hongbinh
31-08-2012, 07:58 PM
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/thanh1-211x257.png (http://gxthohoang.net/images/thanh1.png)
01/9 – Thánh Giles (qua đời năm 710?)
Mặc dù nhiều điều về cuộc đời thánh Giles vẫn là bí ẩn, nhưng chúng ta có thể nói rằng ngài là một trong các vị thánh nổi danh nhất thời Trung cổ. Có thể ngài sinh vào giữa thế kỷ VII ở Đông Nam Pháp quốc. Đó là nơi ngài đã xây một tu viện nổi tiếng được nhiều khách hành hương dừng chân để tới Compostela ở Tây Ban Nha và Thánh Địa.
Tại Anh quốc, nhiều nhà thờ và bệnh viện cổ được dâng kính thánh Giles. Một trong các giáo phái của thành phố ở Bỉ đã đặt theo tên ngài. Tại Đức, thánh Giles là một trong 14 vị thánh bảo trợ, một số thánh mà người ta cầu nguyện, nhất là xin khỏi bệnh và xin sức mạnh trong giờ chết. Trong 14 vị thánh đó có thánh Christopher, thánh Barbara và thánh Blase. Trong đó, thánh Giles là vị thánh duy nhất không tử đạo. Lòng sùng kính các thánh này rất mạnh ở khắp Đức quốc, Hungary và Thụy Điển. Lòng súng kính như vậy lan rộng rất nhanh. Thánh Giles được nhận là thánh bổn mạng của người nghèo và người khuyết tật.
02/9 – Chân phước Gioan Phanxicô Burté và các bạn tử đạo (qua đời năm 1792; qua đời năm 1794)
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách mạng Pháp. Thời điểm tử đạo mỗi vị khác nhau, nhưng Giáo hội kính nớ chu ng vì họ đều hiến mạng sống vì cùng một mục đích. Hiến pháp Dân sự về Giáo sĩ (The Civil Constitution of the Clergy) năm 1791 buộc các linh mục phải thề hứa từ bỏ đức tin. Họ đều cương quyết giữ đức tin và lần lượt bị xử tử.
Lm Gioan Phanxicô Burté vào Dòng Phanxicô lúc 16 tuổi. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học cho các tu sĩ trẻ. Sau đó ngài là người giám hộ của Hội đồng Tu sĩ Paris cho đến lúc bị bắt và bị giữ trong Dòng Camêlô (Carmelites).
Lm Appolinaris Posat sinh năm 1739 tại Thụy Sĩ. Ngài vào Dòng Phanxicô và có tiếng là giảng thuyết giỏi, giải tội và dạy học các giáo sĩ. Được sai tới truyền giáo ở Đông phương, ngài đang học tiếng Đông phương ở Pháp quốc thì cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ. Không chịu thề bỏ đạo, ngài bị bắt và bị giam giữ tại Dòng Camelô.
Lm Severin Girault là tuyên úy của một nhóm nữ tu ở Paris. Ngài bị tù với một số người khác, và là người bị xử tử đầu tiên.
Ba vị này và 182 vị khác – có cả các giám mục, tu sĩ và linh mục triều – bị giết ngay tại Dòng Camêlô ở Paris vào ngày 2-9-1792. Học được phong thánh năm 1926.
Lm John Baptist Triquerie, sinh năm 1737, là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ngài là tuyên úy cho các tu viện của thánh Clara khó nghèo ở 3 thành phố trước khi bị bắt vì không chịu bỏ đức tin. Ngài và 13 linh mục triều khác bị chém ở Laval vào ngày 21-1-1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.
http://gxthohoang.net/images/thanh3.jpg
03/9 – Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng Tiến sĩ (540?-604)
Coming events cast their shadows before: Grêgôriô là Giám mục Rôma khi chưa đầy 30 tuổi. Sau 5 năm, ngài từ chức, thành lập 6 tu viện ở điền trang Sicilian và vào tu Dòng Biển Đức tại Rôma.
Ngài là một trong 7 phó tế của ĐGH, và phục vụ 6 năm ở Đông phương với tư các sứ thần Tòa thánh tại Constantinople. Ngài được chọn làm Viện phụ, rồi ngài được bầu làm giáo hoàng lúc 50 tuổi.
Ngài thẳng thắn và cương quyết, cách chức các linh mục bất xứng, cấm lấy tiền từ nhiều loại lễ, lấy tiền của Tòa thánh giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài rất quan tâm việc trở lại của Anh quốc nên đã sai 40 tu sĩ từ Dòng của ngài để đi thương thuyết. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Ngài còn nổi tiếng về Bình ca (gọi là nhạc Gregorian), loại nhạc đặc trưng của Giáo hội Công giáo. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã đi chất vấn vua Lombard.
Sách của ngài, cuốn Pastoral Care (Chăm sóc Mục vụ), viết về nhiệm vụ và phẩm chất của giám mục, được đọc nhiều trong những thế kỷ sau khi ngài qua đời. Ngài mô tả các giám mục chủ yếu là những thầy thuốc với trách nhiệm chính là rao giảng và củng cố kỷ cương. Cách giảng của ngài thức tế, không viễn vông. Ngài qua đời khi đang soạn bài giảng Phúc âm. Ngài được gọi là “cả” vì ngài được đặt ngang hàng với thánh Augustinô, Ambrôsiô và Giêrônimô, và trở thành một trong 4 vị thánh tiến sĩ chủ lực của Giáo hội Đông phương.
http://gxthohoang.net/images/thanh4.png
04/9 – Thánh Rose Viterbo (1233-1251)
Ngay từ còn rất trẻ Rose đã say mê cầu nguyện, giúp đỡ người nghèo, và sống đền tội. Bà rất nghiêm khắc với chính mình là phải hào phóng với người nghèo. Lúc 10 tuổi, bà đã vào Dòng Ba Phanxicô và sớm biết nói về tội lỗi và đau khổ của Chúa Giêsu khi ra các đường phố.
Bà sinh tại thành phố Viterbo, hồi đó có cuộc chống đối ĐGH. Khi bà ủng hộ ĐGH và phản đối hoàng đế, bà và gia đình bị trục xuất khỏi thành phố. Khi dân thành phố Viterbo ủng hộ ĐGH, bà mới được phép trở về. Lúc 15 tuổi, bà muốn lập dòng nhưng không thành công, bà lại tiếp tục cầu nguyện và đền tội ngay tại nhà, và cũng là nơi bà qua đời khi mới 28 tuổi. Bà được phong chân phước năm 1269, và được phong thánh năm 1457.
http://gxthohoang.net/images/thanh5.png
05/9 – Chân phước Têrêsa Calcutta, Nữ tu (1910-1997)
Mẹ Têrêsa Calcutta là một phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.
Ngày 19-10-2003, trong một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity) mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục.
Trong bài giảng, CP GH Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời.
Bà sinh tại Albani (nay là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên “cúng cơm” của bà là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một thời gian sống thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.
