục của dòng và được chỉ định trông coi đàn ngựa.
Khoảng thời gian này, Giuse Cupertinô bắt đầu thay đổi. Giuse sống khiêm tốn và hiền lành hơn. Ngài làm việc cẩn thận hơn và thu lượm được nhiều kết quả. Giuse Cupertinô cũng bắt đầu làm nhiều việc hãm mình. Rồi người ta quyết định cho Giuse được làm thành viên chính thức của hội dòng, và Giuse bắt đầu học làm linh mục.
Mặc dù rất chăm chỉ nhưng Giuse vẫn chỉ có chút ít thời giờ để học hành. Giuse tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, và cuối cùng, Giuse Cupertinô được thụ phong linh mục.
Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ qua cha Giuse. Hơn 70 lần người ta thấy cha Giuse được nâng lên cao khỏi mặt đất đang lúc ngài cử hành thánh lễ hay cầu nguyện. Giuse bị treo lơ lửng sát gần trần nhà giống như một ngôi sao treo ở đầu cành cây Noel. Giuse thường hay xuất thần và hoàn toàn kết hợp đang lúc trò chuyện với Thiên Chúa. Giuse sống thật thánh thiện! Mọi thứ Giuse Cupertinô xem thấy đều giúp ngài nghĩ tưởng đến Thiên Chúa.
Cha Giuse Cupertinô trở nên quá nổi danh vì làm nhiều phép lạ đến nỗi người ta đã gửi ngài tới thành Assisi để tránh cho thiên hạ biết đến. Điều này khiến Giuse rất hạnh phúc vì có dịp được sống thân mật với Chúa Giêsu yêu quý của ngài.
Chúa Giêsu luôn hiện diện trong trái tim của Giuse, và một ngày kia, Chúa đã đến đem Giuse về thiên đàng. Giuse Cupertinô qua đời năm 1663, lúc vừa tròn 60. Ngài được Đức Thánh cha Clêmentê XIII tôn phong hiển thánh năm 1767.

Có lẽ chúng ta cảm thấy rằng chúng ta không có tài nghệ gì đặc biệt lắm. Thậm chí có khi còn cảm thấy tuyệt vọng nữa! Đó là lúc chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh Giuse Cupertinô. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta có được sự tự tin cần thiết. Ngài sẽ nhắc chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu đang hiện diện trong trái tim chúng ta, và đối với Chúa Giêsu, chúng ta là những người rất ư đặc biệt.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-11-2012, 06:55 AM
Ngày 19 tháng Chín




THÁNH JANUARIÔ



Thánh Januariô sinh vào thế kỷ thứ IV tại nước Ý. Quê hương của ngài là Benevento hoặc có thể là Napoli.
Januariô làm giám mục giáo phận Benevento khi xảy ra cuộc bách hại của Điôclêsianô. Thánh Januariô được dân chúng gọi là “San Gennaro”, có nghĩa là “thánh Gennaro”. Theo truyền thuyết, San Gennaro biết được một số thầy phó tế bị giam tù vì đức tin. Đức Giám mục là một người hiền lành và có lòng trắc ẩn. Ngài thực lòng quan tâm đến bổn đạo và ngài đã đi tới nhà tù để thăm viếng họ. Người cai tù báo tin cho ông thống đốc, và ông này đã sai quân lính của mình tới tìm San Gennaro. Đức Giám mục đã bị bắt cùng với một thầy phó tế và một diễn giả. Họ bị giam cùng với các tù nhân khác.
Thế rồi, San Gennaro và 6 người khác đã chịu tử đạo. Cái chết của họ xảy ra gần thành phố Napoli vào khoảng năm 305. Dân thành Napoli đã dành cho Gennaro một lòng yêu mến và tôn kính đặc biệt. Thực ra, ngài được xem như thánh bổn mạng của họ.
Dân thành Napoli còn tưởng nhớ San Gennaro vì một lý do đặc biệt khác : Máu tử đạo của thánh nhân đã được cất giữ hàng mấy thế kỷ trước trong một chiếc lọ nhỏ. Máu đã hóa nên sẫm và khô. Nhưng tại một vài thời điểm nào đó trong năm, máu lại hóa lỏng. Nó trở nên đỏ, đôi lúc đỏ tươi. Thỉnh thoảng máu cũng sủi bọt. Hiện tượng đặc biệt chứa trong lọ máu được tôn kính cách công khai vào thứ Bảy đầu tháng Năm, và ngày 19/09 (lễ kính thánh SanGennaro), và kéo dài suốt 8 ngày (tính từ sau lễ kính thánh nhân), đôi lúc cũng được kính vào ngày 12/12. Lọ máu hóa lỏng này được nhìn nhận và được tôn kính từ thế kỷ thứ XIII.

Chúng ta hãy nài xin thánh Januariô ban cho chúng ta một trái tim biết yêu thương và biết rung cảm để nhờ đó chúng ta có thể đem niềm vui và an ủi đến cho những người sống chung quanh mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
19-11-2012, 06:58 AM
Ngày 20 tháng Chín




THÁNH ANRÊ KIM TÊGON và THÁNH PHAOLÔ CHONG HASANG



Thánh Anrê Kim Têgon là linh mục và thánh Phaolô Chong Hasang là một tín hữu Công giáo. Hai vị tử đạo này đại diện cho nhiều Kitô hữu đã hy sinh mạng sống vì đức tin tại Hàn quốc. Các ngài được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh năm 1984, nhân chuyến viếng thăm đất nước này.
Kitô giáo được những giáo dân đem vào Hàn quốc hồi thế kỷ thứ XVII. Các tín hữu đã âm thầm nuôi dưỡng và tăng triển đức tin của họ dựa trên Lời Chúa. Các linh mục thừa sai trẩy tàu từ Pháp sang Hàn và giới thiệu cho dân Hàn hiểu biết về đời sống Bí tích của Hội Thánh. Thỉnh thoảng, suốt dọc thế kỷ thứ XIX, đức tin Kitô giáo bị chính phủ Hàn bách hại. Từ năm 1839 đến năm 1867, đã có tổng cộng 103 tín hữu Hàn bị giết hại. Cũng có 10 thành viên của Hiệp hội Thừa Sai Paris nước ngoài chịu tử vì đạo : gồm 3 giám mục và 7 linh mục. Điều này đã nâng tổng số các thánh tử đạo lên 113 vị.
Thánh Anrê Kim Têgon và thánh Phaolô Chong Hasang là đại diện cho các Kitô hữu Hàn đã can đảm hy sinh mạng sống mình vì tình yêu Chúa Kitô.
Thánh Anrê Kim Têgon, linh mục đầu tiên của Hàn quốc, đã tử vì đạo ngày 16/09/1846, chỉ một năm sau khi được thụ phong. Thân phụ của Anrê đã tử đạo năm 1821.
Thánh Phaolô Chong Hasang là một giáo lý viên rất anh dũng. Thánh nhân chịu tử đạo ngày 22/09/1846.
Giáo hội vẫn tiếp tục phát triển nhanh chóng tại Hàn quốc. Món quà đức tin được tiếp nhận và được tô bồi nhờ công lao của các thánh tử đạo, những người đã hy sinh làm đá lát tường.

Mỗi vị tử đạo là một bài giảng âm thầm. Khi chúng ta suy ngắm cái chết của một vị tử đạo nào đó, chúng ta học được một sứ điệp. Chúng ta hãy nài xin các thánh tử đạo Hàn quốc giúp chúng ta cũng yêu mến Chúa Giêsu và Giáo hội cách tha thiết như vậy.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-11-2012, 03:36 PM
Ngày 22 tháng Chín




THÁNH TÔMA VILLANÔVA



Thánh Tôma Villanôva sinh năm 1488 tại nước Tây Ban Nha.
Thánh nhân được cha mẹ yêu quý dạy cho biết phải có tấm lòng bác ái đối với những người nghèo khổ. Tôma Villanôva học hành rất giỏi và ngài đã trở thành giáo sư dạy bộ môn triết sau khi tốt nghiệp ra trường.
Rồi Tôma Villanôva gia nhập dòng thánh Augustino. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được trao phó cho nhiều chức vụ quan trọng. Cuối cùng, Tôma Villanôva được đặt làm Tổng Giám mục giáo phận thành Valencia.
Các anh em linh mục thuyết phục Tôma hãy đổi bộ tu phục cũ kỹ, đã vá víu nhiều chỗ, để mặc những bộ áo đàng hoàng hơn. Tuy nhiên, thánh Tôma Villanôva nói với họ rằng những bộ áo cũ chẳng liên quan gì tới nhiệm vụ của ngài cả. Thánh nhân rất quan tâm đến những nhu cầu tinh thần của đàn chiên được trao phó cho ngài. Mỗi ngày, Tôma Villanôva cũng nuôi ăn hàng trăm người nghèo. Khi nhận được một số tiền lớn để mua những phương tiện trang bị cho căn nhà ngài ở, thánh Tôma Villanôva lại đem số tiền ấy biếu cho một bệnh viện. Ngài nói :
“Một tu sĩ nghèo khó như tôi mà lại cần có đồ đạc gì?”
Thật vậy, Tôma Villanôva được mọi người sống ở thời đại ngài gọi là “cha của những người nghèo khổ”.
Thánh Tôma Villanôva đối xử rất dịu dàng với các tội nhân, trong lúc mà hầu hết mọi người không làm được chuyện này. Lần kia, khi thánh nhân đang cố gắng khuyến khích một người đàn ông thay đổi những ý hướng bất chính, ông liền tức giận lăng mạ ngài và lao ra khỏi phòng.
“Đó là lỗi tại tôi,” – Đức Tổng giám mục khiêm tốn nói – “tại tôi hơi cứng cỏi!”
Ngài không bao giờ cho phép ai nói xấu người vắng mặt.
“Có lẽ họ có ý tốt khi làm chuyện đó!” – thánh nhân nói – “Tôi tin là như thế!”
Trước khi qua đời, thánh Tôma Villanôva đã bố thí cho người nghèo mọi thứ ngài có. Thậm chí thánh nhân đã cho chuyển chiếc giường ngủ của ngài vào nhà tù để cho các tù nhân sử dụng.
Thánh Tôma Villanôva về trời năm 1555. Ngài được Đức Thánh cha Alexandre VII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1658.

Chúng ta hãy ghi nhớ những lời của thánh Tôma Villanôva khi muốn sống quảng đại hơn. Thánh nhân thường nói : “Nếu bạn muốn Thiên Chúa ưng nhận những lời cầu xin của bạn, bạn hãy giúp đỡ những người nghèo khổ túng cực.”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
20-11-2012, 03:39 PM
Ngày 23 tháng Chín




THÁNH PIÔ PIÊTRELCINA



Phanxicô Forgiône sinh ngày 25/05/1887 gần thành Napoli nước Ý.
Song thân ngài rất nghèo khó và rất vất vả. Từ thơ ấu, Phanxicô Forgiône đã có một lòng yêu thích cầu nguyện sâu xa và một lòng khát khao nên thánh mãnh liệt.
Khi Phanxicô Forgiône lên 10, có một linh mục dòng Phanxicô Capuxinô tới Piêtrelcina. Phanxicô bị ấn tượng bởi lòng đơn sơ và khiêm nhường của ngài. Và Phanxicô quyết tâm rằng một ngày kia cũng sẽ là một linh mục dòng Capuxinô. Để giúp cho ước mơ của con thành sự thật, thân phụ của Phanxicô đã trẩy sang nước Mỹ tìm việc làm và kiếm tiền cho Phanxicô ăn học.
Vào ngày 06/01/1903, Phanxicô Forgiône gia nhập dòng Capuxinô ở Morcon. Phanxicô nhận tên là Piô. Vào năm 1910, Piô được thụ phong linh mục. Vì sức khỏe yếu kém, các bề trên tưởng sẽ là tốt hơn nếu để Piô sống một thời gian tại quê nhà. Chính thời gian này cha Piô nhận được một ơn đặc biệt. Để nên giống Chúa Giêsu Tử Nạn Thập Giá hơn, Piô bắt đầu cảm thấy những dấu đinh của Chúa ẩn trong tay, chân và vết thương của lưỡi đòng trong cạnh sườn mình. Sau một thời gian, các vết thương này xuất hiện thường xuyên hơn, nhưng vẫn vô hình. Vào ngày 20/09/1918, năm Dấu Thánh này tỏ lộ ra bên ngoài và kéo dài suốt 50 năm sau cho tới lúc cha Piô qua đời.
Sau 7 năm sống ở Piêtrelcina, cha Piô được gởi đến đan viện Capuxinô ở Foggia. Cha cảm thấy rất hạnh phúc vì sau cùng cha cũng được ở với các anh em tu sĩ Phanxicô. Và cộng đoàn cũng vui mừng vì có sự hiện diện của cha, bởi Piô luôn vui tính và hóm hỉnh. Cha Piô bắt đầu ban Bí tích Hòa Giải và chẳng bao lâu từng nhóm đông người đã kéo đến xin cha lời khuyên bảo.
Vào tháng 07/1916, các bề trên của cha Piô gửi cha tới San Jovanni Rotondo, một ngôi làng hẻo lánh để cha được hưởng chút yên tĩnh. Ở đây, sức khỏe của Piô được bình phục, và Piô cũng được Thiên Chúa ban cho những ơn lạ. Piô đọc được tâm hồn của người khác, thậm chí cha có thể giúp họ xưng tội bằng cách nhắc họ nhớ lại những chi tiết mà cha nghe được từ nơi Thiên Chúa. Cha Piô cũng có ơn “lưỡng tại” (tức khả năng hiện diện ở hai nơi khác nhau trong cùng một lúc), và năm Dấu Thánh của cha tỏa ra mùi thơm của hoa hồng và hoa tím.
Các bề trên của cha Piô đã hỏi cha những đặc ân này là có thực hay không, vì nếu như đó là trò chơi khăm thì Piô sẽ bị cấm dâng lễ công khai và cấm giải tội. Đây quả là một thánh giá nặng đối với Piô, nhưng cha Piô đã chấp nhận nó như một dịp để được nên giống Chúa Giêsu. Một thời gian sau, cha Piô lại được phép cử hành các Bí tích. Và một lần nữa, rất đông người lại chen chúc nhau trong nhà thờ để xem cha Piô dâng thánh lễ cũng như xếp hàng để được xưng tội với ngài. Thông thường, mỗi ngày cha Piô giải tội cho trên 100 hối nhân.
Cha Piô Piêtrelcina đã dùng hầu hết cuộc đời cuộc đời linh mục của ngài để ban Bí tích Hòa Giải và khuyên bảo cùng động viên vô số bổn đạo đến từ khắp các nơi trên thế giới. Cha đã phục vụ như vậy cho tới khi về trời ngày 21/09/1968.
Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn cha Piô Piêtrelcina lên bậc hiển thánh năm 2002.

Chúng ta có tin rằng trong Bí tích Hòa Giải, chúng ta được gặp chính Chúa Giêsu, Đấng biết rõ chúng ta hơn chúng ta, và yêu mến chúng ta hơn chúng ta có thể yêu mến mình không? Chúng ta hãy nài xin cha thánh Piô Piêtrelcina ban ơn soi sáng để chúng ta có thể nhận thấy những chuyện xảy ra trong đời sống của mình chính là những phương thế giúp chúng ta theo sát Chúa Giêsu hơn. Như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận Bí tích Hòa Giải cách hiệu quả hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-11-2012, 08:55 AM
Ngày 24 tháng Chín




THÁNH THEKLA



Theo truyền thuyết, thánh nữ Thekla (Têcla) là một nữ quý tộc ngoại giáo rất trẻ đẹp, sống vào thế kỷ thứ I. Ngài là người thành Iconio, Thổ Nhĩ Kỳ.
Thánh nữ Thekla đọc rất nhiều sách triết học, tuy vậy những sách này chẳng thỏa mãn được khát vọng tìm hiểu về Đấng Sáng Tạo của thánh nữ. Khi thánh Phaolô tông đồ đến rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu tại Iconio, lời cầu xin muốn biết một Thiên Chúa chân thật của thánh nữ Thekla đã được khấng nhận. Nơi thánh Phaolô, Thekla cũng học biết được rằng một phụ nữ trẻ có thể sống độc thân và có thể trở nên hiền thê của Chúa Giêsu. Và thế là Thekla chẳng ham ước gì hơn là tận hiến toàn thân để phụng sự duy một Thiên Chúa.
Song thân ngoại giáo của Thekla đã cố gắng hết sức để làm cho Thekla từ bỏ đức tin Công giáo nhưng không được. Vị hôn phu của Thekla, là Thamyris cũng nài xin Thekla đừng hủy bỏ việc đính hôn của hai người. Tuy nhiên, Thekla đã quyết định! Thánh nữ muốn trở nên hiền thê của Chúa Kitô chứ không phải của Thamyris. Cuối cùng,Thamyris đã tố cáo Thekla với những nhà cầm quyền.
Khi Thekla vẫn cương quyết không chịu chối bỏ đức tin vào Chúa Giêsu, họ liền ra lệnh thiêu sống ngài. Người phụ nữ trẻ đẹp này đã anh dũng chuẩn bị đón nhận cái chết. Tuy nhiên, người ta kể rằng khi lửa vừa được đốt cháy thì một cơn bão từ trời đã kéo tới dập tắt đi. Sau đó, Thekla bị đem cho sư tử ăn thịt. Tuy vậy, lại một lần nữa, Thiên Chúa đã cứu mạng sống của Thekla. Thay vì chồm lên cắn xé Thekla, những con mãnh thú chỉ nhẹ nhàng tiến tới phủ phục bên cạnh Thekla và liếm chân Thekla y như những chú mèo con nuôi trong nhà vậy. Sau cùng, hoảng sợ, quan tòa đã cho Thekla được tự do.
Thekla tìm đến một cái hang và thánh nữ đã sống phần đời còn lại tại đây. Thekla cầu nguyện và nói về Chúa Giêsu cho những người tới thăm hỏi ngài.

Nếu chúng ta muốn đào sâu thêm niềm tin và lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, chúng ta hãy nài xin Người giúp chúng ta biết sống mỗi ngày một quảng đại hơn. Bằng việc đặt Thiên Chúa lên trên và yêu mến Người trên hết mọi sự, chúng ta mới có thể thực sự yêu mến tha nhân trong cuộc sống của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
21-11-2012, 08:57 AM
Ngày 25 tháng Chín




THÁNH SÊGIÔ



Vị thánh người Nga nổi danh này sống vào thế kỷ thứ XIV. Ngài được đặt tên là Batôlômêô khi chịu phép Thanh Tẩy.
Thánh nhân không được thông minh như hai người anh trai của mình, nhưng ngài cũng biết đọc và biết viết. Điều này làm cho Batôlômêô rất hạnh phúc vì ngài rất ao ước được đọc Kinh Thánh.
Song thân của Batôlômêô là những quý tộc. Lúc Batôlômêô còn nhỏ, gia đình đã phải chạy trốn quân thù. Họ phải lao động như những nông dân nghèo. Sau khi song thân qua đời, Batôlômêô và một người anh trai tên Stêphanô đã trẩy vào trong núi sống như những ẩn sĩ. Hai anh em chặt cây và dựng một nhà thờ nhỏ. Nhà thờ được dâng kính cho Thiên Chúa Ba Ngôi.
Khi người anh trai tới Matxcơva để xin gia nhập vào một đan viện, Batôlômêô vẫn tiếp tục sống một mình. Ngài mặc tu phục của đan sĩ và lấy tên là Sêgiô. Sêgiô lúc này là một thanh niên cao to vạm vỡ. Ngài có sức chịu được những cơn gió bão hung tợn và buốt lạnh của khu rừng nơi ngài sinh sống. Sêgiô sung sướng cầu nguyện cùng Thiên Chúa và yêu mến Người với tất cả tâm hồn. Sẹgiô nói rằng lửa đốt và ánh sáng là những bạn đồng hành của ngài, và thậm chí Sêgiô còn làm bạn cả với những chú gấu!
Sau đó ít lâu, có những thanh niên cùng đến chia sẻ đời sống thánh thiện của thánh Sêgiô. Họ nài xin thánh nhân làm tu viện trưởng của họ và ngài đã đồng ý. Sêgiô được thụ phong linh mục và đã điều khiển tu viện cách rất khôn khéo. Lần kia, khi một số tu sĩ cùng với người anh trai của ngài, Stêphanô, lúc này đã trở về, có chuyện bất đồng với Sêgiô, Sêgiô đã lặng lẽ bỏ đi để giữ bầu khí an hòa. 4 năm sau, người ta xin Sêgiô trở về. Vừa thấy ngài, các tu sĩ rất vui mừng và họ chào đón ngài cách rất nhiệt tình.
Các nhà cầm quyền trị nước cũng thường hay đến xin thánh Sêgiô khuyên bảo. Thánh nhân nổi tiếng đến nỗi người ta đã mời ngài làm giám mục một giáo phận lớn nhất bên Nga. Nhưng thánh Sêgiô khiêm tốn từ chối. Lần kia, hoàng tử xứ Matxcơva phân vân không biết có nên đem quân chinh phạt giặc Tatar đang đàn áp dân Nga hay không. Thánh Sêgiô nói :
“Hoàng tử đừng sợ! Hãy dùng niềm tin mà tiến lên chống lại kẻ thù. Thiên Chúa sẽ ở với hoàng tử!”
Và sau đó dân Nga đã toàn thắng.
Thánh Sêgiô về trời năm 1392.

