hongbinh
01-10-2012, 08:03 PM
http://gxthohoang.net/images/thumbnails/images/hinh/haynangtamhon10-300x225.jpg
1 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Hóa Thành Lương Thực
Thánh Thể là điểm hẹn đặc biệt để chúng ta gặp gỡ tình yêu của Đức Kitô. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. (Ga 15,9).
Đây là một tình yêu lạ lùng, một tình yêu tự mở ra cho mỗi người chúng ta. Đây là một tình yêu chuyển hóa thành của ăn của uống lấp đầy cơn đói khát sự sống thiêng liêng đích thực. Vâng, chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta “uống … rượu của cây nho” (Mc 14,25).
“Ở lại” trong Đức Kitô, đó là điều kiện tiên vàn và thiết yếu để trổ sinh hoa quả. Cũng như Đức Giêsu chỉ sinh hoa kết quả khi Ngài vâng theo ý muốn cứu độ của Cha, các môn đệ của Ngài chỉ sinh hoa quả khi họ sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và loại trừ tội lỗi ra khỏi đời sống mình.
2 THÁNG MƯỜI
Được Người Làm Vườn Cắt Tỉa
Nhìn trong ánh sáng của dụ ngôn cây nho và cành nho, chúng ta thấy Thánh Thể trở thành tiêu điểm chính trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người. Công trình này được tóm tắt trong những lời sau đây: “Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Người trồng nho ấy quan tâm chăm sóc từng cành nho. Là Đấng Tạo Hóa và đồng thời là Cha chúng ta, Ngài muốn tất cả mọi người – vốn được dựng nên giống hình ảnh Ngài – sẽ nhận được sự sống của Ngài qua Chúa Con.
Từ khi tạo dựng, công việc của Chúa Cha là chăm sóc và đáp ứng cho tất cả những gì Ngài đã dựng nên. Ngài chăm sóc ưu tiên nhất cho con người mà Ngài đã dựng nên giống hình ảnh Ngài. Trong dụ ngôn, con người được gọi là những cành nho mà Chúa Cha cắt tỉa để có thể lớn lên và có được sự sống dồi dào.
Người Trồng Nho ấy tự tỏ hiện chính Ngài là Thiên Chúa tình yêu. Ngài đối xử với chúng ta như một người Cha và Ngài muốn chúng ta đáp lại bằng tấm tình con thảo. Tất cả điều này nhắc nhở chúng ta về tính cao cả của đời sống thiêng liêng chúng ta, về sự sung mãn của ơn cứu độ.
Như vậy, Thiên Chúa vẫn không ngừng quan tâm và thúc đẩy chúng ta biết khao khát tình yêu thông truyền sức sống của Ngài. Với sự quan tâm của người Cha, Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng mình không hề sống trong một vũ trụ với định mệnh mù quáng. Không, chúng ta luôn sống dưới đôi mắt của Cha trên Trời, Đấng luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta. Ngài vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Thiên Chúa mời gọi ta cộng tác phần mình trong chương trình yêu thương và cứu độ của Ngài. Ngài biến đổi chúng ta nên mới bằng ân sủng tái sinh của các bí tích tinh luyện và canh tân. Đó là Bí Tích Hoà Giải và Thánh Thể. Qua các bí tích này, Ngài cắt tỉa chúng ta và thể hiện lại mầu nhiệm Vượt Qua vĩ đại là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Ngài.
3 THÁNG MƯỜI
Khuôn Mặt Nhân Loại Của Thiên Chúa
Thánh Kinh đưa ra câu trả lời rất phong phú cho câu hỏi: “Con người là ai?” Chúng ta tìm thấy câu trả lời này trong Sách Huấn Ca : “Đức Chúa tạo dựng con người từ bùn đất, và Ngài tạo nên họ giống hình ảnh Ngài. Ngài cho họ sống đời tạm trên trần gian và rồi lại trở về với đất bụi. Ngài ban tặng con người sức mạnh của Ngài, Ngài trao cho họ quyền thống trị mọi sự trên mặt đất.” (Hc 17,1-3)
Ở đây chúng ta có câu trả lời cho vấn nạn con người và định mệnh của họ. “Ngài tạo nên con người giống hình ảnh Ngài”. Vì thế, theo cách diễn tả rất khéo của thánh Gregory thành Nyssa (PG 44,446), con người là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa”. Để hiểu biết đúng đắn về con người, chúng ta không bao giờ được phép đánh mất quan điểm này của mạc khải Thánh Kinh; từ Sách Sáng Thế đến Sách Khải Huyền, Thánh Kinh khai mở đầy đủ chiều kích đích thực của con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và để cứu độ và giải phóng con người khỏi tội lỗi, Thiên Chúa đã đi vào thân phận con người.