Trong những năm còn đi học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. Năm 1928, cô Agnes từ giã mẹ lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó bà lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho đời sống phục vụ. Bà được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Bà không thể không chú ý tới xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực.
Năm 1946, khi đi xe lửa tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau bà giải thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Bà kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Bà cũng nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột để phục vụ Ngài giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”.
Sau khi được phép rời Dòng Loreto, bà lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Bà học y tá vài tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây bà sống trong những khu nhà ổ chuột và mở trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật) và đi dép, bà mau chóng được người ta biết là hàng xóm của họ – nhất là những người nghèo và bệnh tật, bà biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ. Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng.
Công việc mệt nhọc, nhưng bà được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của bà, và đó là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái. Những người khác giúp đỡ bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… Năm 1952, thành phố Calcutta tặng bà một khách sạn nhỏ và cũ, bà dùng làm nhà cho những người hấp hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi, các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.
Suốt 40 năm bà làm việc không biết mệt mỏi chỉ vì người nghèo. Tình yêu của bà không biên giới. Bà đi khắp thế giới để xin tài trợ và mời người ta đến xem gương mặt của Chúa Giêsu ở những người nghèo nhất trong nhưng người nghèo. Năm 1979, bà được trao giải Nobel Hòa bình. Nhưng Thiên Chúa đã gọi bà từ giã thế gian vào ngày 5-9-1997.
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/thanh6-100x124.png (http://gxthohoang.net/images/thanh6.png)
06/9 – Chân phước Claudio Granzotto, Tu sĩ (1900-1947)
Ngài sinh tại Santa Lucia del Piave gần Venice, ngài là con út trong 9 người con và quen làm việc cực nhọc ngoài đồng. Lúc 9 tuổi, ngài mồ côi cha. 6 năm sau ngài vào quân đội Ý và phục vụ hơn 3 năm.
Ngài có khiếu về điêu khắc và được học tại Viện Nghệ Thuật Venice, và đậu hạnh nhất năm 1929. Đặc biệt ngài rất quan tâm nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio vào Dòng Phanxicô năm 1933, linh mục xứ viết: “Nhà dòng không chỉ nhận một nghệ sĩ mà còn nhận một vị thánh”. Cầu nguyện, bác ái với người nghèo và tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện cuộc sống của ngài. Ngài bị ung thư não và qua đời vào lễ Mẹ Mông Triệu. Ngài được phong chân phước năm 1994.
http://gxthohoang.net/images/thanh7.png
07/9 – Chân phước Frederick Ozanam (1813-1853)
Ngài phục vụ người nghèo ở Paris và thu hút những người khác cùng phục vụ người nghèo khắp thế giới. Qua Hội Thánh Vincent de Paul, công việc của ngài vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.
Frederick là con thứ 5 trong 14 người con của ông bà Jean và Marie Ozanam, và cũng chỉ mình ngài còn sống. Khi còn là thiếu niên, ngài bắt đầu nghi ngờ tôn giáo. Đọc sách và cầu nguyện cũng có vẻ không giúp ích cho ngài, nhưng vừa đi dạo vừa thảo luận với Lm Noirot (Đại học Lyons) giúp ngài sáng tỏ nhiều vấn đề.
Ngài thích văn chương, nhưng cha ngài là bác sĩ và muốn ngài làm luật sư. Ngài chiều theo ý cha, và năm 1831 ngài đến Paris để học luật tại ĐH Sorbonne. Khi một số giáo sư mỉa mai các giáo huấn Công giáo trong khi giảng bài, Frederick đã bảo vệ Giáo hội.
Ngài lập một câu lạc bộ gồm người Công giáo, người vô thần và lạc giáo cùng tranh luận các vấn đề của thời đó. Có lần sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô giáo trong văn minh, một thành viên câu lạc bộ nói: “Chúng ta hãy thẳng thắn. Anh làm gì ngoài việc nói để chứng tỏ đức tin?”. Do đó ngài quyết định thể hiện qua hành động. Không lâu sau cả nhóm cùng giúp đỡ người nghèo dưới sự bảo trợ của thánh Vincent de Paul. Cảm thấy đức tin Công giáo cần người có tài ăn nói để giải thích các giáo huấn, ngài thuyết phục Đức TGM Paris mời Lm Lacordaire, nhà giảng thuyết tài giỏi nhất Pháp quốc thời đó, đến giảng mùa Chay tại Nhà thờ Đức Bà. Điều này đã trở thành truyền thống tại Paris.
Sau khi có bằng cấp về luật tại ĐH Sorbonne, ngài dạy luật tại ĐH Lyons. Ngài còn có bằng cấp về văn chương. Sau khi kết hôn với Amelie Soulacroix ngày 23-6-1841, ngài trở lại Sorbonne để dạy văn chương. Ngài là một giảng viên uy tín, luôn vì lợi ích của sinh viên. Trong khi đó, Hội Thánh Vincent de Paul phát triển khắp Âu châu. Chỉ tại Paris đã có tới 25 hội.
Năm 1846, ngài cùng vợ và con gái Marie tới Ý để chữa bệnh. Họ trở về quê năm 1847. Cuộc cách mạng năm 1848 khiến nhiều người nghèo không được Hội Thánh Vincent de Paul phục vụ. Số người thất nghiệp lên tới 275.000 người. Chính phủ yêu cầu ngài và các cộng sự giám sát tài trở của chính phủ dành cho người nghèo.
Ngài thành lập báo The New Era (Tân Kỷ Nguyên), chuyên về bảo toàn công lý cho người nghèo và giới lao động. Các bạn Công giáo của ngài thường không vui với những gì ngài viết vì ngài gọi người nghèo là “linh mục của quốc gia”, ngài nói rằng người đói khát và mồ hôi của người nghèo đã làm nên sự hy sinh có thể cứu lòng nhân đạo của một dân tộc.
Năm 1852, sức khỏe yếu kém khiến ngài phải về Ý với vợ và con gái. Ngài qua đời ngày 8-9-1853. Trong bài giảng tại lễ an táng ngài, Lm Lacordaire đã diễn tả: “Ông Frederick Ozanam là một trong những người được đặc ân trực tiếp từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã kết hợp nơi ngài sự dịu dàng tới thiên tài để thắp sáng thế giới”. Vì ngài viết một cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Các Thi sĩ Dòng Phanxicô của Thế kỷ XIII” (Franciscan Poets of the Thirteenth Century) và vì sự xứng đáng của ngài dành cho mỗi người nghèo nên ngài rất gần gũi với cách suy nghĩ của thánh Phanxicô, rất xứng đáng kể ngài vào những người vĩ đại của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1997.
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/thanh8-200x292.png (http://gxthohoang.net/images/thanh8.png)
08/9 – Sinh nhật Đức Mẹ
Giáo hội mừng sinh nhật Đức Mẹ ít nhất từ thế kỷ VI. Được chọn vào tháng 9 vì Giáo hội Đông phương bắt đầu Năm Giáo hội từ tháng 9. Ngày 8-9 giúp xác định lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vào ngày 8-12 (9 tháng trước).
