hongbinh
11-01-2013, 04:04 PM
Hạnh Các Thánh - Tháng 01
1/1 – Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa
Thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa mở rộng điểm nổi bật của lễ Giáng sinh. Đức Maria có vai trò quan trọng trong Mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Mẹ chấp nhận lời mời gọi của sứ thần bằng tiếng “xin vâng” (x. Lc 1:26-38). Thánh Êlidabét tuyên xưng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43). Vai trò là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt Mẽ vào vị trí độc nhất trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
.
Không nói rõ tên Maria, nhưng thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-5). Điều đó giúp chúng ta nhận ra Đức Maria là Mẹ của mọi anh chị em của Chúa Giêsu – tức là chúng ta.Một số thần học gia cho rằng cương vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria là yếu tố quan trọng trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ý nghĩ “đầu tiên” của Thiên Chúa trong việc sáng tạo là Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng có thể yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa một cách hoàn hảo thay cho mọi thụ tạo. Chúa Giêsu là “người đầu tiên” trong ý nghĩ của Thiên Chúa, Đức Mẹ là “người thứ nhì” được tuyển chọn từ đời đời để làm Mẹ của Ngài.
Danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” xuất hiện từ thế kỷ III hoặc IV. Theo tiếng Hy Lạp Theotokos(người mang Thiên Chúa), trở nên tiêu chuẩn (touchstone) của giáo huấn Giáo hội về Mầu nhiệm Nhập thể. The Công đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotokos. Khi bế mạc công đồng này, nhiều người đã diễu hành và hô to: “Tôn vinh Đấng Theotokos!”. Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria trong Giáo hội, Dogmatic Constitution on the Church (Hiến chế về Giáo hội), Công đồng Vatican II đã tôn xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” 12 lần.
2/1 – Thánh Basiliô Cả, Giám mục (329-379)
Ngài là thầy dạy nổi tiếng khi quyết định sống đời tu theo tinh thần nghèo khó Phúc âm. Sau khi nghiên cứu nhiều cách tu, ngài phát hiện điều mà có thể là tu viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài là tu sĩ của Đông phương, thánh Bênêđictô là tu sĩ của Tây phương, và tu luật của ngài ảnh hưởng đời đan tu Tây phương ngày nay.
Ngài thụ phong linh mục, giúp Đức TGM ở Caesarea (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), và rồi chính ngài được bổ nhiệm TGM, dù bị chống đối từ một số giám mục phó, có thể do họ đoán trước có sự cải cách.Một trong các tà thuyết làm tổn hại Giáo hội là Arian (*). Hoàng đế Valens đã bách hại các tín đồ Chính thống giáo, gây áp lực với thánh Basiliô phải im lặng và chấp nhận cho những người theo tà thuyết được hiệp thông. Ngài cương quyết từ chối, Valens thoái lui. Nhưng rắc rối vẫn còn. Khi thánh Athanasiô qua đời, thánh Basiliô phải đảm trách việc chống lại tà thuyết Arian. Ngài bị hiểu lầm, bị xuyên tạc, bị kết tội theo tà thuýet và tham vọng. Khi được triệu hồi để gặp ĐGH, ngài không biện hộ mà chỉ nói: “Tội của con là có vẻ đã không thành công trong mọi việc”.
Ngài không biết mệt mỏi trong việc mục vụ. Mỗi ngày ngài giảng 2 lần trước rất nhiều người, xây dựng bệnh viện được gọi là kỳ công thế giới (khi giới trẻ tổ chức cứu trợ) và chống mại dâm.
Ngài là nhà hùng biện. Các bài viết của ngài, dù không được chấp nhận khi ngài sinh thời, nhưng sau được coi là những giáo huấn tuyệt vời của Giáo hội. Sau khi ngài qua đời được 72 năm, Công đồng Chalcedon tôn vinh ngài là “Thánh Basiliô Cả”, là “thừa tác viên của ân sủng đã giải thích chân lý cho toàn thế giới”.
----------------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
3/1 – Kính Thánh Danh Chúa GiêsuChữ IHS được viết tắt từ chữ Jesous, tên bằng tiếng Hy Lạp dành cho Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (x. Pl 2:9-11). Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu phổ biến trong các đan viện Xitô (Cistercians) từ thế kỷ XII, nhất là qua giáo huấn của thánh Bernardine Siena, tu sĩ Dòng Phanxicô hồi thế kỷ XV.
Thánh Bernardine dùng lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là cách vượt qua những cuộc chiến gian lao và thường đổ máu, chống lại sự kình địch gia đình hoặc mối thù truyền kiếp (vendettas) ở Ý. Lòng sùng kính này phát triển, một phần do các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa Minh, thậm chí phát triển rộng rãi hơn sau khi các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu truyền bá từ thế kỷ XVI.
Năm 1530, ĐGH Clementô V phê chuẩn Lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu cho các tu sĩ Dòng Phanxicô. Năm 1721, ĐGH Innocent XIII mở rộng lễ này cho Giáo hội toàn cầu.
4/1 – Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821)
Bà là một trong các nhân vật chính của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ. Bà thành lập Dòng Nữ tử Bác ái (Sisters of Charity), dòng nữ đầu tiên của Mỹ. Bà còn mở một trường Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên và thành lập Viện Mồ côi Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên. Đó là những việc bà làm trong cuộc đời chỉ 46 năm trong khi phải nuôi dạy 5 đứa con.
Bà sinh ngày 28-8-1774, chỉ 2 ngày trước ngày tuyên bố bản Tuyên ngôn Độc lập. Bà được giáo dục bởi người mẹ ruột và mẹ kế đều theo Giáo hội Tân giáo (Episcopalian), bà học được giá trĩ của sự cầu nguyện, Kinh thánh và xét mình mỗi đêm. Người cha là bác sĩ Richard Bayley, ông không quan tâm việc đến nhà thờ nhưng ông sống rất nhân bản, ông dạy con gái mình sống yêu thương và phục vụ người khác.
Người mẹ qua đời sớm vào năm 1777, cái chết của em gái bà năm 1778 đã cho bà cảm giác về sự vĩnh hằng và sự tạm bợ của đời sống trần gian. Lúc 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của TP New York và kết hôn với một thương gia giàu có và điển trai là William Magee Seton. Người chồng qua đời vì bệnh lao phổi. Elizabeth trở thành góa phụ khi mới 30 tuổi, nghèo kiết xác mà phải một mình nuôi 5 con.
Có 3 điểm cơ bản khiến bà theo Công giáo: Tin vào sự hiện hữu thật của Thiên Chúa, sùng kính Mẹ Maria và tin rằng người Công giáo được gặp lại Đức Kitô. Nhiều người phản đối bà khi bà theo Công giáo hồi tháng 3-1805
.