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi,
Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
5 THÁNG MƯỜI
Tính Nhân Bản Của Thánh Kinh
Từ khi Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.
Đó là địa vị của con người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt, với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh thiện trong Đức Kitô.
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.
Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.
Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.
7 THÁNG MƯỜI
Kiên Vững Trong Niềm Tin Của Chúng Ta
Tất cả chúng ta phải xác tín rằng trong hiện tình của đời sống Giáo Hội, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và không thối chí nản lòng trước bao khó khăn mà mình phải đương đầu. Rất dễ có nguy cơ chúng ta đâm bối rối, ngay cả tuyệt vọng và cay đắng. Chúa vẫn luôn dẫn dắt Giáo Hội của Người. Người dùng Giáo Hội để hoàn tất các mục đích của Người, nhưng Người không hề chước miễn cho Giáo Hội khỏi những khó khăn, nghịch cảnh và lo âu trong cuộc đời này.
Để đương đầu với những thách đố ấy, chúng ta cần phải gặp gỡ, thảo luận và lập chương trình cho tương lai. Chúng ta phải nghĩ ra những ý tưởng mới và tìm kiếm những phương thế mới, hầu có thể củng cố Giáo Hội và đẩy mạnh việc thánh hóa các linh hồn, không ngừng rao giảng cho mọi người Tin Mừng của Đức Kitô. Tiềm ẩn bên trong các khó khăn của chúng ta là sứ điệp đầy năng lực đổi mới của Đức Kitô.
Đám đông dân chúng hỏi Đức Giêsu: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, đó là tin vào Đấng Người sai đến" (Ga 6,28-29). Đây là mệnh lệnh nền tảng cho chúng ta, một mệnh lệnh vẫn còn hiệu lực cho mọi người mọi nơi mọi lúc.
Những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôthê của Ngài cũng thật ý nghĩa cho chúng ta: “Hãy công bố Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).
8 THÁNG MƯỜI
Về Lòng Đạo Đức Bình Dân
Có một điểm đặc biệt tôi muốn đề cập với anh chị em, đó là lòng đạo đức bình dân và mối quan hệ của nó với đời sống phụng vụ trong Giáo Hội.
Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II có nhắc đến vấn đề này khi nói đến “việc thực hành đạo đức của quần chúng Kitô hữu”. Những việc đạo đức bình dân được Công Đồng khen ngợi và khuyến khích miễn là chúng “tuân theo những qui luật và những chuẩn mực của Giáo Hội”. Vì thế chúng ta không nên thờ ơ hay coi thường những thực hành đạo đức vẫn đang sống động giữa lòng đại chúng Kitôhữu. Tôi đang nghĩ tới những lễ hội mừng các thánh bổn mạng, những cuộc hành hương đến các nơi thánh, và vô số những hình thức sùng kính các thánh.
Quả thật, như Đức Phaolô VI đã ghi nhận trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, lòng đạo đức hay sùng kính bình dân có ý nghĩa rất phong phú. “Nó biểu lộ nỗi khát khao Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ nghèo khó mới hiểu được ; nó làm cho người ta biết quảng đại và hy sinh – đến mức anh hùng – khi việc biểu lộ đức tin bị đe dọa; nó cưu mang trong mình nó một cảm thức sâu sắc về những phẩm tính của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện đầy yêu thương; nó làm nảy sinh những tâm tình bên trong không kém sâu đậm: lòng kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong đời sống hàng ngày, sự gắn bó và cởi mở với người khác, thái độ dấn thân…” (EN 48).
