maria_phan_97
28-06-2009, 10:26 AM
Ði Bên Thầy Giêsu Trên Đường Thánh Giá
Lời Mở Ðầu
Mỗi khi tôi nghĩ đến người nghèo, hình ảnh được gợi ra trong trí tôi là nhừng người nam và nữ kéo nhau ra chợ làng từ sáng sớm. Trên vai họ là quang gánh chĩu nặng những bó rau. Trên đầu họ là những thúng đựng bí bầu. Tay họ sách những chiếc giỏ đựng gà vịt.
Họ đi chân đất, mặc những bộ quần áo nâu sòng đã nhiều chỗ vá hay đã bạc mầu. Họ mang những sản vật họ đã đổ nhiều mồ hôi sớm ngày ra vun trồng hay nuôi dưỡng. Ðôi khi chỉ là vài bó rau muống hái ở bờ ao. Họ đi trên đường làng đầy bụi bậm khi khô ráo, hay bùn lầy khi mưa rào. Nơi chợ làng, họ bầy ra bán để đổi lấy chút cơm gạo cho chồng con mỗi ngày. Chợ chỉ họp từ 6 giờ sáng đến 7 giờ sáng. Sau đó ai nấy lại lục tục trở về với nương đồng, vườn tược.
Tôi không thích đi bộ mấy, ngoại trừ những khi tập thể dục, chạy trong công viên gần nhà. Ði một trăm bước cũng leo lên xe hơi. Ði xa thì có xe buýt, xe điện ngầm, xe lửa và máy bay chở tôi đến những chỗ tôi muốn tới. Chân tôi không còn mấy khi chạm vào đất bụi của trái đất này như khi xưa thời chạy loạn ngoài bắc. Luôn luôn có những bánh xe giúp tôi đi tới đi lui mau hơn.
Ở nơi tôi ở hiện giờ không có nhiều người đi bộ, ngoại trừ những người tập thể thao. Ðôi khi khó tìm được người đi bộ để hỏi đường khi bị lạc. Trong thế giới của tôi người ta đi từ chỗ này đến chỗ kia bị đóng kín trong một cái thùng sắt di động. Họ ở trên đường phố mà y như ở trong nhà. Họ nghe băng nhạc, CD hay radio. Họ nói chuyện điện thoại với sở làm, người thân hay bạn hữu. Hiếm khi họ mới gặp gỡ người lạ tại các bãi đậu xe, siêu thị, hay những quán bán thức ăn dọn nhanh.
Nhưng Chúa Giêu đã đi bộ, và Ngài vẫn còn đi bộ. Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác, và trong khi đi bộ, Ngài gặp gỡ nhiều người nghèọ Ngài gặp những hành khất, người mù, người bệnh tật, người đang than khóc. Ngài luôn luôn ở gần mặt đất. Ngài cảm thấy cái nóng của ban ngày và cái lạnh của mặt đất ban đêm. Ngài thông thạo về những ngọn cỏ héo mầu, tàn úa, những miền đất đầy sỏi đá, những bụi gai, những thân cây trơ trụi lá, những bông hoa dại ngoài đồng, và những mùa gặt tốt.
Ngài biết rõ vì Ngài đã đi bộ qúa nhiều và cảm nhận ngay trong chính bản thân sự khô cằn hay mầu mỡ của mỗi mùa. Ngài chăm chú lắng nghe những người đi bên Ngài, và Ngài trò truyện với họ như một người bạn đồng hành chân chính. Ngài nghiêm nghị, nhưng rất bao dung, nói thẳng nhưng rất hiền từ, đòi hỏi nhưng hay tha thứ, gạn hỏi nhưng rất lễ độ. Ngài đào sâu, cắt mạnh, nhưng với bàn tay của một thầy thuốc. Ngài phân rẽ, nhưng là để cho trưởng thành. Ngài đả phá nhưng để cho có sự xác tín xảy ra. Chúa Giêsu có liên hệ mật thiết với mặt đất trên đó Ngài bước đi. Ngài quan sát sức mạnh của thiên nhiên, và bày tỏ rằng Thiên Chúa, Ðấng Tạo Hóa cũng chính là Thiên Chúa đã sai Ngài đến đem Tin Mừng cho người nghèo, ánh sáng cho người mù, và sự giải thóat cho kẻ tù đầy.
Những người nghèo đi bộ trên đường làng, trên cát bụi của sa mạc hay trên những lối đi đầy sỏi đá của những miền núi trên thế giới này, nhắc nhở tôi đến hai chữ khiêm nhường (humility) - xuất xứ từ chữ Latinh "humus" có nghiã là đất. Tôi phải ở gần đất. Nhiều khi tôi nhìn lên trời, ngó theo những đám mây và mơ về một thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng giấc mơ của tôi không bao giờ thành tựu trừ khi tôi biết nhìn xuống đất, nhìn hoài hoài xuống đất, nhìn tất cả những người đang mệt mỏi lết đi, và đang mời gọi tôi đi cùng.
Nhưng đi với người nghèo có ý nghiã gì" Có nghiã là tôi phải công nhận chính sự nghèo hèn của tôi: những đổ vỡ sâu xa trong tôi, sự mỏi mệt, bất lực, và yếu đuối của tôị Chính ở đây tôi mới được nối kết với đất. Chính ở đây tôi mới được kết hiệp với tất cả những ai đang đi chân trên trái đất này, và khám ra rằng chính tôi, tôi cũng được thương yêu vì tôi là một người rất mỏng manh nhưng qúy giá.
Trước khi Chúa Giêsu chịu nạn, "Khi người biết mình đến từ Thiên Chúa và đang trở về với Thiên Chúa, người cầm lấy khăn và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ" (Ga 13:5). Ngôi Lời trở nên nhục thể để rửa đôi chân mệt mỏi của tôi. Ngài chạm đến phần thân thể tôi ở chỗ tôi tiếp xúc với mặt đất, nơi mặt đất được nối kết với tôi và tôi vươn cao lên để với tới trời. Ngài qùy xuống vàcầm đôi chân tôi trong tay Ngài và rửa chân cho tôi. Rồi Ngài ngẩng lên và khi đôi mắt Ngài chạm mắt tôi, Ngài nói: "Con có hiểu điều gì Ta đang làm cho con không" Nếu Ta là Thiên Chúa và là Thầy của con, đã rửa chân cho con, con cũng phải rửa chân cho các anh chị em của con." (Ga 13:13-14).
Mỗi khi tôi phải vác thánh giá trên con đường gian khổ, tôi phải ngừng lại dọc đàng để rửa chân cho người đi bên tôi. Trong khi tôi qùy xuống trước mỗi người anh chị em và nhìn vào đôi mắt họ, tôi khám phá ra rằng chính nhờ những anh chị em đang đồng hành với tôi, tôi mới đủ sức để đi trọn hành trình này.
