PDA

View Full Version : Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 1



hongbinh
10-01-2013, 03:52 PM
http://gxthohoang.net/media/k2/items/cache/786f856dfc58fd9ed7b812d2cbc13c76_XL.jpg

Quyển Hãy Nâng Tâm Hồn Lên mà bạn đang cầm trong tay là một cánh cửa tuy không đồ sộ nhưng rộng thênh thang để bạn tiếp cận tâm hồn chiêm niệm của vị giáo hoàng đáng kính. Chúng tôi rất cân nhắc khi nói ‘rộng thênh thang’, vì bước qua cánh cửa này, bạn đã tự cho phép mình hội nhập vào thế giới ưu tư mục vụ mênh mông bát ngát của vị cha chung.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên (1): Giới Thiệu-Lời Mở


- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -


Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác


LIFT UP YOUR HEARTS



Daily Meditations by Pope John Paul II


do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.



Mục lục


- ĐÔI DÒNG GIỚI THIỆU


- LỜI MỞ


- THÁNG GIÊNG


- THÁNG HAI


- THÁNG BA


- THÁNG TƯ


- THÁNG NĂM


- THÁNG SÁU


- THÁNG BẢY


- THÁNG TÁM


- THÁNG CHÍN


- THÁNG MƯỜI


- THÁNG MƯỜI MỘT


- THÁNG MƯỜI HAI


đôi dòng giới thiệu


Người ta thường nói về những cái nhất của ‘ông già huyền thoại’ Gioan Phaolô II: vị giáo hoàng có triều đại ‘dài hơi’ nhất, đi lại và gặp gỡ nhiều nhất, viết nhiều thông điệp, tông huấn, tông thư … nhất, phong thánh nhiều nhất, bổ nhiệm nhiều hồng y, giám mục nhất, triệu tập nhiều thượng hội đồng nhất, được các phương tiện truyền thông quan tâm nhất…


Có lẽ ngài là vị giáo hoàng được yêu mến nhất bởi nhiều người và bị phiền trách nhất bởi nhiều người khác.


Tuy nhiên, xem ra ‘ông già huyền thoại’ chẳng hề cố ý đạt một kỷ lục nào. Ông cụ chỉ cố gắng hết sức đểlàm công việc của một … giáo hoàng. Thế thôi. Một giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo thời hậu CôngĐồng Vatican II, của nhân loại và thế giới cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI với bao đổi thay và biến động, với những triển vọng chưa từng có lẫn những hiểm họa không thể lường! Nhận thức được trách nhiệm cao quí và nặng nề của kẻ kế vị Thánh Phê-rô trong một bối cảnh Giáo Hội và thế giới ngổn ngang những vấn đề, ông cụ cần mẫn làm việc từng ngày từng ngày. Và người ta ngạc nhiên. Người ta đo lường, thống kê, so sánh … Rồi người ta ghi nhận những kỷ lục. Thế thôi.


Quả thật, Gioan Phao-lô II là một vị giáo hoàng có sức hoạt động ‘lì’ phi thường. Những kỷ lục gần đây nhất: Hôm 4-5-2001, ngài chống gậy bước qua ngưỡng cửa Tòa Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp tại Athènes, với những bước đi nghiêng nghiêng chậm chạp của một ông lão 81 tuổi. Ở đó, ngài thay mặt Giáo Hội Công Giáo lên lời xin lỗi anh chị em Chính Thống Hi lạp, và thắm thiết ôm hôn Đức Giáo ChủChristodoulos. Báo chí Athènes đã mô tả những bước chân ấy của ngài là những bước chân ‘vượt qua hốsâu nghìn năm’. Hai ngày sau, ông cụ có mặt tại Syri và, vẫn với những bước chân xiêu xiêu ấy, ông cụ trởthành vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử bước vào một ngôi thánh đường Hồi giáo: đền thờ Omeyyades, mảnh đất tích tụ các truyền thống tôn giáo hơn 3000 năm. Biến cố này là bước ngoặt mở ra một giai đoạn mới đầy hứa hẹn cho công cuộc đối thoại liên tôn, cách riêng cuộc đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo. Mới đây hơn, những ngày từ 23 –27 tháng 6-2001, ngài đã đến viếng thăm Ucraina, một chuyến viếng thăm vô cùng khó khăn nhưng thật đầy ý nghĩa. Rồi tháng 9, cuộc công du hải ngoại thứ 95 của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ hướng về Armenia và Kazắctan…!


Đàng sau và động lực cho những hoạt động không mệt mỏi ấy của Đức Gioan Phaolô II là cả một TÂM HỒN, một TẤM LÒNG! Đã hẳn rằng muôn thuở, chẳng ai đo được lòng ai, nhưng dường như ngay cả trong phương diện không thể đo lường được ấy, phương diện tấm lòng, chúng ta vẫn cảm nhận một cái gì đó như là ‘kỷ lục’ nơi ‘ông già huyền thoại’ này. Cách đây vài năm, một quyển sách khá đồ sộ viết về cuộc đời Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với những ‘lịch sử bị che đậy’ được dư luận đánh giá rất cao về mặt tư liệu. Không phải là sách ‘đạo’; đó là một quyển sách ‘đời’ một trăm phần trăm, thậm chí có thể nói đó là một tư liệu thời sự chính trị. Tác giả của quyển sách là hai nhà báo, dịch giả bản Việt ngữ là một người ngoài Kitô giáo. Thế nhưng, đọc xong quyển sách (xấp xỉ 500 trang bản tiếng Anh, trên 700 trang bản tiếng Việt), người đọc dễ có cảm tưởng rằng đó là một hạnh thánh, bởi qua từng trang sách, khuôn mặt Đức Gioan Phao-lô II luôn hiện ra trong bầu khí thấm đẫm tinh thần cầu nguyện. Dù ngài ở đâu, gặp ai, thảo luận đề tài gì, làm việc trong lãnh vực nào, ngài vẫn toát ra một mối hiệp thông thâm sâu với Chúa, với Giáo Hội, với nhân loại và thế giới. Con người này quả là một mẫu gương tuyệt vời của chiêm niệm trong hoạt động.


Quyển Hãy Nâng Tâm Hồn Lên mà bạn đang cầm trong tay là một cánh cửa tuy không đồ sộ nhưng rộng thênh thang để bạn tiếp cận tâm hồn chiêm niệm của vị giáo hoàng đáng kính. Chúng tôi rất cân nhắc khi nói ‘rộng thênh thang’, vì bước qua cánh cửa này, bạn đã tự cho phép mình hội nhập vào thế giới ưu tư mục vụ mênh mông bát ngát của vị cha chung. Dưới ánh sáng của Lời Chúa, Giáo Phụ và Công Đồng, ngài sẽchia sẻ cho bạn những suy tư về các mầu nhiệm Chúa Kitô, về Giáo Hội trong nhiệm cục cứu độ, về đời sống bí tích, về ơn gọi. Ngài sẽ nói về vai trò của Công Đồng Vatican II, về tầm quan trọng của đại kết và hiệp nhất. Ngài đề cập đến phẩm giá của nhân vị, đến nhân quyền, nhất là quyền sống. Ngài gợi cho bạn những tia sáng để hóa giải các vấn nạn về quan phòng và tự do, về tiền định, về thực tại sự dữ và đau khổ. Ngài nói về cộng đoàn giáo xứ, về gia đình, phụ nữ, lao động, môi trường, về hoạt động văn hóa nghệ thuật và truyền thông xã hội. Thậm chí ngài dành suy tư riêng về những lãnh vực rất đặc thù như thể dục thểthao, việc nhận trẻ em làm con nuôi… Rõ ràng trên tay bạn cũng là một quyển sách huấn giáo rất phong phú nữa đấy!


Nào, xin mời bạn đồng hành với Đức Gioan Phaolô II trong 366 ngày suy tư – cho năm nay, và cho bất cứnăm nào…


Cuối cùng, xin chân thành cám ơn các bạn Quách Quốc Bình, Nguyễn Đình Công và nhóm anh em, HồQuang Phúc, Trương Văn Thơm … đã nhiệt tình cộng tác trong bản Việt ngữ này.