Kinh thánh không nói tới sinh nhật Đức Mẹ. Tuy nhiên, ngụy kinh Protoevangelium của Giacôbê khỏa lấp khoảng trống này. Tác phẩm này không có giá trị lịch sử, nhưng phản ánh sự phát triển của lòng sùng mộ của Kitô giáo. Theo cách mô tả này, bà Anna và Gioakim son sẻ và cầu xin có con. Họ nhận được lời hứa là sẽ có con làm lợi cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Câu chuyện như vậy (cũng như các truyện khác trong Kinh thánh) nhấn mạnh sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời Đức Mẹ ngay từ đầu.
Thánh Augustinô liên kết sinh nhật Đức Mẹ với việc cứu độ của Chúa Giêsu: “Mẹ là đóa hoa trong cánh đồng mà từ đó nở đóa huệ quý giá trong thung lũng. Nhờ mẹ sinh ra, bản chất thừa kế từ cha mẹ đầu tiên được biến đổi”. Lời nguyện nhập lễ nói về việc sinh ra Con của Mẹ là bình minh của công cuộc cứu độ và xin gia tăng hòa bình.
http://gxthohoang.net/images/thanh9.png
09/9 – Thánh Phêrô Claver, Linh mục (1581-1654)
Ngài là người Tây Ban Nha, vào Dòng Tên năm 1610 và truyền giáo ở thuộc địa của Tân Thế Giới. Ngài đi Cartagena (nay là Colombia) và thụ phong linh mục năm 1615.
Thời đó, việc buôn bán nô lệ đã xảy ra ở người Mỹ gần 100 năm, Cartagena là trung tâm của nạn này. 10.000 nô lệ bị đưa vào cảng mỗi năm sau khi vượt Đại tây dương từ Tây Phi trong điều kiện khắc nghiệt và dã man, ước tính có tới 1/3 số nô lệ bị chết trong khi vận chuyển. Dù nạn buôn bán nô lệ đã bị ĐGH Phaolô III lên án, và sau đó bị ĐGH Piô IX gọi là “cực kỳ côn đồ” (supreme villainy), tệ nạn này vẫn phát triển.
Tiền bối của thánh Peter Claver là Lm Alfonso de Sandoval đã dấn thân phục vụ người nô lệ suốt 40 năm trước khi thánh Claver đến tiếp tục công việc, và ngài tự nhận mình là nô lệ của người da đen mãi mãi.
Ngay khi tàu chở nô lệ cặp bến, ngài lẻn vào để giúp đỡ những người bị xử tệ. Sau khi các nô lệ phải sắp hàng như thú vật, ngài len vào giữa họ để giúp đỡ bằng thuốc men, đồ ăn, thức uống, chanh và thuốc hút. Suốt 40 năm làm như vậy, ngài đã rửa tội cho khoảng 300.000 nô lệ.
Ngoài ra, ngài còn rao giảng ở các công viên, giao sứ vụ cho các thủy thủ và thương gia để giúp các nô lệ. Sau 4 năm bị bệnh, ngài qua đời ngày 8-9-1654. Chính quyền địa phương cảm kích, ra lệnh tổ chức táng lễ trang trọng và an táng ngài ở nơi công cộng.
Ngài được phong thánh năm 1888, và ĐGH Lêô XIII tuyên bố ngài là thánh bổn mạng của các nhà truyền giáo làm việc giữa những người da đen.
http://gxthohoang.net/images/thanh10.png
10/9 – Thánh Thomas Villanova, Giám mục (1488-1555)
Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, học ĐH Alcala và là giáo sư triết học nổi tiếng tại đây.
Ngài vào Dòng Augustinô ở Salamanca, được thụ phong linh mục dù kém trí nhớ, rồi lại được bầu làm bề trên và giám tỉnh. Ngài được hoàng đế chọn làm giám mục giáo phận Granada, nhưng ngài từ chối. Khi tòa giám mục trống ngôi, ngài đành phải chấp nhận. Tiền bạc ngài được hưởng theo luật thì ngài trao hết cho bệnh viện, vì ngài giải thích: “Thiên Chúa sẽ được phục vụ tốt hơn bằng tiền cho những người nghèo ở bệnh viện”.
Ngài vẫn dùng áo dòng từ khi vào nhà tập và tự may vá quần áo. Mỗi ngày có hàng trăm người nghèo đến với ngài và được ngài cho ăn uống và tiền bạc. Những người giàu noi gương ngài sống yêu thương và bác ái hơn.
Bị phê bình vì ngài không khắt khe khi sửa lỗi người khác, ngài nói: “Hãy bảo người đó (người chê trách) hỏi xem thánh Augustinô và thánh Gioan Chrysostom có nguyền rủa và phạt vạ người có lỗi hay không”.
Khi hấp hối, ngài bảo đem hất tiền bạc của ngài cho người nghèo, còn đồ dùng của ngài đem cho thầy hiệu trưởng của ngài. Ngài trút hơi thở cuối cùng sau khi dự thánh lễ và rước lễ, khi đó ngài nói: “Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa”. Ngài được mệnh danh là “người làm việc bác ái” và là “cha của người nghèo”. Ngài được phong thánh năm 1658.
http://gxthohoang.net/images/thanh11.png
11/9 – Thánh Cyprianô, Giám mục (qua đời năm 258)
Cyprianô là người quan trọng trong việc phát triển và thực hành tư tưởng Kitô giáo, nhất là tại Bắc Phi.
Ngài học cao hiểu rộng, có tài hùng biện, gia nhập Kitô giáo khi đã trưởng thành. Ngài phân phát của cải cho người nghèo, làm mọi người ngạc nhiên bằng cách khấn sống khiết tịnh trước khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong vòng 2 năm, ngài được thụ phong linh mục và được chọn làm giám mục giáo phận Carthage (gần Tunis ngày nay), dù ngài không muốn.
Ngài than phiền rằng sự bình an của Giáo hội đã làm suy yếu tinh thần của nhiều Kitô hữu và đã khiến cho các tân tòng không có niềm tin thực sự. Khi cuộc bách hại bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng bỏ Giáo hội. Điều đó tạo ra những cuộc tranh luận lớn hồi thế kỷ III, giúp Giáo hội hiểu về bí tích Hòa giải. Novatus, một linh mục phản đối việc bầu chọn giám mục Cyprianô, đã nổi dậy khi vắng mặt ĐGM Cyprianô (ngài ẩn mặt để điều hành Giáo hội – khiến người ta phê bình ngài) và nhận lại những người bội giáo mà không bắt đền tội theo giáo luật. Cuối cùng ngài bị kết án. Ngài giải quyết dung hòa, những người đã hy sinh cho các thần tượng chỉ được rước lễ khi hấp hối, nhưng những người chỉ có giấy chứng nhận cho biết đã hy sinh thì có thể được chấp nhận sau khi đền tội.