Mai Thư
Chặng Thứ I
Chúa Giêsu Bị Kết A"
Một người bị nhốt trong sà lim sau hàng chấn song sắt. Người này bị kết án tử hình. Anh bị liệt vào hạng người tội phạm. Anh không còn xứng đáng để sống. Anh đã trở nên kẻ thù, kẻ phản loạn, kẻ sống bên lề, và rất nguy hiểm cho xã hội. Anh phải được đem đi nhốt, phải được tách ra khỏi đời sống cộng đồng.
Vì lý do gì? Vì anh khác người. Anh là một người tị nạn, mà người dân tị nạn là một mối đe dọa cho nền kinh tế ở đây. Anh là người da mầu, và người da mầu thì rất nguy hiểm. Anh là người Do Thái, mà người Do Thái thì rất khó tin.
Anh là người ngoại cuộc đang nói những điều chúng ta không muốn nghe, và đang dến những điều chúng ta chỉ muốn quên đi. Anh đã làm đảo lộn trật tự của đời sống chúng ta. Anh đã xé rách cái màn che đậy những xấu xa của chúng ta, và phá đổ bức tường ngăn cách và che chở chúng ta được an toàn.
Anh nói, "Tất cả chúng ta đều là đồng loại, đều là con cái một Thiên Chúa, đều được Chúa thương yêu như những đứa con được cưng chiều nhất. Chúng ta cùng được hứa sẽ sống chung trong cùng một mái nhà, với cùng một cha, và ngồi ăn cùng bàn." Anh nói, "Sự kỳ thị không nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Kết hiệp và hoà đồng là điều Chúa muốn."
Tiếng nói này cần phải được dẹp tắt. Tiếng nói của anh làm đảo lộn đường lối người ta hành xử ở đây. Tiếng nói này phá rối đời sống gia đình, xã hội, và nơi sở làm của chúng ta. Tiếng nói này làm mất trật tự và gây nên rối loạn. Ðời sống bình thường đã qúa phức tạp. Chúng ta không cần đến những tiên tri nửa muà làm hư hỏng màng lưới mỏng manh của các mối liên hệ chúng ta đã công phu gây dựng. Chúng ta hãy cứ tuân theo khẩu hiệu này: "Ai lo thân người nấy, đã có Chúa lo cho tất cả mọi người." Theo cách này thì chúng ta sẽ đau khổ ít và thoải mái tôí đa.
Chúa Giêsu đứng trước Philatô. Ngài im lặng. Ngài không tự bào chữa chống lại những lời kết án Ngài. Nhưng khi Philatô hỏi, "Ông đã làm gì"" Ngài nói, "Ta đến với thế gian để làm chứng nhân cho sự thật, và ai ở bên phía của sự thật thì nghe lời Ta" (Ga 18:35-38). Sự thật Giêsu nói tới không phải là một luận án tiến sĩ, một học thuyết, hay một lối giải thích minh bạch về chân lý. Ðây chính là mối liên hệ, sự hiến dâng mật thiết đời sống giữa Ngài và Chúa Cha, Ngài muốn cho chúng ta được chia sẻ. Philatô không thể nghe được điều này, cũng như bất cứ ai không được kết hiệp với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, bất cứ người nào bước vào sự hiệp thông với Chúa Giêsu, cũng sẽ tiếp nhận được Thần Trí của sự thật. Thần Trí giải thóat chúng ta khỏi những sự thúc đẩy và ám ảnh của xã hội đương thời. Thần Trí làm cho chúng ta trực thuộc vào chính đời sống nội tâm của Chúa, và cho phép chúng ta sống trong thế giới với những trái tim rộng mở và đầu óc tỉnh táo. Khi thông hiệp với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nghe tiếng của Thần Trí và tiến bước đi đến khắp mọi nơi, dù chúng ta đang bị cầm tù hay không. Vì sự thật - mối liên hệ chân chính, sự trực thuộc chân chính - đem đến cho chúng ta sự tự do mà quyền lực của bóng tối không thể tước đoạt. Giêsu là con người tự do nhất đã từng sống trên trái đất này, vì Ngài là người có liên hệ mật thiết nhất với Thiên Chúa, Philatô kết án Ngài. Philatô muốn liệt Ngài vào hàng những kẻ tội phạm. Nhưng ông ta đã không làm được như vậy. Cái chết của Giêsu, thay vì là sự thi hành một bản án tử hình, lại trở nên con đường dẫn đến sự thật viên mãn, dẫn đến tự do trọn vẹn.
Tôi biết rằng tôi càng thuộc về Chúa hơn, tôi sẽ càng bị kết án nhiều hơn. Nhưng việc kết án thế giới sẽ làm cho chân lý được tỏ hiện. "Phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính, nước trời là của họ" (Mt. 5:10). Tôi phải tin ở những lời này. Chính đây là nơi thế giới ghét tôi, nơi tôi không được người ta để ý đến, nơi tôi bị xô đẩy ra bên lề xã hội, bị nhạo cười, bị hạ nhục. Chính nơi đây tôi có thể khám phá tôi là thành phần của cộng đồng thế giới bị nhốt sau những chấn song sắt, trong hàng rào giây kẽm gai, bị cô lập trong các trại cấm.
Tôi thèm khát sự thật, thèm khát được hiệp thông với Thiên Chúa như Giêsu. Nhưng mỗi khi sự thèm khát này được no đủ, tôi lại bị kết án lần nữa và bị trao cho thánh giá khác nặng hơn. Trong câu chuyện Phêrô và Gioan, Phaolô và Barnabas, Giacôbê và Anrê, và nhất là của Maria, Mẹ Giêsu, hạnh phúc và khổ đau của họ trở nên một, vì họ đã lựa chọn để sống cho chân lý giữa thế giới.
Ðiều này không thể xảy ra nếu chúng ta không có thánh giá để mang, nếu chúng ta không được hưởng niềm vui bao la là đã trực thuộc vào đời sống thánh thiện vượt ra ngoài những chấn song sắt, những hàng rào giây kẽm gai, và những dụng cụ tra tấn hay xử trảm.
Phải, trên gương mặt của người bị nhốt sau những chấn song sắt có phảng phất vẻ hãi sợ, nhưng cũng có niềm tin, cậy, hy vọng, và một ý thức sâu xa về tự do. Mắt của người này và của tôi là những con mắt có thể thấy những gì thế giới không thấy. Ðó là gương mặt của một Thiên Chúa đau khổ đang kêu gọi chúng ta từ nơi xa xôi, thúc dục chúng ta vượt qua cơn hãi sợ để đến được miền đất của tình yêu vĩnh cửu.