Đà Nẵng, tháng 7. 2001


Lê Công Đức


Lời mở


Trong thế giới hôm nay,


một thế giới ngổn ngang bao vấn đề,


càng ngày chúng ta càng khắc khoải nhiều hơn.


Ta ước vọng một mối bảo đảm,


ước vọng một tình yêu dấn thân và thuần khiết;


ta khao khát sự thật;


ta muốn sống cho ra sống, sống thật sắc nét.


Giai đoạn lịch sử này


đầy những xung đột tinh thần


và xung đột văn hóa.


Ta nhận ra


ý nghĩa sâu thẳm của Lời Chúa Kitô:


“Ai liều sự sống mình vì Ta,


sẽ gặp được sự sống” (Mt 10, 39).


Lý tưởng thánh thiện ấy


- mà mỗi chúng ta được mời gọi tiến lên –


có thể ví như


một đích điểm ở phía trước, còn xa;


một đích điểm thách đố


nỗ lực nhọc nhằn vươn tới từng ngày.


Song, xin bạn đừng chán nản;


đừng đánh mất


niềm vui và lòng quảng đại,


để bắt đầu đi bắt đầu lại


hành trình cuộc sống mỗi ngày.


Bạn hãy múc lấy nghị lực tinh thần


trong cầu nguyện và trong Thánh Thể.


Hãy nhìn thẳng về hướng đích,


và hãy tin:


Với sự trợ lực của Chúa,


bạn sẽ chắc chắn TỚI ĐƯỢC BẾN BỜ.


GIO-AN PHAO-LÔ II



HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN (2) : THÁNG GIÊNG
THÁNG GIÊNG

1 THÁNG GIÊNG

Lời Kinh Dâng Hiến

Mẹ Ơi!
Chúng con xin dâng hiến
chính mình chúng con cho Mẹ,
vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con;
vì Chúa Giê-su, Con Mẹ, đã ký thác chúng con cho Mẹ;
vì Mẹ sẵn lòng nhận làm Mẹ Giáo Hội.
Từ muôn nẻo, tất cả chúng con sum họp về đây,
hòa lời kinh dâng hiến.
Xin dâng Mẹ toàn thể Giáo Hội:
các mục tử và các tín hữu.

Xin Mẹ đón nhận các giám mục – là những vị nối gót Chúa Chiên Lành săn sóc đoàn dân được Ngài trao phó;
Xin Mẹ đón nhận các linh mục – là những người đã được xức đầu bởi Thánh Thần;
Xin Mẹ đón nhận các tu sĩ nam nữ – là những người tận hiến cuộc đời cho Nước Chúa Kitô;

Xin Mẹ đón nhận các chủng sinh – đang nồng nhiệt đáp lại tiếng gọi của Chúa;
Xin Mẹ đón nhận các đôi vợ chồng Kitôhữu – trong mối kết hiệp bền vững của tình yêu trao hiến cho nhau và cho gia đình họ;

Xin Mẹ đón nhận các anh chị em giáo dân đang dấn thân hoạt động tông đồ, các bạn trẻ đang khao khát một xã hội mới, các em thiếu nhi đang lớn lên trong một thế giới còn thiếu nhân đạo và hòa bình;

Xin Mẹ đón nhận các bệnh nhân, những người nghèo, những tù nhân, những anh chị em bị ngược đãi, các trẻ mồ côi, những tâm hồn tuyệt vọng và những người hấp hối.

Lạy Mẹ là Mẹ Giáo Hội,
Chúng con ẩn náu trong sự chở che của Mẹ;
Chúng con phó thác chính mình trong bàn tay săn sóc của Mẹ.
Xin Mẹ cầu bàu cho Giáo Hội,
để Giáo Hội trung thành
trong đức tin tinh tuyền,
trong niềm cậy trông không lay chuyển,
trong lòng mến yêu nồng cháy,
trong nhiệt tâm tông đồ và sứ mạng,
trong dấn thân phụng sự cho công lý và hòa bình giữa lòng nhân loại của thế giới đã được chúc phúc này.
Chúng con cầu xin Mẹ cho toàn thể Giáo Hội
luôn gìn giữ mối hiệp thông trọn vẹn trong đức tin và đức ái,
luôn hiệp nhất với Tòa Thánh Phê-rô trong niềm mến yêu và vâng phục.
Chúng con ký thác cho Mẹ
hạt giống rao giảng Tin Mừng của chúng con,
lòng kiên định ưu tiên yêu mến người nghèo,
và công cuộc giáo dục đức tin cho thế hệ trẻ.
Xin Mẹ giúp gia tăng ơn gọi linh mục và tu sĩ,
xin Mẹ nuôi dưỡng lòng quảng đại của những người cống hiến bản thân mình vì sứ mạng của Chúa Kitô,

xin Mẹ giúp xây dựng mối hiệp nhất và cuộc sống thánh thiện trong mọi gia đình.
Lạy Đức Trinh Nữ Mân Côi, Mẹ chúng con!
Xin cầu bàu cho chúng con bây giờ:
Xin ban cho chúng con ơn bình an vô giá,
để biết thứ tha mọi đố kỵ và xua tan trong lòng mình mọi hiềm khích;
để hòa giải với mọi anh chị em.
Xin Mẹ giúp chấm dứt mọi bạo động và loạn lạc;
Xin cho con người biết sẵn sàng đối thoại với nhau hơn – và biết chung sống thuận hòa;

Xin Mẹ giúp chúng con mở ra những nẻo đường mới,
để mưu cầu công bình và thịnh vượng.
Lạy Mẹ, là Nữ Vương Hòa Bình của chúng con,
Chúng con kêu cầu Mẹ, bây giờ và trong giờ sau hết!
Chúng con ký thác trong tay Mẹ,
tất cả những nạn nhân của bất công và bạo lực,
tất cả những người gục chết vì thiên tai,
tất cả những ai trong giây phút từ giã cõi đời đã chạy đến với Mẹ để nấp bóng bảo trợ từ mẫu.

Lạy Mẹ là cửa thiên đàng,
Xin trở thành sức sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con,
để chúng con được cùng với Mẹ
mãi mãi chúc tụng tôn vinh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.


2 THÁNG GIÊNG

Một Mầu Nhiệm Giấu Ấn

Trong Hai Tâm Hồn

Giáo Hội cảm nghiệm niềm vui giáng sinh của Chúa trong mầu nhiệm gia đình – mầu nhiệm Gia Đình Thánh. Đây là một chân lý đầy chất nhân bản. Với sự chào đời của đứa con, cuộc hôn nhân giữa hai người nam nữ – giữa vợ và chồng – càng trở nên trọn vẹn hơn trong tư cách là một gia đình.

Đồng thời, cuộc sinh hạ của Đức Giêsu là một mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa vén mở ra trước mắt người trần, một mầu nhiệm giấu ẩn trong đức tin và trong cõi lòng của Maria và Giu-se ở Na-da-rét. Trước bất cứ ai, hai người là những chứng nhân duy nhất của biến cố Hài Nhi chào đời tại Bê-lem – biến cố chào đời của Con Đấng Tối Cao!

Nơi Maria và Giu-se, Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm gia đình. Thiên Chúa xây dựng gia đình này với Maria và Giu-se – và với cuộc chào đời của Giê-su.

Và chúng ta, khi biết nhìn bằng con mắt đức tin, sẽ nhận ra rằng qua Gia Đình Thánh này, Thiên Chúa cho thấy Ngài gần gũi chúng ta biết bao. Gia Đình Thánh ấy cũng nêu bật địa vị của mọi gia đình trong ánh nhìn của Tạo Hóa. Thật vậy, Đức Kitô đã trao tặng chúng ta Bí Tích Hôn Nhân như một dấu chỉ của địa vị cao cả ấy. Tông Đồ Phao-lô đã có thể gọi bí tích này là “một mầu nhiệm lớn lao” của mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5, 32).