Không phải do học hành thông giỏi mà thánh Sêgiô đã được nhiều người tin tưởng và yêu mến. Chính niềm tin vào Thiên Chúa và ước muốn giúp đỡ tha nhân đã khiến thánh Sêgiô có được vinh dự này. Khi có ai bất đồng ý kiến với chúng ta hay muốn tranh cãi với chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại chính thánh Sêgiô cũng đã trải qua những hoàn cảnh giống y như vậy. Chúng ta hãy nài xin thánh nhân giúp chúng ta luôn sống an bình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-11-2012, 06:26 AM
Ngày 26 tháng Chín




THÁNH COSMA và THÁNH ĐAMIANÔ



Hai vị thánh tử đạo này là anh em song sinh, quê ở Syria, mất vào đầu thế kỷ thứ IV.
Cả hai đều là những sinh viên khoa học nổi danh và là những y sĩ xuất sắc. Cosma và Đamianô nhìn thấy trong mỗi bệnh nhân là hình ảnh của một người anh em trong Chúa Kitô. Vì lý do này, các ngài đã chiếu tỏa một đức bác ái thật lớn lao đối với tất cả mọi người và cư xử với các bệnh nhân cách rất chu đáo. Tuy vậy, dù chăm sóc bệnh nhân hết sức nhiệt tình, nhưng cả Cosma và Đamianô không bao giờ lấy của ai một đồng tiền công! Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy Lạp là “những người nghèo khó”.
Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.
Vào năm 303, khi cuộc bách hại các Kitô hữu của Điôclêsianô xảy ra tại thành phố nơi các ngài sinh sống, thì hai ngài đã lập tức bị bắt. Cả hai vị thánh đã không che giấu lòng yêu mến tha thiết đối với đức tin Công giáo. Chẳng có gì khiến hai ngài có thể chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô. Hai ngài đã sống cho Đức Kitô và đã làm cho rất nhiều người tin vào Đức Kitô.
Cả hai cùng bị lên án tử một trật với ba người anh em khác. Những vị thánh tử đạo này được nêu danh trong Kinh Nguyện Thánh Thể Thứ Nhất.

Như thánh Cosma và thánh Đamianô, chúng ta hãy trở nên những dấu chỉ của niềm tin Công giáo cho những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Bằng việc nhìn thấy Chúa Kitô trong tha nhân và cư xử với hết thảy mọi người cách công bằng và tử tế, chúng ta sẽ là một mẫu gương về lòng yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
22-11-2012, 06:29 AM
Ngày 28 tháng Chín
THÁNH LAURENSO RUIZ


Ngày lễ này dành để tôn kính một nam giáo dân gốc người Philippin. Thánh Laurenso Ruiz và 15 người bạn tử vì đạo để minh chứng đức tin tại Nagasaki, Nhật Bản vào năm 1637.
Sinh tại thành phố Manila, Laurenso lập gia đình và có 3 người con. Ngài gia nhập với một nhóm người gồm 9 linh mục thuộc dòng ĐaMinh, 2 tu sĩ và 4 giáo dân tình nguyện tới Nhật Bản rao giảng Tin Mừng. Tất cả cùng liên kết với dòng ĐaMinh và tất cả cùng thà hy sinh mạng sống hơn là chối bỏ niềm tin vào Chúa Giêsu. Các ngài là những người nam, người nữ có quốc tịch khác nhau : Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Philippin. Các ngài quả thật là hình ảnh nhắc nhớ chúng ta : Giáo hội của Chúa Kitô đã lan rộng ra khắp hoàn cầu!
Các thánh tử đạo này đã chịu đau khổ nhiều trước lúc qua đời, nhưng các ngài vẫn một lòng giữ vững đức tin Công giáo. Người ta ghi nhận rằng thánh Laurenso Ruiz đã nói với các vị quan tòa xử ngài rằng :
“Nếu tôi có 1000 mạng sống để dâng cho Đức Kitô, thì tôi sẽ vui mừng dâng từng mạng sống của tôi cho Người!”
Ngày 18/10/1987, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong nhóm các anh hùng này lên bậc hiển thánh.

Chúng ta hãy nài xin thánh Laurenso Ruiz và các bạn tử đạo thôi thúc các Kitô hữu hôm nay biết trở nên những môn đệ nhiệt thành và quảng đại của Chúa Giêsu. Càng học biết về đức tin bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến và chia sẻ với tha nhân bấy nhiêu.


(Ngày hôm nay, Giáo hội cũng mừng lễ kính thánh Venxétlao.)





(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”
của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-11-2012, 10:33 AM
Ngày 02 tháng Mười




Lễ Kính Các Thiên Thần Bản Mệnh



Ngày này, chúng ta mừng lễ tôn kính các sứ giả của Thiên Chúa, những đấng bảo vệ mỗi người và từng người chúng ta. Chúng ta đọc thấy các vị ở trong Kinh Thánh. Các thiên thần có nhiệm vụ phân phát các sứ điệp đặc biệt của Thiên Chúa, bảo vệ con người khỏi những nguy hại và cứu thoát con người.
Trong Kinh Thánh Tân Ước, nơi chương thứ 12 sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta đọc thấy cách thức một thiên thần đã cởi xiềng cho thánh Phêrô và cứu thánh nhân thoát khỏi cảnh tù đày. Suốt nhiều thế kỷ, Giáo hội dạy rằng cuộc sống con người từ khi sinh ra cho tới lúc qua đời đều được các thiên thần canh giữ cẩn thận.
Bức họa về thiên thần bản mệnh mà chúng ta thường được xem thấy đã mô tả một thiên thần đang bảo vệ hai em nhỏ khi các em băng qua một cây cầu hẹp. Thực ra, thiên thần là thiêng liêng và không có thân xác như loài người. Đó là lý do chúng ta không trông thấy được thiên thần bản mệnh của chúng ta, các đấng không bao giờ lìa xa chúng ta!
Năm 1608, Đức Thánh cha Phaolô V đã thêm ngày lễ này vào lịch mừng kính các thánh. Thật là rất đáng khích lệ khi biết rằng mỗi người trong chúng ta đều có một thiên thần bản mệnh đang gìn giữ chúng ta. Ngài chính là món quà mà Thiên Chúa yêu thương đã ban tặng cho chúng ta.

Trong ngày lễ này, chúng ta hãy năng đọc lời nguyện tắt này : “Lạy Thiên thần của Thiên Chúa, ngài là đấng bảo trợ yêu quý của con, tình yêu Chúa đã trao phó con cho ngài. Xin ngài hãy ở bên con hôm nay để soi sáng và canh giữ, để cai trị và hướng dẫn con. Amen”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
23-11-2012, 10:34 AM
Ngày 03 tháng Mười




CHÂN PHƯỚC BARTÔLÔ LONGÔ



Bartôlô Longô sinh ngày 11/02/1841 tại vùng Nam Ý.
Ngài được các cha dòng Piarist giáo dục rất kỹ lưỡng. Về sau, Bartôlô học luật, nhưng trường đại học mà Bartôlô theo học đã không mấy tôn trọng Giáo hội hay những giá trị của Tin Mừng. Niềm tin của Bartôlô bắt đầu suy giảm, và ngài trở nên quan tâm tới những nghi lễ do ma quỷ bày ra. May thay, Bartôlô vẫn còn làm bạn với một vị giáo sư, là một Kitô hữu sùng đạo và là một người sống nội tâm sâu xa. Cùng với một linh mục dòng thánh ĐaMinh, vị giáo sư này đã đưa Bartôlô về lại với lối thực hành đức tin Công giáo.
Bartôlô Longô đạt được văn bằng luật học và trở thành luật sư phục vụ tại quê hương ngài. Sau đó, Bartôlô bắt đầu sống cuộc đời thánh thiện, cầu nguyện và làm nhiều việc tốt. Bartôlô đặc biệt cầu nguyện bằng kinh Mân Côi.
Rồi Bartôlô đi sang Napoli để giúp đỡ những người nghèo khổ sống trong các khu ổ chuột của thành phố. Ngài làm gia sư cho các con trẻ của một quả phụ giàu sang. Bartôlô cùng đồng hành với bà mỗi khi bà đi thăm các dinh cơ của bà, và Bartôlô trực tiếp thấy được sự nghèo khó và ngu dốt của các đám thợ làm công cho bà. Bartôlô Longô biết Thiên Chúa đang mời gọi mình đem đức tin và niềm hy vọng đến cho những người này. Ngài suy nghĩ và nảy ra quyết định rằng cách tốt nhất để giới thiệu đức tin cho những người ấy, những người không biết đọc biết viết, là dạy họ cầu nguyện với kinh Mân Côi. Bằng cách suy niệm những mầu nhiệm của kinh Mân Côi, họ sẽ học biết về cuộc sống, về sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu, cũng như vai trò quan trọng của Đức Mẹ Maria trong việc đưa dẫn các Kitô hữu đến với Con của Mẹ.
Chẳng bao lâu, người ta tập trung tại một nhà thờ nhỏ ở Pompeii để cùng nhau đọc kinh Mân Côi trước một bức ảnh Đức Mẹ, bức ảnh mà Bartôlô Longô đã tìm thấy tại một chợ trời bán đồ cũ. Rồi ngôi nhà thờ được nới rộng thêm, và Bartôlô Longô bắt đầu kiếm tiền để xây cất một ngôi thánh đường lộng lẫy dâng kính Đức Mẹ Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Bartôlô cũng cho xuất bản một tạp chí, gọi là Nguyệt san kinh Mân Côi và tân Pompeii, đăng những bài giải thích đức tin Công giáo. Để sống sứ điệp Tin Mừng cách triệt để chứ không chỉ loan báo bằng ngòi bút, Bartôlô Longô đã cho xây một viện mồ côi và một nhà dành cho các em có cha có mẹ đang bị cầm tù.
Bartôlô Longô thường bị những người không đồng quan điểm hiểu lầm và chế nhạo. Lúc về già, ngài phải chịu những cơn bạo bệnh, nhưng Bartôlô vẫn tin tưởng vào quyền phép của kinh Mân Côi và cố gắng hoàn thành thật tốt những gì Thiên Chúa mong muốn nơi ngài. Bartôlô Longô đã trải qua những năm cuối đời trong kinh nguyện liên lỉ.
Ngày 05/10/1926, người tín hữu thánh thiện này đã về trời, hưởng thọ 85 tuổi, với tràng chuỗi Mân Côi còn dính chặt trong tay.
Năm 1980, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Bartôlô Longô lên bậc chân phước.

Kinh Mân Côi chỉ là một lời nguyện đơn giản. Tuy nhiên, kinh Mân Côi giúp chúng ta được tiếp xúc với những mầu nhiệm thâm sâu nhất của đức tin. Mỗi ngày chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện với ít nhất một chục kinh Mân Côi, nhờ đó chúng ta có thể thường xuyên suy ngẫm về cuộc đời, giáo huấn, sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Kinh Mân Côi chính là một hình thức tôn kính đặc biệt đối với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-11-2012, 09:22 AM
Ngày 05 tháng Mười




THÁNH MARIA FAUSTINA KOWALSKA



Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25/08/1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen.
Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu.
Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.
Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Maria Faustina bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.
Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu xanh nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu Cứu Chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong Bí tích Rửa Tội. Chúa Giêsu nói :
“Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ : Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!”
Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.
Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới nhận biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.
Chỉ sau vài năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời ngày 05/10/1938 vì bệnh lao phổi, lúc vừa tròn 33 tuổi.

Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska : “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
24-11-2012, 09:24 AM
Ngày 06 tháng Mười




CHÂN PHƯỚC MARIA ROSA ĐURÔSƠ



Chân phước Êulali Đurôsơ sinh năm 1811 tại Québec, Canada. Ngài là con thứ 10 trong gia đình có 11 người con.
Khi lên 18, thân mẫu Êulali qua đời, và người anh trai của Êulali, là linh mục coi xứ, đã mời em gái Êulali tới giáo xứ của anh. Êulali trở thành một tông đồ giáo dân. Êulali trông nom việc nhà cho anh của ngài.. Sau đó, Êulali thiết lập một hội tôn giáo tại giáo xứ trước tiên ở Canada.
13 năm trong đời sống phục vụ Giáo hội và xứ đạo cũng chính là thời gian chuẩn bị để Êulali Đurôsơ thi hành một sứ mệnh đặc biệt cho Thiên Chúa.
Năm 1843, khi Êulali Đurôsơ 32 tuổi, Đức Giám mục giáo phận Montrieux xin Êulali khởi sự một sứ vụ đặc biệt, đó là thiết lập một hội dòng gọi là dòng Chị Em Tôn Sùng Hai Thánh Danh Giêsu Maria. Công việc đặc biệt của họ là giáo dục các trẻ em cùng khổ và bị bỏ rơi. Êulali trở thành Mẹ bề trên Maria Rosa. Cũng có nhiều chị em khác cùng đến tham gia với người phụ nữ có tâm hồn quảng đại này. Họ cũng tin tưởng vào tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ em vì lòng yêu mến Chúa Giêsu.
Mẹ Maria Rosa Đurôsơ chỉ sống được 6 năm sau khi thiết lập hội dòng. Tuy vậy, từ thiên đàng, Mẹ vẫn giúp đỡ các nữ tu của Mẹ vì hội dòng tiếp tục phát triển và mở mang nhiều tu viện mới. Hội dòng cũng bắt đầu truyền giáo sang nước Mỹ. Họ tới Oregon vào năm 1859.
Ngày nay, các nữ tu dòng Chị Em Tôn Sùng Hai Thánh Danh Giêsu Maria đã có mặt trên khắp thế giới.
Mẹ Maria Rosa Đurôsơ được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước ngày 23/05/1982.

Chúng ta cảm ơn chân phước Maria Rosa Đurôsơ vì đã đóng góp những hy sinh cho công việc giáo dục trẻ em. Khi bị cám dỗ lười biếng học hành, chúng ta hãy nài xin chân phước Maria Rosa Đurôsơ ban cho chúng ta năng lực để cố gắng hết sức mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-11-2012, 06:52 AM
Ngày 07 tháng Mười


Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI



Chính thánh ĐaMinh, sống vào cuối thế kỷ thứ XII đầu thế kỷ thứ XIII, đã khuyến khích mọi người đọc kinh Mân Côi.
Thánh nhân hết sức đau buồn vì sự lan tràn của một lạc thuyết rất nguy hại là lạc thuyết Anbigen. Cùng với các thành viên của dòng Thuyết Giáo do ngài thành lập, hay còn gọi là dòng ĐaMinh, thánh ĐaMinh đã nỗ lực hết sức để truyền bá chân lý và ngăn chặn lạc thuyết nguy hiểm này. Thánh nhân đã nài xin Đức Trinh Nữ Maria giúp đỡ, và người ta nói rằng Đức Mẹ đã dạy cho thánh nhân rao giảng về lòng sùng kính kinh Mân Côi rất thánh. Thánh ĐaMinh vâng lời Đức Mẹ, và ngài đã rất thành công trong việc ngăn chặn lạc thuyết.
Kinh Mân Côi Rất Thánh là một việc sùng kính đơn giản, ai ai cũng có thể thực hành, người già cũng như trẻ nhỏ, thông thái cũng như kém trí. Người ta có thể đọc kinh Mân Côi bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào họ muốn. Trong lúc lặp lại 1 kinh Lạy Cha, 10 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh, chúng ta suy tưởng về những mầu nhiệm cao trọng trong đời sống của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Bằng cách này, chúng ta càng ngày càng sống thân mật hơn với Chúa Giêsu và Mẹ Chí Thánh của Người. Chúng ta học bắt chước gương sống thánh thiện của hai Đấng.
Mẹ Maria rất hài lòng khi chúng ta năng đọc kinh Mân Côi cách sốt sắng. Đức Mẹ đã từng nói điều này với thánh nữ Bênađetta khi Đức Mẹ hiện ra với thánh nữ tại Lộ Đức (Lourdes – Pháp). Đức Mẹ cũng dạy cho 3 trẻ Fatima nhận biết năng lực của kinh Mân Côi. Đức Mẹ dạy rằng kinh Mân Côi gồm chứa các ơn giúp người ta sống cuộc đời mật thiết với Thiên Chúa.
Một vị giáo hoàng dòng ĐaMinh, thánh Piô V, đã thiết lập ngày lễ này, lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngày lễ nhắc nhớ chúng ta bày tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ vì đã giúp cho chiến thắng quân Thổ tại vịnh Lêpan ngày 07/10/1571.

Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Nếu mang theo một tràng chuỗi Mân Côi trong túi áo, chúng ta rất dễ tìm thời giờ mỗi ngày để đọc lời kinh quý đẹp này.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
25-11-2012, 06:54 AM
Ngày 08 tháng Mười




THÁNH SIMÊON



Cụ Simêon thánh thiện sống vào thế kỷ thứ I.
Trong sách Phúc Âm theo thánh Luca, nơi chương 2, chúng ta đọc thấy khi Mẹ Maria và thánh Giuse đem Chúa Hài Nhi Giêsu vào đền thánh Giêrusalem, các ngài gặp thấy cụ Simêon. Thiên Chúa đã hứa với cụ già thánh thiện này rằng trước khi về trời, cụ sẽ được chiêm ngưỡng Đấng Mêsia, Đấng Cứu Độ trần gian. Nhưng Simêon không được biết khi nào thì sự việc xảy ra.
Được Thánh Thần thúc đẩy, cụ Simêon vào đền thờ Giêrusalem đang lúc Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Simêon nhìn vào đôi mắt của Chúa Hài Nhi và cảm thấy một niềm vui dâng lên trong lòng. Mắt cụ ngời sáng. Simêon bồng ẵm Chúa Hài Nhi trên tay rồi dâng lên và nguyện rằng :
“Giờ đây, lạy Chúa, xin để con được ra đi trong bình an. Chính mắt con đã trông thấy Đấng Cứu Độ trần gian mà Chúa đã dành sẵn cho dân Chúa.” (Lc 2, 29-31)
Mẹ Maria và thánh Giuse đưa mắt nhìn nhau. Các ngài im lặng đến kinh ngạc. Sau đó, cụ Simêon hướng về phía Mẹ Maria. Đôi mắt cụ trở nên u buồn và cụ khẽ nói với Đức Mẹ :
“Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!” (Lc 2, 35)
Lúc ấy, Mẹ Maria không hiểu lời cụ Simêon nói mang ý nghĩa gì. Mẹ chỉ nài xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm.
Cụ già Simêon thánh thiện đã nhận được ân sủng Thiên Chúa hứa ban. Cụ vẫn vui mừng cảm tạ Thiên Chúa ngay cả khi Thánh Gia đã trở về quê nhà.