Chắc chắn không phải tất cả những thực hành đạo đức này đều có giá trị cao ngang nhau. Vì chủ thể thực hành chúng là những con người, nên các động lực thực hành của họ có thể bị pha trộn với cảm tính và với hướng đích đơn thuần có tính cầu an hơn là để diễn tả đức tin hay để bày tỏ lòng biết ơn và tôn thờ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, những việc đạo đức bình dân được phô bày qua những dấu hiệu, cử điệu và những nghi tiết đôi khi xem ra quá quan trọng, thậm chí chỉ để tạo cảm xúc. Tuy nhiên, tự bản chất chúng là những biểu hiện nội tâm sâu thẳm của con người. Chúng cho thấy rằng con người – là một tạo vật – tự nền tảng phải lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa.
9 THÁNG MƯỜI
Vừa Phong Phú Vừa Nguy Hiểm
Chúng ta thấy rằng lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm. Vì thế, các mục tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng. Nhưng các ngài cần thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ. Như thánh Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức tôn sùng các thánh: "Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải biết bao dung đối với những điều lệch lạc" (Contra Faustum 20,21 : CSEL 25,263).
Điều quan trọng là phải nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy tự bộc lộ ra bằng những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng tinh luyện nó và làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà xưa nay Giáo Hội vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản địa ngoài Kitô giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức sùng ngưỡng bình dân.
Đó là cách mà Giáo Hội đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc chỉ của Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man di ở châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế nếu muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của các dân tộc khác nhau.
Chúng ta không bao giờ được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh Augustinô thành Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: "Không được phá hủy các đền thờ ngoại giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho Thiên Chúa; cũng phải làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã quen cử hành để đánh dấu các biến cố trong đời họ" (Gregory Cả, Regesta Pontificum, 1848, thư đề ngày 10 tháng 7, 601).
10 THÁNG MƯỜI
Lòng Tôn Sùng Đích Thực Đối Với Chúa Kitô
Trong một quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời như nước Ý, lòng đạo đức bình dân có một đặc tính Kitô giáo không thể phủ nhận được. Rất nhiều tập tục của quốc gia này bắt nguồn từ các lễ mừng của Giáo Hội và vẫn còn được nối kết với các dịp lễ ấy. Cần phải lưu ý đến nguồn gốc của các tập tục này. Trong trường hợp một số tập tục có vẻ đi lệch khỏi các nguồn gốc nguyên thủy, cần phải cố gắng để trả lại cho chúng ý nghĩa ban đầu.
Đối với những sự sùng ngưỡng có tính cá nhân, chúng ta cần liệu sao để chúng không bao giờ bị méo mó trở thành một thứ đạo đức sai lạc, mê tín dị đoan, hay những thực hành ma thuật. Như vậy, lòng sùng kính các thánh – vốn được thể hiện trong các lễ kính thánh quan thầy, trong các cuộc hành hương, rước kiệu và trong rất nhiều hình thức đạo đức khác – không được bị giảm trừ đến chỉ còn là chuyện cầu xin sự bảo vệ, cầu xin cho được những sở hữu vật chất, hoặc cho sự lành mạnh thể xác. Tiên vàn các tín hữu phải xem các thánh như là những mẫu gương sống và bắt chước Chúa Kitô. Các thánh phải được giới thiệu như là một con đường dẫn tới lòng sùng mộ lớn lao hơn đối với Chúa Kitô.
Phương cách tốt nhất để chống lại những lạm dụng là đưa những lời Tin Mừng vào trong các cử hành đạo đức bình dân. Đối với các tín hữu ưa chuộng những hình thức sùng ngưỡng bình dân, chúng ta cần hướng dẫn họ đi từ một dạng thái đức tin mơ hồ đến những biểu lộ của niềm tin Kitô giáo đích thực. Chúng ta phải tìm cách Phúc Aâm hoá lòng đạo đức bình dân, qua đó chúng ta có thể giúp tháo gỡ những khuyết điểm của nó, gạn đục khơi trong nó, làm cho những yếu tố ‘hàm hồ’ trở nên có ý nghĩa minh bạch hơn trong bối cảnh của đức tin, đức cậy và đức ái Kitô giáo đích thực.