3 THÁNG GIÊNG

Nẻo Đường Khôn Ngoan Kín Nhiệm

Nơi chân trời của Lễ Giáng Sinh có xuất hiện ba khuôn mặt mới mẻ: ba nhà thông thái đến từ phương Đông. Cuộc hiển linh của Thiên Chúa đã gần kề. Trong phụng vụ của Giáo Hội, Lễ Hiển Linh mang ý nghĩa một sự biểu lộ trong đó Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài và bày tỏ vinh quang của Ngài.
Nhận thức ý nghĩa của ngày lễ như vậy, chúng ta trước hết sẽ nghĩ đến ánh sao đã xuất hiện trên bầu trời và dẫn đường cho các nhà thông thái. Chúng ta cũng sẽ nghĩ đến cuộc hành trình xa xôi trong đó ba người đã dõi bước theo ánh sao chỉ đường ở tít cuối chân trời.

Nhưng ngày Lễ Hiển Linh có hàm chứa một ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta chiêm ngắm nẻo bước kín nhiệm mà các nhà thông thái này đã đi qua; đó là cuộc hành trình nội tâm tiến đến với Chúa và cảm nhận sự tỏ lộ vinh quang của Ngài. Hành trình này bắt đầu với cuộc gặp gỡ thần nhiệm của cõi lòng và trí khôn con người với ánh sáng của chính Thiên Chúa. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Gio-an: “Aùnh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đã đến trong trần gian” (Ga 1, 9).

Rõ ràng là ba nhà thông thái này đã bước theo ánh sáng ấy ngay cả trước khi ánh sao kia hiện ra trước mắt họ. Qua huyền nhiệm ẩn chứa trong mọi tạo vật, họ nghe tiếng Thiên Chúa thầm thì rất rõ: “Ta đây. Ta hiện hữu. Ta là Đấng Tạo Hóa và là Chúa của toàn thể vũ trụ”.

Và chắc chắn đã có những lúc họ thoáng thấy Thiên Chúa kéo họ lại thật gần với Ngài. Ngài đã bắt đầu mạc khải cho họ sự thật rằng Ngài đang đi vào giữa lòng thế giới. Họ được hé mở cho biết nhiệm cục cứu độ – dù một cách xa xa chứ chưa phải là một nhận hiểu đầy đủ.

Và các nhà thông thái đã dùng đức tin để đáp lại cuộc hiển linh kín nhiệm mà Thiên Chúa đã thực hiện trong tâm hồn họ.

4 THÁNG GIÊNG

Ánh Sao Của Đức Tin

Các nhà thông thái từ phương Đông xa xôi ấy đã nhận ra thông điệp của ánh sao bằng con mắt đức tin của họ. Đức tin đã thúc giục họ lên đường vào cuộc hành trình vạn dặm. Họ nhắm hướng Giê-ru-sa-lem, kinh thành của Israel, nơi mà sự thật về cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia đã được cho biết trước từ thế hệ này qua thế hệ khác. Các ngôn sứ đã tiên báo việc Ngài xuất hiện, các tác giả Sách Thánh đã viết về Đấng Mêsia. Thiên Chúa – Đấng tự biểu lộ về mình trong cõi lòng thầm kín của các nhà thông thái – cũng đã ngỏ lời với dân riêng Ngài trong suốt hàng bao thế kỷ.

Cuộc xuất hiện được đợi chờ đằng đẵng ấy đã hoàn toàn trở thành hiện thực trong đêm Chúa giáng sinh ở Bê-lem. Đêm ấy vốn đã là một cuộc hiển linh của Chúa rồi; Chúa được sinh ra bởi một trinh nữ và được đặt nằm trong máng cỏ.
Vị Thiên Chúa ấy đã muốn xuất hiện một cách thật âm thầm bằng cuộc sinh hạ hết sức đơn sơ, nghèo nàn và lặng lẽ tại Bê-lem. Phải chăng ở đây Ngài đang linh hiển sự khiêm nhường thần nhiệm của Ngài! Chỉ một vài người chăn súc vật đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.

Rồi tới lượt các nhà thông thái đến. Thiên Chúa, trong khi ẩn tránh những người ở rất gần xung quanh Ngài, đã muốn mạc khải chính Ngài cho những con người này – là những kẻ đến từ xa. Chính ánh sao của đức tin, ánh sao mạc khải vị Cứu Chúa, đã soi dẫn nẻo bước cho những con người này. Và như thế, lời tiên báo của Isaia đã trở thành hiện thực: “Các quốc gia sẽ bước đi dưới ánh sáng của ngươi – và các vua chúa sẽ được ánh quang ngươi soi dẫn. Hãy hướng mắt nhìn xem, tất cả đều qui tụ để tiến đến với ngươi” (Is 60, 3 – 4).


5 THÁNG GIÊNG

Gia Đình – Một Cộng Đồng Thân Ái

Trong tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống, gia đình được mời gọi trở thành một cộng đồng của hòa bình và thân ái. Đồng thời, đó cũng là mô hình cộng đồng mà Thiên Chúa mời gọi mọi cá nhân và mọi dân tộc hướng tới hình thành. Trước hết, để gia đình triển nở trọn vẹn, cần phải có một bầu khí xã hội thực sự hòa bình và huynh đệ trong đó quyền lợi của mỗi thành viên đều được bảo vệ.

Thế nhưng ngày nay gia đình đang phải chịu những căng thẳng tột độ do các xu hướng của xã hội hiện đại. Gia đình đang phải đương đầu với sự phân hóa và sự sụp đổ của quyền bính. Các bậc cha mẹ đang kinh nghiệm nỗi khó khăn trong việc truyền đạt cho con cái mình những giá trị Kitô giáo đích thực. Xu hướng đô thị hóa đang tạo ra những khu ngoại ô chen chúc dân cư, những vấn đề khó khăn về nhà ở, nạn thất nghiệp hay thiếu việc làm ngày càng tăng cao. Và tất cả tình hình ấy có một ảnh hưởng tiêu cực trên gia đình.

Giáo Hội quyết liệt chống lại những sự dữ luân lý đang tấn công vào đời sống gia đình và vợ chồng; bởi vì Giáo Hội xác tín sâu sắc rằng những sự dữ ấy đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa đối với con người. Những sự dữ ấy xúc phạm tính chất linh thánh của hôn nhân và chà đạp các giá trị của sự sống con người. Giáo Hội có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của gia đình cũng như bảo vệ mọi thiện ích của từng người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội xác nhận lại trách nhiệm của mình trong việc nói lên sự thực đầy đủ về con người.


6 THÁNG GIÊNG

Tiếng Gọi Của Lễ Hiển Linh

“Mầu nhiệm này tôi đã được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Hiển Linh (Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu của Giáo Hội. Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này, ân sủng dẫn con người đến với đức tin.

Vâng, mầu nhiệm Đức Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt lõi của ngày Lễ Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải vào tâm khảm của kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho Sao-lô người Tarsus trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng nhân đặc biệt nhờ cuộc trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “… anh em nghe nói đến ân huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của anh em” (Ep 3,2).

Thánh tông đồ muốn làm chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời của Thánh tông đồ, vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những ai được Đức Kitô kêu gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh với chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại – vì chúng ta là những người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa đến cho các dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.


7 THÁNG GIÊNG

Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem

Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.

Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.

Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.

8 THÁNG GIÊNG

Đức Kitô Xua Tan Đêm Tối

Tuy nhiên, Giê-ru-sa-lem của cuộc Hiển Linh không phải chỉ là Giê-ru-sa-lem của Hê-rô-đê thời ấy. Trong viễn tượng của Thiên Chúa, đó cũng là Giê-ru-sa-lem của các ngôn sứ nữa.