Chúng ta hãy bắt chước gương thánh Simêon luôn luôn tín thác vào Thiên Chúa. Bằng cách chăm chỉ đọc Kinh Thánh và mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống của mình, chúng ta sẽ có thể nên thánh. Như thánh Simêon, chúng ta hãy vững tin rằng hết thảy mọi lời Thiên Chúa đã hứa sẽ được thực hiện vào thời điểm Người muốn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-11-2012, 08:30 AM
Ngày 09 tháng Mười


THÁNH GIOAN LÊÔNARĐI



Thánh Gioan Lêônarđi sinh vào khoảng năm 1540.
Sau khi học xong, thánh nhân trở thành dược sĩ và phục vụ tại thành phố Lucca, nước Ý. Lên 25 tuổi, Gioan cảm thấy có ơn kêu gọi làm linh mục. Ngài bắt đầu việc học, và năm 1572, Gioan được thụ phong. Gioan dùng thời gian dạy đức tin cho các trẻ nhỏ và huấn luyện các giáo lý viên. Công việc năng động của Gioan cũng khiến ngài tìm đến các bệnh viện và các trại giam. Nhiều thanh niên ở thành Lucca cũng xin gia nhập với cha Gioan và giúp ngài thi hành công việc lý thú này. Rồi nhóm anh em này về sau đã họp thành một dòng mới trong Giáo hội, gọi là dòng Giáo Sĩ Mẹ Thiên Chúa. Dòng chính thức được Đức Thánh cha Clêmentê VIII chuẩn nhận năm 1595.
Cha Lêônarđi được trao cho trông coi một giáo xứ ở thành phố Lucca. Anh em dòng ngài đã cùng góp sức chăm lo những nhu cầu tinh thần cho bổn đạo. Rồi cha Lêônarđi chuyển tới Roma, nơi người bạn tốt lành của cha là thánh Philipphê Nêri đang sống. Thánh Philipphê là cha linh hướng của Lêônarđi.
Đôi lúc công việc của cha Lêônarđi phải gặp khó khăn vì những rối loạn tinh thần và chính trị ở Âu châu. Nhưng thánh Philipphê tin tưởng vào công việc mà cha Lêônarđi cũng như các anh em linh mục tốt lành dòng ngài đang làm. Chính thánh Philipphê Nêri đã tặng cho cha Lêônarđi và anh em dòng cha căn nhà của ngài ở Roma. Căn nhà mang tên là “Nhà thánh William Bác Ái”, đó là căn nhà mà thánh Philipphê Nêri rất yêu thích. Và Gioan Lêônarđi đã vui mừng trông coi căn nhà.
Thánh Gioan Lêônarđi về trời ngày 09/10/1609 vì căn bệnh dịch tả. Thánh nhân bị lây nhiễm đang khi chăm sóc cho những người đau ốm.
Năm 1938, Gioan Lêônarđi được Đức Thánh cha Piô XI tôn phong hiển thánh.

Vị thánh này dạy chúng ta nhận thức rằng con người cần được chăm sóc về phần tinh thần cũng như thể xác. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Lêônarđi nhắc nhớ chúng ta để ý tới những nhu cầu của tâm linh cũng như những nhu cầu thuộc thể xác chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
26-11-2012, 08:33 AM
Ngày 10 tháng Mười




THÁNH PHANXICÔ BORGIA



Thánh Phanxicô Borgia sinh năm 1510 gần thành phố Valencia, nước Ý.
Người chú của Phanxicô, là Tổng Giám mục thành Saragossa, đã trực tiếp giáo dục ngài. Phanxicô Borgia cảm thấy có ơn gọi sống bậc tu trì, nhưng ngài nhanh chóng bị lôi cuốn vào cơn lốc những cuộc hẹn hò xảy ra nơi cung đình của vua Carôlô V. Vào năm 1529, Phanxicô Borgia kết hôn với Eleanor Castro. Đôi vợ chồng trẻ sống rất hạnh phúc và họ có với nhau tất cả 8 người con.
Năm 1539, Isabella, người vợ yêu quý của nhà vua, qua đời sau một thời gian ngắn bị bệnh. Trong ngày lễ an táng hoàng hậu, khi nhìn thấy thân xác thối rữa của Isabella, thánh Phanxicô Borgia đã giật mình. Ngài nhận thấy sao cuộc đời trôi qua nhanh quá, và thánh nhân bắt đầu suy tưởng về đời sống vĩnh cửu trên thiên đàng.
Phanxicô Borgia trở thành cố vấn cho nhà vua, và sau đó làm phó vương Catalonia. Khi thân phụ qua đời năm 1543, Phanxicô lên nhận nhiệm vụ của cha là công tước xứ Gandia và là trưởng tộc họ Borgia.
Năm 1546, người vợ yêu quý của Phanxicô Borgia qua đời sau 17 năm sống hạnh phúc bên nhau. Phanxicô buồn khổ cùng cực vì sự mất mát, chỉ biết tìm an ủi trong lời cầu nguyện và các Bí tích.
Năm 36 tuổi, Phanxicô Borgia quyết định xin gia nhập dòng Tên. Ngài để lại gia tài cho người con trai. Và năm 1550, Phanxicô được thụ phong linh mục.
Cha Phanxicô Borgia du lịch vòng quanh Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, thuyết giảng cho từng đám đông người đến nghe ngài. Chính vị sáng lập dòng Tên, thánh Inhaxiô Loyola, đã trao cho Phanxicô Borgia chức vị lớn lao trong dòng. Năm 1565, Phanxicô Borgia trở thành bề trên tổng quyền dòng Tên. Suốt 7 năm sau đó, Phanxicô Borgia thiết lập nhiều cơ sở mới cho dòng và khuyến khích các anh em trong dòng hãy tập trung vào việc truyền giáo tại các nước hải ngoại, gồm cả Hoa Kỳ.
Sau chuyến kinh lý mục vụ khắp đất nước Tây Ban Nha vào năm 1572, Phanxicô Borgia mệt mỏi trở về Roma. Phanxicô Borgia qua đời hai ngày sau đó, nhằm ngày 30/09.
Vì luôn luôn hăng say làm việc để giúp cho dòng phát triển và lan rộng sang các quốc gia khác, thánh Phanxicô Borgia thỉnh thoảng được người ta gọi là vị sáng lập thứ hai của dòng Tên.
Ngài được tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1671.

Ngay từ độ tuổi thanh niên, thánh Phanxicô Borgia đã được người khác tín nhiệm và ủy thác cho những địa vị cao trọng. Thánh nhân đã thực hiện rất tốt công việc của mình vì ngài là người luôn sống đức tin và cầu nguyện. Chúng ta hãy bắt chước vị thánh này qua việc chu toàn thật tốt những gì được giao phó cho chúng ta thực hiện hàng ngày cũng như luôn hướng về đời sống mai hậu trên thiên đàng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-11-2012, 12:05 PM
Ngày 11 tháng Mười


THÁNH KENNET



Vị thánh này thỉnh thoảng được gọi là thánh Canis, sống vào thế kỷ thứ VI. Kennet sinh ở Ai Len và rất được nổi danh cả ở Ai Len lẫn Scôtlen.
Thân phụ của Kennet là một nghệ sĩ, tức là một ca sĩ chơi nhạc balat chuyên nghiệp. Lúc còn trẻ, Kennet tới xứ Wales để học làm linh mục. Thánh Cađốc là giáo sư dạy ngài. Sau khi thụ phong linh mục, Kennet tới thăm Roma. Rồi ngài trở về Ai Len và vào trường thánh Finnianô để học thêm. Thánh Kennet làm bạn với 3 vị thánh Ai Len khác, đó là thánh Kiêran, thánh Comgall và thánh Côlumba.
Sau khi thuyết giảng khắp xứ Ai Len, thánh Kennet cùng với thánh Côlumba tới Scôtlen để truyền giáo cho vua Brude. Khi ông hoàng này giận dữ nắm lấy thanh gươm để giết hai nhà truyền giáo, thì người ta nói rằng thánh Kennet đã làm dấu Thánh Giá và một phép lạ đã xảy ra : cánh tay của nhà vua lập tức bị tê liệt, và hai vị thánh được cứu thoát.
Thánh Kennet và thánh Côlumba luôn là những người bạn chí thân của nhau. Lần kia, Côlumba đang vượt thuyền cùng với vài người bạn trong khi Kennet thì ở một nơi rất xa, tại tu viện của mình ở Ai Len. Đột nhiên Kennet linh cảm thấy Côlumba đang gặp nạn ngoài biển. Ngài liền lập tức rời khỏi bàn ăn và chạy vào nhà thờ cầu nguyện cho người bạn rất mực quý mến của mình. Ngoài biển cả, Côlumba trấn an các bạn hữu đang hoảng sợ rằng :
“Anh em đừng sợ! Thiên Chúa sẽ nhận lời cầu xin của Kennet. Giờ đây người đang vội chạy vào nguyện đường để cầu xin cho chúng ta!”
Và y như Côlumba nói, hết thảy mọi người đã được cứu thoát.
Thánh Kennet thiết lập nhiều tu viện và đã hoán cải nhiều người vô thần. Thánh nhân nổi danh vì lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Hơn nữa, thánh Kennet còn nổi danh vì đã thực hành đường trọn lành theo giáo huấn của Chúa Giêsu.

Thánh Kennet biết giải quyết những hoàn cảnh khó khăn một cách tuyệt hảo. Chính đức tin hòa đồng đã làm cho thánh nhân có nhiều bạn bè và nhiều trợ tá trong việc rao giảng Tin Mừng. Chúng ta hãy nài xin thánh Kennet chỉ cho chúng ta cách thức trở nên một người bạn vui vẻ và dễ mến như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
27-11-2012, 12:08 PM
Ngày 12 tháng Mười




THÁNH SÊRAPHIM MÔNGTÊGRANÊRÔ



Thánh Sêraphim Môngtêgranêrô sinh năm 1540 tại Ý.
Khi còn là một cậu bé, Sêraphim phải đi chăn cừu thuê để kiếm sống. Song thân Sêraphim qua đời lúc ngài vẫn còn nhỏ, và Sêraphim được một người anh trai nhận về nuôi nấng. Nhưng anh này rất ư hà khắc với Sêraphim và thường hay xử tệ với ngài. Suốt thời thơ ấu và những năm vị thành niên, Sêraphim Môngtêgranêrô hằng tin cậy vào Thiên Chúa và dùng rất nhiều thời giờ để cầu nguyện. Thậm chí dù không có sự hiện diện của song thân yêu quý, Sêraphim cũng vẫn nhận biết Thiên Chúa là người Cha rất mực yêu thương hằng quan tâm chăm lo cho mình.
Khi lên 16 tuổi, Sêraphim Môngtêgranêrô cảm thấy Thiên Chúa mời gọi mình sống cuộc đời thánh thiện. Ngài quyết định xin gia nhập dòng Phanxicô Capuxinô với tư cách là một trợ sĩ. Cuối cùng, Sêraphim nhận thấy nơi đây thật là một gia đình mà trong đó các tu sĩ sống quý mến nhau. Chẳng bao lâu, Sêraphim trở nên nổi danh vì sự khôn ngoan và vì đời sống thánh thiện. Người người từ khắp nơi lần lượt kéo đến xin thánh nhân hướng dẫn những vấn đề thiêng liêng. Sêraphim Môngtêgranêrô đặc biệt tận tụy giúp đỡ những người nghèo khổ. Ngài lãnh nhận sức mạnh và ân sủng để tiếp cận với tha nhân nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Thánh Sêraphim Môngtêgranêrô về trời ngày 12/10/1604. Ngài được tôn phong hiển thánh năm 1767.

Dù cho thánh Sêraphim Môngtêgranêrô không được tận hưởng thời thơ ấu hạnh phúc trong một gia đình đầm ấm, thánh nhân cũng vẫn nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, và Thiên Chúa là Cha của hết thảy mọi người. Chính tình yêu mà Sêraphim Môngtêgranêrô từng trải nghiệm này đã giúp thánh nhân có thể yêu mến tha nhân. Nếu chúng ta tin nhận rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, chúng ta cũng sẽ mong muốn trao chuyển tình yêu thương ấy cho những người khác với tấm lòng cảm thông và quảng đại.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-11-2012, 06:33 AM
Ngày 13 tháng Mười




THÁNH EDWARD



Vua thánh Edward là một trong các vị quân vương cai trị nước Anh được thần dân quý chuộng nhất. Thánh nhân sống vào thế kỷ thứ XI.
Vì các kẻ thù địch trong đất nước, Edward đã phải trẩy đến sống tại vùng Normandi bên Pháp từ khi lên 10 cho tới lúc được 40 tuổi. Tuy vậy, khi trở về Anh quốc làm vua, mọi người đã rất vui sướng chào đón Edward.
Thánh Edward đã cai trị đất nước cách rất tốt đẹp và hầu như ngài luôn luôn giữ được nền hòa bình. Lý do là vì thánh nhân đã luôn tin cậy nơi Chúa và tỏ ra cương quyết trong những khi cần thiết. Vua Edward tham dự thánh lễ mỗi ngày. Ngài là một quân vương tốt lành, hiền hậu, chẳng bao giờ nói những lời cứng cỏi. Đối với những người nghèo khổ và các khách ngoại kiều, thánh Edward luôn đối xử với tấm lòng nhân ái đặc biệt. Edward cũng giúp đỡ các tu sĩ mỗi khi có thể. Chính vì lòng yêu mến Giáo hội và đối xử công bằng với mọi người mà thánh Edward trở nên rất nổi danh đối với người Anh. Họ vẫn chào đón Edward mỗi khi ngài cưỡi ngựa ra khỏi lâu đài.
Mặc dù làm vua với đầy đủ quyền hành, nhưng thánh Edward vẫn tỏ ra trung thực trong lời nói đối với Thiên Chúa và cả đối với thần dân của ngài. Trong lúc còn sống ở Normandi, thánh nhân đã dâng một lời khấn với Thiên Chúa. Edward khấn rằng nếu gia đình được bình an, ngài sẽ hành hương tới viếng mộ thánh Phêrô ở Roma. Sau khi lên ngôi vua, Edward muốn thực hiện lời khấn của mình, nhưng các quý tộc biết rằng nếu Edward rời khỏi đất nước, thần dân sẽ nổi loạn và không ai có thể giữ nổi hòa bình. Vì vậy, mặc dù họ rất trân quý tấm lòng trung thành của Edward, họ vẫn không muốn để ngài ra đi. Thế rồi toàn bộ sự việc được trình lên Đức thánh Giáo hoàng Lêô IX, và Đức Thánh cha đã quyết định nhà vua nên ở lại đất nước. Thay vào đó, nhà vua hãy bố thí cho người nghèo số tiền mà ngài định dùng để chi tiêu và trang trải trong chuyến hành hương. Đức Thánh cha cũng xin Edward xây cất một tu viện để tôn kính thánh Phêrô ở Wesminter. Vâng lời, vua Edward đã thi hành ngay quyết định của Đức Giáo hoàng.
Edward qua đời năm 1066 và được an táng ngay tại tu viện hoành tráng mà ngài đã xây cất.
Đến năm 1161, Đức Thánh cha Alexandre III đã tôn phong Edward lên bậc hiển thánh.

Thánh vương Edward, bằng vào đời sống của mình, đã khuyên dạy những ai có tiền của và quyền hành hãy nên sử dụng chúng một cách có trách nhiệm và vì lợi ích của người khác. Chúng ta hãy nài xin vua thánh Edward chúc lành cho các nhà lãnh đạo trên thế giới, cho họ biết sống như ngài, để tất cả mọi người được sống một cuộc đời an bình và vui sướng.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
28-11-2012, 06:36 AM
Ngày 14 tháng Mười




THÁNH CALLISTO I



Vị thánh Giáo hoàng vĩ đại này sống vào nửa đầu thế kỷ thứ III.
Hồi trẻ, thánh nhân đã có lần là một nô lệ ở Roma và gặp rắc rối nghiêm trọng. Người chủ của Callisto trao cho ngài công việc trông coi một ngân hàng. Không hiểu sao Callisto lại làm mất hết số tiền của ngân hàng này. Sợ hãi, Callisto đã bỏ chạy xa khỏi thành Roma. Nhưng ngài đã bị bắt lại sau khi nhảy xuống biển tìm đường tẩu thoát. Người ta phạt Callisto bằng cách trói ngài lại và bắt phải làm việc cực nhọc trong một nhà máy xay.
Callisto được tha miễn hình phạt này chỉ vì các chủ nợ của ngài hy vọng họ có thể lấy lại được số tiền của họ. Nhưng Callisto lại bị bắt lần nữa, lần này liên quan tới một vụ đánh nhau. Ngài bị đày tới khu hầm mỏ Sardinia. Khi hoàng đế ban lệnh phóng thích tất cả các Kitô hữu bị đày tới hầm mỏ này, Callisto cũng được trả tự do. Và từ lúc đó, mọi sự bắt đầu trở nên xuôi thuận đối với Callisto.
Đức thánh Giáo hoàng Zefrino nghe biết và đã tin cậy người nô lệ vừa được phóng thích này. Ngài đặt Callisto trông coi khu nghĩa trang Công giáo ở Roma. Ngày nay, nghĩa trang này lấy theo tên thánh Callisto. Nhiều vị giáo hoàng đã được chôn cất tại đây. Callisto đã tỏ ra là người đáng tin cậy đối với Đức Giáo hoàng. Thánh Zefrino không những đã xức dầu thánh hiến Callisto trong chức linh mục mà còn chọn Callisto làm bạn hữu và làm cố vấn cho mình.
Sau đó, chính thánh Callisto cũng được chọn làm giáo hoàng. Một số người đã than phiền vì thánh nhân đã yêu thương các tội nhân cách quá đáng. Tuy nhiên, vị giáo hoàng thánh thiện này dạy rằng nếu cả những kẻ sát nhân mà thực lòng hoán cải, thì họ có thể được phép chịu Mình Thánh Chúa sau khi đã làm việc đền tội.
Vị giáo hoàng vĩ đại này luôn luôn bảo vệ những giáo huấn của Chúa Giêsu.
Callisto I tử đạo năm 222. Thánh nhân bị sát hại trong một cuộc nổi dậy.

Vì thánh Callisto I đã quá nhận thức được sự tha thứ của Thiên Chúa trong đời sống tư riêng của mình, nên thánh nhân rất sẵn lòng tha thứ cho người khác. Chúng ta có tha thứ cho người khác với cùng một mức độ mà chúng ta mong muốn Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-11-2012, 02:53 PM
Ngày 19 tháng Mười




THÁNH GIOAN BREBEUF và Các Bạn Tử Đạo



Thánh Gioan Brebeuf trở thành tu sĩ dòng Tên sau một cơn lao phổi dữ dội. Ngài và thánh Gabriel La Lemont là những thành viên thuộc nhóm các tu sĩ dòng Tên can đảm bị những người Irôquơ bắt giữ và giết chết.
Cha Antôn Daniel vừa mới cử hành xong thánh lễ cho những tân tòng thuộc làng Huron thì những người Irôquơ tới tấn công ngôi làng. Những người tín hữu Indiens năn nỉ cha bỏ trốn, nhưng cha Daniel đã ở lại để rửa tội cho tất cả những người đang khóc lóc xin cha ban Bí tích Thanh Tẩy cho họ trước khi tất cả đều bị giết. Những người Irôquơ đã thiêu sống cha Daniel trong nguyện đường nhỏ bé của ngài.
Thánh Carôlô Garniê, tuy bị bắn bởi phát súng hỏa mai Irôquơ trong một vụ tấn công đột xuất, vẫn cố gắng bò tới giúp một người bạn đang hấp hối. Sau đó, ngài bị chém chết bởi một nhát rìu.
Cha Noel Cabanel cảm thấy cuộc sống truyền giáo tại Tân Thế Giới thật khó khăn, nhưng cha đã thề nguyền sẽ ở lại Bắc Mỹ. Cha bị một kẻ phản bội thuộc bộ tộc Huron giết hại.
Hai vị tông đồ giáo dân, René Gupin và Gioan Laland, đều bị giết bởi những nhát rìu của người da đỏ.
Tất cả các vị anh hùng của Chúa Kitô này đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì những người dân bản địa vùng Bắc Mỹ. Người ta thường gọi các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Bắc Mỹ.
Các ngài được Đức Thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1931.