Mai Thư
Chặng Thứ II
Chúa Giêsu Vác Thập Giá
Một thuyền nhân trôi dạt vào một hoang đảo trong Vịnh Thái Lan. Anh là người cuối cùng sống sót trên chiếc ghe vượt biên sau bẩy ngày lênh đênh trên biển, máy hự hết thức ăn, nước uống, và bị tấn công nhiều lần. Vợ anh bị hải tặc hãm hại và đã tắt thở. Anh ôm xác vợ ba ngày, nhất định không thủy táng vì không muốn vợ làm mồi cho cá. Anh lượm những tấm ván ghe trên bãi cát và khiêng về chỗ anh đã vùi tạm xác vợ. Dùng cây, anh đào lỗ sâu trên cồn cát, rồi cố xếp những mảnh ván thành cái áo quan trong hố. Anh cốgắng làm cho vợ hiền có được chiếc áo cuối cùng che chở thân thể loã lồ, và ngăn cho côn trùng khỏi rỉa rúc. Anh lầm lũi tẩm liệm vợ bằng lá tre, rồi đậy tấm ván cuối cùng lên trên. Anh xúc cát lấp mộ, lấy cành tre làm thập gía đánh dấu ngôi mộ mà anh biết chẳng bao lâu gió bão sẽ làm mất tăm tích. Qùy bên thập giá lòng anh quặn đau. Chao ôi! Cái giá của tự do sao quá đắt"
Trong xã hội chúng ta, hàng ngày cả trăm thanh thiếu niên bị hạ thủ bằng súng đạn, dao búa và giây điện. Nhiều trẻ em chết lần mòn vì thiếu dinh dưỡng, thiếu thuốc men, thiếu săn sóc. Ngày qua ngày, chiến tranh, bao lực và nghèo đói đem chết chóc đến cho những ngôi làng nhỏ ở Ethiopia, Sudan, Bangladesh và rất nhiều nơi khác.
Tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của người thuyền nhân khi anh ôm đống ván thuyền nặng trên vai. Ðôi mắt anh gần như nhắm nghiền, vầng trán nhăn nheo vì đau khổ, gương mặt hốc hác và già đi nhiều tuổi. Cái chết cũng gần kềvì hòn đảo không bóng người, chỉ có vài cụm măng tre. Tuy nhiên anh vẫn giữ được phẩm giá con người. Lòng anh bình thản bởi anh biết rõ mình là ai. Miệng anh không thốt ra lời. Trái tim anh câm lặng. Tấm thân xương xẩu gầy còm của anh mang dấu vết tàn phá của khổ đau và thiếu dinh dưỡng. Anh mang nặng thập giá của nhân loạị "Anh là kẻ đau khổ, đã quen thuộc với khổ đau" (Is. 53:3). Có thể hải tặc sẽ trở lại thanh toán anh, nhưng anh vẫn tiếp tục lê bước khiêng vác những tấm ván làm quan tài chôn vợ anh.
Philatô trao Chúa Giêsu cho quân dữ đánh đòn. Quân lính "lột áo người và khoác lên mình người một cái áo choàng đỏ, và sau khi đã cuốn gai thành triều thiên, chúng đội lên đầu người, rồi đặt một cây sậy trong tay người. Ðể chế nhạo người, chúng qùy xuống kêu lên: "Tung hô Vua Do Thái!" Chúng nhổ nước miếng vào mặt người và lấy cây sậy đập lên đầu người. Và sau khi đã chế nhạo người, chúng lột áo choàng và mặc cho người quần áo cũ, và dắt người đi đóng đanh vào thập giá." (Mt 27:28-31). Chúa Giêsu chịu đựng tất cả những xỉ nhục nàỵ Thời gian hành động đã qua. Ngài không nói gì nữa. Ngài không phản đối, không mắng nhiếc, không quở trách. Ngài đã trở nên một nạn nhân. Ngài không còn hành động và trở nên thụ động để chịu đựng những hành động của kẻ khác. Ngài đã bước vào cuộc tử nạn. Ngài đã biết đa số đời sống con người là khổ aỉ. Bao nhiêu người đang chết đói, bị bắt cóc, bị tra tấn và bị giết. Nhiều người đang bị cầm tù, bị trục xuất ra khỏi nhà, bị ly tán khỏi gia đình, bị nhốt vào các trại, bị dùng làm lao công cưỡng bách. Họ không hiểu tại saọ Họ không hiểu nguyên nhân của những việc này, vì không ai giải thích. Họ nghèo khó.
Khi Chúa Giêsu cảm thấy thập giá được đặt trên vai, Ngài ghi nhận được nỗi đau của muôn ngàn thế hệ tương lai đè nặng trên vai. Ngài đã thấy người thuyền nhân chôn vợ, và Ngài yêu thương anh ta với một niềm sót thương vô bờ bến.
Tôi cảm thấy thật bất lực. Tôi muốn làm một cái gì. Ít ra tôi cũng phải gióng lên tiếng nói để phản kháng bạo lực và đói kém, áp bức và khai thác. Ngoài ra tôi phải hành động bất cứ cách nào để làm giảm thiểu những nỗi đau tôi không trông thấy. Nhưng hãy còn một công việc khó khăn hơn: đó là mang thập giá của tôi, thập giá của sự cô đơn, ly án, thập giá của sự xua đuổi, thập giá của sự tuyệt vọng và lo lắng nội tâm. Ngày nào tôi cảm thấy đau đớn hấp hối khi nhìn thấy nỗi đau cuả kẻ khác, mà không thể gánh vác nỗi đau của riêng tôi, tôi có thể trở thành một nhà tranh đấu cho nhân quyền, một người bảo vệ cho nhân loại, nhưng tôi vẫn chưa trở thành một người đi theo Chúa Giêsu. Bằng cách nào đó, mối liên kết của tôi với những ai đang đau khổ vì bị bách hại, đã trở nên hiện thực qua sự tự nguyện chịu đựng nỗi cô đơn của tôi. Ðôi khi đây là một ágánh nặng tôi muốn tránh bằng cách lo lắng cho người khác.
Nhưng Chúa Giêsu nói: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang lao nhọc và gánh nặng, Ta sẽ cho các con được nghỉ ngơi" (Mt 11:28). Tôi có thể nghĩ rằng có một hố sâu ngăn cách tôi với người thuyền nhân trên đây. Nhưng Giêsu vác thập giá cho cả hai chúng tôị Chúng tôi kết hợp làm một. Mỗi khi chúng ta phải tự vác thập giá và theo chân Ngài, chúng ta sẽ khám phá được rằng chúng ta thục sự là anh em, vì đã học được ở Ngài, là đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chỉ bằng cách này mới hy vọng nẩy sinh được một nhân loại mới.