Để kiếm tiền nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Từ đầu, nhóm của bà theo luật dòng tu, chính thức khai giảng năm 1809. Cả ngàn lá thư của bà cho biết việc phát triển đời sống tâm linh từ những điều tốt hàng ngày tới sự thánh thiện anh dũng. Bà chịu bệnh tật, bị hiểu lầm, mất người thân (chồng và 2 con gái), và khổ sở vì cậu con trai ngỗ nghịch. Bà qua đời ngày 4-1-1821, được an táng tại Emmitsburg, Maryland. Bà là người Mỹ đầu tiên được phong chân phước (năm 1963) và được phong thánh (năm 1975).
5/1 – Thánh John Neumann, Giám mục (1811-1860)
Thánh John Neumann sinh ở nơi mà nay là Cộng hòa Séc. Sau khi học ở thủ đô Prague, ngài đến New York lúc 25 tuổi và được thụ phong linh mục. Ngài truyền giáo ở New York tới lúc 29 tuổi, ngài vào Dòng Chúa Cứu Thế, trở nên thành viên đầu tiên tuyên khấn tại Hoa Kỳ. Ngài tiếp tục truyền giáo ở Maryland, Virginia và Ohio, và trở nnê nổi tiếng đối với người Đức.Lúc 41 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm giám mục GP Philadelphia. Ngài tổ chức hệ thống trường của các giáo xứ vào hệ thống giáo phận, tăng số học sinh gần gấp 20 lần chỉ trong thời gian ngắnNgài có biệt tài về tổ chức, ngài thu hút nhiều dòng tu nam nữ chuyên về giáo dục. Ngài có tiếng thánh thiện và giỏi, có những bài viết và bài giảng tâm linh hay. Ngày 13-10-1963, ngài là giám mục Mỹ đầu tiên được phong thánh. Ngài được phong thánh năm 1977. Thi hài ngài được an táng tại Nhà thờ Thánh Phêrô Tông đồ ở Philadelphia.
6/1 – Thánh Grêgôriô Nazianzen (329-390)
Sau khi được rửa tội ở tuổi 30, Grêgôriô vui vẻ nhận lời mời của người bạn Basiliô gia nhập dòng mới thành lập. Cuộc sống tĩnh mịch của ngài bị “phá rối” khi cha ngài, một giám mục, cần ngài giúp giáo phận. Có lẽ ngài thụ phong linh mục do bị bắt buộc, và miễn cưỡng lãnh trach nhiệm. Ngài khôn khéo né tránh ly giáo khi cha ngài thỏa hiệp với tà thuyết Arian (*). Lúc 41 tuổi, ngài được chọn làm giám mục phó của GP Caesarea, và rồi ngài xung khắc với hoàng đế Valens – người ủng hộ tà thuyết Arian. TGM Basiliô sai ngài tới một thành phố nghèo ở biên giới được phân chia bất công trong giáo phận của ngài. TGM Basiliô khiển trách GM phó Grêgôriô không đến tòa giám mục.
Khi Valens qua đời, Arian không còn người ủng hộ, GM phó Grêgôriô được kêu gọi củng cố đức tin ở tòa giám mục Constantinople, nơi bị những người theo tà thuyết Arian chiếm giữ suốt 30 năm. Lần đầu tiên ngài ở nhà người bạn, nơi trở thành nhà thờ Chính thống giáo duy nhất trong thành phố. Tại môi trường như vậy, ngài bắt đầu giảng những bài hùng hồn về Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) và khiến ngài nổi tiếng. Ngài củng cố đức tin trong thành phố, nhưng phải chịu nhiều đau khổ, bị vu cáo, bị lăng nhục và thậm chí bị bạo hành cá nhân.
Ngài sống những ngày cuối đời trong cô tịch và khổ hạnh. Ngài làm thơ tôn giáo, có những bài tự truyện, nói về vẻ thâm sâu và vẻ đẹp. Ngài được gọi là “thần học gia”.
------------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
7/1 – Thánh Râymunđô Penyafort, Linh mục (1175-1275)
Thánh Râymunđô có cơ hội làm nhiều việc. Với tư cách là thành viên trong giới quý tộc Tây ban nha, ngài có tài sản và học thức để khởi đầu tốt về cuộc sống. Lúc 20 tuổi, ngài dạy triết học. Mới ngoài 30 tuổi, ngài có học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Lúc 41 tuổi, ngài trở thành tu sĩ Đa Minh. ĐGH Gregôriô IX mời ngài tới Rôma làm việc và là người giải tội cho ĐGH. Một trong các việc ĐGH bảo ngài làm là tập hợp các sắc lệnh của các ĐGH và các Công nghị trong 80 năm qua trong khi Gratian làm một sưu tập tương tự. Thánh Râymunđô soạn thảo 5 cuốn sách gọi là các sắc lệnh (Decretals). Bộ sách này được coi là một trong các bộ sưu tập tốt nhất về Giáo luật cho đến khi biên soạn bộ Giáo luật mới năm 1917.
Thánh Râymunđô đã viết một cuốn sách về các trường hợp cho các cha giải tội. Sách này có tên làSumma de casibus poenitentiae. Không chỉ danh sách các tội và các việc đền tội, sách còn bàn về học thuyết thích hợp (pertinent doctrines) và Giáo luật liên quan vấn đề hoặc trường hợp xảy ra với cha giải tội. Lúc 60 tuổi, thánh Râymunđô được bổ nhiệm Tổng giám mục giáo phận Tarragona, thủ đô Aragon. Ngài không thích danh tiếng chút nào, ngài bị bệnh rồi từ chức trong vòng hai năm. Ngài vẫn không được yên, vì khi ngài 63 tuổi lại được các tu sĩ Dòng Đa Minh bầu làm giám tỉnh toàn dòng, kế vị thánh Đa Minh. Thánh Râymunđô làm việc cần mẫn, đi bộ đến thăm các tu sĩ Đa Minh, tái tổ chức hiến pháp và hoàn tất điều khoản về việc từ chức của các Tu viện trưởng. Khi hiến pháp mới được phê chuẩn, thánh Râymunđô xin từ chức, khi đó ngài 65 tuổi.
Thánh Râymunđô có 35 năm chống dị giáo và làm việc để người Moors ở Tây ban nha trở lại đạo. Chính ngài đã thuyết phục thánh Thomas Aquinas viết tác phẩm Against the Gentiles (Chống Dân Ngoại).