1 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Hóa Thành Lương Thực
Thánh Thể là điểm hẹn đặc biệt để chúng ta gặp gỡ tình yêu của Đức Kitô. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. (Ga 15,9).
Đây là một tình yêu lạ lùng, một tình yêu tự mở ra cho mỗi người chúng ta. Đây là một tình yêu chuyển hóa thành của ăn của uống lấp đầy cơn đói khát sự sống thiêng liêng đích thực. Vâng, chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta “uống … rượu của cây nho” (Mc 14,25).
“Ở lại” trong Đức Kitô, đó là điều kiện tiên vàn và thiết yếu để trổ sinh hoa quả. Cũng như Đức Giêsu chỉ sinh hoa kết quả khi Ngài vâng theo ý muốn cứu độ của Cha, các môn đệ của Ngài chỉ sinh hoa quả khi họ sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa và loại trừ tội lỗi ra khỏi đời sống mình.
2 THÁNG MƯỜI
Được Người Làm Vườn Cắt Tỉa
Nhìn trong ánh sáng của dụ ngôn cây nho và cành nho, chúng ta thấy Thánh Thể trở thành tiêu điểm chính trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người. Công trình này được tóm tắt trong những lời sau đây: “Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Người trồng nho ấy quan tâm chăm sóc từng cành nho. Là Đấng Tạo Hóa và đồng thời là Cha chúng ta, Ngài muốn tất cả mọi người – vốn được dựng nên giống hình ảnh Ngài – sẽ nhận được sự sống của Ngài qua Chúa Con.
Từ khi tạo dựng, công việc của Chúa Cha là chăm sóc và đáp ứng cho tất cả những gì Ngài đã dựng nên. Ngài chăm sóc ưu tiên nhất cho con người mà Ngài đã dựng nên giống hình ảnh Ngài. Trong dụ ngôn, con người được gọi là những cành nho mà Chúa Cha cắt tỉa để có thể lớn lên và có được sự sống dồi dào.
Người Trồng Nho ấy tự tỏ hiện chính Ngài là Thiên Chúa tình yêu. Ngài đối xử với chúng ta như một người Cha và Ngài muốn chúng ta đáp lại bằng tấm tình con thảo. Tất cả điều này nhắc nhở chúng ta về tính cao cả của đời sống thiêng liêng chúng ta, về sự sung mãn của ơn cứu độ.
Như vậy, Thiên Chúa vẫn không ngừng quan tâm và thúc đẩy chúng ta biết khao khát tình yêu thông truyền sức sống của Ngài. Với sự quan tâm của người Cha, Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng mình không hề sống trong một vũ trụ với định mệnh mù quáng. Không, chúng ta luôn sống dưới đôi mắt của Cha trên Trời, Đấng luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta. Ngài vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Thiên Chúa mời gọi ta cộng tác phần mình trong chương trình yêu thương và cứu độ của Ngài. Ngài biến đổi chúng ta nên mới bằng ân sủng tái sinh của các bí tích tinh luyện và canh tân. Đó là Bí Tích Hoà Giải và Thánh Thể. Qua các bí tích này, Ngài cắt tỉa chúng ta và thể hiện lại mầu nhiệm Vượt Qua vĩ đại là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Ngài.
3 THÁNG MƯỜI
Khuôn Mặt Nhân Loại Của Thiên Chúa
Thánh Kinh đưa ra câu trả lời rất phong phú cho câu hỏi: “Con người là ai?” Chúng ta tìm thấy câu trả lời này trong Sách Huấn Ca : “Đức Chúa tạo dựng con người từ bùn đất, và Ngài tạo nên họ giống hình ảnh Ngài. Ngài cho họ sống đời tạm trên trần gian và rồi lại trở về với đất bụi. Ngài ban tặng con người sức mạnh của Ngài, Ngài trao cho họ quyền thống trị mọi sự trên mặt đất.” (Hc 17,1-3)
Ở đây chúng ta có câu trả lời cho vấn nạn con người và định mệnh của họ. “Ngài tạo nên con người giống hình ảnh Ngài”. Vì thế, theo cách diễn tả rất khéo của thánh Gregory thành Nyssa (PG 44,446), con người là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa”. Để hiểu biết đúng đắn về con người, chúng ta không bao giờ được phép đánh mất quan điểm này của mạc khải Thánh Kinh; từ Sách Sáng Thế đến Sách Khải Huyền, Thánh Kinh khai mở đầy đủ chiều kích đích thực của con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và để cứu độ và giải phóng con người khỏi tội lỗi, Thiên Chúa đã đi vào thân phận con người.