Mai Thư
Chặng Thứ III
Chúa Giêsu Ngã Xuống Ðất Lần Thứ Nhất
Ðứa bé trai Việt Nam bị bỏ rơi lại đằng sau trong cuộc di tản miền nam. Tại sao" Có lẽ cha mẹ nó đã bị giết, bị bắt cóc, hay bị nhốt vào trạỉ Có lẽ nó đã cố gắng chạy trốn nhưng bị ngăn chặn lại. Có lẽ cha mẹ nó là những thuyền nhân đã đắm ghe chết đuốỉ Có lẽ... Có lẽ... và con trai họ đã bị bỏ rơi một mình. Trong khi tôi nhìn vào đôi mắt của nó đang xừng xững ngó về một tương lai trống rỗng, tôi thấy con mắt của hàng triệu trẻ em bị áp bức bởi quyền lực của bóng tối. Ðứa bé trai hiền ngoan này cần được ôm ấp, hôn hít, vỗ về. Nó cần cảm thấy có đôi bàn tay mạnh dạn, cứng cáp và yêu thương của cha nó, và những lời nói dịu dàng của mẹ nó. Nó cần nhìn thấy đôi mắt của những người nói với nó: "Em dễ thương quá!" Ðứa trẻ này sẽ tìm được sự an toàn ở đâu" Ở đâu nó mới biết rằng nó thực sự được âu yếm" Nó biết chạy đi đâu mỗi khi nó lo sợ và bối rối" Ở đâu nó có thể để cho những giòng nước mắt tuôn trào tự nhiên, cho nỗi đau của nó được tiếp nhận, và những cơn ác mộng tan đi" Ai sẽ cù nhẹ vào gan bàn chân nó" Ai sẽ xiết nhẹ tay nó" Ai sẽ vuốt má nó" Nó ngồi đây ngây dại, cô đơn và bị bỏ rơi. Nó bị bỏ lại đằng sau bởi một nhân loại không còn nắm giữ được tương lai.
Trên khắp thế giới, con trẻ gục ngã dưới sức nặng của bạo lực, chiến tranh, tham những và những lo âu của nhân loại. Chúng đói khát, đói khát tình yêu, và thức ăn. Trong những hành lang lạnh lẽo của những trung tâm, chúng ngồi đợi xem có ai chú ý. Chúng phải ngủ với những người lạ lợi dụng chúng để thoả mãn dục vọng của họ. Chúng lang thang ngoài vỉa hè các thị trấn, cố gắng sinh tồn trong các băng đảng hay một mình. Có hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu trẻ em như chúng trên khắp thế giới. Chúng chưa nghe được lời nói: "Con là kẻ Ta thương yêu, trên con Ta đổ đầy ơn phúc." (Lc 3:22).
Không ở đâu chúng ta thấy rõ sự sa đọa của nhân loại hơn nơi những trẻ nhỏ này. Chúng phơi bầy tội lỗi của chúng ta. Bị bỏ rơi và cô đơn, chúng cho ta thấy chúng ta đã đánh mất ân sủng qúy giá, đó là biết thương yêu những người anh em.
Ðiều gì sẽ xẩy ra khi chúng lớn lên và trở thành những người nam và người nữ của thế hệ tương lai" Chúng có sẽ giật lấy một khẩu súng trong khi tìm kiếm sự trả thù" Chúng có rút lui vào sự câm lặng suốt đời trong các bệnh viện tâm trí" Hay sẽ bị nhốt sau những chấn song sắt của các nhà tù như những tội phạm nguy hiểm nhất" Chúng có trở nên những tên khủng bố, chúa băng đảng, con buôn ma-túy, ma cô hay làm đĩ" Hay chúng có khám phá được rằng bên kia và đằng sau những mưu mô xảo quyệt của nhân loại, vẫn có những bàn tay dìu dắt, che chở cho chúng được an toàn và đem lại cho chúng một tình yêu vô điều kiện"
Chúa Giêsu gục ngã dưới sức nặng của thập giá. Ngài tiếp tục té ngã. Chúa Giêsu không phải là một anh hùng chiến thắng, đã chịu cực khổ với một ý chí hào hùng bất khuất. Không, Ngài là người sanh ra như con trẻ của Thiên Chúa và con của Mẹ Maria, được thờ phượng bởi các mục đồng và đạo sĩ. Ngài không bao giờ là một nhà lãnh tụ kiêu hãnh, muốn dẫn dắt nhân loại tới chiến thắng cuối cùng chống lại những quyền lực của bóng tối. Khi Ngài đã trưởng thành, Ngài hạ mình bằng cách theo chân những người nam và nữ đang thống hối và lãnh nhận phép rửa trên sông Giođan. Ðó là lúc Ngài đã được nghe lời nói từ trời in sâu vào lòng: "Ðây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Lời này giúp cho Ngài trong suốt cuộc đời được che chở khỏi mọi chua cay, ghen ghét, và hận thù. Ngài luôn luôn vẫn là một đứa trẻ và nói với những kẻ đi theo Ngài: "Trừ khi các con thay đổi và trở nên giống như con trẻ, các con sẽ không được vào nước Thiên Ðàng" (Mt 18:3). Chúa Giêsu là đứa trẻ ngây thơ qụy ngã dưới thập giá nặng nề của tất cả những lo âu của nhân loại: bất lực, yếu đuối, dễ bị thương. Nhưng chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm của trái tim hay thương sót của Chuá đang ôm lấy tất cả các trẻ em, chung quanh và ngay trong chúng ta.
Tôi biết rằng chính tôi cũng là một con trẻ, bên dưới tất cả những thành quả của tôi. Tôi vẫn kêu khóc đòi được ôm ấp che chở và thương yêu vô điều kiện. Tôi cũng biết là khi tôi để mất liên lạc với đứa trẻ trong tôi là mất liên lạc với Giêsu và tất cả những ai thuộc về Ngài. Mỗi khi tôi chạm đến đứa trẻ trong tôi, tôi chạm đến sự bất lực và sợ hãi bị bỏ rơi một mình, không ai cho một chỗ trú thân an toàn. Chúa Giêsu ngã dưới thập giá để cho tôi có thể phục hồi đứa trẻ thơ trong tôi, tìm được nơi chốn trong tôi, nơi tôi mất tự chủ, và cần thiết được nâng đỡ ủi an. Những đứa trẻ bị bỏ rơi trên thế giới này đều ở trong tôi. Chúa Giêsu bảo tôi không được hãi sợ, để đối diện với chúng trong tim tôi và cùng chịu đựng cực khổ với chúng. Chúa muốn tôi khám phá ra rằng bên kia tất cả những cảm giác bị khước từ, bị bỏ rơi, vẫn có tình yêu, một tình yêu chân chính, một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu đến từ Thiên Chúa đã trở nên nhục thể và sẽ không bao giờ bỏ rơi các con cái Ngài.