Ngày nay người ta phạm rất nhiều tội nghịch lại với nhân phẩm con người. Chúng ta hãy xin các thánh tử đạo hôm nay chia sẻ cho chúng ta tình yêu thương lớn lao và lòng kính trọng đặc biệt đối với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nài xin các ngài ban cho chúng ta quả tim truyền giáo của các ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
29-11-2012, 02:56 PM
Ngày 20 tháng Mười




CHÂN PHƯỚC GIOAN XXIII



Angelô Giuse Rôncalli sinh tại miền Bắc nước Ý năm 1881, trong một gia đình nông dân nghèo khổ. Song thân ngài sinh được 13 người con.
Rôncalli gia nhập chủng viện ở Roma và bắt đầu chương trình học làm linh mục. Rôncalli học thần học và sau một thời gian ngài đỗ tiến sĩ giáo luật.
Trong suốt Đệ I Thế chiến, cha Rôncalli bị bắt tham gia quân đội Ý, và ngài đã phục vụ với tư cách là linh mục tuyên úy trong các tiền tuyến. Sau chiến tranh, cha Rôncalli được cử làm đại diện ngoại giao của Tòa thánh Vatican, và ngài đã viếng thăm Bulgarie, Hy Lạp, và Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, suốt Đệ II Thế chiến, cha Rôncalli đã giúp đỡ những người chạy trốn Đức Quốc xã.
Năm 1944, cha được chọn làm đại sứ của Tòa thánh tại Pháp. Vì thực hiện thành công những nhiệm vụ khó khăn, Rôncalli được Đức Thánh cha Piô XII đặt làm Hồng y, và sau đó, làm giáo chủ thành Vênis lúc được 71 tuổi. Dường như vì tuổi cao, đây là chức vụ cuối cùng mà Hồng y Rôncalli được ủy thác. Thế nhưng, 6 năm sau, hết sức ngỡ ngàng, Hồng y Rôncalli được chọn lên ngôi giáo hoàng sau khi Đức Thánh cha Piô XII băng hà vào năm 1958. Và Rôncalli đã lấy danh hiệu là Gioan XXIII.
Sau đó, Gioan XXIII đã làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên qua việc triệu tập một Công đồng chung. Công đồng Vaticano II, một Công đồng đầu tiên sau gần 100 năm, có mục đích canh tân và thích nghi Giáo hội Công giáo.
Trong buổi khai mạc Công đồng, Đức Thánh cha Gioan XXIII đã phát biểu với niềm hy vọng và lạc quan về vai trò của Giáo hội trong thế giới văn minh. Với lòng chân thành và sự nồng nhiệt, Đức Thánh cha Gioan XXIII không chỉ đề cập đến những Kitô hữu mà còn vươn tới với tất cả cộng đồng nhân loại. Mọi người thuộc mọi tín ngưỡng từ khắp nơi trên thế giới đều coi Gioan XXIII là hiện thân của chân lý và sự thiện, yêu chuộng hòa bình và hiểu biết sâu xa các dân tộc và các quốc gia. Gioan XXIII canh tân truyền thống qua việc rời bỏ “chốn tù đày của Vatican” để du lịch ra bên ngoài thành phố Roma.
Trong các thông điệp “Mẹ và Thầy” và “Hòa bình trên thế giới”, Gioan XXIII nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bảo vệ nhân quyền và cùng làm việc vì hòa bình.
Công đồng chung Vaticano II đã đem lại những thay đổi quan trọng trong Giáo hội, nhưng Đức Thánh cha Gioan XXIII không được nhìn thấy sự bế mạc tốt đẹp của nó.
Ngài về trời ngày 06/06/1963. Ngài là một trong các vị giáo hoàng được ái mộ nhất trong các thế kỷ gần đây.
Đức Gioan XXIII được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 03/09/2000.

Nơi vị giáo hoàng yêu quý này, chúng ta hãy học cách sống hòa hợp với những người khác quan điểm và tín ngưỡng với chúng ta. Việc sống an hòa với những người đồng quan điểm với mình thật là điều dễ dàng! Đức chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII thách đố chúng ta dám sống cởi mở và tôn trọng những người khác quan điểm với mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-11-2012, 09:56 AM
Ngày 21 tháng Mười




THÁNH HILARIÔN



Thánh Hilariôn sống vào thế kỷ thứ IV.
Lúc rời bỏ quê nhà Palestine để đến học ở Ai Cập, thánh nhân vẫn chưa gia nhập Giáo hội Công giáo. Tại Ai Cập, Hilariôn học biết đức tin Công giáo, và chẳng bao lâu ngài được chịu phép Thanh Tẩy. Khi ấy, Hilariôn mới chỉ 15 tuổi.
Sự kiện Hilariôn trở về với Giáo hội đã bắt đầu một hành trình vinh quang dẫn ngài đến gần Thiên Chúa hơn. Sau đó, thánh nhân lên đường tới thăm viếng thánh Antôn Tu Rừng (lễ kính thánh Antôn ngày 17/01). Như thánh Antôn, Hilariôn cũng muốn sống ở nơi thanh vắng để phụng sự Chúa Giêsu, Đấng đã đến trần gian để yêu thương con người. Hilariôn lưu lại độ 2 tháng với thánh Antôn nhưng ở đây không có đủ bầu khí thinh lặng vì có quá nhiều người tìm đến với thánh Antôn để xin ngài giúp đỡ. Không gặp được thứ bình an mình đang tìm kiếm, Hilariôn quyết định rời bỏ chỗ ấy. Sau khi phân phát hết tài sản cho người nghèo, Hilariôn tìm đến một nơi thanh vắng và sống ở đó như một ẩn sĩ.
Thánh Hilariôn cũng phải chiến đấu với nhiều cám dỗ. Đôi lúc dường như những lời cầu xin của ngài chẳng được Thiên Chúa ưng nhận. Tuy vậy, thánh Hilariôn không để cho những cám dỗ này ngăn cản mình cầu nguyện cách chăm chỉ hơn.
Sau 20 năm sống trong sa mạc, vị ẩn tu thánh thiện này đã làm một phép lạ đầu tiên. Chẳng bao lâu nhiều người bắt đầu tìm đến túp lều của Hilariôn để xin ngài giúp đỡ. Cũng có nhiều người xin thánh Hilariôn cho phép được lưu lại với ngài để học nơi ngài cách thức cầu nguyện và làm việc đền tội. Với lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân lớn lao, vị thánh đã mời họ ở lại với mình. Nhưng sau cùng, khi được 65 tuổi, thánh Hilariôn bắt đầu du lịch từ nước này sang nước kia để tìm bầu khí thanh bình và tĩnh lặng. Tuy nhiên, danh tiếng về các phép lạ mà thánh Hilariôn đã làm do lòng thương xót đã luôn khiến nhiều đám đông người tìm đến với ngài.
Vài năm trước khi về trời, thánh Hilariôn đã tìm được sự thanh vắng mà ngài hằng ao ước, và Hilariôn cảm thấy thực sự được ở yên một mình với Thiên Chúa.
Thánh Hilariôn qua đời năm 371, hưởng thọ 80 tuổi.

Khi chúng ta nghĩ rằng tha nhân và những hoàn cảnh sống chi phối việc kết hợp giữa chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh Hilariôn. Thánh nhân sẽ chỉ cho chúng ta cách thức tìm kiếm Chúa Giêsu, dù cho đôi lúc cũng phải quan tâm tới tha nhân và những vấn đề khác.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
30-11-2012, 09:59 AM
Ngày 22 tháng Mười


CHÂN PHƯỚC TIMÔTHÊÔ GIACCARĐÔ



Giuse Giaccarđô sinh nhày 13/06/1896 tại miền Narzole, nước Ý.
Song thân của ngài là những nông dân lao động vất vả. Giuse đã hấp thụ được nhiều thói quen tốt lành nơi cha mẹ của mình. Họ yêu mến đức tin Công giáo và đã truyền lại gia sản ấy cho Giuse. Giuse thường hay cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể và với Đức Mẹ Maria. Ngài có một bức ảnh Đức Mẹ nho nhỏ đặt ở trên kệ sách trong căn phòng của ngài.
Giuse giúp lễ cách rất đều đặn. Đó là dịp thuận tiện để Giuse gặp gỡ vị linh mục trẻ hay đến giúp tại nhà thờ thánh Bênađô. Vị linh mục sắp sửa thiết lập một hội dòng mới, là dòng thánh Phaolô. Tên của ngài là cha Alberion. Giuse rất yêu mến cha Alberion. Cha Alberion cũng rất bị ấn tượng bởi Giuse. Ngài hướng dẫn Giuse về đường thiêng liêng. Sau đó, Giuse gia nhập chủng viện ở Alba để học làm linh mục.
Năm 1917, Giuse xin vị giám mục của mình cho phép được rời bỏ chủng viện. Giuse mong muốn gia nhập hội dòng mới thành lập của cha Alberion, vừa tròn 3 năm tuổi. Vị giám mục đã miễn cưỡng cho phép Giuse tham gia dòng thánh Phaolô. Giuse tuyên những lời khấn thánh năm 1920. Ngài lấy tên là Timôthêô, theo tên của vị học trò rất mực yêu quý của thánh Phaolô. Sau đó 2 năm, Timôthêô Giaccarđô được thụ phong linh mục, và ngài là linh mục đầu tiên trong hội dòng mới lập của cha Alberion.
Ơn gọi đặc biệt của cha Timôthêô Giaccarđô, với tư cách là linh mục của dòng thánh Phaolô, là phục vụ như một tông đồ giảng đạo bằng các phương tiện truyền thông đại chúng. Timôthêô viết lách, biên tập, in ấn và phân phát Lời Chúa. Ngài đảm nhận nhiều công việc quan trọng với lòng can đảm và khiêm tốn. Một số người không hiểu những hoạt động tông đồ của tập thể anh chị em dòng thánh Phaolô. Họ thắc mắc làm sao các linh mục, tu sĩ và nữ tu đều có thể là những người xuất bản? Làm sao họ có thể dùng các phương tiện như dụng cụ để truyền giảng Tin Mừng? Cha Timôthêô Giaccarđô đã giúp họ hiểu rõ ơn gọi tuyệt vời của các anh chị em dòng thánh Phaolô. Cha cũng là bậc thầy vĩ đại của các linh mục và tu sĩ phục vụ trong ơn gọi tông đồ mới này.
Timôthêô phục vụ Thiên Chúa tại Bắc Ý và Roma. Ngài là phụ tá rất đắc lực của cha Alberion. Thực ra, cha Alberion gọi chân phước Timôthêô Giaccarđô là “người trung tín nhất trong các người trung tín”. Nhưng Timôthêô không là vị kế nhiệm của đấng sáng lập, như cha Alberion đã kỳ vọng.
Cha Timôthêô Giaccarđô bị chứng bệnh tăng bạch cầu rất nặng. Ngài qua đời ngày 24/01/1948.
Đến ngày 22/10/1990, cha Timôthêô Giaccarđô được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước.

Đây là lời cầu nguyện chúng ta có thể nài xin chân phước Timôthêô Giaccarđô giúp chúng ta biết thận trọng chọn lựa những phương tiện chúng ta đang sử dụng : “Lạy chân phước Timôthêô Giaccarđô, ước gì những sách vở và tạp chí chúng con đọc, những chương trình chúng con xem, âm nhạc chúng con nghe và trò chơi chúng con chơi, ngày một dẫn chúng con tới gần Chúa Giêsu hơn. Xin cũng giúp chúng con tránh xa những phương tiện nguy hại làm mất lòng Chúa. Amen”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-12-2012, 06:56 AM
Ngày 23 tháng Mười




THÁNH GIOAN CAPISTRANO



Thánh Gioan Capistrano sinh năm 1386 tại nước Ý.
Ngài là luật sư và là thống đốc thành phố Perugia. Khi những kẻ thù của thành phố bắt giam ngài trong tù, thánh Gioan đã có dịp suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Các kẻ thù của Gioan chưa vội thả ngài, nên Gioan có nhiều thời giờ để nhận thức được điều quan trọng hơn hết chính là ơn cứu độ của linh hồn mình. Vì thế, khi được trả tự do, Gioan Capistrano liền đến xin gia nhập dòng Phanxicô. Lúc ấy Gioan được 30 tuổi. Đối với Gioan, cuộc sống của một linh mục khó nghèo quả thực là một thay đổi lớn. Nhưng thánh nhân đã hy sinh ý riêng của mình vì lòng yêu mến Chúa Giêsu. Và Gioan Capistrano đã cố gắng với hết cả tâm hồn để thực hiện việc này.
Sau khi trở thành linh mục, Gioan Capistrano được sai đi giảng đạo. Gioan cùng với cha cựu tập sự của mình, thánh Bênađô Siêna, đã rao giảng về lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu khắp nơi. Gioan Capistrano rao giảng khắp Âu châu suốt 40 năm. Tất cả những ai nghe thánh nhân thuyết giảng đều được ơn biến đổi, yêu mến và phục vụ Chúa Giêsu hơn.
Một điển tích nổi bật trong đời sống của vị thánh này đến từ trận chiến Belgret. Quân Thổ đã quyết định chinh phục toàn cõi Âu châu và xóa sạch Giáo hội của Chúa Giêsu. Đức Thánh cha đã gửi thánh Gioan Capistrano đến với tất cả các quốc vương Công giáo ở Âu châu để xin họ cùng liên minh chống lại đội quân Thổ hùng mạnh. Các quân vương đã nghe theo lời của vị linh mục nghèo khó, đi chân đất này.
Gioan Capistrano đã hâm nóng lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng can đảm của họ bằng những lời giảng thuyết nảy lửa. Dù cho một đội quân Kitô hùng hậu tiến ra nghênh chiến với Mohamed II và quân đội của ông ta, thì dường như đội quân Kitô vẫn thua trận. Quân thù vẫn hùng mạnh hơn gấp nhiều lần! Rồi chính thánh Gioan Capistrano, dù đã 70 tuổi đã chạy trước đội quân Kitô và ủy lạo tinh thần của các chiến sĩ. Giơ cao Tượng Chịu Nạn trong tay, ông già với dáng người mảnh khảnh nhỏ nhắn này hô to :
“Chiến thắng! Giêsu! Chiến thắng!”
Và các chiến binh Kitô cảm thấy được tràn đầy can đảm hơn bao giờ hết. Họ đã chiến đấu cho tới lúc kẻ thù phải bỏ chạy vì hoảng sợ.
Một thời gian ngắn sau đó, thánh Gioan Capistrano qua đời vì cơn bệnh dịch, ngày 23/10/1456.
Ngài được phong thánh năm 1690.

Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, người ta có thể làm được những công việc vĩ đại. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Capistrano san sẻ cho chúng ta lòng can đảm và nhiệt thành của ngài để thực thi những điều hay lẽ phải.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
01-12-2012, 06:57 AM
Ngày 25 tháng Mười




THÁNH RICHARD GWYN



Thánh Richard là người xứ Wales, sống vào thế kỷ thứ XVI.
Richard được nuôi dạy bên Giáo hội Anh giáo và ngài học tại hai trường đại học Oxford và đại học thánh Gioan ở Cambridge. Sau khi hoàn tất việc học, Richard trở lại Wales và mở trường dạy học. Richard kết hôn và sinh được 6 người con. Lúc này Richard đã trở lại với đức tin Công giáo.
Hồi ấy nữ hoàng Elisabeth I nước Anh cai trị xứ Wales. Nhiều người ở Wales là tín hữu Công giáo, nhưng nữ hoàng đã ra những đạo luật khắt khe nhằm làm cho Anh giáo trở nên tôn giáo duy nhất trong vương quốc của bà. Các linh mục Công giáo và các tín hữu trung thành với Đức Thánh cha đều bị bắt giam tù. Họ thường bị tra tấn và sát hại.
Một ít lâu sau, Richard cũng trở thành người bị săn đuổi. Richard đào ngũ một lần và năm sau lại bị bắt giam.
“Anh sẽ được tự do,” – người ta nói với Richard – “nếu anh chịu bỏ đức tin Công giáo.”
Richard hoàn toàn từ chối. Rồi ngài bị áp giải tới một nhà thờ Anh giáo. Richard bực mình với bài giảng của vị giảng thuyết và ngài đã khua xiềng xích loảng xoảng để phản đối. Tức giận, các quan chức liền tống giam Richard vào kho lẫm suốt 8 giờ đồng hồ. Nhiều người đã đến nhạo cười và lăng nhục ngài.
Thời gian tù đày và các cuộc tra tấn thay nhau diễn ra sau đó. Các tay sai của nữ hoàng muốn Richard cho họ biết danh sách những tín hữu Công giáo, nhưng thánh nhân không tiết lộ điều gì. Tại phiên tòa xử ngài, có nhiều kẻ bị mua chuộc đã vu oan cho Richard, như một người trong bọn họ đã thừa nhận sau này. Các thành viên trong ban hội thẩm quá bất lương đến nỗi họ đã xin quan tòa lên án tử cho Richard. Sau khi bị lên án tử, người vợ và đứa con nhỏ của Richard được dẫn tới trước tòa. Người ta nói với người đàn bà tội nghiệp :
“Đừng bắt chước chồng bà!”
Bực mình, bà đã can đảm trả lời :
“Nếu các người cần thêm máu, các người hãy lấy luôn mạng sống của tôi cùng với mạng sống chồng tôi. Nếu các người cho nhân chứng thêm chút tiền nữa, chắc họ cũng sẽ tìm thêm chứng cớ nào đó để vu oan cho tôi!”
Đang lúc Richard chịu tử đạo, ngài đã kêu lên trong nỗi đau thê thảm rằng :
“Lạy Chúa, cái gì vậy?”
Một trong các quan chức trả lời cách mỉa mai :
“Một cuộc xử tử nữ hoàng ạ!”
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con!” – vị tử đạo kêu lên.
Những bài thơ đạo đức trác tuyệt Richard viết trong lao tù hiện vẫn còn được lưu giữ. Trong đó, thánh nhân kêu nài những người thôn quê xứ Wales hãy trung thành với đức tin Công giáo.
Richard tử đạo năm 1584.
Đến năm 1929, Richard Gwyn được Đức Thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc chân phước.
Năm 1970, Đức Thánh cha Phaolô VI phong thánh cho ngài làm một trong số 40 vị tử đạo của Anh quốc và xứ Wales.

Chúng ta có thể ngưỡng mộ thánh Richard Gwyn về lòng dũng cảm của ngài. Việc sẵn lòng chịu đau khổ vì điều mình tin tưởng thật rất đáng khích lệ. Chúng ta hãy nài xin thánh Richard Gwyn làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong những đau khổ và hiểu lầm như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-12-2012, 09:09 AM
Ngày 26 tháng Mười




Kính Mười Một Vị Tử Đạo ở Almeria, Tây Ban Nha



Cuộc nội chiến của người dân Tây Ban Nha nổ ra hồi năm 1936. Nó được mô tả như một cuộc chiến giữa những người vô thần và những người tin vào Thiên Chúa. Đối tượng đặc biệt của cuộc bách hại là Giáo hội Công giáo. Trong suốt 3 năm, đã có 12 giám mục, 4184 linh mục, 2365 tu sĩ và 300 nữ tu đã anh dũng hy sinh vì đức tin.
Ngày hôm nay, là lễ kính 11 trong số những vị tử đạo ấy : 2 giám mục, 1 linh mục triều, 7 anh em dạy tại các trường Công giáo và 1 nữ giáo dân trẻ tuổi.
Các giám mục thuộc giáo phận Almeria và Gandix, Tây Ban Nha.
Bảy anh em của những trường Công giáo là những giảng viên dạy tại đại học thánh Giuse ở Almeria.
Cha Phêrô Castroverde là một học giả danh tiếng và là người sáng lập hiệp hội Têrêsa.
Victoria Diez Molina là thành viên của hiệp hội này. Ngài đã tìm thấy kho tàng thiêng liêng theo cách thức cầu nguyện của nhóm này và trong đời Kitô hữu của mình. Victoria là nữ giáo viên dạy học tại một trường thôn quê và là một Kitô hữu hoạt động rất tích cực trong xứ đạo.
Tất cả 11 vị tử đạo đã chấp nhận thà hy sinh mạng sống mình vì Chúa Giêsu hơn là chối bỏ đức tin Công giáo.
Thầy Aurelio Maria, giám đốc trường đại học thánh Giuse, nói :
“Còn hạnh phúc nào hơn khi chúng ta được đổ máu đào vì lý tưởng cao quý của nền giáo dục Kitô giáo. Chúng ta hãy nhân đôi lòng nhiệt thành của mình để trở nên xứng đáng với vinh dự ấy!”
Giám mục Medina thuộc giáo phận Gandix nói :
“Chúng tôi chẳng làm gì để đáng phải chết cả. Nhưng tôi tha thứ cho các anh để Chúa Giêsu cũng sẽ tha thứ cho chúng tôi. Chớ gì máu của chúng tôi bị đổ ra lần này là lần cuối trên mảnh đất Almeria thân yêu này!”
Giám mục Ventaja cai quản giáo phận Almeria có nhiều cơ hội để rời khỏi quê hương, nhưng ngài đã chọn ở lại với đàn chiên, với Giáo hội đau khổ của ngài.
Cha Castroverde, sáng lập hiệp hội Têrêsa, viết trong nhật ký :
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con suy nghĩ điều Chúa muốn con nghĩ. Xin cho con ao ước điều Chúa muốn con ước ao. Xin cho con nói năng như Ngài muốn con nói. Xin cho con làm việc như Ngài muốn con làm việc.”
Cha đã tử vì đạo ngày 28/07/1936.
Victoria Molina bị giam tù ngày 11/08/1936. Ngài và 17 người khác bị đưa tới một hầm mỏ hoang và bị bỏ chết đói. Victoria an ủi những đồng bạn của ngài :
“Nào, phần thưởng của chúng ta đang chờ đợi chúng ta!”
Những lời cuối cùng của Victoria Molina là :
“Vạn vạn tuế Vua Giêsu!”
Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong các vị tử đạo này lên bậc chân phước ngày 10/10/1993.