8/1 – Chân phước Angela Foligno (1248-1309)
Một số các thánh cho thấy các dấu hiệu thánh thiện rất sớm. Nhưng Angela thì không! Xuất thân từ một gia đình thế lực ở Foligno, bà chìm đắm suy tư và của cải và vị thế xã hội. Khi làm vợ và làm mẹ, bà tiếp tục cuộc sống suy tư này. Khoảng năm 40 tuổi, bà nhận thấy sự trống rỗng của cuộc sống và bà tìm sự giúp đỡ của Thiên Chúa qua bí tích Hòa giải. Linh mục Dòng Phanxicô giải tội và giúp bà tìm kiếm sự tha thứ của Thiên Chúa đối với cuộc sống trước đó và bà tận hiến cuộc đời chuyên chăm cầu nguyện và làm việc từ thiện.Không lâu sau khi trở lại đạo, chồng và các con bà đều qua đời. Bán hầu hết tài sản, bà vào Dòng Ba Phanxicô. Bà bị thu hút bởi việc suy niệm về Chúa Giêsu bị đóng đinh nhờ việc giúp đỡ người nghèo ở Foligno với tư cách là y tá và đi xin người khác giúp đỡ họ. Các phụ nữ khác cùng bà làm thành một cộng đoàn tôn giáo.
Theo lời khuyên của cha giải tội, Angela viết cuốn Book of Visions and Instructions (Thị kiến và Hướng dẫn). Trong đó bà nhớ lại một số cám dỗ mà bà đã chịu sau khi trở lại đạo; bà cũng diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa về việc nhập thể của Chúa Giêsu. Cuốn sách này và cuộc đời bà khiến bà được tôn phong danh hiệu “sư phụ của các thần học gia”. Bà được tôn phong chân phước năm 1693.
9/1 – Thánh Adrian Canterbury, Viện phụ (qua đời năm 710)
Thánh Adrian từ chối chức TGM của TGP Canterbury, Anh quốc, thánh GH Vitalian chấp nhận nhưng với điều kiện Adrian phải làm phụ tá và cố vấn cho Đức giáo hoàng. Adrian đồng ý, nhưng ngài vẫn dành nhiều phần đời và làm việc tại Canterbury.
Ngài sinh tại Phi châu, làm tu viện trưởng ở Ý khi TGM mới của TGP Canterbury bổ nhiệm ngài làm tân ước viện trưởng tu viện Thánh Phêrô và Phaolô ở Canterbury. Nhờ khả năng lãnh đạo, tu viện trở nên một trong những trung tâm học tập. Trường này thu hút nhiều học giả danh tiếng ở xa và đào tạo được nhiều giám mục và tổng giám mục. Các học sinh học tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, đồng thời nói tiếng Latin như tiếng mẹ đẻ.
Ngài dạy ở trường này 40 năm. Ngài qua đời tại trường này, có thể vào năm 710, và được an táng tại tu viện này. Vài trăm năm sau, di hài ngài được phát hiện khi trùng tu tu viện. Người ta đổ xô đến quanh mộ ngài, và nhiều phép lạ đã xảy ra.
10/1 – Thánh Grêgôriô Nyssa, Giám mục (khoảng năm 330-395)
Thánh Grêgôriô Nyssa là con trai của hai thánh Basiliô và Emmilia, ngài được người anh nuôi dưỡng, đó là thánh Basiliô Cả. Thành công của ngài về học hành khiến tương lai đầy hứa hẹn. Khi làm giáo sư tu từ học, ngài được thuyết phục sống cho giáo hội. Ngài đã kết hôn, nhưng ngài được học để làm linh mục và thụ phong linh mục (thời đó chưa có luật độc thân đối với linh mục).
Ngài được bổ nhiệm Giám mục giáo phận Nyssa (thuộc đồng bằng Armenia) năm 372, thời kỳ rất căng thẳng đối với tà thuyết Arian (thuyết này phủ nhận thiên tính của Chúa Giêsu). Sau khi bị bắt và bị kết tội biển thủ ngân quỹ giáo hội, nhưng rồi ngài được phục chức năm 378.
Ngài viết nhiều tài liệu chống tà thuyết Arian và giáo lý, có tiếng là người bảo vệ tính chính thống của giáo hội. Ngài được sai đi đối thoại với các tà thuyết và tổ chức Công đồng Constantinople. Ngài không được coi là cột trụ của tính chính thống nhưng là một trong những người có công lớn đối với truyền thống thần bí về tâm linh và đời sống tu trì.
11/1 – Chân phước William Carter, Tử đạo (qua đời năm 1584)
Ngài sinh tại London, học nghề ấn loát từ lúc nhỏ. Ngài học việc nhiều năm ở các nhà in Công giáo nổi tiếng, một trong các chủ nhà in bị tù vì kiên quyết giữ đức tin Công giáo. Chính William cũng bị tù một thời gian sau khi bị bắt vì “tội” in ấn các sách Công giáo.
Nhưng ngài vẫn xuất bản những sách giúp người Công giáo giữ vững đức tin. Người ta khám nhà ngài và phát hiện nhiều sách và trang phục khả nghi. Qua 18 tháng kế tiếp, ngài vẫn bị tù, bị hành hạ và biết vợ mình đã bị sát hại.
Rồi chính ngài bị kết tội in ấn và xuất bản cuốn Treatise of Schism (Luận thuyết Ly giáo), sách này bị coi là người Công giáo khuyến khích bạo động và bị coi là được viết bởi những người phản bội. Khi ngài vẫn âm thầm tín thác vào Chúa, tòa án đã hội thẩm 15 phút trước khi tuyên án ngài có tội. Ngài xưng tội lần cuối với một linh mục cùng bị xử tử với ngài, ngài bị treo cổ, rồi bị phanh thây ngày 11-1-1584. Ngài được Chân phước GH Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1987.
12/1 – Thánh Marguerite Bourgeoys (1620-1700)
Bà là con thứ 6 trong 12 anh chị em của một gia đình ở Troyes, Pháp. Lúc 20 tuổi bà tin rằng bà có ơn gọi tu trì. Bà xin vào Dòng Kín và Dòng Thánh Clara nhưng đều bị từ chối. Một linh mục gợi ý rằng có thể Thiên Chúa có kế hoạch khác đối với bà.
Năm 1654, hội định cư người Pháp ở Canada đến thăm chị của bà, một nữ tu Dòng Thánh Augustinô ở Troyes. Bà được mời tới Canada và trường học ở Ville-Marie (nay là TP Montreal). Khi bà đến nơi, khu kiều dân có 200 người với một bệnh viện và một nhà nguyện truyền giáo của Dòng Tên.