Trong đại dịch ở Carthage, ngài thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ người khác, kể cả kẻ thù và những người bách hại. Là bạn của ĐGH Corneliô, thánh Cyprianô phản đối ĐGH kế vị là Stêphanô. Ngài và các giám mục Phi châu không nhận tính hiệu quả của Phép Rửa những người theo tà thuyết và ly giáo. Đây không là quan điểm chung của Giáo hội, nhưng thánh Cyprianô không bị ĐGH Stêphanô đe dọa dứt phép thông công.
Ngài bị hoàng đế bắt đi đày và rồi bị gọi về để xét xử. Ngài vừa tử tế vừa can đảm, nhiệt thành và kiên định. Ngài vui vẻ mà nghiêm nghị đến nỗi người ta không biết nên yêu mến hay kính trọng ngài hơn. Ngài hăng hái khi tranh luận về bí tích Thánh Tẩy. Thánh Augustinô nhận xét rằng ĐGM Cyprianô dàn xép cơn giận bằng sự tử đạo vinh quang của ngài.
http://gxthohoang.net/images/thanh12.png
12/9 – Thánh Danh Đức Mẹ
Lễ này là counterpart với lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu (3 tháng 1); cả hai lễ have the possibility of uniting people easily divided on other matters.
Lễ này bắt đầu ở Tây Ban Nha năm 1513, và năm 1671 lan ra khắp Tây Ban Nha và Vương quốc Naples. Năm 1683, vua Ba Lan là John Sobieski đem quân tới ngoại ô thành phố Vienna để ngăn chặn quân Hồi giáo trung thành với Mohammed IV ở Constantinople.
Sau khi Sobieski tin vào Đức Mẹ, ông và các binh sĩ đã chiến thắng quân Hồi giáo. ĐGH Innocent XI mở rộng lễ này tới toàn thể Giáo hội.
http://gxthohoang.net/images/thanh13.png
13/9 – Thánh Gioan Chrysostom, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 407)
Thánh Gioan Chrysostom còn được gọi là Gioan Kim khẩu hoặc Kim ngôn – nghĩa là “có tài ăn nói”, theo ý nghĩa từ Chrysostom. Ngài được đưa đến Constantinople sau 12 năm thi hành sứ vụ linh mục tại Syria, ngài thấy mình là nạn nhân đối với thủ đoạn của đế quốc khi chọn ngài làm giám mục của một thành phố lớn nhất đế quốc. Ngài sống khổ hạnh, giản dị nhưng có phẩm cách, và bị đau bao tử từ khi là tu sĩ, ngài bắt đầu sứ vụ giám mục dưới sự bảo vệ của chính trị đế quốc.
Cơ thể ngài yếu, nhưng miệng lưỡi ngài mạnh. Những bài giảng, những bài chú giải Kinh thánh của ngài không bao giờ thiếu điểm nổi bật. Đôi khi điểm nhấn đó “chạm” vào những người quyền cao chức trọng. Có những lúc ngài giảng tới 2 giờ. Cách sống của ngài không được các cận thần hoàng đế ưa thích. Ngài phàn nàn với ban ngoại giao triều đình đã ưu tiên ngài trước mặt các quan chức cao cấp.
Ngài phản đối các giám mục bất xứng ở Tiểu Á là những người tham lam, lạm dụng giáo quyền. Hai nhân vật quan trọng làm mất uy tín ngài là TGM Theophilus, TGP Alexandria, và nữ hoàng Eudoxia. TGM Theophilus kết án thánh Gioan Chrysostom là ấp ủ tà thuyết, đồng thời chọc giận các giám mục được nữ hoàng Eudoxia đỡ đầu. Nữ hoàng bực tức vì các bài giảng của ngài tương phản với Phúc âm và triều đình. Dù muốn hay không, các bài giảng của ngài nói tới Jezebel và Herodias bất kính đã cấu kết với nữ hoàng. Chính nữ hoàng đã bắt ngài đi đày, và ngài qua đời năm 407 khi đang bị lưu đày.
http://gxthohoang.net/images/thanh14.png
14/9 – Suy tôn Thánh giá
Đầu thế kỷ IV, thánh Helena, mẫu hậu của hoàng đế La Mã Constantine, đi Giêrusalem nơi Chúa Giêsu đã sinh sống. Bà phá tan Đền Aphrodite, theo truyền thuyết đền này được xây dựng ngay trên mộ Chúa Giêsu, và con trai bà xây Đền Mộ Thánh (Holy Sepulcher) trên ngôi mộ đó. Trong khi khai quật, các công nhân phát hiện 3 cây thập tự. Người ta cho rằng trong số đó có một cây thập tự đã treo Chúa Giêsu vì một phụ nữ hấp hối đã được sống nhờ chạm vào cây thập tự đó.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, Thập giá này được đưa ra đặt trên bàn cùng với bảng ghi của Philatô.
Ngày nay, Giáo hội Đông phương, Công giáo và Chính thống giáo đều cử hành lễ Suy tôn Thánh giá vào tháng 9. Lễ này thêm vào lịch Tây phương từ thế kỷ VII sau khi hoàng đế Heraclius lấy lại Thánh giá từ người Ba Tư, họ đã lấy đi từ năm 614. Theo chuyện kể, hoàng đế muốn đưa Thánh giá trở lại Giêrusalem, nhưng không thể chuyển đi được, đến khi hoàng đế cởi bỏ long bào và đi chân không mới có thể di chuyển Thánh giá.
http://gxthohoang.net/images/thanh15.png
15/9 – Đức Mẹ Sầu bi (Đức Mẹ bảy sự)
Kinh thánh nói đến những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ trong Lc 2:35 và Ga 19:26-27. Đoạn Kinh thánh theo thánh Luca là lời tiên tri của ông Simeon về một lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ Maria, còn đoạn Kinh thánh theo thánh Gioan liên quan lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ và với người môn đệ được Chúa yêu.
Nhiều tác giả của Giáo hội thời sơ khai hiểu lưỡi gươm là những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ, nhất là khi Đức Mẹ chứng kiến Chúa Giêsu chết trên Thập giá. Như vậy, cả 2 đoạn Kinh thánh đều chuyển tải lời tiên báo và sự hoàn tất.
Thánh Ambrôsiô coi Đức Mẹ là nỗi sầu khổ nhưng là người mạnh mẽ khi đứng bên Thánh giá. Đức Mẹ đứng bên Thánh giá mà không hề sợ sệt, trong khi những người khác chạy trốn. Đức Mẹ nhìn những vết thương của Con với lòng yêu thương, nhưng Đức Mẹ thấy trong các vết thương đó có Ơn Cứu Độ dành cho thế giới. Khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, Đức Mẹ không sợ bị sát hại mà dám hiến mình cho những kẻ hành hạ mình. Đức Mẹ là một phụ nữ quá đỗi quả cảm!
http://gxthohoang.net/index.php/giup-nhau-song-dao/item/725-h%E1%BA%A1nh-c%C3%A1c-th%C3%A1nh-%E2%80%93-th%C3%A1ng-9
01/9 – Thánh Giles (qua đời năm 710?)