Chúng ta hãy nài xin 11 vị anh hùng tử đạo này dạy chúng ta biết sống can đảm. Chúng ta có thể chọn lời cầu nguyện của chân phước Phêrô Castroverde làm lời cầu nguyện riêng của mình :
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con suy nghĩ điều Chúa muốn con nghĩ. Xin cho con ao ước điều Chúa muốn con ước ao. Xin cho con nói năng như Ngài muốn con nói. Xin cho con làm việc như Ngài muốn con làm việc. Amen”



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
02-12-2012, 09:11 AM
Ngày 27 tháng Mười




CHÂN PHƯỚC CONTARDO FERRINI



Chân phước Contardo Ferrini sinh năm 1859 tại thành Milan, nước Ý.
Thân phụ ngài là một giáo viên dạy môn toán và vật lý, và ông đã truyền lại cho cậu con trai bé nhỏ của ông niềm say mê học tập. Từ thuở bé, Contardo đã có thể nói được nhiều ngoại ngữ, không kể tiếng Ý. Contardo học rất giỏi kể cả khi lên đại học. Niềm đam mê học hành và yêu mến đức tin Công giáo đã khiến các bạn bè của Contardo đặt cho ngài biệt danh là “thánh Luy Gongaza”, (thánh Luy Gongaza là một vị thánh trẻ thuộc dòng Tên rất nổi tiếng về đời sống nhân hậu và quảng đại). Chính Contardo Ferrini là người khởi xướng các câu lạc bộ dành cho các sinh viên đại học nhằm giúp các sinh viên trở nên những Kitô hữu tốt lành.
Khi lên 21 tuổi, Contardo Ferrini có cơ hội tiếp tục nghiên cứu ngành luật học tại trường đại học Berlin ở Đức. Đối với Contardo Ferrini, việc rời bỏ quê nhà ở Ý là một chuyện rất khó, nhưng ngài cũng sung sướng vì được gặp gỡ những Kitô hữu đạo hạnh đến học tại nơi đây. Contardo Ferrini viết lại trong một cuốn sách nhỏ những cảm nhận ban đầu khi lãnh nhận Bí tích Hòa Giải nơi xứ lạ quê người. Bí tích này giúp cho Contardo Ferrini hồi hộp nhận ra rằng Giáo hội Công giáo thực sự là duy nhất dù ở bất cứ nơi đâu trên mặt địa cầu.
Contardo Ferrini quyết định chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Dù lắm lúc bận rộn vì là một giáo sư luật học danh tiếng, Contardo Ferrini cũng rất tích cực giúp đỡ những người nghèo khó, và ngài cũng hết sức cẩn thận chăm giữ đời sống thiêng liêng của mình. Contardo Ferrini là thành viên của hội dòng Ba Phanxicô, và ngài cũng tham gia với tu hội của thánh VinhSơn Phaolô nữa. Đang khi thưởng ngoạn với môn thể thao ưa chuộng là leo núi, Contardo cũng tưởng nghĩ về Thiên Chúa, về Đấng Sáng Tạo của tất cả vẻ đẹp ngài đang ngắm nhìn. Rồi người ta bắt đầu nhận ra rằng có một điều gì đó khác lạ về giáo sư Ferrini. Lần kia, khi chứng kiến nụ cười thân thiện bình thường của Ferrini thì một người đã kêu lên :
“Thật, ông này là một vị thánh!”
Contardo Ferrini qua đời ngày 17/10/1902 vì chứng bệnh thương hàn, lúc mới được 43 tuổi.
Đến năm 1947, Contardo Ferrini được Đức Thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc chân phước.

Đời sống của Giáo hội thật quan trọng vì mỗi thành viên chỉ cần làm trọn phần việc của mình là có thể vào được Nước Trời. Đây không chỉ là công việc của riêng các linh mục và tu sĩ. Chân phước Contardo Ferrini có thể thôi thúc chúng ta nhận lấy vị trí của mình trong Giáo hội và làm trọn tất cả những gì Thiên Chúa mời gọi chúng ta thực hiện.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-12-2012, 12:24 PM
Ngày 29 tháng Mười




THÁNH NARCISSO



Thánh Narcisso sống vào thế kỷ thứ II và nửa đầu thế kỷ thứ III.
Khi được đặt làm giám mục thành Giêrusalem, thánh nhân đã cao tuổi. Narcisso là một giám mục tuyệt vời. Mọi người đều ngưỡng mộ những đức tính quý báu của ngài, chỉ trừ những người chọn lối sống tội lỗi! Có ba kẻ thù của thánh Narcisso đã cáo buộc ngài một tội ác kinh khủng.
Người thứ nhất nói :
“Tôi sẽ bị ngọn lửa thiêu đốt nếu như Narcisso không phạm tội ấy!”
Người thứ hai nói :
“Tôi sẽ bị phong hủi nếu Narcisso không phạm tội đó!”
Và người thứ ba tiếp lời :
“Tôi sẽ bị mù ngay lập tức nếu như Narcisso không phạm tội đó!”
Tuy vậy, chẳng có ai tin lời vu không của họ cả! Dân thành Giêrusalem đã chứng kiến đời sống tốt lành của Narcisso. Họ biết thánh nhân là loại người như thế nào!
Dù không ai tin vào câu chuyện xấu xa đó, nhưng Narcisso cảm thấy đây là lý do tốt nhất để ngài lui vào sống luôn trong sa mạc. Narcisso đặt trọn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã suốt đời yêu mến và phụng sự.
Sau nhiều năm, Narcisso trở về làm giám mục Giêrusalem trong niềm vui khôn tả của dân thành. Mặc dù trông có vẻ già hơn, nhưng dường như Narcisso lại nhiệt thành hơn bao giờ hết. Thực ra, trong suốt một vài năm, ngài dường như rất khỏe mạnh. Rồi Narcisso trở nên yếu dần, không thể một mình cáng đáng được công việc. Và thánh nhân đã xin Alexandre thành Capadosia, một vị thánh danh tiếng khác, đến trợ giúp ngài. Với lòng yêu mến và nhiệt tâm lớn lao, cả hai đã cùng nhau cai quản giáo phận.
Narcisso sống thọ hơn 116 tuổi. Thánh nhân về trời năm 215.

Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai tin cậy vào Người. Chúng ta thì thường hay lo lắng về những điều người ta nói về chúng ta. Đó là lúc chúng ta hãy cầu xin thánh Narcisso dạy chúng ta bí quyết sống bình an của ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-12-2012, 12:26 PM
Ngày 30 tháng Mười




CHÂN PHƯỚC ANGELÔ ACRI



Vị chân phước này sinh năm 1669 tại miền Acri, nước Ý.
Lúc còn nhỏ, Angelô đã quyết tâm tận hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa trong bậc sống tu trì. Nhưng thoạt đầu Angelo Acri đã gặp một số trở ngại. Angelô cố gắng xin gia nhập dòng Capuxinô nhưng bị từ chối. Chắc rằng mình có ơn kêu gọi, Angelô lại tới xin lần thứ hai và lại bị khước từ. Angelô Acri không phải là một người dễ dàng bỏ cuộc, ngài đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và lại đến dòng Capuxinô để xin nhập tu. Cuối cùng, Angelô Acri được nhận và trở thành tu sĩ Capuxinô lúc 21 tuổi.
Dường như đây chính là khuôn mẫu cho cuộc đời của Angelô Acri. Sau khi được thụ phong linh mục, Angelô Acri bắt đầu rao giảng nhưng kết quả chỉ được chút ít hoặc chẳng thành công gì. Hình như Angelô Acri không có ơn gọi thuyết giảng! Thế nhưng một lần nữa, ngài lại đặt tin tưởng vào Chúa chứ không vào mình. Angelô Acri cứ cố gắng. Sau khoảng 10 năm, Angelô được gửi đến Napoli giảng thuyết trong suốt Mùa Chay năm 1711. Và lần đầu tiên, bài giảng của Angelô Acri mang lại thành quả tốt đẹp! Nhiều người đã tới nghe Angelô Acri và bị xúc động mạnh bởi lời giảng của ngài.
Phần còn lại của cuộc đời, Angelô Acri tận hiến mình phục vụ cho việc rao giảng tại Calabria và Napoli. Từng đám đông người tới nghe Angelô và hàng ngàn người đã bị thôi thúc phải thay đổi lối sống vì lời giảng giải của ngài. Thiên Chúa không những đã ban cho Angelô Acri ơn thuyết giảng tốt mà còn ban cho ngài nhiều ơn siêu nhiên, kể cả ơn chữa bệnh và nói tiên tri. Vì điều này, nhiều người từ rất xa đã đến nghe Angelô thuyết giảng và xưng thú tội lỗi với ngài. Cha Angelô Acri có thể đọc được tâm hồn của họ và trao cho họ những lời khuyên thật bổ ích.
Chân phước Angelô Acri qua đời tại nhà dòng Capuxinô ở Acri, thọ 70 tuổi. Ngài được tôn phong lên bậc chân phước năm 1825.

Đôi lúc chúng ta chịu chấp nhận bỏ cuộc chỉ sau có mỗi một lần cố gắng! Chân phước Angelô Acri có thể giúp chúng ta tránh được sự nản lòng thất vọng. Nếu cầu nguyện với ngài, chúng ta có thể nhận được ơn biết tin tưởng hơn vào Thiên Chúa và bớt tin tưởng vào chính mình. Việc kết hợp giữa lòng tin và khiêm tốn sẽ giúp chúng ta đạt được thành công.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-12-2012, 12:28 PM
Ngày 31 tháng Mười




THÁNH ALPHONGSO RODRIGUE



Vị thánh người Tây Ban Nha này sinh năm 1532.
Lên 15 tuổi, Alphongso Rodrigue được gia đình gửi tới học tại Alcala. Khi thân phụ qua đời, Alphongso phải nghỉ học để giúp thân mẫu trông coi tiệm len của gia đình. Ba năm sau, Alphongso lập gia đình. Ngài và cô vợ Maria sinh được hai người con, một trai và một gái.
Thế nhưng, giờ phút đau khổ bất chợt xảy tới cho Alphongso. Công việc kinh doanh của ngài thất bại, thân mẫu và người vợ trở nên ốm nặng, và chỉ trong một thời gian ngắn, vợ con cùng cả thân mẫu của Alphongso lần lượt qua đời.
Alphongso bắt đầu suy nghĩ về điều Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho mình. Ngài luôn là một Kitô hữu ngoan đạo. Nhưng từ lúc đó trở đi, Alphongso Rodrigue cầu nguyện, hãm mình và siêng năng lãnh nhận các Bí tích hơn trước.
Alphongso xin gia nhập dòng Tên. Tuy nhiên, bề trên nói rằng ngài phải học trước đã. Vì vậy, Alphongso đã đi học lại. Tại trường, các trẻ nhỏ đã chọc ghẹo ngài. Rồi Alphongso phải đi xin thức ăn, vì ngài đã bố thí cho người nghèo hết thảy tiền bạc. Sau cùng, Alphongso cũng được nhận vào dòng như một thầy trợ sĩ và được trao cho công tác giữ cửa tại một trường đại học của dòng Tên tại Majorca.
“Thầy đó không phải là một người bình thường – mà là một thiên thần!” – Bề trên của Alphongso Rodrigue đã nói về ngài nhiều năm sau đó.
Các linh mục quen biết Alphongso suốt 40 năm cũng chưa bao giờ nghe ngài nói hay làm điều gì sai trái. Lòng tốt và sự tuân phục của Alphongso ai ai cũng biết. Một lần kia, hết mọi chiếc ghế trong nhà, ngay cả những chiếc trong phòng ngủ, đều được mượn dùng vào việc Chầu Thánh Thể Bốn Mươi Giờ. Rồi do sự nhầm lẫn cách nào đó, chiếc ghế của thầy Alphongso không được trả lại cho mãi tới năm sau. Tuy vậy, thánh Alphongso Rodrigue đã chẳng bao giờ đề cập chuyện này cho bất cứ ai. Alphongso Rodrigue sung sướng chịu thiếu thốn cả đến chiếc ghế cần dùng!
Nhiều người đã đến với Alphongso Rodrigue để xin lời khuyên bảo. Thánh nhân đã truyền cảm hứng cho một tu sĩ dòng Tên trẻ tuổi là Phêrô Claver để tu sĩ này sẵn sàng hy sinh sang tận bên châu Mỹ Latinh truyền giáo, (lễ kính thánh Phêrô Claver ngày 09/09).
Trong cuộc sống lâu dài tại thế, thánh Alphongso Rodrigue đã phải khắc phục những cám dỗ nặng nề. Ngoài ra, thánh nhân cũng phải chịu cả những đau khổ thể lý. Khi hấp hối, Alphongso Rodrigue đã trải qua nửa giờ đau đớn kinh khủng. Sau đó, ngay trước lúc nhắm mắt, thánh nhân mới được tràn ngập niềm vui và an bình. Alphongso hôn kính Thánh Giá và đưa mắt nhìn các anh em đồng tu cách âu yếm.
Và, thánh nhân về trời năm 1617 đang lúc miệng còn kêu Danh Thánh Giêsu.

Thánh Alphongso Rodrigue dạy chúng ta nhiều bài học qua đời sống của ngài. Một bài học rất quan trọng là cách thức Alphongso Rodrigue chấp nhận hết mọi biến cố trong cuộc sống từ bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Thánh nhân không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào Người. Chúng ta hãy nài xin thánh Alphongso Rodrigue dạy chúng ta biết cách sống tín thác như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-12-2012, 12:31 PM
Ngày 01 tháng Mười Một




Lễ Các Thánh



Ngày này, chúng ta kính nhớ tất cả những người nam, người nữ và các trẻ nhỏ, những người đã theo sát Chúa Kitô cách trung thành và anh dũng trong suốt cuộc sống mình và đang được hưởng kiến Người trên thiên đàng.
Một số vị thánh có ngày kính riêng. Giáo hội biểu dương gương chứng nhân của các ngài về đời sống anh dũng, tươi vui vì Chúa Giêsu. Nhưng không đủ các ngày trong năm để kính nhớ vô số các thánh đã sống làm chứng ta cho Chúa trong cuộc đời tạm này.
Có những vị thánh đã sống thân mật với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời mình. Những vị khác chỉ gặp thấy Người trên hành trình sống. Một số vị đã sống cuộc đời rất tốt lành mà chẳng phải khó khăn gì. Số khác đã phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, nhưng đã gặp thấy Chúa Giêsu trên bước đường ăn năn và sám hối chân thành.
Các thánh đã sống như thế! Và chúng ta xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho tất cả chúng ta để chúng ta cũng sống cuộc đời thánh thiện và đạt tới Nước Trời là quê hương vĩnh cửu. Chúng ta biểu dương hành trình sống đã đưa các ngài đạt tới hạnh phúc viên mãn bên Thiên Chúa. Chúng ta cũng mừng kính những thành viên trong chính gia đình của mình, những người thân quen, hàng xóm và bạn bè, những người mà chúng ta tin rằng giờ đây đang hưởng kiến tôn nhan Thiên Chúa trên Nước Trời.

Chúng ta hãy hoan hỉ cùng với chư thánh trên Thiên quốc. Chúng ta hãy thưa chuyện với các ngài, cảm ơn các ngài về tấm gương chứng nhân các ngài đã sống. Chúng ta cũng hãy cảm ơn các ngài vì đã giúp đỡ chúng ta vượt qua bao khó khăn và cám dỗ. Hãy nài xin các ngài phù trợ chúng ta trên mỗi hành trình sống của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
03-12-2012, 12:33 PM
Ngày 02 tháng Mười Một




Lễ Các Đẳng Linh Hồn



Hôm nay cũng là một trong những ngày lễ đáng yêu nhất của lịch Phụng vụ Giáo hội. Đó là ngày chúng ta đặc biệt tưởng nhớ đến hết mọi tín hữu đã qua đời – những người đã chuyển từ đời tạm này sang đời sống mai hậu.
Chúng ta không biết được chính xác mỗi linh hồn phải trải qua thời gian thanh luyện bao lâu. Tuy nhiên, chúng ta biết chắc một điều : luyện ngục là nơi có thật! Hôm nay chúng ta dừng lại ít phút để tưởng nhớ đến tất cả những tín hữu đã qua đời. Chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các bậc tổ tiên của chúng ta, những người thân quen và các bạn hữu đã qua đời. Chúng ta cầu cho những người đã có công dạy dỗ chúng ta những điều tốt đẹp. Chúng ta cầu cho những người đã hy sinh cho chúng ta khi họ còn sống. Chúng ta cầu cho những linh hồn mồ côi, cho những người lúc ở đời tạm này đã giữ những chức vụ quan trọng.
Chúng ta tưởng nhớ đến những linh hồn thánh thiện trong luyện ngục và chúng ta nhận biết rằng các vị sẽ được cứu thoát. Giờ đây các vị đang chờ đợi, đang chịu thanh tẩy cho tới khi được ở bên Thiên Chúa, diện đối diện.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho những linh hồn trong luyện ngục và hãy rút ngắn hành trình đến với Thiên Chúa của các ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và xin ban ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Xin cho họ được an nghỉ trong bình an. Amen



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-12-2012, 06:52 AM
Ngày 05 tháng Mười Một




THÁNH BÉTILLA



Thánh nữ Bétilla sống vào thế kỷ thứ VII. Cuốn tiểu sử đầu tiên ghi chép về cuộc đời thánh nữ bằng tiếng Latinh xuất hiện vào năm 800. Thánh nữ Bétilla sinh tại Soissons, nước Pháp.
Ngay ở tuổi hoa niên, Bétilla đã cảm thấy có ơn gọi sống thân mật với Thiên Chúa. Bétilla bắt đầu nhận thấy đời sống cầu nguyện và hy sinh mà ngài đang mong muốn có thể được tìm thấy trong chốn tu viện. Bétilla đến gặp Đức Giám mục của ngài là thánh Ouwen và xin lời khuyên. Thánh giám mục khuyến khích Bétilla hãy nên theo tiếng gọi của ngài.
Sau đó, song thân Bétilla gửi ngài tới một nữ đan viện sống theo quy luật của vị tu sĩ gốc người Ai Len là thánh Côlumba. Khi tới đan viện, Bétilla biết mình đã thực sự tìm được bình an.
Nhiều năm trôi qua! Bétilla dùng thời giờ cầu nguyện và làm nhiều công việc khác nhau. Thánh nữ đặc biệt có lòng hiếu khách đối với những du khách và những bệnh nhân đến thăm tu viện. Thánh Bétilla cũng chăm sóc những trẻ nhỏ sắp được giáo dục tại tu viện.
Thánh nữ Batildi, hoàng hậu vua Clovis II, thiết lập một tu viện mới. Ngài đã xin Mẹ bề trên của tu viện Soissons gửi một số nữ tu đến tu viện mới này. Bétilla là một trong số các nữ tu được chọn và thánh nữ được chỉ định làm bề trên nhà ấy. Bétilla rất đỗi ngạc nhiên nhưng thánh nữ đã quyết định làm những điều tốt nhất theo sức có thể. Bétilla biết rằng Chúa Giêsu sẽ giúp ngài giải quyết mọi vấn đề.
Tu viện dần dần phát triển. Chính hoàng hậu Batildi cũng trở thành nữ tu sau khi vua Clovis II băng hà. Sau đó, một bà hoàng khác là Hereswitha, quả phụ của một ông chúa vùng East Angles, cũng xin vào tu. Mẹ Bétilla hẳn là đã rất ngạc nhiên khi có tới hai bà hoàng tìm đến sống trong tu viện của mình. Nhưng mọi người đã sống rất bình an vì các bà hoàng cũng sống khiêm tốn y như Mẹ bề trên vậy!
Thánh nữ Bétilla sống rất thọ và đã cai quản tu viện Chelles suốt 46 năm.
Thánh nữ về trời khoảng năm 705.