Ngay sau khi bắt đầu tới trường học, bà thấy cần người hợp tác. Bà trở về Troyes rủ thêm người bạn là Catherine Crolo và 2 phụ nữ trẻ khác. Năm 1667, họ mở thêm lớp tại trường cho trẻ em Ấn Độ. Ba năm sau bà tới Pháp lần thứ hai, tìm thêm 6 phụ nữ trẻ nữa và được vua Louis XIV cho phép mở trường học. Dòng Đức Bà được thành lập năm 1676 nhưng các nữ tu mãi đến năm 1698 mới tuyên khấn vĩnh viễn khi luật dòng và hiến pháp được phê chuẩn.
Thánh Marguerite mở một trường học cho các em gái Ấn Độ ở Montreal. Lúc 69 tuổi, bà rời Montreal tới Quebec theo yêu cầu của Đức giám mục là thành lập một dòng nữ ở thành phố này. Lúc đó, bà qua đời, bà được coi là “Mẹ của Kiều dân”. Bà được Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh năm 1982.
13/1 – Thánh Hilariô, Giám mục Tiến sĩ Giáo hội (315?-368)
Thánh Hilariô là người bảo vệ trung thành thần tính của Đức Kitô, là người ôn hòa và lịch sự, ngài còn viết một số sách thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, và như Thầy Chí Thánh của mình, ngài được gán cho biệt danh “người phá rối hòa bình”. Trong chính thời kỳ rắc rối của Giáo hội, sự thánh thiện của ngài thể hiện cả về sự uyên bác và cách tranh luận.
Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, lúc 30 tuổi ngài trở lại Công giáo khi ngài nhận ra Chúa qua Kinh thánh. Vợ ngài còn sống khi ngài được chọn làm Giám mục giáo phận Poitiers (Pháp), dù ngài không muốn. Ngài chống lại tà giáo Arian hồi thế kỷ thứ IV, tà giáo Arian từ chối thần tính của Đức Kitô.
Tà giáo này lan rộng mau chóng. Thánh Giêrônimô nói: “Thế giới rên rỉ và ngạc nhiên khi thấy có tà thuyết Arian”. Khi hoàng đế Constantius ra lệnh các Giám mục Tây phương phải ký tên vào bản kết án thánh Athanasiô, người bảo vệ đức tin ở Đông phương, thánh Hilariô không chịu ký nên bị trục xuất khỏi Pháp và bị đày đi Phrygia (ngày nay là Thổ nhĩ kỳ). Ngài được gọi là “Athanasiô của Tây phương”. Khi viết trong thời gian lưu đày, ngài được những người theo tà giáo Arian mời (với hy vọng hòa giải) tham dự hội đồng mà hoàng đế kêu gọi để phản đối Công đồng Nicê. Nhưng thánh Hilariô cương quyết bảo vệ Giáo hội, và khi ngài tranh luận công khai với một Giám mục theo tà giáo Arian (người đã bắt thánh Hilariô đi đày), mọi người đều kinh ngạc, yêu cầu hoàng đế đưa kẻ gây rối này trở về. Thánh Hilariô được mọi người đồng tình.
14/1 – Tôi tớ Chúa Gioan, người làm vườn (qua đời năm 1501)
Gioan sinh trưởng trong một gia đình ngheo ở Bồ đào nha. Mồ côi sớm, ngài phải đi ăn xin một số năm. Sau khi có việc làm ở ở Tây ban nha là chăn chiên, ngài chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình với những người nghèo khổ hơn mình. Một hôm, hai tu sĩ dòng Phan sinh gặp Gioan trên đường đi. Khi nói chuyện, hai tu sĩ này thấy quý mến một con người đơn giản và mời Gioan đến làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Gioan chấp nhận và được phân công làm vườn. Một thời gian sau, Gioan đã nhập dòng Phan sinh và sống cuộc đời chiêm niệm, ăn chay, dành thời gian ban đêm để cầu nguyện, và giúp đỡ người nghèo. Vì công việc của ngài là làm vườn và chăm sóc hoa để cắm trên bàn thờ, ngài nổi tiếng với danh xưng “người làm vườn”.
Thiên Chúa ban cho Gioan tài nói tiên tri và và biết rõ tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng tử, cũng đến với ngài để xin lời khuyên. Ngài là người khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời. Ngài yêu thương cả những người muốn chống đối ngài. Lời khuyên của ngài là tha thứ vì đó là hành động đẹp lòng Chúa nhất. Ngài đã tiên báo đúng ngày ngài qua đời: 11-1-1501.
15/1 – Thánh Phaolô, Ẩn tu (khoảng năm 233-345)
Chúng ta không biết rõ về cuộc đời thánh Phaolô, bao nhiêu phần là truyền thuyết và bao nhiêu phần là thật. Thánh Phaolô được coi là sinh ở Ai cập, mồ côi lúc 15 tuổi. Ngài là một người trẻ thông thái và sốt sáng. Trong thời Decius bách đạo ở Ai cập, năm 250, thánh Phaolô ở ẩn trong nhà một người bạn. Sợ anh (em) rể phản bội, ngài trốn vào hang trong hoang địa. Ngài có ý định trở về khi cuộc bách đạo chấm dứt, nhưng cuộc sống cô tịch và chiêm niệm đã níu kéo ngài ở lại. Ngài đã sống ẩn dật trong hang suốt 90 năm sau. Nguồn suối gần đó cho ngài nước uống, cây cọ cho ngài quần áo và đồ ăn. Sau 21 năm sống ẩn dật, ngài được một con chim hằng ngày đem đến nửa ổ bánh cho ngài dùng. Không biết chuyện gì xảy ra trên thế giới, ngài cầu nguyện cho thế giới trở nên nơi tốt đẹp hơn.
Thánh Anthony làm chứng về cuộc đời thánh thiện và cái chết của thánh Phaolô. Bị cám dỗ bởi tư tưởng là không ai lại phụng sự Thiên Chúa ở nơi hoang địa lâu hơn mình, thánh Anthony được Thiên Chúa dẫn đi tìm thánh Phaolô và nhận thấy Phaolô là người hoàn hảo hơn mình. Hôm đó, con quạ đã đem đến cho ngài cả ổ bánh chứ không chỉ nửa ổ bánh như thường ngày. Như thánh Phaolô tiên báo, thánh Anthony đã trở lại chôn cất người bạn mới của mình. Thánh Phaolô mất lúc khoảng 112 tuổi và được coi là thánh ẩn tu đầu tiên. Lễ kính ngài được cử hành ở Đông phương, ngài cũng được nhớ đến trong nghi lễ Coptic (thuộc Ai cập) và Armenia.