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi,
Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
5 THÁNG MƯỜI
Tính Nhân Bản Của Thánh Kinh
Từ khi Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.
Đó là địa vị của con người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt, với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh thiện trong Đức Kitô.
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.
Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.
Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.
7 THÁNG MƯỜI
Kiên Vững Trong Niềm Tin Của Chúng Ta
Tất cả chúng ta phải xác tín rằng trong hiện tình của đời sống Giáo Hội, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và không thối chí nản lòng trước bao khó khăn mà mình phải đương đầu. Rất dễ có nguy cơ chúng ta đâm bối rối, ngay cả tuyệt vọng và cay đắng. Chúa vẫn luôn dẫn dắt Giáo Hội của Người. Người dùng Giáo Hội để hoàn tất các mục đích của Người, nhưng Người không hề chước miễn cho Giáo Hội khỏi những khó khăn, nghịch cảnh và lo âu trong cuộc đời này.
Để đương đầu với những thách đố ấy, chúng ta cần phải gặp gỡ, thảo luận và lập chương trình cho tương lai. Chúng ta phải nghĩ ra những ý tưởng mới và tìm kiếm những phương thế mới, hầu có thể củng cố Giáo Hội và đẩy mạnh việc thánh hóa các linh hồn, không ngừng rao giảng cho mọi người Tin Mừng của Đức Kitô. Tiềm ẩn bên trong các khó khăn của chúng ta là sứ điệp đầy năng lực đổi mới của Đức Kitô.
Đám đông dân chúng hỏi Đức Giêsu: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, đó là tin vào Đấng Người sai đến" (Ga 6,28-29). Đây là mệnh lệnh nền tảng cho chúng ta, một mệnh lệnh vẫn còn hiệu lực cho mọi người mọi nơi mọi lúc.
Những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôthê của Ngài cũng thật ý nghĩa cho chúng ta: “Hãy công bố Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).
8 THÁNG MƯỜI
Về Lòng Đạo Đức Bình Dân
Có một điểm đặc biệt tôi muốn đề cập với anh chị em, đó là lòng đạo đức bình dân và mối quan hệ của nó với đời sống phụng vụ trong Giáo Hội.
Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II có nhắc đến vấn đề này khi nói đến “việc thực hành đạo đức của quần chúng Kitô hữu”. Những việc đạo đức bình dân được Công Đồng khen ngợi và khuyến khích miễn là chúng “tuân theo những qui luật và những chuẩn mực của Giáo Hội”. Vì thế chúng ta không nên thờ ơ hay coi thường những thực hành đạo đức vẫn đang sống động giữa lòng đại chúng Kitôhữu. Tôi đang nghĩ tới những lễ hội mừng các thánh bổn mạng, những cuộc hành hương đến các nơi thánh, và vô số những hình thức sùng kính các thánh.
Quả thật, như Đức Phaolô VI đã ghi nhận trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, lòng đạo đức hay sùng kính bình dân có ý nghĩa rất phong phú. “Nó biểu lộ nỗi khát khao Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ nghèo khó mới hiểu được ; nó làm cho người ta biết quảng đại và hy sinh – đến mức anh hùng – khi việc biểu lộ đức tin bị đe dọa; nó cưu mang trong mình nó một cảm thức sâu sắc về những phẩm tính của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện đầy yêu thương; nó làm nảy sinh những tâm tình bên trong không kém sâu đậm: lòng kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong đời sống hàng ngày, sự gắn bó và cởi mở với người khác, thái độ dấn thân…” (EN 48).