Chúa Giêsu có một chương trình dành riêng cho mỗi người chúng ta. Người ban cho chúng ta một ít công việc hoặc hướng đi trong cuộc sống. Như thánh nữ Bétilla, chúng ta hãy cho Chúa Giêsu cơ hội để Người trò chuyện với chúng ta. Phần chúng ta hãy lắng nghe tiếng Người. Chúng ta có thể nài xin thánh nữ Bétilla giúp chúng ta nhận ra và dõi theo ý muốn của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
04-12-2012, 06:54 AM
Ngày 06 tháng Mười Một




THÁNH THÊÔPHAN VÊNARD



Ngay lúc còn trẻ, vị linh mục thánh thiện người Pháp này đã mơ ước được làm chứng cho Tin Mừng của Đức Kitô.
Ngài đi học làm linh mục. Sau đó, Thêôphan Vênard vào trường đại học chuyên đào tạo các nhà truyền giáo tại Paris, nước Pháp. Gia đình của Thêôphan, mà ngài hết sức yêu mến, đã rất đỗi buồn phiền vì nghĩ rằng sau khi trở thành linh mục, Thêôphan sẽ rời bỏ họ. Phần Thêôphan Vênard, ngài cũng nhận thấy cuộc hải hành rất dài tới vùng Viễn Đông có lẽ sẽ vĩnh viễn tách biệt ngài khỏi gia đình.
“Em yêu quý,” – Thêôphan Vênard viết trong một lá thư gửi cho cô em gái – “Anh đã khóc rất nhiều khi đọc thư em viết. Phải, anh biết rất rõ nỗi buồn anh mang tới cho gia đình. Anh nghĩ em sẽ rất đau khổ, có phải không em gái nhỏ của anh? Nhưng em không nghĩ rằng anh cũng phải trả giá bằng những dòng lệ đẫm máu hay sao? Khi quyết định như thế, anh biết anh đã đem đến cho gia đình mình niềm đau buồn lớn lao. Còn ai yêu mến gia đình mình hơn anh nữa? Gia đình chính là tất cả niềm hạnh phúc của anh trên thế gian này. Nhưng Thiên Chúa, Đấng liên kết tất cả chúng ta trong mối tình đáng yêu nhất, đã muốn kéo anh ra khỏi đó!”
Sau khi thụ phong linh mục, Thêôphan Vênard lên đường tới Hong Kong. Ngài trẩy tàu vào tháng 09/1852. Thêôphan học các thứ ngôn ngữ khoảng hơn một năm. Rồi thánh nhân tới Bắc Kỳ (Việt Nam). Có hai trở ngại đáng kể trong cuộc truyền giáo nhiệt thành này : sức khỏe yếu kém và bách hại khủng khiếp. Tuy vậy, thánh Thêôphan Vênard vẫn anh dũng vượt khó. Thánh nhân thường viết thư kể lại cho cô em dễ thương của ngài ở Pháp biết tất cả những mạo hiểm và các cuộc trốn thoát nho nhỏ khỏi tay những kẻ bách hại. Cuối cùng, sau khi phục vụ nhiều Kitô hữu ở Bắc Kỳ, Thêôphan bị bắt và bị xiềng xích trong một chiếc cũi nhỏ suốt khoảng hai tháng.
Bản tính hiền lành của Thêôphan Vênard rốt cuộc đã chinh phục được cả những anh lính cai ngục. Thánh nhân cố gắng viết về nhà một lá thư, trong đó ngài kể :
“Tất cả mọi người sống xung quanh con đều lịch sự và đáng trọng. Nhiều người đã yêu mến con. Từ vị quan chức có thế lực nhất cho đến anh lính bình thường nhất, mọi người đều lấy làm tiếc vì luật lệ của quốc gia phải lên án tử cho một ai đó. Con không bị tra tấn như các anh em đồng tu với con.”
Thế nhưng, sự cảm thông của họ vẫn không cứu nổi mạng sống của Thêôphan Vênard. Sau khi bị trảm quyết, rất nhiều người đã chạy lại và lấy khăn tay của mình thấm lấy máu của cha Thêôphan.
Thêôphan Vênard chịu tử đạo ngày 02/02/1861.
Cha Vênard được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc hiển thánh ngày 19/06/1988. Ngài là một trong số các vị thánh tử đạo Việt Nam được mừng kính ngày 24/11 hàng năm.

Thánh Thêôphan Vênard không sống được lâu tại Trung Hoa và Bắc Kỳ. Tặng ân cao cả mà thánh nhân ban cho người dân các nước này khi anh dũng tử đạo là tấm gương chứng nhân về giáo huấn của Chúa Giêsu. Thánh Thêôphan Vênard dạy chúng ta rằng gương sáng chính là một ảnh hưởng rất tuyệt vời trên người khác. Chúng ta hãy nài xin thánh Thêôphan Vênard ban cho chúng ta lòng can đảm để làm chứng cho Chúa Giêsu qua lối sống của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-12-2012, 08:31 AM
Ngày 07 tháng Mười Một




CHÂN PHƯỚC GIUSE ANTONIO TOVINI



Chân phước Giuse Antonio Tovini sinh ngày 14/03/1841 tại Ý.
Song thân ngài là những Kitô hữu đạo hạnh và đáng quý, họ đoan chắc rằng con cái của họ được hấp thụ một nền giáo dục và được lớn lên trong môi trường Kitô giáo tốt lành.
Thân phụ của Giuse qua đời khi ngài lên 18 tuổi, vì vậy, Giuse phải giúp đỡ thân mẫu chăm lo tài chính để nuôi các em trai và em gái của ngài. Trong khi ấy, Giuse vẫn tiếp tục việc học. Ngài nhận được văn bằng cử nhân luật vào chính lúc thân mẫu qua đời.
Sau đó ít lâu, Giuse Antonio Tovini bắt đầu hành nghề luật sư. Ngài đảm nhận chức vụ hiệu phó và giảng viên tại trường kỹ thuật. Giuse Antonio Tovini nổi tiếng là người đem đến những điều tốt nhất cho sinh viên của mình, đồng thời giúp họ nhận biết và sử dụng những tài năng đặc biệt của bản thân họ.
Vào năm 1876, Giuse Antonio Tovini gặp một phụ nữ trẻ tên là Emilia Corbolani. Chẳng mấy chốc họ yêu nhau và sau một thời gian họ lấy nhau. Cùng lúc ấy, Giuse trở thành thị trưởng của thành phố quê nhà, và Giuse đã cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp chính trị và giúp cải thiện điều kiện sinh sống của những người dân mà Giuse có trách nhiệm phục vụ. Là thành viên của hội dòng Ba Phanxicô, Giuse Antonio Tovini đặc biệt cảm thấy có bổn phận phải giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu. Giuse đã xây dựng những đường rầy xe lửa để nối kết nông thôn với thị thành. Và để cải tiến đời sống tài chính của người dân, Giuse Antonio Tovini đã cho thiết lập những ngân hàng và liên hiệp các tài khoản. Giuse cũng thiết lập các trường học và ủng hộ việc xuất bản các loại tạp chí.
Giuse Antonio Tovini và Emilia Corbolani bắt đầu cuộc sống gia đình và hai người đã sinh được tất cả 10 người con. Họ là những bậc cha mẹ tốt lành, nêu gương sáng về đời sống đức tin, kính trọng và thương yêu lẫn nhau. Ba trong số những người con của họ sau cùng đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa trong bậc sống tu trì.
Giuse Antonio Tovini đã hoạt động không mỏi mệt cho công bằng xã hội và thiện ích của những người nghèo khổ. Nhưng Giuse Antonio Tovini chỉ nhận được sức mạnh để thực hiện công việc này qua cầu nguyện. Giuse đọc Kinh Thánh hàng ngày và rút lấy cảm hứng cho đời sống mình từ Lời Chúa. Giuse Antonio Tovini tham dự thánh lễ mỗi ngày và đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể với lòng yêu mến và tôn kính. Ngài đặc biệt tôn sùng Thánh Thể và thực hành việc tôn sùng Bí tích này cách liên tục trong thánh đường giáo xứ nơi Giuse được an táng sau đó.
Vào ngày 16/01/1897, mỏi mệt vì hoạt động không ngơi nghỉ, Giuse Antonio Tovini đã qua đời lúc được 56 tuổi.
Đến ngày 20/09/1998, Giuse Antonio Tovini được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước.

Chân phước Giuse Antonio Tovini có biệt tài thấy được những nhu cầu của những người sống xung quanh ngài và ngài đã nghĩ ra được những giải pháp thực tiễn để giúp đỡ họ. Chúng ta hãy cầu nguyện với chân phước Giuse Antonio Tovini và xin ngài chỉ cho chúng ta một điều nhỏ bé có thể thực hiện ngay hôm nay để giúp cho cuộc sống của một ai đó được thăng tiến hơn.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
05-12-2012, 08:33 AM
Ngày 08 tháng Mười Một




THÁNH PHILIPPHE HOWARD



Thánh Philipphe Howard là con trai của ông Tôma, một công tước miền Norfolk. Thánh nhân sinh ngày 28/06/1557, lúc nữ hoàng Mary đang nắm quyền cai trị nước. Và lúc ấy, Anh quốc một lần nữa lại trở thành Công giáo.
Philipphe Howard được Rửa tội trong Giáo hội Công giáo. Nhưng một năm sau, nữ hoàng Elisabeth I lên ngôi. Bà đã tái thiết Giáo hội Anh giáo, ngăn cấm người ta không được quyền hành đạo Công giáo. Thân phụ của Philipphe là ông Tôma và cả gia đình đều cải sang Anh giáo.
Ông Tôma tái hôn với một quả phụ tên Elisabeth. Người ta đã sắp xếp cho ba người con trai của ông Tôma cưới ba cô con gái của bà Elisabeth. Vì thế, Philipphe, lúc ấy mới 14 tuổi, đã kết hôn với cô Anna. Philipphe chỉ thích quan tâm đến đời sống chính trị xã hội, ít nghĩ tới Thiên Chúa và Anna. Ngài trở thành bá tước miền Arundel năm 1580 và được chào đón tại hoàng gia với tư cách là một sủng thần của nữ hoàng Elisabeth I.
Vào một ngày trong năm 1581, Philipphe Howard có mặt tại hoàng gia và chứng kiến một cuộc tranh luận giữa các nhà thần học thuộc Anh giáo và một linh mục dòng Tên là cha thánh Edmun Campion, (lễ mừng kính cha thánh Edmun Campion ngày 01/12).
Những lời của vị linh mục này, người đã chịu tử đạo sau khi tranh luận với họ, là nguồn mạch cho đức tin của Philipphe Howard. Dần dần, Philipphe Howard suy nghĩ nhiều hơn về ý nghĩa và giá trị khi được làm một Kitô hữu, và Philipphe cũng bớt để ý tới công việc của ngài. Philipphe cảm thấy mình đang ngụp lặn trong niềm tin Công giáo. Và, cùng lúc ấy, Philipphe nhận ra mình đã làm cho người vợ phải đau khổ vì đã bỏ mặc cô ấy suốt nhiều năm trời. Sau đó, Anna gia nhập đạo Công giáo. Và năm 1584, Philipphe cũng vậy, Philipphe sống rất trung thành với Thiên Chúa, với Giáo hội và với người vợ yêu quý của ngài.
Cùng lúc ấy, Philipphe Howard bắt đầu nhận thấy rằng mình không còn là sủng thần của nữ hoàng Elisabeth I nữa. Ngài biết cuộc trở lại với Giáo hội Công giáo sẽ là mối nguy hiểm cho bản thân ngài. Philipphe Howard viết một lá thư cho nữ hoàng, giải thích những lý do về sự chọn lựa, và sau đó ngài rời bỏ Anh quốc. Nhưng Philipphe Howard đã bị bắt đang khi vượt biển và người ta đã đem ngài tới tháp đài Luân Đôn. Vì là bá tước, Philipphe Howard tránh được án tử hình nhưng phải bị án tù chung thân.
Nhà giam của Philipphe Howard lại trở nên nhà nguyện đối với ngài. Philipphe dành nhiều giờ mỗi ngày để cầu nguyện và suy ngẫm Lời Chúa. Thánh nhân đã trải qua suốt 10 năm sống như vậy. Philipphe nài xin cho được gặp mặt người vợ và con trai, sinh ra trong lúc ngài ngồi tù, nhưng đã bị từ chối. Ngài chỉ được phép gặp mặt người thân khi và chỉ khi từ bỏ đức tin Công giáo mà thôi. Thế nhưng, đức tin của Philipphe Howard và của Anna có thể hy sinh một vài năm vắn vỏi hạnh phúc bên nhau để đổi lấy hạnh phúc đời đời trên thiên đàng.
Philipphe Howard mất trong tù ngày 19/10/1595, lúc được 38 tuổi.
Năm 1970, Đức Thánh cha Phaolô VI đã tôn phong Philipphe Howard lên bậc hiển thánh. Ngài là một trong số 40 vị thánh tử đạo tại xứ Wales và Anh quốc.

Sau khi qua đời, người ta đã tìm thấy những lời này được Philipphe Howard ghi khắc trên bức tường xà lim của ngài : “Càng chịu đau khổ với Chúa Kitô trên thế gian này, chúng ta càng được hưởng vinh quang với Người trong đời sống mai hậu.” Việc tưởng nghĩ về thiên đàng có thể giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống hay không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-12-2012, 07:39 AM
Ngày 09 tháng Mười Một




Lễ Cung Hiến Đền Thờ Thánh Gioan Laterano



Ngôi đền thờ thánh Gioan Laterano ở Roma là ngôi nhà thờ riêng của Đức Thánh cha. Nó được xem là nhà thờ mẹ của hết mọi nhà thờ trên toàn thế giới. Nhà thờ này được trang hoàng bởi các thánh tích của cuộc Thương Khó Chúa Giêsu và của nhiều vị thánh tử đạo.
Ban đầu, ngôi đền này là cung điện của một nghị sĩ Roma rất giàu có là Plautio Laterano. Khi ông qua đời, hoàng đế Constantino đã thừa hưởng ngôi nhà. Constantino cho xây một nguyện đường bên trong bốn bức tường của cung điện, và ông đã dâng hiến ngôi nguyện đường cho thánh Gioan Thánh Ký.
Các Đức Thánh cha đã lưu ngụ tại ngôi đền Laterano này cho tới đời Đức Thánh cha Grêgôriô XI. Khi vị Giáo hoàng này từ thành phố Avignon trở về, ngài đã di dời nơi ở vào trong đền thánh Phêrô, hay còn gọi là Tòa thánh Vatican. Và các vị Giáo hoàng đã lưu ngụ tại đây kể từ thời gian ấy.
Ngày lễ này nhắc nhớ chúng ta về giá trị của các ngôi thánh đường được cung hiến để phục vụ và tôn thờ Thiên Chúa.

Khi chúng ta trông thấy một ngôi thánh đường hoành tráng, điều đó nhắc nhớ chúng ta về việc tất cả mọi người được mời gọi để cùng nhau tôn thờ Thiên Chúa. Chúng ta, “dân riêng” của Thiên Chúa, chính là những viên đá sống động của tòa nhà Giáo hội Chúa Kitô. Chính đời sống thánh thiện và tinh thần phục vụ của chúng ta sẽ góp phần làm cho Giáo hội thêm xinh đẹp.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
06-12-2012, 07:40 AM
Ngày 12 tháng Mười Một




THÁNH GIÔSAPHAT



Thánh Giôsaphat sinh tại Ba Lan vào năm 1580 và ngài nhận thánh Gioan làm bổn mạng.
Giôsaphat là tu sĩ thuộc dòng Ukraina, dòng của thánh Basiliô và ngài đổi tên là Giôsaphat. Ngài là một người rất hy sinh và can đảm. Vì có nhiều phẩm chất thiên phú, Giôsaphat hay được chọn giữ những nhiệm vụ thủ lãnh. Điều nay sau cùng đã khiến Giôsaphat phải trả giá bằng chính mạng sống mình.
Giôsaphat là một tông đồ cho niềm tin thống nhất Công giáo. Thánh nhân rao giảng sự hợp nhất giữa các giáo hội Kitô ở Ukraina. Có 3 thành phần Kitô hữu chính thức ở đất nước này : các Kitô hữu theo Giáo hội Latinh và hợp nhất với Đức Giáo hoàng, các Kitô hữu theo Giáo hội Chính thống Hy Lạp và các Kitô hữu theo Giáo hội Công giáo Hy Lạp.
Giôsaphat làm giám mục năm 1617, và ngài được trao cho trách nhiệm trông coi giáo phận Polotsk. Thánh nhân dùng gần 10 năm sau đó để giúp đỡ bổn đạo hiểu biết và yêu mến đức tin Công giáo. Giôsaphat tổ chức những buổi cầu nguyện và những lớp giáo lý. Ngài năng họp các giáo sĩ trong giáo phận, trao đổi với họ để có được những nguyên tắc khả thi nhằm giúp dân chúng sống thân mật hơn với Chúa Giêsu.
Đức Tổng Giám mục Giôsaphat có nhiều ảnh hưởng lớn lao trên dân chúng. Ngài là một nhà lãnh đạo đầy năng động. Có vài người không muốn Giáo hội bị đặt dưới quyền cai trị của Đức Giáo hoàng đã xách động một băng nhóm chống lại Giôsaphat. Và thánh Giôsaphat đã bị giết hại ngày 12/11/1623. Máu ngài bị đổ xuống một dòng sông gần đó.
Năm 1867, Giôsaphat được Đức Thánh cha Piô IX tôn phong lên bậc hiển thánh.

Thánh Giôsaphat là một người xây dựng hòa bình và là một người chữa lành. Thánh nhân mong muốn tất cả mọi người được sống trong bình an. Giôsaphat xác tín rằng điều giúp hợp nhất mọi người không phải là điều làm chia rẽ họ. Chúng ta hãy cầu xin thánh Giôsaphat giúp chúng ta biết cố gắng sống như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-12-2012, 07:22 AM
Ngày 14 tháng Mười Một


THÁNH LAURENSO OTTO



Thánh Laurenso Otto sinh tại đất nước Ai Len vào năm 1128. Thánh nhân là con trai của một tù trưởng.
Khi lên 10 tuổi, ông lãnh chúa nước láng giềng đem quân sang xâm chiếm đất đai của thân phụ Laurenso Otto và bắt ngài đi đày. Laurenso phải chịu đau khổ suốt 2 năm. Sau đó, thân phụ Laurenso bắt ông lãnh chúa phải trả lại con trai cho ông để cậu phục vụ Đức Giám mục. Ngay khi ông lãnh chúa bằng lòng, thân phụ Laurenso liền vội vã đến thăm con trai mình và ông đã biết ơn cùng đem con về nhà.
Tù trưởng mong muốn một trong số các con trai ông sẽ dâng mình phục vụ Giáo hội. Đang lúc phân vân không biết chọn ai thì Laurenso Otto mỉm cười và bảo thân phụ đừng băn khoăn nữa.
“Đó là niềm mơ ước của con.” – Laurenso Otto nói – “Vì được phục vụ Thiên Chúa trong Giáo hội chính là gia nghiệp đời con!”
Vì thế, thân phụ Laurenso Otto đã dẫn ngài tới và trao cho Đức Giám mục coi sóc.
Sau đó, thánh Laurenso Otto trở thành linh mục và đan trưởng của một tu viện lớn. Khi thực phẩm trở nên khan hiếm trong khắp vùng xung quanh tu viện, vị đan trưởng tốt lành này đã đem phân phát rất nhiều lương thực để giúp dân chúng thoát khỏi nạn đói. Vì là bề trên, thánh Laurenso Otto cũng phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn. Một số đan sĩ đã phê bình ngài vì quá nghiêm khắc. Nhưng Laurenso Otto vẫn một mực hướng dẫn cộng đoàn theo lối khổ chế dù bị chỉ trích. Sau đó là chuyện những kẻ cướp bóc và những tay tội phạm sống ở những quả đồi bên cạnh nhà dòng. Tuy nhiên, chẳng có gì làm cho Laurenso Otto phải lo sợ cả!
Thánh Laurenso Otto quá nổi danh đến nỗi ít lâu sau ngài được chọn làm Tổng Giám mục thành Dublin. Trong chức vị mới này, Laurenso Otto vẫn sống thánh thiện như trước. Mỗi ngày, thánh nhân đều mời những người nghèo khổ đến tiếp chuyện với ngài. Ngoài ra Laurenso Otto cũng giúp đỡ nhiều người khác nữa. Thánh nhân rất mực yêu mến dân tộc của ngài và đất nước Ai Len, và ngài đã làm việc hết sức mình để giữ cho quê hương được thịnh vượng. Lần kia, có một kẻ thù đã tấn công Laurenso Otto vừa lúc ngài đi lên bàn thờ dâng thánh lễ. Laurenso Otto bị đánh gục xuống sàn nhà bất tỉnh, nhưng ngay lập tức, ngài lại tỉnh dậy. Laurenso Otto nhờ người rửa vết thương, và ngài đi dâng thánh lễ liền sau đó.
Sau những năm vất vả làm việc cho Giáo hội, thánh Laurenso Otto bị bệnh rất nặng. Khi được hỏi có ao ước điều gì không, Đức Tổng Giám mục thánh thiện chỉ mỉm cười và trả lời :
“Thiên Chúa biết rõ tôi chẳng có lấy một đồng xu dính túi!”
Thánh Laurenso Otto đã bố thí hết mọi thứ cho tha nhân ngay từ khi ngài tận hiến mình cho Thiên Chúa.
Thánh nhân về trời ngày 14/11/1180.
Đến năm 1225, Laurenso Otto được Đức Thánh cha Honorio III tôn phong hiển thánh.