1/1 – Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa
Thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa mở rộng điểm nổi bật của lễ Giáng sinh. Đức Maria có vai trò quan trọng trong Mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Mẹ chấp nhận lời mời gọi của sứ thần bằng tiếng “xin vâng” (x. Lc 1:26-38). Thánh Êlidabét tuyên xưng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43). Vai trò là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt Mẽ vào vị trí độc nhất trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
.
Không nói rõ tên Maria, nhưng thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-5). Điều đó giúp chúng ta nhận ra Đức Maria là Mẹ của mọi anh chị em của Chúa Giêsu – tức là chúng ta.Một số thần học gia cho rằng cương vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria là yếu tố quan trọng trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ý nghĩ “đầu tiên” của Thiên Chúa trong việc sáng tạo là Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng có thể yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa một cách hoàn hảo thay cho mọi thụ tạo. Chúa Giêsu là “người đầu tiên” trong ý nghĩ của Thiên Chúa, Đức Mẹ là “người thứ nhì” được tuyển chọn từ đời đời để làm Mẹ của Ngài.
Danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” xuất hiện từ thế kỷ III hoặc IV. Theo tiếng Hy Lạp Theotokos(người mang Thiên Chúa), trở nên tiêu chuẩn (touchstone) của giáo huấn Giáo hội về Mầu nhiệm Nhập thể. The Công đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotokos. Khi bế mạc công đồng này, nhiều người đã diễu hành và hô to: “Tôn vinh Đấng Theotokos!”. Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria trong Giáo hội, Dogmatic Constitution on the Church (Hiến chế về Giáo hội), Công đồng Vatican II đã tôn xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” 12 lần.
2/1 – Thánh Basiliô Cả, Giám mục (329-379)
Ngài là thầy dạy nổi tiếng khi quyết định sống đời tu theo tinh thần nghèo khó Phúc âm. Sau khi nghiên cứu nhiều cách tu, ngài phát hiện điều mà có thể là tu viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài là tu sĩ của Đông phương, thánh Bênêđictô là tu sĩ của Tây phương, và tu luật của ngài ảnh hưởng đời đan tu Tây phương ngày nay.
Ngài thụ phong linh mục, giúp Đức TGM ở Caesarea (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), và rồi chính ngài được bổ nhiệm TGM, dù bị chống đối từ một số giám mục phó, có thể do họ đoán trước có sự cải cách.Một trong các tà thuyết làm tổn hại Giáo hội là Arian (*). Hoàng đế Valens đã bách hại các tín đồ Chính thống giáo, gây áp lực với thánh Basiliô phải im lặng và chấp nhận cho những người theo tà thuyết được hiệp thông. Ngài cương quyết từ chối, Valens thoái lui. Nhưng rắc rối vẫn còn. Khi thánh Athanasiô qua đời, thánh Basiliô phải đảm trách việc chống lại tà thuyết Arian. Ngài bị hiểu lầm, bị xuyên tạc, bị kết tội theo tà thuýet và tham vọng. Khi được triệu hồi để gặp ĐGH, ngài không biện hộ mà chỉ nói: “Tội của con là có vẻ đã không thành công trong mọi việc”.
Ngài không biết mệt mỏi trong việc mục vụ. Mỗi ngày ngài giảng 2 lần trước rất nhiều người, xây dựng bệnh viện được gọi là kỳ công thế giới (khi giới trẻ tổ chức cứu trợ) và chống mại dâm.
Ngài là nhà hùng biện. Các bài viết của ngài, dù không được chấp nhận khi ngài sinh thời, nhưng sau được coi là những giáo huấn tuyệt vời của Giáo hội. Sau khi ngài qua đời được 72 năm, Công đồng Chalcedon tôn vinh ngài là “Thánh Basiliô Cả”, là “thừa tác viên của ân sủng đã giải thích chân lý cho toàn thế giới”.
----------------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
3/1 – Kính Thánh Danh Chúa GiêsuChữ IHS được viết tắt từ chữ Jesous, tên bằng tiếng Hy Lạp dành cho Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (x. Pl 2:9-11). Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu phổ biến trong các đan viện Xitô (Cistercians) từ thế kỷ XII, nhất là qua giáo huấn của thánh Bernardine Siena, tu sĩ Dòng Phanxicô hồi thế kỷ XV.
Thánh Bernardine dùng lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là cách vượt qua những cuộc chiến gian lao và thường đổ máu, chống lại sự kình địch gia đình hoặc mối thù truyền kiếp (vendettas) ở Ý. Lòng sùng kính này phát triển, một phần do các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa Minh, thậm chí phát triển rộng rãi hơn sau khi các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu truyền bá từ thế kỷ XVI.
Năm 1530, ĐGH Clementô V phê chuẩn Lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu cho các tu sĩ Dòng Phanxicô. Năm 1721, ĐGH Innocent XIII mở rộng lễ này cho Giáo hội toàn cầu.
4/1 – Thánh Elizabeth Ann Seton (1774-1821)
Bà là một trong các nhân vật chính của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ. Bà thành lập Dòng Nữ tử Bác ái (Sisters of Charity), dòng nữ đầu tiên của Mỹ. Bà còn mở một trường Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên và thành lập Viện Mồ côi Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên. Đó là những việc bà làm trong cuộc đời chỉ 46 năm trong khi phải nuôi dạy 5 đứa con.
Bà sinh ngày 28-8-1774, chỉ 2 ngày trước ngày tuyên bố bản Tuyên ngôn Độc lập. Bà được giáo dục bởi người mẹ ruột và mẹ kế đều theo Giáo hội Tân giáo (Episcopalian), bà học được giá trĩ của sự cầu nguyện, Kinh thánh và xét mình mỗi đêm. Người cha là bác sĩ Richard Bayley, ông không quan tâm việc đến nhà thờ nhưng ông sống rất nhân bản, ông dạy con gái mình sống yêu thương và phục vụ người khác.
Người mẹ qua đời sớm vào năm 1777, cái chết của em gái bà năm 1778 đã cho bà cảm giác về sự vĩnh hằng và sự tạm bợ của đời sống trần gian. Lúc 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi của TP New York và kết hôn với một thương gia giàu có và điển trai là William Magee Seton. Người chồng qua đời vì bệnh lao phổi. Elizabeth trở thành góa phụ khi mới 30 tuổi, nghèo kiết xác mà phải một mình nuôi 5 con.
Có 3 điểm cơ bản khiến bà theo Công giáo: Tin vào sự hiện hữu thật của Thiên Chúa, sùng kính Mẹ Maria và tin rằng người Công giáo được gặp lại Đức Kitô. Nhiều người phản đối bà khi bà theo Công giáo hồi tháng 3-1805
.