Chắc chắn không phải tất cả những thực hành đạo đức này đều có giá trị cao ngang nhau. Vì chủ thể thực hành chúng là những con người, nên các động lực thực hành của họ có thể bị pha trộn với cảm tính và với hướng đích đơn thuần có tính cầu an hơn là để diễn tả đức tin hay để bày tỏ lòng biết ơn và tôn thờ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, những việc đạo đức bình dân được phô bày qua những dấu hiệu, cử điệu và những nghi tiết đôi khi xem ra quá quan trọng, thậm chí chỉ để tạo cảm xúc. Tuy nhiên, tự bản chất chúng là những biểu hiện nội tâm sâu thẳm của con người. Chúng cho thấy rằng con người – là một tạo vật – tự nền tảng phải lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa.
9 THÁNG MƯỜI
Vừa Phong Phú Vừa Nguy Hiểm
Chúng ta thấy rằng lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm. Vì thế, các mục tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng. Nhưng các ngài cần thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ. Như thánh Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức tôn sùng các thánh: "Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải biết bao dung đối với những điều lệch lạc" (Contra Faustum 20,21 : CSEL 25,263).
Điều quan trọng là phải nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy tự bộc lộ ra bằng những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng tinh luyện nó và làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà xưa nay Giáo Hội vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản địa ngoài Kitô giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức sùng ngưỡng bình dân.
Đó là cách mà Giáo Hội đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc chỉ của Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man di ở châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế nếu muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của các dân tộc khác nhau.
Chúng ta không bao giờ được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh Augustinô thành Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: "Không được phá hủy các đền thờ ngoại giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho Thiên Chúa; cũng phải làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã quen cử hành để đánh dấu các biến cố trong đời họ" (Gregory Cả, Regesta Pontificum, 1848, thư đề ngày 10 tháng 7, 601).
10 THÁNG MƯỜI
Lòng Tôn Sùng Đích Thực Đối Với Chúa Kitô
Trong một quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời như nước Ý, lòng đạo đức bình dân có một đặc tính Kitô giáo không thể phủ nhận được. Rất nhiều tập tục của quốc gia này bắt nguồn từ các lễ mừng của Giáo Hội và vẫn còn được nối kết với các dịp lễ ấy. Cần phải lưu ý đến nguồn gốc của các tập tục này. Trong trường hợp một số tập tục có vẻ đi lệch khỏi các nguồn gốc nguyên thủy, cần phải cố gắng để trả lại cho chúng ý nghĩa ban đầu.
Đối với những sự sùng ngưỡng có tính cá nhân, chúng ta cần liệu sao để chúng không bao giờ bị méo mó trở thành một thứ đạo đức sai lạc, mê tín dị đoan, hay những thực hành ma thuật. Như vậy, lòng sùng kính các thánh – vốn được thể hiện trong các lễ kính thánh quan thầy, trong các cuộc hành hương, rước kiệu và trong rất nhiều hình thức đạo đức khác – không được bị giảm trừ đến chỉ còn là chuyện cầu xin sự bảo vệ, cầu xin cho được những sở hữu vật chất, hoặc cho sự lành mạnh thể xác. Tiên vàn các tín hữu phải xem các thánh như là những mẫu gương sống và bắt chước Chúa Kitô. Các thánh phải được giới thiệu như là một con đường dẫn tới lòng sùng mộ lớn lao hơn đối với Chúa Kitô.
Phương cách tốt nhất để chống lại những lạm dụng là đưa những lời Tin Mừng vào trong các cử hành đạo đức bình dân. Đối với các tín hữu ưa chuộng những hình thức sùng ngưỡng bình dân, chúng ta cần hướng dẫn họ đi từ một dạng thái đức tin mơ hồ đến những biểu lộ của niềm tin Kitô giáo đích thực. Chúng ta phải tìm cách Phúc Aâm hoá lòng đạo đức bình dân, qua đó chúng ta có thể giúp tháo gỡ những khuyết điểm của nó, gạn đục khơi trong nó, làm cho những yếu tố ‘hàm hồ’ trở nên có ý nghĩa minh bạch hơn trong bối cảnh của đức tin, đức cậy và đức ái Kitô giáo đích thực.