Mai Thư
Lời Mở Ðầu
Mỗi khi tôi nghĩ đến người nghèo, hình ảnh được gợi ra trong trí tôi là nhừng người nam và nữ kéo nhau ra chợ làng từ sáng sớm. Trên vai họ là quang gánh chĩu nặng những bó rau. Trên đầu họ là những thúng đựng bí bầu. Tay họ sách những chiếc giỏ đựng gà vịt.
Họ đi chân đất, mặc những bộ quần áo nâu sòng đã nhiều chỗ vá hay đã bạc mầu. Họ mang những sản vật họ đã đổ nhiều mồ hôi sớm ngày ra vun trồng hay nuôi dưỡng. Ðôi khi chỉ là vài bó rau muống hái ở bờ ao. Họ đi trên đường làng đầy bụi bậm khi khô ráo, hay bùn lầy khi mưa rào. Nơi chợ làng, họ bầy ra bán để đổi lấy chút cơm gạo cho chồng con mỗi ngày. Chợ chỉ họp từ 6 giờ sáng đến 7 giờ sáng. Sau đó ai nấy lại lục tục trở về với nương đồng, vườn tược.
Tôi không thích đi bộ mấy, ngoại trừ những khi tập thể dục, chạy trong công viên gần nhà. Ði một trăm bước cũng leo lên xe hơi. Ði xa thì có xe buýt, xe điện ngầm, xe lửa và máy bay chở tôi đến những chỗ tôi muốn tới. Chân tôi không còn mấy khi chạm vào đất bụi của trái đất này như khi xưa thời chạy loạn ngoài bắc. Luôn luôn có những bánh xe giúp tôi đi tới đi lui mau hơn.
Ở nơi tôi ở hiện giờ không có nhiều người đi bộ, ngoại trừ những người tập thể thao. Ðôi khi khó tìm được người đi bộ để hỏi đường khi bị lạc. Trong thế giới của tôi người ta đi từ chỗ này đến chỗ kia bị đóng kín trong một cái thùng sắt di động. Họ ở trên đường phố mà y như ở trong nhà. Họ nghe băng nhạc, CD hay radio. Họ nói chuyện điện thoại với sở làm, người thân hay bạn hữu. Hiếm khi họ mới gặp gỡ người lạ tại các bãi đậu xe, siêu thị, hay những quán bán thức ăn dọn nhanh.
Nhưng Chúa Giêu đã đi bộ, và Ngài vẫn còn đi bộ. Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác, và trong khi đi bộ, Ngài gặp gỡ nhiều người nghèọ Ngài gặp những hành khất, người mù, người bệnh tật, người đang than khóc. Ngài luôn luôn ở gần mặt đất. Ngài cảm thấy cái nóng của ban ngày và cái lạnh của mặt đất ban đêm. Ngài thông thạo về những ngọn cỏ héo mầu, tàn úa, những miền đất đầy sỏi đá, những bụi gai, những thân cây trơ trụi lá, những bông hoa dại ngoài đồng, và những mùa gặt tốt.
Ngài biết rõ vì Ngài đã đi bộ qúa nhiều và cảm nhận ngay trong chính bản thân sự khô cằn hay mầu mỡ của mỗi mùa. Ngài chăm chú lắng nghe những người đi bên Ngài, và Ngài trò truyện với họ như một người bạn đồng hành chân chính. Ngài nghiêm nghị, nhưng rất bao dung, nói thẳng nhưng rất hiền từ, đòi hỏi nhưng hay tha thứ, gạn hỏi nhưng rất lễ độ. Ngài đào sâu, cắt mạnh, nhưng với bàn tay của một thầy thuốc. Ngài phân rẽ, nhưng là để cho trưởng thành. Ngài đả phá nhưng để cho có sự xác tín xảy ra. Chúa Giêsu có liên hệ mật thiết với mặt đất trên đó Ngài bước đi. Ngài quan sát sức mạnh của thiên nhiên, và bày tỏ rằng Thiên Chúa, Ðấng Tạo Hóa cũng chính là Thiên Chúa đã sai Ngài đến đem Tin Mừng cho người nghèo, ánh sáng cho người mù, và sự giải thóat cho kẻ tù đầy.
Những người nghèo đi bộ trên đường làng, trên cát bụi của sa mạc hay trên những lối đi đầy sỏi đá của những miền núi trên thế giới này, nhắc nhở tôi đến hai chữ khiêm nhường (humility) - xuất xứ từ chữ Latinh "humus" có nghiã là đất. Tôi phải ở gần đất. Nhiều khi tôi nhìn lên trời, ngó theo những đám mây và mơ về một thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng giấc mơ của tôi không bao giờ thành tựu trừ khi tôi biết nhìn xuống đất, nhìn hoài hoài xuống đất, nhìn tất cả những người đang mệt mỏi lết đi, và đang mời gọi tôi đi cùng.
Nhưng đi với người nghèo có ý nghiã gì" Có nghiã là tôi phải công nhận chính sự nghèo hèn của tôi: những đổ vỡ sâu xa trong tôi, sự mỏi mệt, bất lực, và yếu đuối của tôị Chính ở đây tôi mới được nối kết với đất. Chính ở đây tôi mới được kết hiệp với tất cả những ai đang đi chân trên trái đất này, và khám ra rằng chính tôi, tôi cũng được thương yêu vì tôi là một người rất mỏng manh nhưng qúy giá.
Trước khi Chúa Giêsu chịu nạn, "Khi người biết mình đến từ Thiên Chúa và đang trở về với Thiên Chúa, người cầm lấy khăn và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ" (Ga 13:5). Ngôi Lời trở nên nhục thể để rửa đôi chân mệt mỏi của tôi. Ngài chạm đến phần thân thể tôi ở chỗ tôi tiếp xúc với mặt đất, nơi mặt đất được nối kết với tôi và tôi vươn cao lên để với tới trời. Ngài qùy xuống vàcầm đôi chân tôi trong tay Ngài và rửa chân cho tôi. Rồi Ngài ngẩng lên và khi đôi mắt Ngài chạm mắt tôi, Ngài nói: "Con có hiểu điều gì Ta đang làm cho con không" Nếu Ta là Thiên Chúa và là Thầy của con, đã rửa chân cho con, con cũng phải rửa chân cho các anh chị em của con." (Ga 13:13-14).
Mỗi khi tôi phải vác thánh giá trên con đường gian khổ, tôi phải ngừng lại dọc đàng để rửa chân cho người đi bên tôi. Trong khi tôi qùy xuống trước mỗi người anh chị em và nhìn vào đôi mắt họ, tôi khám phá ra rằng chính nhờ những anh chị em đang đồng hành với tôi, tôi mới đủ sức để đi trọn hành trình này.