Mặc dù nhiều điều về cuộc đời thánh Giles vẫn là bí ẩn, nhưng chúng ta có thể nói rằng ngài là một trong các vị thánh nổi danh nhất thời Trung cổ. Có thể ngài sinh vào giữa thế kỷ VII ở Đông Nam Pháp quốc. Đó là nơi ngài đã xây một tu viện nổi tiếng được nhiều khách hành hương dừng chân để tới Compostela ở Tây Ban Nha và Thánh Địa.
Tại Anh quốc, nhiều nhà thờ và bệnh viện cổ được dâng kính thánh Giles. Một trong các giáo phái của thành phố ở Bỉ đã đặt theo tên ngài. Tại Đức, thánh Giles là một trong 14 vị thánh bảo trợ, một số thánh mà người ta cầu nguyện, nhất là xin khỏi bệnh và xin sức mạnh trong giờ chết. Trong 14 vị thánh đó có thánh Christopher, thánh Barbara và thánh Blase. Trong đó, thánh Giles là vị thánh duy nhất không tử đạo. Lòng sùng kính các thánh này rất mạnh ở khắp Đức quốc, Hungary và Thụy Điển. Lòng súng kính như vậy lan rộng rất nhanh. Thánh Giles được nhận là thánh bổn mạng của người nghèo và người khuyết tật.
02/9 – Chân phước Gioan Phanxicô Burté và các bạn tử đạo (qua đời năm 1792; qua đời năm 1794)
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách mạng Pháp. Thời điểm tử đạo mỗi vị khác nhau, nhưng Giáo hội kính nớ chu ng vì họ đều hiến mạng sống vì cùng một mục đích. Hiến pháp Dân sự về Giáo sĩ (The Civil Constitution of the Clergy) năm 1791 buộc các linh mục phải thề hứa từ bỏ đức tin. Họ đều cương quyết giữ đức tin và lần lượt bị xử tử.
Lm Gioan Phanxicô Burté vào Dòng Phanxicô lúc 16 tuổi. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học cho các tu sĩ trẻ. Sau đó ngài là người giám hộ của Hội đồng Tu sĩ Paris cho đến lúc bị bắt và bị giữ trong Dòng Camêlô (Carmelites).
Lm Appolinaris Posat sinh năm 1739 tại Thụy Sĩ. Ngài vào Dòng Phanxicô và có tiếng là giảng thuyết giỏi, giải tội và dạy học các giáo sĩ. Được sai tới truyền giáo ở Đông phương, ngài đang học tiếng Đông phương ở Pháp quốc thì cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ. Không chịu thề bỏ đạo, ngài bị bắt và bị giam giữ tại Dòng Camelô.
Lm Severin Girault là tuyên úy của một nhóm nữ tu ở Paris. Ngài bị tù với một số người khác, và là người bị xử tử đầu tiên.
Ba vị này và 182 vị khác – có cả các giám mục, tu sĩ và linh mục triều – bị giết ngay tại Dòng Camêlô ở Paris vào ngày 2-9-1792. Học được phong thánh năm 1926.
Lm John Baptist Triquerie, sinh năm 1737, là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ngài là tuyên úy cho các tu viện của thánh Clara khó nghèo ở 3 thành phố trước khi bị bắt vì không chịu bỏ đức tin. Ngài và 13 linh mục triều khác bị chém ở Laval vào ngày 21-1-1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.
http://gxthohoang.net/images/thanh3.jpg
03/9 – Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng Tiến sĩ (540?-604)
Coming events cast their shadows before: Grêgôriô là Giám mục Rôma khi chưa đầy 30 tuổi. Sau 5 năm, ngài từ chức, thành lập 6 tu viện ở điền trang Sicilian và vào tu Dòng Biển Đức tại Rôma.
Ngài là một trong 7 phó tế của ĐGH, và phục vụ 6 năm ở Đông phương với tư các sứ thần Tòa thánh tại Constantinople. Ngài được chọn làm Viện phụ, rồi ngài được bầu làm giáo hoàng lúc 50 tuổi.
Ngài thẳng thắn và cương quyết, cách chức các linh mục bất xứng, cấm lấy tiền từ nhiều loại lễ, lấy tiền của Tòa thánh giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài rất quan tâm việc trở lại của Anh quốc nên đã sai 40 tu sĩ từ Dòng của ngài để đi thương thuyết. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Ngài còn nổi tiếng về Bình ca (gọi là nhạc Gregorian), loại nhạc đặc trưng của Giáo hội Công giáo. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã đi chất vấn vua Lombard.
Sách của ngài, cuốn Pastoral Care (Chăm sóc Mục vụ), viết về nhiệm vụ và phẩm chất của giám mục, được đọc nhiều trong những thế kỷ sau khi ngài qua đời. Ngài mô tả các giám mục chủ yếu là những thầy thuốc với trách nhiệm chính là rao giảng và củng cố kỷ cương. Cách giảng của ngài thức tế, không viễn vông. Ngài qua đời khi đang soạn bài giảng Phúc âm. Ngài được gọi là “cả” vì ngài được đặt ngang hàng với thánh Augustinô, Ambrôsiô và Giêrônimô, và trở thành một trong 4 vị thánh tiến sĩ chủ lực của Giáo hội Đông phương.
http://gxthohoang.net/images/thanh4.png
04/9 – Thánh Rose Viterbo (1233-1251)
Ngay từ còn rất trẻ Rose đã say mê cầu nguyện, giúp đỡ người nghèo, và sống đền tội. Bà rất nghiêm khắc với chính mình là phải hào phóng với người nghèo. Lúc 10 tuổi, bà đã vào Dòng Ba Phanxicô và sớm biết nói về tội lỗi và đau khổ của Chúa Giêsu khi ra các đường phố.
Bà sinh tại thành phố Viterbo, hồi đó có cuộc chống đối ĐGH. Khi bà ủng hộ ĐGH và phản đối hoàng đế, bà và gia đình bị trục xuất khỏi thành phố. Khi dân thành phố Viterbo ủng hộ ĐGH, bà mới được phép trở về. Lúc 15 tuổi, bà muốn lập dòng nhưng không thành công, bà lại tiếp tục cầu nguyện và đền tội ngay tại nhà, và cũng là nơi bà qua đời khi mới 28 tuổi. Bà được phong chân phước năm 1269, và được phong thánh năm 1457.
http://gxthohoang.net/images/thanh5.png
05/9 – Chân phước Têrêsa Calcutta, Nữ tu (1910-1997)
Mẹ Têrêsa Calcutta là một phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.
Ngày 19-10-2003, trong một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity) mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục.
Trong bài giảng, CP GH Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời.
Bà sinh tại Albani (nay là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên “cúng cơm” của bà là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một thời gian sống thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.