Trong thành Thánh, chứng từ của những người báo trước về cuộc xuất hiện của Đấng Cứu Tinh được bảo tồn xuyên qua bao thế kỷ dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngôn sứ Mi-ca nói về cuộc sinh hạ của Vua Cứu Độ ở Bê-lem, chẳng hạn. Nhất là Isaia, vị ngôn sứ của Đấng Mêsia, cống hiến một lời chứng thật độc đáo về cuộc Hiển Linh: “Bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi! Aùnh sáng của ngươi đã đến, và vinh quang Chúa chiếu tỏa trên ngươi. Hãy nhìn xem, màn đêm bao trùm mặt đất và mây mù che phủ các dân! Nhưng Chúa giọi ánh sáng trên ngươi và vinh quang Người xuất hiện nơi ngươi.” (Is 60, 1 – 2)

Sấm ngôn này của Isaia diễn tả tuyệt vời nội dung của Lễ Hiển Linh. Vinh quang của Đức Kitô phủ ngập thành Thánh Giê-ru-sa-lem. Người xua tan bóng tối và soi giọi ánh sáng của Người trên dân Người.

Rồi, Isaia tiên báo rằng mọi dân tộc đang sống trong bóng tối sẽ tuôn về thành Thánh của Thiên Chúa: “Các dân nước sẽ bước đi trong ánh sáng của ngươi, và các vua chúa sẽ được ánh quang ngươi đưa dẫn. Hãy hướng mắt nhìn xem, tất cả tụ tập để đến với ngươi: Các con trai ngươi từ xa kéo đến, và các con gái ngươi trên cánh tay bảo mẫu” (Is 60, 3 – 5). Mô tả lạ lùng ấy của Isaia lần đầu tiên được chứng thực trọn vẹn bằng cuộc xuất hiện tại Giê-ru-sa-lem của các nhà thông thái từ phương Đông tới.


9 THÁNG GIÊNG

Đến Lượt Chúng Ta Kiếm Tìm Thiên Chúa

“Chúng tôi thấy ngôi sao của Người mọc lên, và chúng tôi đến để triều bái Người” (Mt 2,2). Đặt chân đến Giê-ru-sa-lem, các nhà thông thái đã nói với cư dân của thành Thánh như thế. Họ tìm hỏi thăm về “vị vua mới chào đời của người Do Thái”. Đây chính là những lời chúng ta trích lại trong Lễ Hiển Linh: sự biểu lộ Đức Giêsu như là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ của các dân tộc đang sống trong bóng tối lầm lạc. Các nhà thông thái, đại diện cho các dân ngoại giáo, nhắc chúng ta nhớ đến cuộc kiếm tìm Thiên Chúa của chính mình. Các nhà thông thái nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong những kỳ quan của tạo vật. Vốn chỉ mới thoáng thấy sự thực xuyên qua thiên nhiên và qua sự nghiên cứu, các nhà thông thái đã dấn thân vào một cuộc hành trình đầy mờ mịt và bất trắc để gặp được sự thật. Ở cuối cuộc hành trình tìm kiếm ấy, họ đã khám phá được và đã nghiêng mình kính cẩn trước Hài Nhi Giê-su và Mẹ Người. Họ đã tiến dâng Người vàng bạc châu báu của họ – và đã nhận lại được món quà vô giá là đức tin và niềm vui Kitô giáo.

Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ba nhà thông thái này làm những người hướng đạo, để mỗi bước chân trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta đều qui hướng về một mục tiêu duy nhất là Giêsu, con của Đức Maria, cũng là Con đời đời của Thiên Chúa.


10 THÁNG GIÊNG

Ánh Sáng Cho Các Dân Tộc

Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét như là “người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ Isaia, như là người được Thiên Chúa tuyển chọn và hài lòng. Trong tư cách là người tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mạng của Người với sự dấn thân trọn vẹn cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người nêu mẫu gương khiêm nhường trong quan hệ với mọi người. Như vậy, Thiên Chúa đã đặt Người “như một giao ước với con người”, “như một ánh sáng cho các dân tộc”, để đem lại ánh sáng cho người mù và trả lại tự do cho các tù nhân.

Người tôi tớ kỳ diệu ấy của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến để đem ơn cứu độ cho nhân loại – như được mạc khải trong nước của phép Rửa. Trong Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu được Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở ra, và Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Đức Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).

Giờ đây sấm ngôn xưa đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối với tôi tớ của Ngài; Cha hài lòng về Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã đảm nhận bản tính nhân loại. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin Gio-an làm phép rửa cho Người trong nước. Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một vị tiền hô của Đức Kitô, và phép rửa của Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia – một chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức Giêsu, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, mới là người mang ân sủng đến và làm phép Rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa.



Sưu Tầm từ: http://xuanbichvietnam.wordpress (http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/05/16/hay-nang-tam-hon-len-1/).com

hongbinh
10-01-2013, 03:58 PM
11 THÁNG GIÊNG
Thế Giới Khát Khao Hòa Bình

Chất lượng đời sống trong một quốc gia hay trong bất cứ cộng đồng nào khác đều tùy thuộc ở chỗ có hay không có sự hòa bình và tình huynh đệ. Một khi thực sự có bầu khí hòa bình, những năng lực hướng thiện phi thường sẽ được giải phóng, đem lại niềm vui, thúc đẩy sáng tạo, giúp người ta đạt đến mức trưởng thành đầy đủ và làm việc với nhau trong tinh thần con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Ở đâu có hiện diện tinh thần huynh đệ đích thực, ở đó quyền lợi của kẻ yếu và của người cô thế cô thân sẽ không bị chà đạp. Phẩm giá và thiện ích của mọi người sẽ được trân trọng bảo vệ và tăng triển. Và chỉ có hòa hình khi người ta biết gìn giữ và củng cố công bằng, tự do và lòng tôn trọng đích thực đối với bản tính con người.

Nhưng thế giới hiện nay lại quen với tình trạng thiếu vắng tình huynh đệ, quen với sự kích động bạo lực, sự phân biệt đối xử và sự bất công. Một thế giới như vậy quả đang thách đố chúng ta biểu lộ tình người. Chất lượng của các cộng đồng và các quốc gia đang bị đe dọa. Và mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với thách đố này.

Cả nhân loại là một gia đình – một đại gia đình với tất cả những nét đa dạng của nó. Cổ võ cho hòa bình, cho công bằng giữa các quốc gia và cho sự đoàn kết thực sự giữa các dân tộc; đó là tôn chỉ ngày càng thôi thúc chúng ta hôm nay. Các vị lãnh đạo của các quốc gia và các tổ chức quốc tế vẫn thường xuyên nói lên điều đó. Các kế hoạch hòa bình được hậu thuẫn bằng nhiều cách thế khác nhau bởi hầu như tất cả các đảng phái chính trị trên thế giới. Các phong trào quần chúng và công luận cũng đề cao cùng một tôn chỉ ấy. Ở bất cứ nước nào, người ta cũng ngán ngẩm những xung đột và chia rẽ. Cả thế giới chúng ta đang khao khát hòa điệu và hòa bình.

12 THÁNG GIÊNG
Một Tinh Thần Mới

Giáo Hội của thế kỷ hai mươi không ngừng cổ võ cho công bằng và cho sự phát triển nhân bản đích thực. Trong các hội đồng giám mục, trong các giáo hội địa phương, Giáo Hội – bằng nhiều cách – không ngừng thúc đẩy sự hòa điệu và tình huynh đệ. Và trên hết, Giáo Hội dựa vào sự đóng góp của các gia đình Kitôhữu qua chứng tá sống tình huynh đệ của họ theo lời mời gọi của Đức Giêsu.

Giáo Hội không ngừng cầu xin Thiên Chúa ban cho nhân loại hôm nay một tinh thần mới, ban cho con người biết biến đổi trái tim chai đá của mình thành trái tim đầy trắc ẩn yêu thương, ban cho có một nền hòa bình đích thực và bền vững tại biết bao vùng đang còn xung đột trên thế giới.

Quả thật, thế giới là mái nhà của mỗi người, của mọi người, mọi quốc gia và của toàn nhân loại. Loài người chưa bao giờ đông đúc như hiện nay và chưa bao giờ đạt đến trình độ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời hiện đại. Vì thế chúng ta cần phải tiến bộ về mặt đạo đức. Cần phải tiến bộ trong lãnh vực tâm linh. Chúng ta cần tiến bộ đích thực và đầy đủ trong tư cách là con người.