Mai Thư
Chặng Thứ I
Chúa Giêsu Bị Kết A"
Một người bị nhốt trong sà lim sau hàng chấn song sắt. Người này bị kết án tử hình. Anh bị liệt vào hạng người tội phạm. Anh không còn xứng đáng để sống. Anh đã trở nên kẻ thù, kẻ phản loạn, kẻ sống bên lề, và rất nguy hiểm cho xã hội. Anh phải được đem đi nhốt, phải được tách ra khỏi đời sống cộng đồng.
Vì lý do gì? Vì anh khác người. Anh là một người tị nạn, mà người dân tị nạn là một mối đe dọa cho nền kinh tế ở đây. Anh là người da mầu, và người da mầu thì rất nguy hiểm. Anh là người Do Thái, mà người Do Thái thì rất khó tin.
Anh là người ngoại cuộc đang nói những điều chúng ta không muốn nghe, và đang dến những điều chúng ta chỉ muốn quên đi. Anh đã làm đảo lộn trật tự của đời sống chúng ta. Anh đã xé rách cái màn che đậy những xấu xa của chúng ta, và phá đổ bức tường ngăn cách và che chở chúng ta được an toàn.
Anh nói, "Tất cả chúng ta đều là đồng loại, đều là con cái một Thiên Chúa, đều được Chúa thương yêu như những đứa con được cưng chiều nhất. Chúng ta cùng được hứa sẽ sống chung trong cùng một mái nhà, với cùng một cha, và ngồi ăn cùng bàn." Anh nói, "Sự kỳ thị không nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Kết hiệp và hoà đồng là điều Chúa muốn."
Tiếng nói này cần phải được dẹp tắt. Tiếng nói của anh làm đảo lộn đường lối người ta hành xử ở đây. Tiếng nói này phá rối đời sống gia đình, xã hội, và nơi sở làm của chúng ta. Tiếng nói này làm mất trật tự và gây nên rối loạn. Ðời sống bình thường đã qúa phức tạp. Chúng ta không cần đến những tiên tri nửa muà làm hư hỏng màng lưới mỏng manh của các mối liên hệ chúng ta đã công phu gây dựng. Chúng ta hãy cứ tuân theo khẩu hiệu này: "Ai lo thân người nấy, đã có Chúa lo cho tất cả mọi người." Theo cách này thì chúng ta sẽ đau khổ ít và thoải mái tôí đa.
Chúa Giêsu đứng trước Philatô. Ngài im lặng. Ngài không tự bào chữa chống lại những lời kết án Ngài. Nhưng khi Philatô hỏi, "Ông đã làm gì"" Ngài nói, "Ta đến với thế gian để làm chứng nhân cho sự thật, và ai ở bên phía của sự thật thì nghe lời Ta" (Ga 18:35-38). Sự thật Giêsu nói tới không phải là một luận án tiến sĩ, một học thuyết, hay một lối giải thích minh bạch về chân lý. Ðây chính là mối liên hệ, sự hiến dâng mật thiết đời sống giữa Ngài và Chúa Cha, Ngài muốn cho chúng ta được chia sẻ. Philatô không thể nghe được điều này, cũng như bất cứ ai không được kết hiệp với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, bất cứ người nào bước vào sự hiệp thông với Chúa Giêsu, cũng sẽ tiếp nhận được Thần Trí của sự thật. Thần Trí giải thóat chúng ta khỏi những sự thúc đẩy và ám ảnh của xã hội đương thời. Thần Trí làm cho chúng ta trực thuộc vào chính đời sống nội tâm của Chúa, và cho phép chúng ta sống trong thế giới với những trái tim rộng mở và đầu óc tỉnh táo. Khi thông hiệp với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nghe tiếng của Thần Trí và tiến bước đi đến khắp mọi nơi, dù chúng ta đang bị cầm tù hay không. Vì sự thật - mối liên hệ chân chính, sự trực thuộc chân chính - đem đến cho chúng ta sự tự do mà quyền lực của bóng tối không thể tước đoạt. Giêsu là con người tự do nhất đã từng sống trên trái đất này, vì Ngài là người có liên hệ mật thiết nhất với Thiên Chúa, Philatô kết án Ngài. Philatô muốn liệt Ngài vào hàng những kẻ tội phạm. Nhưng ông ta đã không làm được như vậy. Cái chết của Giêsu, thay vì là sự thi hành một bản án tử hình, lại trở nên con đường dẫn đến sự thật viên mãn, dẫn đến tự do trọn vẹn.
Tôi biết rằng tôi càng thuộc về Chúa hơn, tôi sẽ càng bị kết án nhiều hơn. Nhưng việc kết án thế giới sẽ làm cho chân lý được tỏ hiện. "Phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính, nước trời là của họ" (Mt. 5:10). Tôi phải tin ở những lời này. Chính đây là nơi thế giới ghét tôi, nơi tôi không được người ta để ý đến, nơi tôi bị xô đẩy ra bên lề xã hội, bị nhạo cười, bị hạ nhục. Chính nơi đây tôi có thể khám phá tôi là thành phần của cộng đồng thế giới bị nhốt sau những chấn song sắt, trong hàng rào giây kẽm gai, bị cô lập trong các trại cấm.
Tôi thèm khát sự thật, thèm khát được hiệp thông với Thiên Chúa như Giêsu. Nhưng mỗi khi sự thèm khát này được no đủ, tôi lại bị kết án lần nữa và bị trao cho thánh giá khác nặng hơn. Trong câu chuyện Phêrô và Gioan, Phaolô và Barnabas, Giacôbê và Anrê, và nhất là của Maria, Mẹ Giêsu, hạnh phúc và khổ đau của họ trở nên một, vì họ đã lựa chọn để sống cho chân lý giữa thế giới.
Ðiều này không thể xảy ra nếu chúng ta không có thánh giá để mang, nếu chúng ta không được hưởng niềm vui bao la là đã trực thuộc vào đời sống thánh thiện vượt ra ngoài những chấn song sắt, những hàng rào giây kẽm gai, và những dụng cụ tra tấn hay xử trảm.
Phải, trên gương mặt của người bị nhốt sau những chấn song sắt có phảng phất vẻ hãi sợ, nhưng cũng có niềm tin, cậy, hy vọng, và một ý thức sâu xa về tự do. Mắt của người này và của tôi là những con mắt có thể thấy những gì thế giới không thấy. Ðó là gương mặt của một Thiên Chúa đau khổ đang kêu gọi chúng ta từ nơi xa xôi, thúc dục chúng ta vượt qua cơn hãi sợ để đến được miền đất của tình yêu vĩnh cửu.