Trong những năm còn đi học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. Năm 1928, cô Agnes từ giã mẹ lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó bà lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho đời sống phục vụ. Bà được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Bà không thể không chú ý tới xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực.
Năm 1946, khi đi xe lửa tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau bà giải thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Bà kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Bà cũng nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột để phục vụ Ngài giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”.
Sau khi được phép rời Dòng Loreto, bà lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Bà học y tá vài tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây bà sống trong những khu nhà ổ chuột và mở trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật) và đi dép, bà mau chóng được người ta biết là hàng xóm của họ – nhất là những người nghèo và bệnh tật, bà biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ. Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng.
Công việc mệt nhọc, nhưng bà được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của bà, và đó là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái. Những người khác giúp đỡ bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… Năm 1952, thành phố Calcutta tặng bà một khách sạn nhỏ và cũ, bà dùng làm nhà cho những người hấp hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi, các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.
Suốt 40 năm bà làm việc không biết mệt mỏi chỉ vì người nghèo. Tình yêu của bà không biên giới. Bà đi khắp thế giới để xin tài trợ và mời người ta đến xem gương mặt của Chúa Giêsu ở những người nghèo nhất trong nhưng người nghèo. Năm 1979, bà được trao giải Nobel Hòa bình. Nhưng Thiên Chúa đã gọi bà từ giã thế gian vào ngày 5-9-1997.
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/thanh6-100x124.png (http://gxthohoang.net/images/thanh6.png)
06/9 – Chân phước Claudio Granzotto, Tu sĩ (1900-1947)
Ngài sinh tại Santa Lucia del Piave gần Venice, ngài là con út trong 9 người con và quen làm việc cực nhọc ngoài đồng. Lúc 9 tuổi, ngài mồ côi cha. 6 năm sau ngài vào quân đội Ý và phục vụ hơn 3 năm.
Ngài có khiếu về điêu khắc và được học tại Viện Nghệ Thuật Venice, và đậu hạnh nhất năm 1929. Đặc biệt ngài rất quan tâm nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio vào Dòng Phanxicô năm 1933, linh mục xứ viết: “Nhà dòng không chỉ nhận một nghệ sĩ mà còn nhận một vị thánh”. Cầu nguyện, bác ái với người nghèo và tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện cuộc sống của ngài. Ngài bị ung thư não và qua đời vào lễ Mẹ Mông Triệu. Ngài được phong chân phước năm 1994.
http://gxthohoang.net/images/thanh7.png
07/9 – Chân phước Frederick Ozanam (1813-1853)
Ngài phục vụ người nghèo ở Paris và thu hút những người khác cùng phục vụ người nghèo khắp thế giới. Qua Hội Thánh Vincent de Paul, công việc của ngài vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.
Frederick là con thứ 5 trong 14 người con của ông bà Jean và Marie Ozanam, và cũng chỉ mình ngài còn sống. Khi còn là thiếu niên, ngài bắt đầu nghi ngờ tôn giáo. Đọc sách và cầu nguyện cũng có vẻ không giúp ích cho ngài, nhưng vừa đi dạo vừa thảo luận với Lm Noirot (Đại học Lyons) giúp ngài sáng tỏ nhiều vấn đề.
Ngài thích văn chương, nhưng cha ngài là bác sĩ và muốn ngài làm luật sư. Ngài chiều theo ý cha, và năm 1831 ngài đến Paris để học luật tại ĐH Sorbonne. Khi một số giáo sư mỉa mai các giáo huấn Công giáo trong khi giảng bài, Frederick đã bảo vệ Giáo hội.
Ngài lập một câu lạc bộ gồm người Công giáo, người vô thần và lạc giáo cùng tranh luận các vấn đề của thời đó. Có lần sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô giáo trong văn minh, một thành viên câu lạc bộ nói: “Chúng ta hãy thẳng thắn. Anh làm gì ngoài việc nói để chứng tỏ đức tin?”. Do đó ngài quyết định thể hiện qua hành động. Không lâu sau cả nhóm cùng giúp đỡ người nghèo dưới sự bảo trợ của thánh Vincent de Paul. Cảm thấy đức tin Công giáo cần người có tài ăn nói để giải thích các giáo huấn, ngài thuyết phục Đức TGM Paris mời Lm Lacordaire, nhà giảng thuyết tài giỏi nhất Pháp quốc thời đó, đến giảng mùa Chay tại Nhà thờ Đức Bà. Điều này đã trở thành truyền thống tại Paris.
Sau khi có bằng cấp về luật tại ĐH Sorbonne, ngài dạy luật tại ĐH Lyons. Ngài còn có bằng cấp về văn chương. Sau khi kết hôn với Amelie Soulacroix ngày 23-6-1841, ngài trở lại Sorbonne để dạy văn chương. Ngài là một giảng viên uy tín, luôn vì lợi ích của sinh viên. Trong khi đó, Hội Thánh Vincent de Paul phát triển khắp Âu châu. Chỉ tại Paris đã có tới 25 hội.
Năm 1846, ngài cùng vợ và con gái Marie tới Ý để chữa bệnh. Họ trở về quê năm 1847. Cuộc cách mạng năm 1848 khiến nhiều người nghèo không được Hội Thánh Vincent de Paul phục vụ. Số người thất nghiệp lên tới 275.000 người. Chính phủ yêu cầu ngài và các cộng sự giám sát tài trở của chính phủ dành cho người nghèo.
Ngài thành lập báo The New Era (Tân Kỷ Nguyên), chuyên về bảo toàn công lý cho người nghèo và giới lao động. Các bạn Công giáo của ngài thường không vui với những gì ngài viết vì ngài gọi người nghèo là “linh mục của quốc gia”, ngài nói rằng người đói khát và mồ hôi của người nghèo đã làm nên sự hy sinh có thể cứu lòng nhân đạo của một dân tộc.
Năm 1852, sức khỏe yếu kém khiến ngài phải về Ý với vợ và con gái. Ngài qua đời ngày 8-9-1853. Trong bài giảng tại lễ an táng ngài, Lm Lacordaire đã diễn tả: “Ông Frederick Ozanam là một trong những người được đặc ân trực tiếp từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã kết hợp nơi ngài sự dịu dàng tới thiên tài để thắp sáng thế giới”. Vì ngài viết một cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Các Thi sĩ Dòng Phanxicô của Thế kỷ XIII” (Franciscan Poets of the Thirteenth Century) và vì sự xứng đáng của ngài dành cho mỗi người nghèo nên ngài rất gần gũi với cách suy nghĩ của thánh Phanxicô, rất xứng đáng kể ngài vào những người vĩ đại của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1997.
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/thanh8-200x292.png (http://gxthohoang.net/images/thanh8.png)
08/9 – Sinh nhật Đức Mẹ
Giáo hội mừng sinh nhật Đức Mẹ ít nhất từ thế kỷ VI. Được chọn vào tháng 9 vì Giáo hội Đông phương bắt đầu Năm Giáo hội từ tháng 9. Ngày 8-9 giúp xác định lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vào ngày 8-12 (9 tháng trước).