Đồng thời, tổ ấm của con người – là trái đất – cũng thuộc về Chúa. Phụng vụ công bố điều đó bằng ngôn ngữ của tác giả thánh vịnh: “Hãy dâng Chúa, hỡi gia đình các dân tộc. Dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người… Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với các dân: Chúa là Vua hiển trị. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay; Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng… vì Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính và xét xử muôn dân theo chân lý của Người.” (Tv 96, 7 – 10, 13) Ước gì tiếng nói ấy, thốt lên từ tận cung lòng Giáo Hội, hòa nhập với tiếng kêu cầu khẩn thiết của mọi gia đình trong nhân loại – và tôn vinh Đấng Tạo Hóa, cội nguồn của sự sống và yêu thương. Ước gì tiếng nói ấy âm vang mạnh mẽ hơn bao giờ, âm vang đến tận cùng trời cuối đất.

13 THÁNG GIÊNG
Những Sứ Giả Đầu Tiên
Của Đức Tin

Gia đình Kitôhữu không duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món quà vô giá là sự sống con người cần phải được tháp nhập vào chính sự sống của Đức Kitô và nhờ đó trở nên phong phú. Sứ mạng chân chính của gia đình là bảo vệ các giá trị nhân bản, nhưng đồng thời gia đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các giá trị Kitô giáo.
Nhiều người có thể bị cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới được ủy trao trách nhiệm đối với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm. Rõ ràng chính gia đình là môi trường đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là “thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và là nhân chứng đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình của họ. Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi, và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ Giáo Dân 11)

Gia đình Kitôhữu là mảnh đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và phát triển. Đó là một chủng viện hay một tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô giáo chỉ là một cái gì đóng khung bên trong cánh cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn ra trong phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời sống hằng ngày. Gia đình phải là nơi sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành dưới mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình mới đích thực là một diễn tả chính Giáo Hội.

14 THÁNG GIÊNG
Thiên Chúa Muốn Con Người
Quan Hệ Mật Thiết Với Nhau

Việc thực thi công bằng – là nền tảng của đời sống xã hội – không hề giới hạn hay cương tỏa tự do của nhân vị khi việc ấy không đi ngược lại bản tính con người và không độc đoán. Trái lại, nó giúp đỡ và hướng dẫn cho người ta, nam cũng như nữ, thực hiện những quyết định của riêng mình một cách phù hợp với thiện ích chung. Đời sống hôn nhân và gia đình là những cơ chế tự nhiên như thế. Chúng bắt rễ trong chính sự hiện hữu của nhân vị. Và sự thiện hảo riêng của những cơ chế này sẽ là nhân tố cho sự thiện hảo của toàn xã hội. Chúng giúp người ta có được những sự chọn lựa tốt lành và đúng đắn.

Thật vậy, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes của Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc; bởi vì từ khởi thủy, ‘Ngài đã tạo dựng có nam có nữ’’ (St 1, 27). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những hữu thể khác thì con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng mình.” (MV 12)

Đời sống hôn nhân và gia đình – nền tảng của xã hội – là những cơ chế mà toàn thể cộng đồng thế tục cũng như tôn giáo phải phục vụ cho. Nếu chúng ta nhận thức rằng “xã hội này của người nam và người nữ là mô hình đầu tiên của hiệp thông nhân vị”, chúng ta sẽ hoàn toàn chấp nhận rằng bất cứ hành động nào phục vụ cho đời sống hôn nhân và gia đình cũng có sức củng cố và làm phong phú hóa mọi cộng đồng khác và trên hết là toàn thể xã hội loài người.

15 THÁNG GIÊNG
Đời Sống Gia Đình
Củng Cố Cấu Trúc Xã Hội

Như chúng ta thấy, gia đình – trong tư cách là “xã hội thứ nhất” – có những đòi hỏi tự nhiên của riêng nó và không thể bị o ép bởi các ý thức hệ hoặc bởi những đòi hỏi cá biệt nào đó của xã hội. Thật vậy, trách nhiệm của xã hội là phải gìn giữ và hỗ trợ gia đình bằng cách thiết lập những khoản luật và chế định những giá trị luân lý để phục vụ cho thiện ích chung. Bất cứ điều luật hay chuẩn mực luân lý nào không hỗ trợ cho gia đình thì cũng không thể nào là tốt cho toàn xã hội, vì gia đình là nền móng của xã hội. Những gì phá hoại gia đình thì đồng thời cũng phá hoại tất cả xã hội. Xã hội nào sẵn sàng xé rách gia đình rốt cục cũng sẽ thấm thía sự thật ấy.

Các nhà cầm quyền và những người làm công tác khoa học cần nhận thức rằng những nhu cầu chính đáng của con người và của xã hội đòi phải có sự cộng tác giữa lĩnh vực xã hội trần thế và lĩnh vực tôn giáo để bênh vực cho quyền lợi của gia đình. Công Đồng Vatican II nhìn nhận: “Trong khi theo đuổi mục đích cứu rỗi của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiếu giãi ánh sáng của sự sống thần linh ấy trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này, trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố cơ cấu của xã hội nhân loại và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩa sâu xa hơn.” (MV 40) Như vậy, trong khi bảo vệ quan điểm Kitô giáo về đời sống hôn nhân và gia đình, Giáo Hội cũng đang xây dựng và củng cố toàn thể cộng đồng xã hội trần thế bằng một nền nếp luân lý vững chãi và tốt lành.

Thật vậy, tinh thần vâng phục của các tín hữu đối với giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình sẽ bảo đảm rằng các nhân đức luân lý vốn có khả năng vãn hồi sự công bằng, lòng trung tín, sự kính trọng nhân vị, tinh thần trách nhiệm và sự hiểu biết lẫn nhau … sẽ được nhấn mạnh và đề cao vì ích lợi của toàn xã hội.
16 THÁNG GIÊNG

Thờ Ơ Hay Chống Lại Các Giá Trị
Của Gia Đình Là Tự Chuốc Lấy Tai Họa

Quyền lợi của gia đình, như chúng ta thấy, không phải chỉ là những vấn đề thuần túy thuộc địa hạt tâm linh tín ngưỡng mà xã hội trần thế có thể phớt lờ không đếm xỉa đến. Để thực thi sứ mạng của mình, Giáo Hội tích cực cổ võ cho các giá trị nền tảng của gia đình. Nhưng các nhà cầm quyền dân sự cũng phải đảm nhận trách nhiệm bảo vệ và đề cao các quyền lợi giúp thăng tiến và nâng đỡ đời sống hôn nhân.

Vận mệnh của cộng đồng nhân loại gắn kết chặt chẽ với “sức khỏe” của gia đình xét như một cơ chế trong xã hội. Khi quyền bính trần thế xem thường những giá trị mà gia đình Kitôhữu đem lại cho xã hội và khi quyền bính trần thế bàng quan đứng ngoài các giá trị đạo đức ấy, thì điều sẽ xảy ra là gia đình bị sụp đổ trong xã hội. Đồng thời, một thái độ dễ dãi đối với tình trạng sống chung chạ bên ngoài mối ràng buộc hôn nhân xem ra có thể là giải pháp cho một số vấn đề nào đó nhất thời. Song, về lâu về dài, tình trạng này sẽ phá hoại ghê gờm chính bản chất và phẩm cách của hôn nhân. Một xã hội như thế không thể tránh khỏi các hậu quả cay đắng.

17 THÁNG GIÊNG
Xây Dựng Một Bầu Khí
Sống Hoạt Yêu Thương

Nhiều khía cạnh khác của đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được phép quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền lợi của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản “Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.

Tất cả các quyền ấy đều rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền được giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm rất quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng thành đầy đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể.” (GD 3).