Bằng đời sống của mình, thánh Laurenso Otto nhắc nhớ chúng ta rằng mối quan tâm chính yếu trong mọi công việc của chúng ta là phải làm hài lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy nài xin thánh Laurenso Otto giúp chúng ta can đảm thực hiện những gì là chân thật ngay cả khi bị người khác chỉ trích phê bình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”

của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
07-12-2012, 07:25 AM
Ngày 15 tháng Mười Một




THÁNH ALBERTO Cả
(Bổn mạng các sinh viên ngành khoa học tự nhiên)



Vị thánh này sống vào thế kỷ thứ XIII. Ngài được sinh ra trong một lâu đài bên bờ sông Danube ở Swabia, thuộc miền Tây Nam nước Đức.
Alberto học tại trường đại học của thành Padua, nước Ý. Tại đó, ngài quyết định trở thành một tu sĩ dòng ĐaMinh. Người cậu của Alberto cố thuyết phục cháu trai mình đừng theo đuổi con đường tu trì. Nhưng Alberto đã quyết. Alberto cảm thấy đây là điều Thiên Chúa muốn về ngài. Thân phụ của Alberto, bá tước miền Bollstadt, rất đỗi giận dữ. Các tu sĩ ĐaMinh tưởng rằng ông sẽ đến bắt Alberto về nhà. Và họ đã chuyển tập viện đến một nơi rất xa, nhưng thân phụ của Alberto không đến tìm ngài nữa.
Thánh Alberto Cả yêu chuộng việc học hành. Các môn khoa học tự nhiên, nhất là vật lý, thiên văn, địa lý và sinh vật học là những môn làm Alberto say mê hơn cả. Thánh nhân đã viết rất nhiều sách về những môn học này. Trong một tác phẩm của mình, Alberto khẳng định trái đất thì tròn. Alberto cũng viết sách về triết học, toán học, Kinh Thánh và thần học. Thánh nhân cũng là một giáo sư danh tiếng dạy ở nhiều trường đại học.
Một trong các sinh viên thời danh của thánh Alberto Cả là thánh sư Tôma Aquino. Hai vị thánh này là hai người bạn chí thân. Thánh Alberto Cả đã hướng dẫn thánh Tôma khởi sự công việc nghiên cứu vĩ đại về triết học và thần học. Thánh nhân cũng bảo vệ những giáo huấn của thánh Tôma sau khi thánh Tôma qua đời.
Lúc về già, thánh Alberto Cả càng sống thánh thiện hơn. Trước đây, thánh nhân diễn tả những tư tưởng uyên thâm của ngài qua các tác phẩm. Bây giờ, Alberto lại quảng diễn những tư tưởng ấy qua lối sống dành cho Thiên Chúa.
Thánh Alberto Cả bị mất trí quãng độ 2 năm trước lúc ngài qua đời. Thánh nhân trút hơi thở cách an bình đang khi ngài ngồi trên chiếc ghế dựa nói chuyện với các anh em tu sĩ ĐaMinh.
Thánh Alberto Cả là vị thánh bổn mạng của các sinh viên thuộc ngành khoa học tự nhiên.

Chúng ta hãy học nơi thánh Alberto Cả cách thức sử dụng và trân trọng trí tuệ của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh nhân và xin ngài giúp chúng ta có được lòng ham biết lành mạnh về thế giới quanh ta, nhất là về Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo mọi sự và lập ra các luật lệ để cai trị thiên nhiên.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-12-2012, 08:48 AM
Ngày 16 tháng Mười Một




THÁNH MARGARITTA Scốtlen



Thánh nữ Margaritta là công chúa nước Anh. Thánh nữ sinh năm 1045.
Margaritta và thân mẫu của ngài đã trẩy tàu sang xứ Scốtlen để trốn thoát ông vua xâm lược đất nước của họ. Vua Malcolm xứ Scốtlen đã chào đón hai người. Ông có tình cảm với nàng công chúa xinh đẹp này. Ít lâu sau, Malcolm và Margaritta đã nên duyên vợ chồng.
Với tư cách là hoàng hậu, Margaritta đã cảm hóa được người chồng và đã giúp cho đất nước Scốtlen ngày thêm cường thịnh. Malcolm có tính tốt nhưng ông và các quần thần của ông lại cư xử rất thô lỗ cộc cằn. Khi nhận thấy vợ mình khôn ngoan, ông đã sẵn lòng nghe theo lời khuyên của hoàng hậu. Margaritta đã giúp nhà vua chinh phục được tính nóng và thực hành những đức tính Kitô giáo. Margaritta đã làm cho triều đình trở nên xinh đẹp và văn minh hơn. Đức vua và hoàng hậu là những tấm gương tuyệt vời vì họ thường cầu nguyện và cư xử rất tốt với nhau. Họ bố thí cho tầng lớp người nghèo. Họ cố gắng bắt chước Chúa Giêsu qua chính đời sống của họ.
Hoàng hậu Margaritta là một ân ban cho hết mọi thần dân thuộc xứ Scốtlen. Trước lúc Margaritta tới, cả xứ còn kém văn minh. Nhiều người có những thói quen xấu và vẫn thực hành như vậy khi sống thân mật với Thiên Chúa. Margaritta đã hoạt động đắc lực để mời được những giáo sư tốt và chính hoàng hậu đã khuyến khích nền giáo dục tại đây. Margaritta và Malcolm đã cho xây cất nhiều ngôi thánh đường mới. Thánh nữ thích làm những thánh đường đẹp để tôn vinh Thiên Chúa. Thực ra, chính hoàng hậu Margaritta đã tự tay may lấy một số áo lễ cho các linh mục.
Margaritta và Malcolm sinh được tất cả 6 con trai và 2 con gái, và họ rất yêu thương con cái của mình. Cậu con út chính là thánh David. Nhưng Margaritta cũng phải chịu nhiều đau khổ. Đang khi chịu cơn bệnh sau cùng, thánh nữ nghe biết người chồng và cậu con trai là Edward đã tử trận.
Margaritta qua đời bốn ngày sau đó, nhằm ngày 16/11/1093.
Đến năm 1250, Margaritta được Đức Thánh cha Innocente IV tôn phong hiển thánh.

Thánh nữ Margaritta Scốtlen chỉ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thực hiện những điều phải lẽ vì những lý do chân thật. Gương sáng của thánh nữ chính là phản ảnh trung thực về niềm tin của ngài vào Chúa Giêsu. Những việc tốt đẹp thánh nữ đã làm không cố ý để cho người ta ca ngợi. Margaritta Scốtlen đã thực hiện những điều hợp lẽ phải và chỉ có ý làm hài lòng Chúa Giêsu. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Margaritta Scốtlen giúp chúng ta cũng biết hành động như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
08-12-2012, 08:49 AM
Ngày 18 tháng Mười Một




THÁNH ROSA PHILIPPINE DUCHESNE



Thánh nữ Rosa Philippine Duchesne phục vụ Chúa Giêsu tại mảnh đất Hoa Kỳ. Thánh nữ sinh năm 1769 trong một gia đình người Pháp rất giàu có.
Lúc còn trẻ, Rosa chẳng có gì đặc biệt để được gọi là thánh thiện cả! Thực sự, Rosa thường hay sống theo ý riêng của mình. Rosa ra lệnh cho người khác phải làm những gì ngài muốn. Ở trường, môn học Rosa yêu thích là môn lịch sử. Về sau, Rosa rất thích đọc những mẩu chuyện kể về những người dân Mỹ gốc bản xứ.
Năm lên 17 tuổi, Rosa xin vào tu trong một hội dòng. Rosa Philippine Duchesne không được phép tuyên những lời khấn thánh lúc mãn kỳ hạn nhà tập chỉ vì cuộc cách mạng Pháp. Tất cả những chị em có lời khấn thánh đều bị những người làm cách mạng trục xuất ra khỏi đất nước, và Rosa phải trở về gia đình. Dù vậy, Rosa vẫn không rời bỏ ước nguyện được thuộc trọn về Chúa Giêsu. Nhiều năm sau đó, Rosa gia nhập một hội dòng mới được thành lập, gọi là dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Ước vọng lớn nhất của Rosa Philippine Duchesne là được làm một nhà truyền giáo. Tuy nhiên, cho mãi tới 50 tuổi Rosa mới được gửi sang nước Mỹ. Lúc ấy, Mỹ quốc vẫn còn là vùng đất truyền giáo. Tại Mississipi, Rosa và một số nữ tu đã thiết lập một trường học miễn phí dành cho các trẻ con nhà nghèo. Công việc quả thật là khó vì sự khác biệt về ngôn ngữ và lối sống của nhiều người. Nhưng dù cho có nhiều trở ngại, Mẹ Duchesne vẫn không bao giờ để mất đi lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ. Lúc về già, Mẹ ít ra lệnh hơn và cư xử dịu dàng hơn.
Mẹ Duchesne là một nữ anh thư đích thực. Mẹ đã phải gần chết vì căn bệnh sốt vàng da, nhưng Mẹ đã vượt qua mọi trở ngại để mở thêm các tu viện tại miền Đất Mới. Sau đó, lúc 71 tuổi, Mẹ từ nhiệm chức vụ bề trên. Mẹ sang Kansas để thiết lập thêm một trường học ngay giữa những người dân Mỹ bản xứ yêu quý của Mẹ.
Mẹ Duchesne về trời năm 1852, hưởng thọ 83 tuổi.
Mẹ được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh năm 1988.

Đôi khi chúng ta tìm cách hoãn lại những bổn phận khó nhọc. Chúng ta hãy nài xin Mẹ Rosa Philippine Duchesne thôi thúc chúng ta biết đặt năng lực và lòng kính mến Thiên Chúa vào công việc mình làm.



(Hôm nay Giáo hội cũng cử hành thánh lễ Cung hiến đền thờ




hai thánh Phêrô và Phaolô ở Roma)





(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-12-2012, 01:45 PM
Ngày 19 tháng Mười Một




CHÂN PHƯỚC VICTORIA RASÔAMANARIVO



Victoria Rasôamanarivo là người đầu tiên của Madagasca được tôn phong chân phước.
Victoria sinh năm 1848, là công chúa của một hoàng tộc thuộc dòng Hovas. Victoria Rasôamanarivo được học hành và ngài theo tín ngưỡng thờ ngẫu thần của dòng tộc.
Sau đó, các nữ tu dòng thánh Giuse đến truyền giáo tại Madagasca, và Victoria được nhận vào trường học dành cho các nữ sinh của họ. Victoria bị ấn tượng bởi niềm tin và lối sống của các nữ tu, và ngài đã xin họ dạy cho biết đức tin Công giáo. Năm lên 15 tuổi, Victoria xin được chịu phép Thanh Tẩy. Cậu của Victoria, là người có trách nhiệm đối với ngài, đã không chấp nhận thứ tôn giáo Victoria mới theo và ông đã gắng sức làm cho ngài phải từ bỏ. Tuy nhiên, Victoria vẫn kiên định trong niềm tin của mình và thậm chí còn muốn tham gia với các nữ tu tận hiến mình cho Thiên Chúa trong bậc sống tu trì. Thế nhưng, các nữ tu lại nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu để Victoria ở lại sống đời Kitô hữu giữa thế gian và với gia đình của ngài. Họ biết chắc sẽ làm cho ông cậu đầy uy quyền của Victoria tức giận nếu chấp nhận cho Victoria đi tu.
Người ta đã xếp đặt một cuộc hôn nhân cho Victoria mà chính Victoria không bằng lòng, nhưng họ lại cho phép Victoria được mời một linh mục Công giáo tham dự nghi lễ cưới. Người chồng mà người ta chọn cho Victoria lại là một anh chàng nghiện rượu và có lối sống gây nhiều gương xấu. Ông cậu của Victoria và hoàng hậu đã cố gắng thuyết phục Victoria ly dị anh ta. Nhưng Victoria không muốn gây gương xấu cho các Kitô hữu khác. Với tư cách là công chúa, Victoria có thể, bằng đời sống của mình, dạy cho người khác cách thức tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, nhất là giới luật hôn nhân gia đình. Victoria vẫn sống với cương vị là một người vợ trung thành, cầu nguyện cho chồng và dâng những đau khổ để người chồng được ơn hoán cải. Trước lúc người chồng qua đời năm 1887, Victoria đã thuyết phục được chồng lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy.
Victoria Rasôamanarivo sống thêm 7 năm nữa và đã là một quả phụ sống đạo mẫu mực. Đời sống đức hạnh của Victoria đã khiến cho nhiều quan chức trong giai cấp thống trị cũng như những dân thường trong bộ tộc phải ngưỡng mộ và kính trọng. Qua đời sống thánh thiện, Victoria là một nhà tài trợ về niềm tin Công giáo ở Madagasca. Victoria trung thành cầu nguyện nhiều giờ mỗi ngày cũng như giúp đỡ những người nghèo khổ, những người bị cầm tù và những người phong hủi.
Victoria về trời ngày 21/08/1894, lúc được 46 tuổi.
Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Victoria Rasôamanarivo lên bậc chân phước ngày 30/04/1989, nhân chuyến viếng thăm Madagasca.

Chân phước Victoria Rasôamanarivo đã sống chân thành với đức tin Công giáo ngay cả khi phải chịu những khó khăn thử thách. Đức tin chính là nguồn an ủi và là nguồn sức mạnh của chúng ta. Nhưng chúng ta có sẵn sàng tiếp nhận những thách đố xảy đến để minh chứng đức tin của mình không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
09-12-2012, 01:47 PM
Ngày 20 tháng Mười Một




THÁNH EDMUND



Thánh Edmund là một vị quân vương người Anh sống vào thế kỷ thứ IX.
Thánh nhân lên ngôi vua khi chỉ mới 14 tuổi. Tuy vậy, địa vị cao cả đã không làm cho Edmund tự hào hay tự phụ gì! Thay vào đó, Edmund luôn bắt chước tấm gương của thánh vương David. Thực ra, Edmund thậm chí đã học thuộc lòng các bài thánh vịnh của vua David. Các thánh vịnh được viết trong Kinh Thánh là những bài ca trác tuyệt dùng để chúc tụng Thiên Chúa.
Vua Edmund cai trị đất nước cách rất khôn ngoan, biểu lộ tấm lòng nhân hậu qua tất cả những công việc ngài làm. Khi quân man-di Đan Mạch xâm chiếm vương quốc của Edmund, thánh nhân đã chống lại họ cách anh dũng. Đội quân của kẻ thù mạnh hơn rất nhiều lần so với đội quân của Edmund. Và rồi vua Anh bị bắt giữ. Lãnh đạo quân man-di hứa sẽ tha chết cho Edmund nếu Edmund đồng ý chấp thuận một số điều luật của ông ấy. Tuy nhiên, vì những điều luật này đi ngược lại với quốc gia và tôn giáo của Edmund nên nhà vua đã từ chối. Edmund tuyên bố sẽ không cứu lấy thân mình nếu xúc phạm đến Thiên Chúa và thần dân. Tức giận, lãnh đạo quân man-di đã ra án tử cho Edmund.
Thánh Edmund bị trói vào một gốc cây và bị đánh đòn cách tàn bạo. Thánh vương đã nhẫn nại chịu đựng mọi sự, miệng kêu tên cực trọng Giêsu để xin Người ban thêm sức mạnh. Tiếp đến, những kẻ hành hạ thánh nhân đã bắn các mũi tên vào khắp các phần thân thể ngài. Họ đã cẩn thận không bắn trúng các cơ phận trọng yếu của Edmund để cho thánh nhân phải đau khổ lâu hơn. Sau cùng, thánh Edmund bị trảm quyết. Ngài qua đời năm 870.
Việc tôn kính thánh vương Edmund như vị thánh tử đạo rất phổ biến tại Anh quốc. Nhiều thánh đường đã được xây cất để tôn kính ngài.

Chúng ta hãy cầu nguyện xin thánh Edmund ban cho chúng ta lòng trung thành với Thiên Chúa và với Tổ quốc. Chúng ta cũng có thể bắt chước gương sáng của thánh Edmund bằng cách năng đọc, cầu nguyện và suy ngẫm các thánh vịnh trong Kinh Thánh.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-12-2012, 06:33 AM
Ngày 21 tháng Mười Một


Lễ ĐỨC MẸ Dâng Mình



Tin Mừng không thuật lại điều gì về thời thơ ấu của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng Thánh Truyền đã cho chúng ta biết rằng Đức Mẹ là người con duy nhất của hai thánh Gioakim và Anna, (lễ kính các ngài ngày 26/07).
Khi còn rất nhỏ, Đức Maria đã được song thân yêu quý đưa lên đền thánh Giêrusalem và tiến dâng cho Thiên Chúa. Từ đây cả cuộc đời Đức Mẹ thuộc trọn về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria làm Thánh Mẫu của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Người. Trinh Nữ Maria rất sung sướng được phục vụ Thiên Chúa trong đền thờ. Phần thánh Gioakim và thánh Anna, các ngài rất hài lòng hiến dâng người con bé nhỏ thánh thiện của mình cho Thiên Chúa. Các ngài biết rằng Thiên Chúa đã gởi người con quý yêu này đến cho mình.
Trong đền thánh Giêrusalem, vị thượng tế đã tiếp nhận trẻ Maria. Mẹ được đặt sống chung với các trẻ nữ, các trẻ này cũng dâng mình để cầu nguyện và phục vụ đền thánh Giêrusalem. Trong khi Mẹ Maria được giáo dục tại đền thánh, Mẹ đã đặc biệt nêu gương sáng cho các trẻ đồng môn về hai nhân đức vui tươi và hiền hậu.
Thánh Gioakim và thánh Anna trở về nhà. Các ngài cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa vì người con thật tốt phúc. Và Đức Maria ở lại trong đền thánh Giêrusalem, nơi Mẹ lớn lên trong sự thánh thiện. Mẹ đã dùng những ngày tháng quý báu này để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và phục vụ các tư tế trong đền thờ. Mẹ cũng thêu may các lễ phục xinh đẹp. mẹ cố gắng thực hiện thật tốt từng nhiệm vụ của Mẹ để làm hài lòng Thiên Chúa. Mẹ lớn lên trong ân sủng và đã đem lại vinh quang lớn lao cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã sống trọn cuộc đời phục vụ Thiên Chúa. Mẹ luôn ý thức được sự hiện diện thần linh của Người. Mỗi ngày, chúng ta hãy nài xin Mẹ Maria, người Mẹ yêu quý của mỗi người chúng ta, dạy chúng ta cách sống thân mật hơn với Chúa Giêsu, Con Mẹ.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”


của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
10-12-2012, 06:35 AM
Ngày 23 tháng Mười Một




CHÂN PHƯỚC MIGUEL AUGUSTINO PRO



Chân phước Miguel Augustino Pro sinh năm 1891 tại Guadalup, Mexico. Ngài là vị tử đạo của thế kỷ thứ XX.
Cuộc bách hại Giáo hội của chính phủ Mexico bắt đầu vào năm 1910. Miguel gia nhập tập viện dòng Tên năm 1911. Lúc ấy, Miguel được 21 tuổi, rất can đảm, rất quảng đại và rất năng động. Vào năm 1914, cuộc cách mạng bắt đầu dâng cao. Các tập viện của dòng Tên đều bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ của Mexico. Và các tập sinh được gửi qua các chủng viện ngoại quốc để được đào tạo. Miguel Augustino Pro hoàn thành chương trình học làm linh mục ở Bỉ, và ngài được thụ phong năm 1926.
Sức khỏe của vị linh mục trẻ này rất yếu kém, nhất là Pro thường xuyên bị đau dạ dày. Cuộc trở về Mexico một mặt là niềm vui đối với cha Pro, nhưng mặt khác lại là nỗi buồn. Ngài thấy cảnh dân chúng bị chính quyền áp bức mà lẽ ra họ phải được phục vụ. Cha Pro nhận thấy ngài có thể đem đến cho họ niềm an ủi tinh thần. Ngài có thể mang lại cho họ ơn tha thứ của Thiên Chúa qua Bí tích Hòa Giải. Ngài có thể đem lại cho họ sức mạnh nhờ Thánh Thể Chúa Giêsu. Và, như tất cả các linh mục ở Mexico lúc ấy, cha Pro cũng bị cảnh sát mật truy bắt. Vì thế, cha phải tự ngụy trang. Lúc thì cha ở nhà này, khi thì cha ở nhà kia. Cha Pro luôn luôn ở trong tình trạng suýt bị bắt. Rồi cha lại thoát khỏi sự săn lùng của họ!
Cha Pro thi hành công việc mục vụ của mình cách anh dũng cho tới ngày 23/11/1927, cha bị bắt và không được đem ra xét xử, bị lên án vì là linh mục Công giáo. Khi đối diện với đội xử bắn, cha Pro đã giang tay ra cho tới lúc toàn thân của ngài là một cây thánh giá sống động. Sau đó, cha kêu lên một tiếng lớn :
“Viva Cristo Rey!” (Vạn tuế Vua Kitô!)
Tổng thống Calles đã ra lệnh cấm người ta tổ chức đám tang công khai. Ông đe dọa sẽ trừng phạt bất cứ ai tới tham dự. Tuy vậy, dân chúng đã tràn ra ngập các ngả đường nơi thi hài của vị linh mục bị giết chết được rước qua. Họ đứng yên và thinh lặng cầu nguyện, cảm tạ Thiên Chúa về đời sống và gương chứng nhân của cha Miguel Pro.
Cha Miguel Augustino Pro được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 25/09/1988.