Mai Thư
Chặng Thứ II
Chúa Giêsu Vác Thập Giá
Một thuyền nhân trôi dạt vào một hoang đảo trong Vịnh Thái Lan. Anh là người cuối cùng sống sót trên chiếc ghe vượt biên sau bẩy ngày lênh đênh trên biển, máy hự hết thức ăn, nước uống, và bị tấn công nhiều lần. Vợ anh bị hải tặc hãm hại và đã tắt thở. Anh ôm xác vợ ba ngày, nhất định không thủy táng vì không muốn vợ làm mồi cho cá. Anh lượm những tấm ván ghe trên bãi cát và khiêng về chỗ anh đã vùi tạm xác vợ. Dùng cây, anh đào lỗ sâu trên cồn cát, rồi cố xếp những mảnh ván thành cái áo quan trong hố. Anh cốgắng làm cho vợ hiền có được chiếc áo cuối cùng che chở thân thể loã lồ, và ngăn cho côn trùng khỏi rỉa rúc. Anh lầm lũi tẩm liệm vợ bằng lá tre, rồi đậy tấm ván cuối cùng lên trên. Anh xúc cát lấp mộ, lấy cành tre làm thập gía đánh dấu ngôi mộ mà anh biết chẳng bao lâu gió bão sẽ làm mất tăm tích. Qùy bên thập giá lòng anh quặn đau. Chao ôi! Cái giá của tự do sao quá đắt"
Trong xã hội chúng ta, hàng ngày cả trăm thanh thiếu niên bị hạ thủ bằng súng đạn, dao búa và giây điện. Nhiều trẻ em chết lần mòn vì thiếu dinh dưỡng, thiếu thuốc men, thiếu săn sóc. Ngày qua ngày, chiến tranh, bao lực và nghèo đói đem chết chóc đến cho những ngôi làng nhỏ ở Ethiopia, Sudan, Bangladesh và rất nhiều nơi khác.
Tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của người thuyền nhân khi anh ôm đống ván thuyền nặng trên vai. Ðôi mắt anh gần như nhắm nghiền, vầng trán nhăn nheo vì đau khổ, gương mặt hốc hác và già đi nhiều tuổi. Cái chết cũng gần kềvì hòn đảo không bóng người, chỉ có vài cụm măng tre. Tuy nhiên anh vẫn giữ được phẩm giá con người. Lòng anh bình thản bởi anh biết rõ mình là ai. Miệng anh không thốt ra lời. Trái tim anh câm lặng. Tấm thân xương xẩu gầy còm của anh mang dấu vết tàn phá của khổ đau và thiếu dinh dưỡng. Anh mang nặng thập giá của nhân loạị "Anh là kẻ đau khổ, đã quen thuộc với khổ đau" (Is. 53:3). Có thể hải tặc sẽ trở lại thanh toán anh, nhưng anh vẫn tiếp tục lê bước khiêng vác những tấm ván làm quan tài chôn vợ anh.
Philatô trao Chúa Giêsu cho quân dữ đánh đòn. Quân lính "lột áo người và khoác lên mình người một cái áo choàng đỏ, và sau khi đã cuốn gai thành triều thiên, chúng đội lên đầu người, rồi đặt một cây sậy trong tay người. Ðể chế nhạo người, chúng qùy xuống kêu lên: "Tung hô Vua Do Thái!" Chúng nhổ nước miếng vào mặt người và lấy cây sậy đập lên đầu người. Và sau khi đã chế nhạo người, chúng lột áo choàng và mặc cho người quần áo cũ, và dắt người đi đóng đanh vào thập giá." (Mt 27:28-31). Chúa Giêsu chịu đựng tất cả những xỉ nhục nàỵ Thời gian hành động đã qua. Ngài không nói gì nữa. Ngài không phản đối, không mắng nhiếc, không quở trách. Ngài đã trở nên một nạn nhân. Ngài không còn hành động và trở nên thụ động để chịu đựng những hành động của kẻ khác. Ngài đã bước vào cuộc tử nạn. Ngài đã biết đa số đời sống con người là khổ aỉ. Bao nhiêu người đang chết đói, bị bắt cóc, bị tra tấn và bị giết. Nhiều người đang bị cầm tù, bị trục xuất ra khỏi nhà, bị ly tán khỏi gia đình, bị nhốt vào các trại, bị dùng làm lao công cưỡng bách. Họ không hiểu tại saọ Họ không hiểu nguyên nhân của những việc này, vì không ai giải thích. Họ nghèo khó.
Khi Chúa Giêsu cảm thấy thập giá được đặt trên vai, Ngài ghi nhận được nỗi đau của muôn ngàn thế hệ tương lai đè nặng trên vai. Ngài đã thấy người thuyền nhân chôn vợ, và Ngài yêu thương anh ta với một niềm sót thương vô bờ bến.
Tôi cảm thấy thật bất lực. Tôi muốn làm một cái gì. Ít ra tôi cũng phải gióng lên tiếng nói để phản kháng bạo lực và đói kém, áp bức và khai thác. Ngoài ra tôi phải hành động bất cứ cách nào để làm giảm thiểu những nỗi đau tôi không trông thấy. Nhưng hãy còn một công việc khó khăn hơn: đó là mang thập giá của tôi, thập giá của sự cô đơn, ly án, thập giá của sự xua đuổi, thập giá của sự tuyệt vọng và lo lắng nội tâm. Ngày nào tôi cảm thấy đau đớn hấp hối khi nhìn thấy nỗi đau cuả kẻ khác, mà không thể gánh vác nỗi đau của riêng tôi, tôi có thể trở thành một nhà tranh đấu cho nhân quyền, một người bảo vệ cho nhân loại, nhưng tôi vẫn chưa trở thành một người đi theo Chúa Giêsu. Bằng cách nào đó, mối liên kết của tôi với những ai đang đau khổ vì bị bách hại, đã trở nên hiện thực qua sự tự nguyện chịu đựng nỗi cô đơn của tôi. Ðôi khi đây là một ágánh nặng tôi muốn tránh bằng cách lo lắng cho người khác.
Nhưng Chúa Giêsu nói: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang lao nhọc và gánh nặng, Ta sẽ cho các con được nghỉ ngơi" (Mt 11:28). Tôi có thể nghĩ rằng có một hố sâu ngăn cách tôi với người thuyền nhân trên đây. Nhưng Giêsu vác thập giá cho cả hai chúng tôị Chúng tôi kết hợp làm một. Mỗi khi chúng ta phải tự vác thập giá và theo chân Ngài, chúng ta sẽ khám phá được rằng chúng ta thục sự là anh em, vì đã học được ở Ngài, là đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chỉ bằng cách này mới hy vọng nẩy sinh được một nhân loại mới.