18 THÁNG GIÊNG
Giá Trị Và Phẩm Cách Của Lao Động

Mọi người – nam cũng như nữ – đều là những lữ khách trên mặt đất này, những lữ khách trong cuộc hành hương kiếm tìm sự thật, kiếm tìm Thiên Chúa! Và mọi người đều được mời gọi vào cuộc hành hương này. Chúng ta là khách hành hương, là thành phần của Dân Thiên Chúa; chúng ta được Đấng Tạo Hóa, Cha chúng ta, dẫn dắt tiến về với sự thánh thiện viên mãn nơi Ngài. Ngài đang dẫn đưa chúng ta đến với Ngài xuyên qua bao kinh nghiệm và thử thách của cuộc sống hôm nay.

Để chỉ cho ta biết con đường sự sống đưa ta về hiệp nhất với Ngài, Thiên Chúa đã gửi chính Con của Ngài đến với ta. Ngài đã đặt người Con ấy làm viên đá góc, nhờ đó chúng ta có thể vươn tới ơn cứu độ (1Pr 2, 6 – 8). Thật vậy, trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng trở nên những viên đá sống “xây dựng tòa nhà thiêng liêng để thành hàng tư tế thánh dâng lễ vật thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” (1Pr 2, 5). Những lễ vật thiêng liêng này được gắn kết với mọi thực tại dệt nên cuộc sống chúng ta, nhất là gắn kết với lao động con người – vì lao động là chiều kích nền tảng của cuộc sống con người trên trái đất.

Tôi tưởng cần nêu vài suy tư về giá trị và phẩm cách của lao động con người. Đức Giêsu Kitô là con của một người thợ mộc. Phần lớn cuộc đời Người, trong kiếp người, Người cần cù làm việc nối nghiệp của Thánh Giu-se – cha nuôi Người. Bằng chính nghề thợ mộc của Người, Đức Giêsu cho thấy rằng trong đời sống hằng ngày, chúng ta được kêu gọi sống phẩm giá của lao động. Bằng lao động, con người tham dự vào công cuộc sáng tạo của chính Thiên Chúa. Dù làm việc ở nhà máy hay trong văn phòng, trong bệnh viện hay ngoài đồng ruộng…, ở bất cứ đâu chúng ta cũng đang góp phần vào công trình tạo dựng của chính Thiên Chúa; điều này đem lại giá trị và ý nghĩa cho mọi công việc của chúng ta.

“Giá trị lao động của một người được ấn định trước hết không phải bởi loại công việc mà người ấy làm, nhưng là bởi vì công việc ấy được làm bởi một nhân vị” (Thông Điệp Laborem exercens, 6). Như vậy, mọi lao động của con người, dù có vẻ nhỏ nhặt đến đâu, đều phải được hết mực kính trọng, bảo vệ và tưởng thưởng thích đáng. Nhờ đó, mọi gia đình – và toàn thể cộng đồng xã hội – sẽ có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng và phát triển.

19 THÁNG GIÊNG
Ngắm Nhìn Mẫu Gương
Người Thợ Mộc Khiêm Nhường

Lao động đem lại niềm vui và niềm thỏa mãn; nhưng lao động cũng đòi nỗ lực và khiến người ta mệt mỏi, như ai cũng có thể cảm nghiệm được sau một ngày dài nhọc nhằn. Vui và thỏa mãn, vì lao động cho phép người ta thể hiện vai trò thống trị mặt đất mà Thiên Chúa đã ủy trao cho mình (St 1, 26 – 28). Thật vậy, Thiên Chúa đã nói với người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên: “Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất và chinh phục nó. Hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài sống động trên mặt đất” (St 1, 28).

Thế nhưng, không phải bao giờ chúng ta cũng thích loại công việc mà mình đang làm. Đôi khi ta phải làm những công việc nguy hiểm. Chẳng hạn, rất nhiều người làm việc trong các hầm mỏ sâu hun hút dưới mặt đất. Nhiều công việc rất nặng nhọc, đơn điệu và gây buồn chán. Đó là thân phận con người chúng ta. Thánh Kinh viết rằng vì con người bất tuân phục nên phải đổ mồ hôi mới có cái ăn. Rồi trong quá trình canh tác trồng trọt, cũng vì sự bất tuân phục của con người mà mặt đất không dễ dàng sản sinh hoa trái cho họ (St 3, 17 – 19). Dù sao, đối với những con người lao động tín thác vào Thiên Chúa, những nỗi cố gắng nhọc nhằn của họ bao giờ cũng gắn liền với niềm vui sướng – vì họ biết rằng mình đang tham dự vào chính công trình của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo.

Đối với chúng ta là những Kitôhữu, Đức Giêsu là mẫu gương hoàn hảo và là nguồn cảm hứng cho công việc của chúng ta. Trong lao động, Đức Giêsu sống mối hiệp thông mật thiết với Cha trên trời. Vì thế, chúng ta cần phải nhìn ngắm cung cách làm việc hằng ngày của Đức Giêsu trong suốt những năm dài ở Na-da-rét. Đó là tấm gương tuyệt hảo cho tất cả chúng ta. Ngắm nhìn chàng thợ mộc ấy, chúng ta sẽ nhận được niềm phấn khởi và sự khích lệ lớn lao để kiên trung trong việc phục vụ nhỏ nhoi của mình – dù đó là ngành nghề gì đi nữa.

20 THÁNG GIÊNG
Chia Sẻ Trong Công Trình Cứu Chuộc

Chúng ta không được phép quên lý do tại sao Đức Giêsu đã đến làm người trên cõi đời này. Người đã đến để hoàn thành công trình cứu độ. Người đã hoàn thành bằng cách nào? Bằng đau khổ và cái chết của Người trên Thập Giá và bằng chiến thắng của Người nơi cuộc Phục Sinh vinh quang. Mọi lao động của con người, dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa, cũng đều tham dự vào công trình cứu độ này của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong thông điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp nhận những nỗi vất vả trong công việc của mình, trong niềm kết hiệp với Đức Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng tác – một cách nào đó – với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại; chúng ta đang chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta đang vác thập giá hằng ngày của mình qua công việc mà mình được mời gọi đảm nhận.” (Laborem exercens 27).

Giáo Hội cố gắng trung thành với mẫu gương và chứng tá của Đức Kitô bằng cách kiên thủ với nỗi quan tâm đến thiện ích của người lao động. Những thông điệp nổi tiếng của các giáo hoàng, bắt đầu với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô XIII, luôn luôn bênh vực quyền lợi về lương bổng và về điều kiện làm việc của người lao động.

Giáo huấn của Giáo Hội dựa trên nguyên tắc rằng mọi con người đều được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đều được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc đáo. Vì thế, cần phải bảo đảm rằng không ai bị sử dụng thuần túy như một phương tiện sản xuất, như kiểu một cỗ máy hay một con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi hệ thống xã hội và kinh tế dẫn đến tình trạng tước đoạt nhân tính của người lao động.
Bên cạnh mối quan tâm về điều kiện làm việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi rằng người lao động phải nhận được món tiền lương xứng đáng – một món tiền lương có tính đến các nhu cầu của gia đình họ nữa. “Đối với một người lao động trưởng thành có những trách nhiệm gia đình, thì một món tiền lương công bằng nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy trì một gia đình đúng phẩm giá và bảo đảm tương lai của gia đình ấy nữa” (Laborem exercens 19).

hongbinh
10-01-2013, 04:02 PM
21 THÁNG GIÊNG
Những Người Thất Nghiệp –
Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi

Tôi đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong các gia đình.
Chúng ta cần có những sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng, đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.

22 THÁNG GIÊNG
Tin Mừng Lao Động

Lao động, đó trước hết là một ơn gọi của con người. Lao động là dấu hiệu cho thấy bản tính của con người: những hữu thể có lý trí! Mỗi người đều được ban cho trí tuệ và ý chí. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa – và được mời gọi làm chủ mọi tạo vật.

Để đáp trả tiếng gọi này, chúng ta có mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu. Người đã lao động suốt ba mươi năm hàn vi ở thị trấn nghèo Na-da-rét, với Thánh Giu-se, trong nghề thợ mộc.