Để kiếm tiền nuôi con, bà mở trường học ở Baltimore. Từ đầu, nhóm của bà theo luật dòng tu, chính thức khai giảng năm 1809. Cả ngàn lá thư của bà cho biết việc phát triển đời sống tâm linh từ những điều tốt hàng ngày tới sự thánh thiện anh dũng. Bà chịu bệnh tật, bị hiểu lầm, mất người thân (chồng và 2 con gái), và khổ sở vì cậu con trai ngỗ nghịch. Bà qua đời ngày 4-1-1821, được an táng tại Emmitsburg, Maryland. Bà là người Mỹ đầu tiên được phong chân phước (năm 1963) và được phong thánh (năm 1975).
5/1 – Thánh John Neumann, Giám mục (1811-1860)
Thánh John Neumann sinh ở nơi mà nay là Cộng hòa Séc. Sau khi học ở thủ đô Prague, ngài đến New York lúc 25 tuổi và được thụ phong linh mục. Ngài truyền giáo ở New York tới lúc 29 tuổi, ngài vào Dòng Chúa Cứu Thế, trở nên thành viên đầu tiên tuyên khấn tại Hoa Kỳ. Ngài tiếp tục truyền giáo ở Maryland, Virginia và Ohio, và trở nnê nổi tiếng đối với người Đức.Lúc 41 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm giám mục GP Philadelphia. Ngài tổ chức hệ thống trường của các giáo xứ vào hệ thống giáo phận, tăng số học sinh gần gấp 20 lần chỉ trong thời gian ngắnNgài có biệt tài về tổ chức, ngài thu hút nhiều dòng tu nam nữ chuyên về giáo dục. Ngài có tiếng thánh thiện và giỏi, có những bài viết và bài giảng tâm linh hay. Ngày 13-10-1963, ngài là giám mục Mỹ đầu tiên được phong thánh. Ngài được phong thánh năm 1977. Thi hài ngài được an táng tại Nhà thờ Thánh Phêrô Tông đồ ở Philadelphia.
6/1 – Thánh Grêgôriô Nazianzen (329-390)
Sau khi được rửa tội ở tuổi 30, Grêgôriô vui vẻ nhận lời mời của người bạn Basiliô gia nhập dòng mới thành lập. Cuộc sống tĩnh mịch của ngài bị “phá rối” khi cha ngài, một giám mục, cần ngài giúp giáo phận. Có lẽ ngài thụ phong linh mục do bị bắt buộc, và miễn cưỡng lãnh trach nhiệm. Ngài khôn khéo né tránh ly giáo khi cha ngài thỏa hiệp với tà thuyết Arian (*). Lúc 41 tuổi, ngài được chọn làm giám mục phó của GP Caesarea, và rồi ngài xung khắc với hoàng đế Valens – người ủng hộ tà thuyết Arian. TGM Basiliô sai ngài tới một thành phố nghèo ở biên giới được phân chia bất công trong giáo phận của ngài. TGM Basiliô khiển trách GM phó Grêgôriô không đến tòa giám mục.
Khi Valens qua đời, Arian không còn người ủng hộ, GM phó Grêgôriô được kêu gọi củng cố đức tin ở tòa giám mục Constantinople, nơi bị những người theo tà thuyết Arian chiếm giữ suốt 30 năm. Lần đầu tiên ngài ở nhà người bạn, nơi trở thành nhà thờ Chính thống giáo duy nhất trong thành phố. Tại môi trường như vậy, ngài bắt đầu giảng những bài hùng hồn về Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) và khiến ngài nổi tiếng. Ngài củng cố đức tin trong thành phố, nhưng phải chịu nhiều đau khổ, bị vu cáo, bị lăng nhục và thậm chí bị bạo hành cá nhân.
Ngài sống những ngày cuối đời trong cô tịch và khổ hạnh. Ngài làm thơ tôn giáo, có những bài tự truyện, nói về vẻ thâm sâu và vẻ đẹp. Ngài được gọi là “thần học gia”.
------------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
7/1 – Thánh Râymunđô Penyafort, Linh mục (1175-1275)
Thánh Râymunđô có cơ hội làm nhiều việc. Với tư cách là thành viên trong giới quý tộc Tây ban nha, ngài có tài sản và học thức để khởi đầu tốt về cuộc sống. Lúc 20 tuổi, ngài dạy triết học. Mới ngoài 30 tuổi, ngài có học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Lúc 41 tuổi, ngài trở thành tu sĩ Đa Minh. ĐGH Gregôriô IX mời ngài tới Rôma làm việc và là người giải tội cho ĐGH. Một trong các việc ĐGH bảo ngài làm là tập hợp các sắc lệnh của các ĐGH và các Công nghị trong 80 năm qua trong khi Gratian làm một sưu tập tương tự. Thánh Râymunđô soạn thảo 5 cuốn sách gọi là các sắc lệnh (Decretals). Bộ sách này được coi là một trong các bộ sưu tập tốt nhất về Giáo luật cho đến khi biên soạn bộ Giáo luật mới năm 1917.
Thánh Râymunđô đã viết một cuốn sách về các trường hợp cho các cha giải tội. Sách này có tên làSumma de casibus poenitentiae. Không chỉ danh sách các tội và các việc đền tội, sách còn bàn về học thuyết thích hợp (pertinent doctrines) và Giáo luật liên quan vấn đề hoặc trường hợp xảy ra với cha giải tội. Lúc 60 tuổi, thánh Râymunđô được bổ nhiệm Tổng giám mục giáo phận Tarragona, thủ đô Aragon. Ngài không thích danh tiếng chút nào, ngài bị bệnh rồi từ chức trong vòng hai năm. Ngài vẫn không được yên, vì khi ngài 63 tuổi lại được các tu sĩ Dòng Đa Minh bầu làm giám tỉnh toàn dòng, kế vị thánh Đa Minh. Thánh Râymunđô làm việc cần mẫn, đi bộ đến thăm các tu sĩ Đa Minh, tái tổ chức hiến pháp và hoàn tất điều khoản về việc từ chức của các Tu viện trưởng. Khi hiến pháp mới được phê chuẩn, thánh Râymunđô xin từ chức, khi đó ngài 65 tuổi.
Thánh Râymunđô có 35 năm chống dị giáo và làm việc để người Moors ở Tây ban nha trở lại đạo. Chính ngài đã thuyết phục thánh Thomas Aquinas viết tác phẩm Against the Gentiles (Chống Dân Ngoại).