Mai Thư
Chặng Thứ III
Chúa Giêsu Ngã Xuống Ðất Lần Thứ Nhất
Ðứa bé trai Việt Nam bị bỏ rơi lại đằng sau trong cuộc di tản miền nam. Tại sao" Có lẽ cha mẹ nó đã bị giết, bị bắt cóc, hay bị nhốt vào trạỉ Có lẽ nó đã cố gắng chạy trốn nhưng bị ngăn chặn lại. Có lẽ cha mẹ nó là những thuyền nhân đã đắm ghe chết đuốỉ Có lẽ... Có lẽ... và con trai họ đã bị bỏ rơi một mình. Trong khi tôi nhìn vào đôi mắt của nó đang xừng xững ngó về một tương lai trống rỗng, tôi thấy con mắt của hàng triệu trẻ em bị áp bức bởi quyền lực của bóng tối. Ðứa bé trai hiền ngoan này cần được ôm ấp, hôn hít, vỗ về. Nó cần cảm thấy có đôi bàn tay mạnh dạn, cứng cáp và yêu thương của cha nó, và những lời nói dịu dàng của mẹ nó. Nó cần nhìn thấy đôi mắt của những người nói với nó: "Em dễ thương quá!" Ðứa trẻ này sẽ tìm được sự an toàn ở đâu" Ở đâu nó mới biết rằng nó thực sự được âu yếm" Nó biết chạy đi đâu mỗi khi nó lo sợ và bối rối" Ở đâu nó có thể để cho những giòng nước mắt tuôn trào tự nhiên, cho nỗi đau của nó được tiếp nhận, và những cơn ác mộng tan đi" Ai sẽ cù nhẹ vào gan bàn chân nó" Ai sẽ xiết nhẹ tay nó" Ai sẽ vuốt má nó" Nó ngồi đây ngây dại, cô đơn và bị bỏ rơi. Nó bị bỏ lại đằng sau bởi một nhân loại không còn nắm giữ được tương lai.
Trên khắp thế giới, con trẻ gục ngã dưới sức nặng của bạo lực, chiến tranh, tham những và những lo âu của nhân loại. Chúng đói khát, đói khát tình yêu, và thức ăn. Trong những hành lang lạnh lẽo của những trung tâm, chúng ngồi đợi xem có ai chú ý. Chúng phải ngủ với những người lạ lợi dụng chúng để thoả mãn dục vọng của họ. Chúng lang thang ngoài vỉa hè các thị trấn, cố gắng sinh tồn trong các băng đảng hay một mình. Có hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu trẻ em như chúng trên khắp thế giới. Chúng chưa nghe được lời nói: "Con là kẻ Ta thương yêu, trên con Ta đổ đầy ơn phúc." (Lc 3:22).
Không ở đâu chúng ta thấy rõ sự sa đọa của nhân loại hơn nơi những trẻ nhỏ này. Chúng phơi bầy tội lỗi của chúng ta. Bị bỏ rơi và cô đơn, chúng cho ta thấy chúng ta đã đánh mất ân sủng qúy giá, đó là biết thương yêu những người anh em.
Ðiều gì sẽ xẩy ra khi chúng lớn lên và trở thành những người nam và người nữ của thế hệ tương lai" Chúng có sẽ giật lấy một khẩu súng trong khi tìm kiếm sự trả thù" Chúng có rút lui vào sự câm lặng suốt đời trong các bệnh viện tâm trí" Hay sẽ bị nhốt sau những chấn song sắt của các nhà tù như những tội phạm nguy hiểm nhất" Chúng có trở nên những tên khủng bố, chúa băng đảng, con buôn ma-túy, ma cô hay làm đĩ" Hay chúng có khám phá được rằng bên kia và đằng sau những mưu mô xảo quyệt của nhân loại, vẫn có những bàn tay dìu dắt, che chở cho chúng được an toàn và đem lại cho chúng một tình yêu vô điều kiện"
Chúa Giêsu gục ngã dưới sức nặng của thập giá. Ngài tiếp tục té ngã. Chúa Giêsu không phải là một anh hùng chiến thắng, đã chịu cực khổ với một ý chí hào hùng bất khuất. Không, Ngài là người sanh ra như con trẻ của Thiên Chúa và con của Mẹ Maria, được thờ phượng bởi các mục đồng và đạo sĩ. Ngài không bao giờ là một nhà lãnh tụ kiêu hãnh, muốn dẫn dắt nhân loại tới chiến thắng cuối cùng chống lại những quyền lực của bóng tối. Khi Ngài đã trưởng thành, Ngài hạ mình bằng cách theo chân những người nam và nữ đang thống hối và lãnh nhận phép rửa trên sông Giođan. Ðó là lúc Ngài đã được nghe lời nói từ trời in sâu vào lòng: "Ðây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Lời này giúp cho Ngài trong suốt cuộc đời được che chở khỏi mọi chua cay, ghen ghét, và hận thù. Ngài luôn luôn vẫn là một đứa trẻ và nói với những kẻ đi theo Ngài: "Trừ khi các con thay đổi và trở nên giống như con trẻ, các con sẽ không được vào nước Thiên Ðàng" (Mt 18:3). Chúa Giêsu là đứa trẻ ngây thơ qụy ngã dưới thập giá nặng nề của tất cả những lo âu của nhân loại: bất lực, yếu đuối, dễ bị thương. Nhưng chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm của trái tim hay thương sót của Chuá đang ôm lấy tất cả các trẻ em, chung quanh và ngay trong chúng ta.
Tôi biết rằng chính tôi cũng là một con trẻ, bên dưới tất cả những thành quả của tôi. Tôi vẫn kêu khóc đòi được ôm ấp che chở và thương yêu vô điều kiện. Tôi cũng biết là khi tôi để mất liên lạc với đứa trẻ trong tôi là mất liên lạc với Giêsu và tất cả những ai thuộc về Ngài. Mỗi khi tôi chạm đến đứa trẻ trong tôi, tôi chạm đến sự bất lực và sợ hãi bị bỏ rơi một mình, không ai cho một chỗ trú thân an toàn. Chúa Giêsu ngã dưới thập giá để cho tôi có thể phục hồi đứa trẻ thơ trong tôi, tìm được nơi chốn trong tôi, nơi tôi mất tự chủ, và cần thiết được nâng đỡ ủi an. Những đứa trẻ bị bỏ rơi trên thế giới này đều ở trong tôi. Chúa Giêsu bảo tôi không được hãi sợ, để đối diện với chúng trong tim tôi và cùng chịu đựng cực khổ với chúng. Chúa muốn tôi khám phá ra rằng bên kia tất cả những cảm giác bị khước từ, bị bỏ rơi, vẫn có tình yêu, một tình yêu chân chính, một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu đến từ Thiên Chúa đã trở nên nhục thể và sẽ không bao giờ bỏ rơi các con cái Ngài.
Mai Thư