Kinh thánh không nói tới sinh nhật Đức Mẹ. Tuy nhiên, ngụy kinh Protoevangelium của Giacôbê khỏa lấp khoảng trống này. Tác phẩm này không có giá trị lịch sử, nhưng phản ánh sự phát triển của lòng sùng mộ của Kitô giáo. Theo cách mô tả này, bà Anna và Gioakim son sẻ và cầu xin có con. Họ nhận được lời hứa là sẽ có con làm lợi cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Câu chuyện như vậy (cũng như các truyện khác trong Kinh thánh) nhấn mạnh sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời Đức Mẹ ngay từ đầu.
Thánh Augustinô liên kết sinh nhật Đức Mẹ với việc cứu độ của Chúa Giêsu: “Mẹ là đóa hoa trong cánh đồng mà từ đó nở đóa huệ quý giá trong thung lũng. Nhờ mẹ sinh ra, bản chất thừa kế từ cha mẹ đầu tiên được biến đổi”. Lời nguyện nhập lễ nói về việc sinh ra Con của Mẹ là bình minh của công cuộc cứu độ và xin gia tăng hòa bình.
http://gxthohoang.net/images/thanh9.png
09/9 – Thánh Phêrô Claver, Linh mục (1581-1654)
Ngài là người Tây Ban Nha, vào Dòng Tên năm 1610 và truyền giáo ở thuộc địa của Tân Thế Giới. Ngài đi Cartagena (nay là Colombia) và thụ phong linh mục năm 1615.
Thời đó, việc buôn bán nô lệ đã xảy ra ở người Mỹ gần 100 năm, Cartagena là trung tâm của nạn này. 10.000 nô lệ bị đưa vào cảng mỗi năm sau khi vượt Đại tây dương từ Tây Phi trong điều kiện khắc nghiệt và dã man, ước tính có tới 1/3 số nô lệ bị chết trong khi vận chuyển. Dù nạn buôn bán nô lệ đã bị ĐGH Phaolô III lên án, và sau đó bị ĐGH Piô IX gọi là “cực kỳ côn đồ” (supreme villainy), tệ nạn này vẫn phát triển.
Tiền bối của thánh Peter Claver là Lm Alfonso de Sandoval đã dấn thân phục vụ người nô lệ suốt 40 năm trước khi thánh Claver đến tiếp tục công việc, và ngài tự nhận mình là nô lệ của người da đen mãi mãi.
Ngay khi tàu chở nô lệ cặp bến, ngài lẻn vào để giúp đỡ những người bị xử tệ. Sau khi các nô lệ phải sắp hàng như thú vật, ngài len vào giữa họ để giúp đỡ bằng thuốc men, đồ ăn, thức uống, chanh và thuốc hút. Suốt 40 năm làm như vậy, ngài đã rửa tội cho khoảng 300.000 nô lệ.
Ngoài ra, ngài còn rao giảng ở các công viên, giao sứ vụ cho các thủy thủ và thương gia để giúp các nô lệ. Sau 4 năm bị bệnh, ngài qua đời ngày 8-9-1654. Chính quyền địa phương cảm kích, ra lệnh tổ chức táng lễ trang trọng và an táng ngài ở nơi công cộng.
Ngài được phong thánh năm 1888, và ĐGH Lêô XIII tuyên bố ngài là thánh bổn mạng của các nhà truyền giáo làm việc giữa những người da đen.
http://gxthohoang.net/images/thanh10.png
10/9 – Thánh Thomas Villanova, Giám mục (1488-1555)
Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, học ĐH Alcala và là giáo sư triết học nổi tiếng tại đây.
Ngài vào Dòng Augustinô ở Salamanca, được thụ phong linh mục dù kém trí nhớ, rồi lại được bầu làm bề trên và giám tỉnh. Ngài được hoàng đế chọn làm giám mục giáo phận Granada, nhưng ngài từ chối. Khi tòa giám mục trống ngôi, ngài đành phải chấp nhận. Tiền bạc ngài được hưởng theo luật thì ngài trao hết cho bệnh viện, vì ngài giải thích: “Thiên Chúa sẽ được phục vụ tốt hơn bằng tiền cho những người nghèo ở bệnh viện”.
Ngài vẫn dùng áo dòng từ khi vào nhà tập và tự may vá quần áo. Mỗi ngày có hàng trăm người nghèo đến với ngài và được ngài cho ăn uống và tiền bạc. Những người giàu noi gương ngài sống yêu thương và bác ái hơn.
Bị phê bình vì ngài không khắt khe khi sửa lỗi người khác, ngài nói: “Hãy bảo người đó (người chê trách) hỏi xem thánh Augustinô và thánh Gioan Chrysostom có nguyền rủa và phạt vạ người có lỗi hay không”.
Khi hấp hối, ngài bảo đem hất tiền bạc của ngài cho người nghèo, còn đồ dùng của ngài đem cho thầy hiệu trưởng của ngài. Ngài trút hơi thở cuối cùng sau khi dự thánh lễ và rước lễ, khi đó ngài nói: “Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa”. Ngài được mệnh danh là “người làm việc bác ái” và là “cha của người nghèo”. Ngài được phong thánh năm 1658.
http://gxthohoang.net/images/thanh11.png
11/9 – Thánh Cyprianô, Giám mục (qua đời năm 258)
Cyprianô là người quan trọng trong việc phát triển và thực hành tư tưởng Kitô giáo, nhất là tại Bắc Phi.
Ngài học cao hiểu rộng, có tài hùng biện, gia nhập Kitô giáo khi đã trưởng thành. Ngài phân phát của cải cho người nghèo, làm mọi người ngạc nhiên bằng cách khấn sống khiết tịnh trước khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong vòng 2 năm, ngài được thụ phong linh mục và được chọn làm giám mục giáo phận Carthage (gần Tunis ngày nay), dù ngài không muốn.
Ngài than phiền rằng sự bình an của Giáo hội đã làm suy yếu tinh thần của nhiều Kitô hữu và đã khiến cho các tân tòng không có niềm tin thực sự. Khi cuộc bách hại bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng bỏ Giáo hội. Điều đó tạo ra những cuộc tranh luận lớn hồi thế kỷ III, giúp Giáo hội hiểu về bí tích Hòa giải. Novatus, một linh mục phản đối việc bầu chọn giám mục Cyprianô, đã nổi dậy khi vắng mặt ĐGM Cyprianô (ngài ẩn mặt để điều hành Giáo hội – khiến người ta phê bình ngài) và nhận lại những người bội giáo mà không bắt đền tội theo giáo luật. Cuối cùng ngài bị kết án. Ngài giải quyết dung hòa, những người đã hy sinh cho các thần tượng chỉ được rước lễ khi hấp hối, nhưng những người chỉ có giấy chứng nhận cho biết đã hy sinh thì có thể được chấp nhận sau khi đền tội.