Ba mươi năm âm thầm này – và cái nghề rất đỗi khiêm hạ này trong cuộc đời của Đức Giêsu – có chất chứa một sứ điệp nào đó gọi mời chúng ta học hỏi. Ba mươi năm ấy, có thể nói, là trường đào tạo chàng trai Giê-su: càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, và càng dồi dào ân sủng. Con Thiên Chúa – là Con Người – đã đảm nhận lấy lao động, một loại lao động cơ bản, là chính tiếng gọi mà Thiên Chúa đã ủy trao cho con người ngay từ thuở ban sơ.

Ngôi nhà Na-da-rét ấy và xưởng mộc đơn sơ ấy của Thánh Giu-se và chàng trai Giêsu là trọng tâm và là tiêu điểm của Tin Mừng Lao Động. Mẫu gương lao động này muốn nhắc nhở chúng ta rằng điều thật sự đáng cho ta chú ý không phải là loại công việc được làm nhưng là chính những con người làm việc. Tiêu điểm ấy sẽ cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn về giá trị nhân bản và siêu nhiên của lao động.

23 THÁNG GIÊNG
Tôn Trọng Nhân Vị Con Người
Tại Môi Trường Lao Động

Nhãn quan Kitô giáo về thực tại tập chú trên con người và phẩm giá của con người xét như một ngôi vị được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định mạnh mẽ rằng nhân vị phải luôn luôn là mối ưu tiên đệ nhất trong lao động. Khẳng định ấy sẽ đưa ta tới một quan điểm hết sức quan trọng về đạo đức. Đành rằng quả thật con người được gọi và được định liệu để lao động; song, lao động tiên vàn là cho con người, chứ không phải con người cho lao động. Nói cho cùng, mọi loại lao động của con người – dù tầm thường hay đơn điệu đến mấy đi nữa – cũng luôn luôn nhận cứu cánh của nó là chính con người (Laborem exercens 6).
Toàn bộ cơ cấu lao động phải vận hành xoay quanh chiếc trục bản lề là chính con người. Lao động là thực tại cao quí. Nhưng con người còn cao quí hơn muôn muôn triệu lần. Con người là thiêng thánh. Và tính thiêng thánh này không thể bị xúc phạm. Dứt khoát phải tôn trọng nhân vị con người trong mọi môi trường lao động.

Tính thiêng thánh ấy là gốc rễ từ đó bật ra tất cả các quyền đặc biệt của con người. Bất cứ cảnh vực lao động nào muốn tạo lập một môi trường đạo đức lành mạnh đều phải tôn trọng nhãn giới ấy về con người.
Thật vậy, chất lượng luân lý và đạo đức của một doanh nghiệp – và thường kể cả mức hiệu năng của doanh nghiệp ấy trên thị trường nữa – được đo lường chính nơi thái độ của doanh nghiệp này đối với con người.

Công nghệ, tư bản, lợi nhuận, và tất cả những gì góp phần đem lại sự thành công về tài chánh đều được trân trọng và tưởng thưởng theo mức độ mà chúng tôn trọng phẩm giá con người trong môi trường lao động. Chúng phải luôn luôn lệ thuộc con người – và con người phải luôn luôn chiếm được sự quan tâm hàng đầu tại mọi môi trường lao động.

24 THÁNG GIÊNG
Sống Để Làm Việc –
Hay Làm Việc Để Sống?

Con người được mời gọi trân trọng phẩm giá của mình trong công việc mình làm.

Đáng tiếc, rất nhiều hiện trạng lao động dường như đang phản nghịch lại mục tiêu quan trọng ấy. Tình trạng làm việc quá nặng, quá căng thẳng, quá chú trọng đến tính ganh đua hay sức sản xuất của người công nhân, và rất nhiều những khía cạnh cơ giới hóa khác … đều đang nhất tề ‘thọc gậy bánh xe’! Nhiều khi chúng đi đến mức biến công việc thành chủ của con người chứ không phải con người làm chủ công việc.

Nhiều người bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình sống để làm việc chứ không phải là làm việc để sống.
Có người đã đặt câu hỏi với tôi: Phải đối phó thế nào với tình hình như vậy? Rõ ràng vấn đề có liên hệ đến người lao động, đến gia đình của họ và điều kiện làm việc của họ. Tôi tin rằng – một cách căn bản – tôi có thể chỉ ra câu trả lời cho vấn đề. Đó chính là một tuyên bố rất hàm súc của Công Đồng Vatican II: “Điều quan trọng hệ tại ở chỗ con người là gì chứ không phải ở chỗ con người có gì” (MV 35). Một châm ngôn đệ nhất!

Người ta phải không ngừng tự tra xét mình để hiểu sự thực mình là ai. Mỗi người phải lặn sâu xuống đáy lòng mình để khám phá sự thực về hướng đích của mình trong lao động. Phải nhận ra những giới hạn của mình và cố vượt qua chúng càng nhiều càng tốt. Phải nhận ra những khả năng của mình và làm cho chúng sinh hoa trái phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Càng nhận hiểu sự thực về mình, chúng ta sẽ càng hiểu hơn mình phải làm gì để quân bình và hòa điệu các quyền và các bổn phận của chúng ta trong tư cách là những con người .

Làm người – đó phải là nền tảng để đánh giá cả những gì mình làm lẫn những gì mình có. Đó là điểm qui chiếu mà mọi hoạt động của chúng ta phải hướng về. Đó là cơ sở để bảo đảm mối thống nhất trong chính con người chúng ta. Mọi khía cạnh của con người phải hòa hợp chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, những trách nhiệm mà người công nhân đảm nhận ở sở làm phải giúp cho người ấy trưởng thành hơn trong đời sống gia đình cũng như trong sự đóng góp của đương sự đối với cộng đồng.

25 THÁNG GIÊNG
Gia Đình Và Lao Động –
Tìm Sự Cân Đối Thích Đáng

Tôi biết có nhiều doanh nghiệp được điều hành bởi các gia đình. Bổn phận nuôi dưỡng gia đình qua việc đáp ứng các nhu cầu nhân văn và xã hội của nó là một chủ đề thường xuyên được nhắc đến trong giáo huấn của Giáo Hội. Kể từ Đức Lê-ô XIII, ý niệm về lương bổng luôn luôn được gắn kết với tầm mức của gia đình người lao động – nhằm đáp ứng những đòi hỏi của công bằng. Cũng có thể nói tương tự như thế về bất cứ lãnh vực nào khác trong đời sống xã hội.

Trong Thông Điệp Laborem exercens, tôi đã nhấn mạnh đến điểm cốt lõi của mối tương quan giữa gia đình và lao động: “Gia đình vừa là một cộng đồng được tồn tại nhờ lao động vừa là trường dạy lao động tiên quyết cho mọi con người” ( Số 10). Cũng trong thông điệp ấy, tôi đã ghi nhận cảm thức ngày càng tăng về tính khẩn thiết của vai trò người mẹ. “Trong thời đại chúng ta, xã hội đang có một sự đánh giá lại đối với các công việc của người mẹ, về những vất vả của các bà mẹ, và về nhu cầu cần được yêu thương và được chăm sóc của trẻ em – để chúng có thể lớn lên trở thành những con người có ý thức trách nhiệm, những con người trưởng thành về đạo đức và quân bình về tâm lý” (Số 19).

Mối gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và lao động càng làm nổi bật lên sự thật rằng con người làm việc để sống. Sự mệt mỏi thể xác và tâm thần – xét như hệ quả của lao động – là một phần của chính sự sống. Và sự sống của con người thì thánh thiêng. Đức tin bảo với chúng ta rằng sự sống này là một món quà rất đỗi lớn lao của Thiên Chúa.

Chúng ta phải tuyệt đối trân trọng sự sống ngay từ lúc bắt đầu là bào thai trong lòng người mẹ cho tới cái chết tự nhiên. Mầm sống đầu tiên cũng thánh thiêng như hơi thở cuối cùng. Cả hai đều cần phải được kính trọng và chăm sóc hết mức.

26 THÁNG GIÊNG
Nạn Thất nghiệp – Một Tai Ương Xã Hội

Con người luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây trước tình hình này?

Cần phải nhận ra rằng tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động) là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’ của mình.

Chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.

Trong công cuộc tìm kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.

27 THÁNG GIÊNG
Bảo Vệ Quyền Lợi Người Lao Động
Trong Thời Đại Tự Động Hóa

Hiểu được giá trị trỗi vượt của con người trong môi trường lao động, chúng ta thấy rõ rằng con người không thể bị hy sinh để phục vụ cho hiệu năng của tự động hóa. Vâng, các môi trường lao động hiện đại phải hết sức lưu tâm để bảo vệ quyền làm việc của con người – bằng cách chỉ triển khai loại thay đổi này (tức tự động hóa) sau khi đã vạch kế hoạch kỹ lưỡng. Với thiện chí và với sự tiên lượng tốt, chúng ta có thể giúp cho nhiều người trong số những kẻ mất việc làm do sự thay đổi công nghệ được đào tạo lại và được tái thu dụng vào lực lượng lao động.

Trong tình hình như vậy, ý nghĩa đích thực của nhân vị và của phẩm giá con người phải là mối ưu tiên hàng đầu trong bất cứ trường hợp nào liên can đến sự thu dụng hay chuyển đổi chỗ làm của người lao động. Những người chủ việc phải cố gắng đứng ở vị trí bảo vệ quyền làm việc thích đáng cho mọi công nhân của mình. Tôi đặc biệt đề xuất điều này với các tổ chức công đoàn – là những tổ chức có bổn phận bênh vực quyền lợi của người công nhân. Các công đoàn không thể giới hạn tầm nhìn của mình nơi chỉ một loại công nhân nào đó, nhưng cần phải quan tâm đến phẩm giá của mọi người trong môi trường lao động.

28 THÁNG GIÊNG
Làm Việc Là Một Quyền Căn Bản

Tầm mức toàn cầu của vấn đề lao động đang thúc bách chúng ta phải khẩn trương làm một cái gì đó. Không thể chần chừ thêm nữa. Đó là một trong những quan điểm của Thông Điệp Laborem exercens, cũng đồng nhịp với nhu cầu cần phải có những sự cộng tác quốc tế thông qua những hiệp ước và những bản thỏa thuận. “Căn bản của những hiệp ước này phải nhắm đến việc liệu sao cho có thêm việc làm cho người ta. Quyền làm việc là quyền căn bản của mọi người, và những người cùng làm việc như nhau phải được hưởng thù lao tương ứng với nhau. Phải liệu sao cho mức sống của người lao động trong mọi xã hội có thể bớt bộc lộ những sự chênh lệch khủng khiếp về mức lương bổng – là điều vốn bất công và thậm chí có thể châm ngòi cho những phản ứng bạo động” (Số 18). Vì thế, ở đây các nhà lãnh đạo quốc gia phải đứng trước một công cuộc có qui mô rất lớn.

Bản thân người lao động cũng có thể đóng góp vào công cuộc lớn lao này, bằng cách hiện diện trong những tổ chức quốc tế nơi mà họ có một tiếng nói đầy sức tác động, chẳng hạn Tổ Chức Lao Động Quốc Tế.
Trong phạm vi quốc gia mình, người lao động được kỳ vọng tác động vào công luận. Tại những nước dân chủ, điều đó có thể góp phần tạo ra những chính sách đặt nền tảng không phải trên sự phân biệt đối xử nhưng là trên cơ sở rằng người ta có quyền được nuôi sống chính mình và gia đình mình một cách thích đáng. Chúng ta phải nắm vững nhãn quan này về thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại, một nhãn quan đòi hỏi chúng ta phải vượt qua những sự chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia – về vấn đề việc làm và về tiềm lực kinh tế.

29 THÁNG GIÊNG
Làm Việc – Con Đường Nên Thánh

Trong đời sống, rõ ràng có một bậc thang các giá trị. Chúng ta đề cao lao động. Đúng. Chúng ta đề cao con người hơn, trong quan hệ với lao động. Điều này thậm chí càng đúng hơn. Nhưng con người cần một cái gì đó vượt quá chính mình. Con người cần cơm bánh hằng ngày, vâng, nhưng con người không sống duy chỉ nhờ vào cơm bánh.
Con người luôn luôn được nội tâm mình thôi thúc kiếm tìm một cái gì đó khác. Những kho báu giấu ẩn trong thâm sâu cõi lòng con người thật nhiều vô kể. Lương thức, mỹ cảm, lòng quảng đại, hoài niệm, hy vọng, thao thức về huyền nhiệm, cảm thức đạo đức và luân lý, khát vọng công lý, khát vọng tự do, khả năng liên đới và cộng tác … – tất cả những điều ấy tiềm ẩn trong sâu thẳm trái tim con người.

Càng vượt qua chính mình hơn, con người càng trở thành ‘người’ hơn. Đó chính là chân trời của những giá trị tâm linh. Những giá trị ấy vượt ngoài kinh nghiệm giác quan và tạo thành thế giới siêu nhiên.

Như vậy, những suy tư của tôi hôm nay lại trở về với cốt lõi của Tin Mừng lao động. Khi Giáo Hội sát cánh với người lao động và khi Giáo Hội nỗ lực thăng tiến phẩm giá của họ – không phân biệt chủng tộc, niềm tin, giai cấp – thì đấy là Giáo Hội đang thực thi sứ mạng được Đức Kitô trao phó cho mình. Đức Kitô đã và vẫn đang tiếp tục là đồng minh và là trạng sư vĩ đại nhất của con người. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta – như ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính – Người đã từ trời xuống thế để làm một con người ở giữa chúng ta.

Bất cứ ai tin vào Người sẽ tìm thấy ánh sáng soi dẫn mình tại mỗi bước quặt cuộc đời. Dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô, lao động là một con đường hoàn thiện nhân bản và là một tiếng gọi siêu nhiên. Đó là một con đường nên thánh.
Ngày nay, sau Công Đồng, người giáo dân Công Giáo chúng ta đạt được một bước trưởng thành hơn, và chiều kích tâm linh của lao động cũng được nhận thức nhiều hơn. Đó là một linh đạo phải được đào sâu thêm mãi qua việc nỗ lực xây dựng tình huynh đệ chân thành đích thực, và qua việc nỗ lực làm thấm nhập ơn bình an của Đức Kitô vào môi trường lao động.

30 THÁNG GIÊNG
Kỹ Thuật: Đồng Minh Hay Kẻ Thù?

Kỹ thuật và những máy móc tinh xảo là những sản phẩm và là công cụ của lao động con người. Chủ thể thật sự của lao động vẫn là chính con người. Không bao giờ một công cụ lại có thể được nâng lên hàng chủ thể. Nó không thể được đặt trên người lao động hay người sử dụng nó – bởi vì nếu làm thế, trật tự của thực tại đã bị đảo lộn. Đó sẽ là điều không may. Phương tiện và cứu cánh của lao động đã bị xáo trộn!

Kinh nghiệm hiện đại cho thấy rằng sự áp dụng kỹ thuật – một khi không được hướng dẫn và được soi sáng bởi một trật tự đạo đức cao hơn – có thể trở thành một kẻ thù thay vì là một đồng minh của con người. Một ví dụ của điều này đó là khi sự tự động hóa trong công nghiệp hất cẳng con người, tước đi chỗ làm của nhiều người lao động. Một ví dụ khác: những trường hợp máy móc được đề cao và con người bị hạ xuống chỉ còn là một cái gì đó phục vụ cho máy móc (Laborem exercens 5).
Chúng ta được mời gọi làm chủ trái đất và làm chủ những sự thay đổi – chứ không phải phó mặc cho nó thống trị mình. Chỉ có thể làm chủ được như vậy nếu chúng ta vượt qua được sự đứt đoạn giữa đạo đức và kinh tế – chính sự đứt đoạn này đã làm cho những thành tựu ngoạn mục của thời hiện đại không thể phục vụ hoàn toàn cho thiện ích của con người.

31 THÁNG GIÊNG
Hợp Tác Và Liên Đới

Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem exercens 6).

Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.

Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.

Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).

Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).
Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.

Sưu Tầm