8/1 – Chân phước Angela Foligno (1248-1309)
Một số các thánh cho thấy các dấu hiệu thánh thiện rất sớm. Nhưng Angela thì không! Xuất thân từ một gia đình thế lực ở Foligno, bà chìm đắm suy tư và của cải và vị thế xã hội. Khi làm vợ và làm mẹ, bà tiếp tục cuộc sống suy tư này. Khoảng năm 40 tuổi, bà nhận thấy sự trống rỗng của cuộc sống và bà tìm sự giúp đỡ của Thiên Chúa qua bí tích Hòa giải. Linh mục Dòng Phanxicô giải tội và giúp bà tìm kiếm sự tha thứ của Thiên Chúa đối với cuộc sống trước đó và bà tận hiến cuộc đời chuyên chăm cầu nguyện và làm việc từ thiện.Không lâu sau khi trở lại đạo, chồng và các con bà đều qua đời. Bán hầu hết tài sản, bà vào Dòng Ba Phanxicô. Bà bị thu hút bởi việc suy niệm về Chúa Giêsu bị đóng đinh nhờ việc giúp đỡ người nghèo ở Foligno với tư cách là y tá và đi xin người khác giúp đỡ họ. Các phụ nữ khác cùng bà làm thành một cộng đoàn tôn giáo.
Theo lời khuyên của cha giải tội, Angela viết cuốn Book of Visions and Instructions (Thị kiến và Hướng dẫn). Trong đó bà nhớ lại một số cám dỗ mà bà đã chịu sau khi trở lại đạo; bà cũng diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa về việc nhập thể của Chúa Giêsu. Cuốn sách này và cuộc đời bà khiến bà được tôn phong danh hiệu “sư phụ của các thần học gia”. Bà được tôn phong chân phước năm 1693.
9/1 – Thánh Adrian Canterbury, Viện phụ (qua đời năm 710)
Thánh Adrian từ chối chức TGM của TGP Canterbury, Anh quốc, thánh GH Vitalian chấp nhận nhưng với điều kiện Adrian phải làm phụ tá và cố vấn cho Đức giáo hoàng. Adrian đồng ý, nhưng ngài vẫn dành nhiều phần đời và làm việc tại Canterbury.
Ngài sinh tại Phi châu, làm tu viện trưởng ở Ý khi TGM mới của TGP Canterbury bổ nhiệm ngài làm tân ước viện trưởng tu viện Thánh Phêrô và Phaolô ở Canterbury. Nhờ khả năng lãnh đạo, tu viện trở nên một trong những trung tâm học tập. Trường này thu hút nhiều học giả danh tiếng ở xa và đào tạo được nhiều giám mục và tổng giám mục. Các học sinh học tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, đồng thời nói tiếng Latin như tiếng mẹ đẻ.
Ngài dạy ở trường này 40 năm. Ngài qua đời tại trường này, có thể vào năm 710, và được an táng tại tu viện này. Vài trăm năm sau, di hài ngài được phát hiện khi trùng tu tu viện. Người ta đổ xô đến quanh mộ ngài, và nhiều phép lạ đã xảy ra.
10/1 – Thánh Grêgôriô Nyssa, Giám mục (khoảng năm 330-395)
Thánh Grêgôriô Nyssa là con trai của hai thánh Basiliô và Emmilia, ngài được người anh nuôi dưỡng, đó là thánh Basiliô Cả. Thành công của ngài về học hành khiến tương lai đầy hứa hẹn. Khi làm giáo sư tu từ học, ngài được thuyết phục sống cho giáo hội. Ngài đã kết hôn, nhưng ngài được học để làm linh mục và thụ phong linh mục (thời đó chưa có luật độc thân đối với linh mục).
Ngài được bổ nhiệm Giám mục giáo phận Nyssa (thuộc đồng bằng Armenia) năm 372, thời kỳ rất căng thẳng đối với tà thuyết Arian (thuyết này phủ nhận thiên tính của Chúa Giêsu). Sau khi bị bắt và bị kết tội biển thủ ngân quỹ giáo hội, nhưng rồi ngài được phục chức năm 378.
Ngài viết nhiều tài liệu chống tà thuyết Arian và giáo lý, có tiếng là người bảo vệ tính chính thống của giáo hội. Ngài được sai đi đối thoại với các tà thuyết và tổ chức Công đồng Constantinople. Ngài không được coi là cột trụ của tính chính thống nhưng là một trong những người có công lớn đối với truyền thống thần bí về tâm linh và đời sống tu trì.
11/1 – Chân phước William Carter, Tử đạo (qua đời năm 1584)
Ngài sinh tại London, học nghề ấn loát từ lúc nhỏ. Ngài học việc nhiều năm ở các nhà in Công giáo nổi tiếng, một trong các chủ nhà in bị tù vì kiên quyết giữ đức tin Công giáo. Chính William cũng bị tù một thời gian sau khi bị bắt vì “tội” in ấn các sách Công giáo.
Nhưng ngài vẫn xuất bản những sách giúp người Công giáo giữ vững đức tin. Người ta khám nhà ngài và phát hiện nhiều sách và trang phục khả nghi. Qua 18 tháng kế tiếp, ngài vẫn bị tù, bị hành hạ và biết vợ mình đã bị sát hại.
Rồi chính ngài bị kết tội in ấn và xuất bản cuốn Treatise of Schism (Luận thuyết Ly giáo), sách này bị coi là người Công giáo khuyến khích bạo động và bị coi là được viết bởi những người phản bội. Khi ngài vẫn âm thầm tín thác vào Chúa, tòa án đã hội thẩm 15 phút trước khi tuyên án ngài có tội. Ngài xưng tội lần cuối với một linh mục cùng bị xử tử với ngài, ngài bị treo cổ, rồi bị phanh thây ngày 11-1-1584. Ngài được Chân phước GH Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1987.
12/1 – Thánh Marguerite Bourgeoys (1620-1700)
Bà là con thứ 6 trong 12 anh chị em của một gia đình ở Troyes, Pháp. Lúc 20 tuổi bà tin rằng bà có ơn gọi tu trì. Bà xin vào Dòng Kín và Dòng Thánh Clara nhưng đều bị từ chối. Một linh mục gợi ý rằng có thể Thiên Chúa có kế hoạch khác đối với bà.
Năm 1654, hội định cư người Pháp ở Canada đến thăm chị của bà, một nữ tu Dòng Thánh Augustinô ở Troyes. Bà được mời tới Canada và trường học ở Ville-Marie (nay là TP Montreal). Khi bà đến nơi, khu kiều dân có 200 người với một bệnh viện và một nhà nguyện truyền giáo của Dòng Tên.