Trong đại dịch ở Carthage, ngài thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ người khác, kể cả kẻ thù và những người bách hại. Là bạn của ĐGH Corneliô, thánh Cyprianô phản đối ĐGH kế vị là Stêphanô. Ngài và các giám mục Phi châu không nhận tính hiệu quả của Phép Rửa những người theo tà thuyết và ly giáo. Đây không là quan điểm chung của Giáo hội, nhưng thánh Cyprianô không bị ĐGH Stêphanô đe dọa dứt phép thông công.
Ngài bị hoàng đế bắt đi đày và rồi bị gọi về để xét xử. Ngài vừa tử tế vừa can đảm, nhiệt thành và kiên định. Ngài vui vẻ mà nghiêm nghị đến nỗi người ta không biết nên yêu mến hay kính trọng ngài hơn. Ngài hăng hái khi tranh luận về bí tích Thánh Tẩy. Thánh Augustinô nhận xét rằng ĐGM Cyprianô dàn xép cơn giận bằng sự tử đạo vinh quang của ngài.
http://gxthohoang.net/images/thanh12.png
12/9 – Thánh Danh Đức Mẹ
Lễ này là counterpart với lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu (3 tháng 1); cả hai lễ have the possibility of uniting people easily divided on other matters.
Lễ này bắt đầu ở Tây Ban Nha năm 1513, và năm 1671 lan ra khắp Tây Ban Nha và Vương quốc Naples. Năm 1683, vua Ba Lan là John Sobieski đem quân tới ngoại ô thành phố Vienna để ngăn chặn quân Hồi giáo trung thành với Mohammed IV ở Constantinople.
Sau khi Sobieski tin vào Đức Mẹ, ông và các binh sĩ đã chiến thắng quân Hồi giáo. ĐGH Innocent XI mở rộng lễ này tới toàn thể Giáo hội.
http://gxthohoang.net/images/thanh13.png
13/9 – Thánh Gioan Chrysostom, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 407)
Thánh Gioan Chrysostom còn được gọi là Gioan Kim khẩu hoặc Kim ngôn – nghĩa là “có tài ăn nói”, theo ý nghĩa từ Chrysostom. Ngài được đưa đến Constantinople sau 12 năm thi hành sứ vụ linh mục tại Syria, ngài thấy mình là nạn nhân đối với thủ đoạn của đế quốc khi chọn ngài làm giám mục của một thành phố lớn nhất đế quốc. Ngài sống khổ hạnh, giản dị nhưng có phẩm cách, và bị đau bao tử từ khi là tu sĩ, ngài bắt đầu sứ vụ giám mục dưới sự bảo vệ của chính trị đế quốc.
Cơ thể ngài yếu, nhưng miệng lưỡi ngài mạnh. Những bài giảng, những bài chú giải Kinh thánh của ngài không bao giờ thiếu điểm nổi bật. Đôi khi điểm nhấn đó “chạm” vào những người quyền cao chức trọng. Có những lúc ngài giảng tới 2 giờ. Cách sống của ngài không được các cận thần hoàng đế ưa thích. Ngài phàn nàn với ban ngoại giao triều đình đã ưu tiên ngài trước mặt các quan chức cao cấp.
Ngài phản đối các giám mục bất xứng ở Tiểu Á là những người tham lam, lạm dụng giáo quyền. Hai nhân vật quan trọng làm mất uy tín ngài là TGM Theophilus, TGP Alexandria, và nữ hoàng Eudoxia. TGM Theophilus kết án thánh Gioan Chrysostom là ấp ủ tà thuyết, đồng thời chọc giận các giám mục được nữ hoàng Eudoxia đỡ đầu. Nữ hoàng bực tức vì các bài giảng của ngài tương phản với Phúc âm và triều đình. Dù muốn hay không, các bài giảng của ngài nói tới Jezebel và Herodias bất kính đã cấu kết với nữ hoàng. Chính nữ hoàng đã bắt ngài đi đày, và ngài qua đời năm 407 khi đang bị lưu đày.
http://gxthohoang.net/images/thanh14.png
14/9 – Suy tôn Thánh giá
Đầu thế kỷ IV, thánh Helena, mẫu hậu của hoàng đế La Mã Constantine, đi Giêrusalem nơi Chúa Giêsu đã sinh sống. Bà phá tan Đền Aphrodite, theo truyền thuyết đền này được xây dựng ngay trên mộ Chúa Giêsu, và con trai bà xây Đền Mộ Thánh (Holy Sepulcher) trên ngôi mộ đó. Trong khi khai quật, các công nhân phát hiện 3 cây thập tự. Người ta cho rằng trong số đó có một cây thập tự đã treo Chúa Giêsu vì một phụ nữ hấp hối đã được sống nhờ chạm vào cây thập tự đó.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, Thập giá này được đưa ra đặt trên bàn cùng với bảng ghi của Philatô.
Ngày nay, Giáo hội Đông phương, Công giáo và Chính thống giáo đều cử hành lễ Suy tôn Thánh giá vào tháng 9. Lễ này thêm vào lịch Tây phương từ thế kỷ VII sau khi hoàng đế Heraclius lấy lại Thánh giá từ người Ba Tư, họ đã lấy đi từ năm 614. Theo chuyện kể, hoàng đế muốn đưa Thánh giá trở lại Giêrusalem, nhưng không thể chuyển đi được, đến khi hoàng đế cởi bỏ long bào và đi chân không mới có thể di chuyển Thánh giá.
http://gxthohoang.net/images/thanh15.png
15/9 – Đức Mẹ Sầu bi (Đức Mẹ bảy sự)
Kinh thánh nói đến những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ trong Lc 2:35 và Ga 19:26-27. Đoạn Kinh thánh theo thánh Luca là lời tiên tri của ông Simeon về một lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ Maria, còn đoạn Kinh thánh theo thánh Gioan liên quan lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ và với người môn đệ được Chúa yêu.
Nhiều tác giả của Giáo hội thời sơ khai hiểu lưỡi gươm là những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ, nhất là khi Đức Mẹ chứng kiến Chúa Giêsu chết trên Thập giá. Như vậy, cả 2 đoạn Kinh thánh đều chuyển tải lời tiên báo và sự hoàn tất.
Thánh Ambrôsiô coi Đức Mẹ là nỗi sầu khổ nhưng là người mạnh mẽ khi đứng bên Thánh giá. Đức Mẹ đứng bên Thánh giá mà không hề sợ sệt, trong khi những người khác chạy trốn. Đức Mẹ nhìn những vết thương của Con với lòng yêu thương, nhưng Đức Mẹ thấy trong các vết thương đó có Ơn Cứu Độ dành cho thế giới. Khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, Đức Mẹ không sợ bị sát hại mà dám hiến mình cho những kẻ hành hạ mình. Đức Mẹ là một phụ nữ quá đỗi quả cảm!
http://gxthohoang.net/index.php/giup-nhau-song-dao/item/725-h%E1%BA%A1nh-c%C3%A1c-th%C3%A1nh-%E2%80%93-th%C3%A1ng-9