Chân phước Miguel Augustino Pro đã sống vào thời các tín hữu bị bách hại ở Mexico, và lúc ấy cha đã chọn sống theo ơn gọi tu trì. Chúng ta hãy nài xin chân phước Miguel Augustino Pro ban cho chúng ta ơn yêu mến đức tin Công giáo cách tha thiết như ngài.



(Hôm nay Giáo hội cũng cử hành thánh lễ tôn kính hai thánh Clémenté I và Columban)





(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-12-2012, 08:46 AM
Ngày 25 tháng Mười Một




THÁNH CATARINA ALEXANDRIA




(Bổn mạng các triết gia Công giáo)


Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo hội sơ khai. Ngài là con gái của một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alexandria, Ai Cập.
Thánh nữ là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina Alexandria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn giáo. Một ngày kia, thánh nữ Catarina Alexandria bắt đầu đọc các sách viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alexandria trở thành Kitô hữu.
Thánh nữ Catarina Alexandria được 18 tuổi khi hoàng đế Masentio bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Masentio không thể lý giải được các vấn nạn của Catarina, và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý. Hết sức tức giận, Masentio đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho thánh nữ chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina nhất mực từ chối, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào ngục.
Đang lúc Masentio cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của Catarina Alexandria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Masentio lên án tử.
Bản thân Catarina thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina Alexandria bị trảm quyết.
Thánh nữ được tôn tặng danh hiệu là thánh bổn mạng của các triết gia Công giáo.

Thánh nữ Catarina Alexandria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Catarina Alexandria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-12-2012, 08:48 AM
Ngày 26 tháng Mười Một




CHÂN PHƯỚC GIACOBE ALBERION



Chân phước Giacobe Alberion sinh ngày 04/04/1884 tại miền Bắc nước Ý.
Ngài là con thứ năm trong gia đình làm nghề nông vất vả. Giacobe lớn lên trong bầu khí Kitô giáo đạo hạnh, nơi đức tin không những được dạy mà còn được sống một cách cụ thể.
Một ngày kia tại trường học, lúc Giacobe lên 6, cô giáo của Giacobe đã hỏi các học sinh của mình rằng muốn làm gì khi trưởng thành. Và tới lượt Giacobe Alberion, sau khi suy nghĩ một lát, ngài tuyên bố :
“Thưa cô, em sẽ làm một linh mục!”
Lên 16 tuổi, Giacobe Alberion gia nhập chủng viện Alba. Giacobe đi tới đó với thân phụ ngài trên một chiếc xe bò. Có vài chủng sinh đã cười nhạo và nói :
“Ê, cậu ấy tới đây học với bò kìa!”
Nhưng Giacobe Alberion, với trí thông minh lanh lẹ và vui đùa, đã trả lời với họ rằng :
“Ồ, miễn sao con bò không gặm sách vở của tôi là được!”
Trong đêm 31/12/1900, một đêm chia tay với thế kỷ XIX để bước sang thế kỷ XX, Giacobe Alberion đã nhận được một ơn gọi rõ rệt. Sau thánh lễ nửa đêm, các chủng sinh được tự do lưu lại trong nhà thờ bao lâu tùy thích. Mình Thánh Chúa được đặt cách trọng thể. Và Giacobe Alberion đã ở lại cầu nguyện suốt 4 giờ đồng hồ. Trong thời gian ấy, Giacobe nhận được một ánh sáng đặc biệt nơi Bí tích Thánh Thể. Giacobe Alberion nghe thấy Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy đến với Chúa và tất cả mọi người trong thế kỷ mới này đều đến với Chúa Giêsu.
Rồi Giacobe Alberion được thụ phong linh mục ngày 29/06/1907 và ngài đã dành trọn con tim cho sứ vụ linh mục. Giacobe là cha linh hướng của chủng viện Alba. Ngài là giáo sư dạy môn sử học và là một giảng viên giáo lý. Năm 1913, Giacobe Alberion cũng được mời làm giám đốc nhà xuất bản tờ tuần báo của giáo phận. Trong khi thực hiện tất cả những công việc này, Giacobe cầu nguyện và chờ đợi Thiên Chúa sẽ dẫn dắt ngài trong sứ vụ đặc biệt phục vụ Giáo hội. Giacobe Alberion nhận thấy rằng ngài đang được mời gọi để thiết lập một cộng đoàn tu trì với sứ mạng rao truyền Lời Chúa bằng việc sử dụng các công nghệ hiện đại, nhất là qua việc xuất bản.
Giấc mơ của cha Giacobe Alberion lúc đầu nhỏ bé như hạt cải, chỉ với sự giúp đỡ của vài cậu nhỏ đang học cách in ấn trong căn nhà thuê mướn. Nhưng thời gian cũng như lòng tin và lời cầu nguyện đã làm cho hạt giống này trở nên một cây to. Các linh mục và tu sĩ cũng như các nữ tu dòng thánh Phaolô không ngừng phát triển về nhân sự, trong nước cũng như ngoài nước. Họ dùng những kỹ thuật hiện đại để đem Tin Mừng đến cho lớp người hiện đại như việc xuất bản, các chương trình truyền thanh, truyền hình… Và khi công nghệ mới được phát minh, họ liền sử dụng nó để phục vụ Chúa Kitô và Giáo hội của Người.
Khi hai hội dòng nam và nữ vừa được thành hình, cha Giacobe Alberion lại thiết lập thêm 10 cộng đoàn tu trì và nhiều tu hội đời khác nữa, tất cả làm thành đại gia đình Phaolô. Alberion trở thành cha linh hướng của hết thảy con cái mình, cả nam lẫn nữ, trao truyền cho họ niềm tín thác tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa và tận tình đối với Thánh Thể, với Lời Chúa, với Giáo hội và với sứ vụ tông đồ qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Lúc Công đồng chung Vaticano II được khai mở năm 1962, cha Giacobe Alberion là một trong số các bề trên tổng quyền được mời tới tham dự. Từ ngày 11/10/1962 đến ngày 08/12/1965, cha Giacobe Alberion đã tham dự tất cả các cuộc họp của Công đồng. Cha ngồi thinh lặng, hầu như bất động, lắng nghe và cầu nguyện. Cha đặc biệt quan tâm đến văn kiện về các phương tiện truyền thông đại chúng, được các nghị phụ Công đồng thảo luận. Đó là một sự xác nhận về công việc mà cha Giacobe Alberion và gia đình Phaolô của ngài đã thực hiện trong Giáo hội suốt 50 năm qua.
Khi cha Giacobe Alberion cao tuổi, công việc cũng như năng lực của ngài vẫn tiếp tục làm cho những người quen biết ngài phải ngạc nhiên. Ấn tượng nhất là cha phải đau khổ vì căn bệnh viêm khớp xương cấp tính hành hạ. Chỉ khi bước sang tuổi 80, người ta mới nhận thấy cha Alberion chậm dần và suy giảm nhanh chóng. Vì bị buộc phải bỏ bớt công việc, cha lại dành nhiều thời giờ và năng lực cho việc cầu nguyện, mà cha gọi là “làm việc bằng đầu gối”. Ngay cả khi không thể đọc sách được nữa, cha Alberion vẫn tiếp tục cầu nguyện bằng kinh Mân Côi.
Từ ngày 24 đến ngày 26/11/1971, cha Giacobe Alberion đã phải đau đớn vì căn bệnh cuối cùng : viêm phổi và nghẽn thận. Ngài rơi vào cơn hôn mê và không còn biết gì khi Đức Thánh cha Phaolô VI thình lình ghé thăm ngài. Đức Thánh cha đã bày tỏ niềm kính trọng và biết ơn sâu xa đến cha Giacobe Alberion và hết thảy mọi việc mà suốt cuộc đời cha đã thực hiện cho Giáo hội và cho cả thế giới.
Khoảng nửa giờ sau chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha, cha Giacobe Alberion về trời.
Cha được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước ngày 27/04/2002.

Chân phước Giacobe Alberion đã hiểu được giá trị của công nghệ tân tiến khi biết sử dụng đúng mức. Chúng ta có dùng các phương tiện truyền thông đại chúng để mở mang trí tuệ với những điều tốt đẹp và hữu ích không? Chúng ta có xa tránh những phương tiện nguy hại không?



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
11-12-2012, 08:49 AM
Ngày 29 tháng Mười Một




THÁNH PHANXICÔ ANTÔN FASANI



Vị thánh sinh năm 1681 này hồi nhỏ có biệt danh là Johnny. Ngài là con trai của một gia đình nông dân người Ý. Thân phụ Johnny qua đời lúc ngài sắp lên 10. Người chồng kế của thân mẫu Johnny đã đối xử rất tốt với ngài. Ông đã gửi Johnny đến trường học của các cha dòng thánh Phanxicô.
Khi lên 15 tuổi, Johnny xin được gia nhập hội dòng. Ngài lấy tên là thầy Phanxicô Antôn. Phanxicô Antôn học rất giỏi tất cả các môn học. Và sau đó, Phanxicô Antôn trở thành linh mục. Cha Phanxicô Antôn là một giáo sư và là một nhà giảng thuyết danh tiếng. Ngài cũng được chọn làm bề trên của hội dòng. Phanxicô Antôn đã cố gắng hết mình để yêu thương mọi anh em tu sĩ.
Cha Phanxicô Antôn Fasani quan tâm đặc biệt đến việc giúp đỡ các tù nhân. Các nhà tù lúc ấy thật kinh khủng! Cha Phanxicô Antôn đã dùng mọi cách để giúp các tù nhân đáng thương. Lòng bác ái của cha Phanxicô Antôn cũng vươn tới những người nghèo khổ. Chính cha đã khởi sự thói lệ gom góp quà bánh trong mùa Giáng sinh để biếu tặng các gia đình nghèo. Tại Lucera, thành phố mà cha Phanxicô Antôn sinh sống, người ta đã nói rằng :
“Nếu bạn muốn xem thấy thánh Phanxicô Assisi, bạn hãy xem cha Phanxicô Antôn Fasani!”
Cha Phanxicô Antôn Fasani có một lòng yêu mến Mẹ Maria rất đỗi nồng nàn. Cha muốn bày tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt trong ngày lễ Đức Mẹ Truyền Tin. Chính lúc khởi đầu tuần cửu nhật kính Đức Mẹ, cha Phanxicô Antôn Fasani đã qua đời.
Trước đó ít lâu, lúc còn mạnh khỏe, cha nói rằng cha sắp sửa được về với Chúa. Cha Phanxicô Antôn Fasani đã kể chuyện này với một linh mục bạn rất thân. Vị linh mục tốt lành này đã đáp lại bằng một giọng hứng khởi :
“Nghe đây, thưa cha, nếu cha muốn chết thì đó là việc của cha. Phần con, con chưa muốn đâu!”
Vị thánh liền trả lời :
“Chúng ta phải cùng nhau thực hiện cuộc hành trình này chứ! Con đi trước, cha đi sau!”
Và mọi sự đã xảy ra đúng như vậy! Linh mục bạn chỉ sống thêm hai tháng sau khi cha Phanxicô Antôn Fasani về lãnh nhận phần thưởng đời đời.
Cha Phanxicô Antôn Fasani qua đời năm 1742.
Ngài được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1986.

Các thánh không hề sợ chết vì các ngài đã có một niềm tin vào Nước Trời cách sống động. Thiên đàng là một nơi ở đích thực, nơi đó chúng ta sẽ được vui hưởng hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa. Chúng ta hãy nài xin thánh Phanxicô Antôn Fasani chỉ cho chúng ta biết cách làm cho mỗi ngày sống trở thành một sự chuẩn bị cho Nước Trời.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”



của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-12-2012, 09:47 AM
Ngày 01 tháng Mười Hai




THÁNH EDMUND CAMPION



Thánh Edmund Campion sống vào thế kỷ thứ XVI.
Vì có gốc Công giáo nên thánh nhân được nhận một học bổng của trường đại học thánh Gioan ở Oxford. Edmund là một sinh viên trẻ rất xuất sắc và nổi tiếng. Thực ra, Edmund Campion đã được chọn để đọc bài diễn văn chào đón nữ hoàng Elisabeth khi bà đến viếng thăm trường đại học. Nhóm sinh viên, vì bị lôi cuốn bởi bản tính vui vẻ và đa tài của Edmund Campion, đã chọn ngài làm lãnh đạo của họ. Ngay cả nữ hoàng và các vị bộ trưởng của bà cũng ngưỡng mộ chàng thanh niên hoạt bát này.
Edmund Campion lãnh chức phó tế bên Anh giáo năm 1564.
Thế nhưng, chẳng bao lâu, Edmund Campion đã có những ngờ vực về giáo thuyết của giáo phái Thệ phản này. Edmund Campion liền tới Ai Len để học thêm. Bị thuyết phục bởi tính xác thực của Giáo hội Công giáo, Edmund tưởng như đã trở lại với Công giáo. Lúc bấy giờ, xảy ra một cuộc bách hại các Kitô hữu ở Anh quốc. Edmund Campion biết rằng mình sẽ bị thất sủng với nữ hoàng và mọi cơ hội thăng tiến bản thân sẽ bị bỏ lỡ nếu trở thành Kitô hữu. Chàng thanh niên đã cầu nguyện và quyết định. Edmund phải trở thành Kitô hữu với bất cứ giá nào!
Sau khi trốn khỏi Anh quốc, Edmund Campion học làm linh mục. Và ngài gia nhập dòng Tên. Khi Đức Thánh cha quyết định sai một số tu sĩ dòng tên sang truyền giáo tại Anh quốc, cha Edmund Campion là một trong các linh mục đầu tiên đã ra đi.
Đêm hôm trước ngày cha Campion lên đường, một linh mục bạn đã viết dòng chữ này trên ngưỡng cửa của căn phòng ngài :
“Edmund Campion, thánh tử đạo!”
Cho dù nhận biết nhiều nguy hiểm đang chờ mình phía trước, vị linh mục thánh thiện này vẫn khởi hành cách vui tươi. Thực ra, chính cha Edmund đã rất tức cười vì ngài phải ngụy trang thành một thương gia buôn bán nữ trang.
Tại nước Anh, thánh Edmund Campion đã thuyết giảng rất thành công cho các Kitô hữu bí mật tới nghe ngài. Và các gián điệp của nữ hoàng thì được cài đặt khắp nơi để truy nã Edmund Campion.
Cha viết :
“Tôi không thoát khỏi bàn tay của họ lâu nữa đâu! Thỉnh thoảng tôi lại đọc hàng chữ : “Campion đã bị bắt!”
Cuối cùng, một kẻ phản bội cũng đã làm cho cha Edmund Campion bị bắt giữ. Thánh nhân bị giam trong tháp đài Luân Đôn, nơi thánh nhân được thăm bởi những quan chức trước đây đã có lần rất ái mộ ngài. Hình như cả nữ hoàng cũng đã tới thăm Edmund. Thế nhưng không một lời đe dọa hay hứa hẹn nào của họ đã làm cho Edmund Campion từ bỏ đức tin Công giáo, cũng như chẳng một hình khổ nào có thể làm cho thánh nhân bị lung lạc. Dù chịu rất nhiều đau đớn, Edmund Campion vẫn tìm cách tự bảo vệ mình và các linh mục bạn bằng một kiểu nói dí dỏm tuyệt vời không ai có thể bắt bẻ.
Tuy nhiên, các kẻ thù của Giáo hội đã lên án Edmund Campion bằng mọi cách. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, cha Edmund Campion đã tha thứ cho kẻ bắt nộp ngài. Thậm chí thánh nhân đã giúp ông cứu lấy mạng sống của ông nữa.
Thánh Edmund Campion qua đời năm 1581, lúc được 41 tuổi.
Đến năm 1970, Đức Thánh cha Phaolô VI đã tôn phong Edmund Campion làm một trong 40 vị thánh tử đạo tại Anh quốc và xứ Wales.

Thánh Edmund Campion đã nghiên cứu đức tin, đã bị thuyết phục sâu xa bởi tính chân thực của đức tin và đã anh dũng làm chứng cho đức tin ấy. Như ngài, chúng ta cũng hãy tìm hiểu đức tin của mình ngày một sâu hơn. Chúng ta hãy nài xin thánh Edmund Campion ban cho những ơn cần thiết để chúng ta cũng sống chân thực với những giá trị và niềm tin của mình.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)

augustino.nghia
12-12-2012, 09:51 AM
Ngày 02 tháng Mười Hai




THÁNH BIBIANA



Thân phụ của thánh nữ Bibiana, ông Flaviano, là một mẫu người lý tưởng của thành Roma thời Giáo hội sơ khai. Flaviano và người vợ của ông nổi tiếng là những Kitô hữu nhiệt thành.
Khi hoàng đế Juliano chối bỏ đức tin Công giáo, ông liền bắt bớ các Kitô hữu. Và khi đó, Flaviano bị bắt. Flaviano bị đóng ấn lên mặt với một thỏi sắt nung đỏ, và sau đó ông bị trục xuất ra khỏi thành phố.
Sau khi ông Flaviano qua đời, vợ ông, bà Dafrosa, một Kitô hữu ngoan đạo, cũng bị quản chế tại nhà riêng của bà. Rồi bà cũng bị lên án tử! Sống một mình với người chị gái Demetria, Bibiana cố gắng hết sức để tin vào Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Những gì Bibiana có thì đều đã bị lấy đi!
Rồi cả hai chị em cũng lần lượt bị đưa ra tòa. Chị Demetria tội nghiệp đã hoảng sợ đến nỗi suýt chết dưới chân một vị quan tòa. Phần Bibiana, thánh nữ bị trao cho một người đàn bà tội lỗi để bà ta làm cho cô bé ra xấu xa như bà. Bà ta đã dùng những lời đường mật và cả những mánh khóe tinh ranh để làm cho Bibiana phạm tội nghịch đức trinh khiết. Tuy nhiên, bà đã không thể lay chuyển được thánh nữ. Bibiana lại bị dẫn về tòa và bị đánh đòn Tuy vậy, thánh nữ Bibiana đã giữ vững đức tin và sự trinh khiết cách quả cảm hơn bao giờ hết.
Thánh nữ Bibiana bị đánh chết bằng roi chì. Một linh mục đã chôn xác thánh nữ ban đêm bên cạnh thân mẫu và người chị gái của ngài.

Đôi khi chúng ta không hiểu được lý do tại sao người tốt lại phải chịu nhiều đau khổ, còn người xấu thì dường như lại tránh được nó. Khi cảm thấy ngờ vực hoặc bực tức về chuyện này, chúng ta hãy nài xin thánh nữ Bibiana giúp đỡ. Từ trời cao, nơi Bibiana đang hoan hưởng phần thưởng dành cho lòng trung tín của mình, thánh nữ sẽ giúp chúng ta nhận biết rằng công bằng không luôn luôn tồn tại trên thế gian này, mà chỉ có được ở đời sau.



(Chép từ “Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ Mỗi Ngày”




của Susan Helen Wallace, FSP)