Ngay sau khi bắt đầu tới trường học, bà thấy cần người hợp tác. Bà trở về Troyes rủ thêm người bạn là Catherine Crolo và 2 phụ nữ trẻ khác. Năm 1667, họ mở thêm lớp tại trường cho trẻ em Ấn Độ. Ba năm sau bà tới Pháp lần thứ hai, tìm thêm 6 phụ nữ trẻ nữa và được vua Louis XIV cho phép mở trường học. Dòng Đức Bà được thành lập năm 1676 nhưng các nữ tu mãi đến năm 1698 mới tuyên khấn vĩnh viễn khi luật dòng và hiến pháp được phê chuẩn.
Thánh Marguerite mở một trường học cho các em gái Ấn Độ ở Montreal. Lúc 69 tuổi, bà rời Montreal tới Quebec theo yêu cầu của Đức giám mục là thành lập một dòng nữ ở thành phố này. Lúc đó, bà qua đời, bà được coi là “Mẹ của Kiều dân”. Bà được Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh năm 1982.
13/1 – Thánh Hilariô, Giám mục Tiến sĩ Giáo hội (315?-368)
Thánh Hilariô là người bảo vệ trung thành thần tính của Đức Kitô, là người ôn hòa và lịch sự, ngài còn viết một số sách thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, và như Thầy Chí Thánh của mình, ngài được gán cho biệt danh “người phá rối hòa bình”. Trong chính thời kỳ rắc rối của Giáo hội, sự thánh thiện của ngài thể hiện cả về sự uyên bác và cách tranh luận.
Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, lúc 30 tuổi ngài trở lại Công giáo khi ngài nhận ra Chúa qua Kinh thánh. Vợ ngài còn sống khi ngài được chọn làm Giám mục giáo phận Poitiers (Pháp), dù ngài không muốn. Ngài chống lại tà giáo Arian hồi thế kỷ thứ IV, tà giáo Arian từ chối thần tính của Đức Kitô.
Tà giáo này lan rộng mau chóng. Thánh Giêrônimô nói: “Thế giới rên rỉ và ngạc nhiên khi thấy có tà thuyết Arian”. Khi hoàng đế Constantius ra lệnh các Giám mục Tây phương phải ký tên vào bản kết án thánh Athanasiô, người bảo vệ đức tin ở Đông phương, thánh Hilariô không chịu ký nên bị trục xuất khỏi Pháp và bị đày đi Phrygia (ngày nay là Thổ nhĩ kỳ). Ngài được gọi là “Athanasiô của Tây phương”. Khi viết trong thời gian lưu đày, ngài được những người theo tà giáo Arian mời (với hy vọng hòa giải) tham dự hội đồng mà hoàng đế kêu gọi để phản đối Công đồng Nicê. Nhưng thánh Hilariô cương quyết bảo vệ Giáo hội, và khi ngài tranh luận công khai với một Giám mục theo tà giáo Arian (người đã bắt thánh Hilariô đi đày), mọi người đều kinh ngạc, yêu cầu hoàng đế đưa kẻ gây rối này trở về. Thánh Hilariô được mọi người đồng tình.
14/1 – Tôi tớ Chúa Gioan, người làm vườn (qua đời năm 1501)
Gioan sinh trưởng trong một gia đình ngheo ở Bồ đào nha. Mồ côi sớm, ngài phải đi ăn xin một số năm. Sau khi có việc làm ở ở Tây ban nha là chăn chiên, ngài chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình với những người nghèo khổ hơn mình. Một hôm, hai tu sĩ dòng Phan sinh gặp Gioan trên đường đi. Khi nói chuyện, hai tu sĩ này thấy quý mến một con người đơn giản và mời Gioan đến làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Gioan chấp nhận và được phân công làm vườn. Một thời gian sau, Gioan đã nhập dòng Phan sinh và sống cuộc đời chiêm niệm, ăn chay, dành thời gian ban đêm để cầu nguyện, và giúp đỡ người nghèo. Vì công việc của ngài là làm vườn và chăm sóc hoa để cắm trên bàn thờ, ngài nổi tiếng với danh xưng “người làm vườn”.
Thiên Chúa ban cho Gioan tài nói tiên tri và và biết rõ tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng tử, cũng đến với ngài để xin lời khuyên. Ngài là người khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời. Ngài yêu thương cả những người muốn chống đối ngài. Lời khuyên của ngài là tha thứ vì đó là hành động đẹp lòng Chúa nhất. Ngài đã tiên báo đúng ngày ngài qua đời: 11-1-1501.
15/1 – Thánh Phaolô, Ẩn tu (khoảng năm 233-345)
Chúng ta không biết rõ về cuộc đời thánh Phaolô, bao nhiêu phần là truyền thuyết và bao nhiêu phần là thật. Thánh Phaolô được coi là sinh ở Ai cập, mồ côi lúc 15 tuổi. Ngài là một người trẻ thông thái và sốt sáng. Trong thời Decius bách đạo ở Ai cập, năm 250, thánh Phaolô ở ẩn trong nhà một người bạn. Sợ anh (em) rể phản bội, ngài trốn vào hang trong hoang địa. Ngài có ý định trở về khi cuộc bách đạo chấm dứt, nhưng cuộc sống cô tịch và chiêm niệm đã níu kéo ngài ở lại. Ngài đã sống ẩn dật trong hang suốt 90 năm sau. Nguồn suối gần đó cho ngài nước uống, cây cọ cho ngài quần áo và đồ ăn. Sau 21 năm sống ẩn dật, ngài được một con chim hằng ngày đem đến nửa ổ bánh cho ngài dùng. Không biết chuyện gì xảy ra trên thế giới, ngài cầu nguyện cho thế giới trở nên nơi tốt đẹp hơn.
Thánh Anthony làm chứng về cuộc đời thánh thiện và cái chết của thánh Phaolô. Bị cám dỗ bởi tư tưởng là không ai lại phụng sự Thiên Chúa ở nơi hoang địa lâu hơn mình, thánh Anthony được Thiên Chúa dẫn đi tìm thánh Phaolô và nhận thấy Phaolô là người hoàn hảo hơn mình. Hôm đó, con quạ đã đem đến cho ngài cả ổ bánh chứ không chỉ nửa ổ bánh như thường ngày. Như thánh Phaolô tiên báo, thánh Anthony đã trở lại chôn cất người bạn mới của mình. Thánh Phaolô mất lúc khoảng 112 tuổi và được coi là thánh ẩn tu đầu tiên. Lễ kính ngài được cử hành ở Đông phương, ngài cũng được nhớ đến trong nghi lễ Coptic (thuộc Ai cập) và Armenia.