Lịch Sử Việt Nam - phần 7
Lịch Sử Việt Nam - phần 7
61. Năm 1533, nhà Lê mất ngôi: Nhà Lê làm vua được 100 năm truyền đến vua Lê Chiêu Tông thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi.
Year 1533, the Le lost the throne: The Le dynasty ruled our country for 100 years till King Le Chieu Tong’s reign. Then Mac Dang Dung stole the throne.
An 1533, le Lê perd le trône: la dynastie Lê gouverna notre pays pendant 100 ans jusqu'au règne du roi Lê Chiêu Tông. Alors Mac Dang Dung vola le trône.
62. Chúa Trịnh: Nhà Mạc truyền ngôi đến Mạc Mậu Hợp thì bị Trịnh Tùng giết ở Thăng Long. Năm 1592, họ Trịnh xưng là chúa Trịnh đóng đô ở phía Bắc, chỉnh đốn quyền hành.
Lord Trinh: The Mac dynasty was installed to Mac Mau Hop then Trinh Tung killed him at Thang Long. In 1592, Mr. Trinh proclaimed himself as Lord Trinh who dwelt in the North to empowered himself.
Le seigneur Trinh: La dynastie des Mac passa à Mac Mâu Hop qui se fit tuer par Trịnh Tùng à Thang Long. En 1592, M. Trinh se proclama seigneur Trinh qui se fixa dans le nord pour se donner les pleins pouvoirs.
63. Trịnh Nguyễn phân tranh: Mặt khác, từ năm 1558 ông Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp, đánh chiếm thêm đất của Chiêm Thành, xưng là chúa Nguyễn ở phương Nam. Chúa Nguyễn cho dân nghèo vào khai khẩn các vùng đất mới miền Nam. Từ đó nước Nam chia làm hai, lấy sông Gianh làm ranh giới.
Trinh - Nguyen conflict: Whereas, from 1558 Mr. Nguyen Hoang moved to Thanh Hoa to make his homeland. He fought with Chiem Thanh, took some of their land and proclaimed himself as Lord Nguyen of the South. Lord Nguyen allowed poor people to develop new lands in the South. That was the time when the Viet country was divided into two parts with Gianh River as the dividing line.
Le conflit entre Trinh et Nguyên: Alors qu’à partir de 1558 M. Nguyên Hoàng déménagea à Thanh Hoa pour en faire sa patrie. Il combattit avec Chiêm Thành, prit une partie de leurs terres et se proclama Seigneur Nguyên du Sud. Le seigneur Nguyên permit aux gens pauvres de mettre en valeur de nouvelles terres dans le Sud. C’était le temps où le pays Viêt était divisé en deux parties avec la rivière Gianh comme ligne frontière.
64. Người Tây phương sang Việt Nam buôn bán: Giữa thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha, người Hòa Lan đến nước ta buôn bán. Sau đó người Anh, người Pháp cũng đến buôn bán với nước ta. Các giáo sĩ cũng bắt đầu vào truyền bá đạo Thiên chúa cho dân Nam.
Western people engaged in commerce with Vietnamese: In the middle of 16th century, Portugish and Holland people went over Viet Nam to do business. After that, English, French also came over to trade with our country. The missionaries also started to preach Catholicism to Vietnamese.
Les européens engagés dans le commerce avec des Viêtnamiens: Au milieu du 16ème siècle, virent d’abord au Viêt-Nam les portugais et les hollandais pour y faire des affaires puis plus tard les anglais et les français pour y faire du commerce. Les missionnaires aussi commencèrent à prêcher le catholicisme aux viêtnamiens.
65. Sự cấm đạo: Vì đạo Thiên chúa không thờ cúng ông bà, cha mẹ, khác với nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, nên nhiều lần bị vua chúa cho là tà đạo, ngăn cấm. Khi Pháp bắt đầu tấn công Việt Nam, sự cấm đạo càng gay gắt, nhiều khi dẫn đến dùng cực hình, giết hại người vô tội.
Religion suppression: Since Catholicism did not worship ancestors and parents, which was different from the Vietnamese traditional culture, the kings believed that Catholicism was a heresy and then forbid Catholic preaching. When French started to attack Viet Nam, the religious suppression was very intense with many cases of torturing and killing innocent people.
Répression Religieuse: Puisque le catholicisme ne pratiquait pas le culte des ancêtres et des parents, ce qui était différent de la culture traditionnelle viêtnamienne, les rois crûrent que le catholicisme était une hérésie et interdirent alors la prédication du catholicisme. Lorsque les français commencèrent à attaquer le Viêt-Nam, la répression religieuse devint très intense avec de nombreux cas de torture et tuerie de personnes innocentes.
66. Chúa Nguyễn truyền đến đi Nguyễn Định Vương thì bị quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền. Lợi dụng cơ hội, chúa Trịnh Sâm sai đại tướng Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào đánh miền Nam.
The Nguyen reign was installed to Nguyen Dinh Vuong, and then later Truong Phuc Loan controlled the government. Taking this advantage, Lord Trinh Sam ordered his general Hoang Ngu Phuc to lead troops over to attack the South.
La couronne des Nguyên passa à Nguyên Dinh Vuong et plus tard Truong Phuc Loan contrôla le gouvernement. Prenant cet avantage, le seigneur Trinh Sâm ordonna à son général Hoàng Ngu Phuc de diriger les troupes pour attaquer le Sud.
67. Tây Sơn dấy binh: Năm 1771, đất Tây Sơn có 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ khởi binh đánh lấy thành Qui Nhơn. Sau 3 anh em xin liên kết với chúa Trịnh rồi đem quân đánh chúa Nguyễn ở miền Nam. Cháu chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh khởi binh đánh lại quân Tây Sơn. Nhưng sau quân Nguyễn Ánh thua to phải chạy ra Phú Quốc.
Tay Son revolution: Year 1771, there were 3 brothers Nguyen Nhac, Nguyen Lu and Nguyen Hue from Tay Son, who raised troops to seize Qui Nhon city. Later three brothers aligned with Lord Trinh to lead troops to attack and kill Lord Nguyen on the south. Lord Nguyen’s grandson was Nguyen Anh raised troops to counter-attack Tay Son army. Nguyen Anh’s army was defeated. Nguyen Anh had to retreat to Phu Quoc.
La révolution Tây Son: En l’an 1771, 3 frères Nguyên Nhac, Nguyên Huê et Nguyên Lu de Tây Son levèrent des troupes pour s'emparer de la ville de Qui Nhon. Plus tard, les trois frères s’alignèrent avec le seigneur Trinh pour diriger des troupes pour attaquer et tuer le Seigneur Nguyên au sud. Nguyên Anh, le petit-fils du seigneur Nguyên leva des troupes pour contre-attaquer l'armée de Tây Son. L’armée de Nguyên Anh fut vaincue. Nguyên Anh dut se replier à Phu Quôc.
68. Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, Xiêm La: Nguyễn Ánh gởi hoàng tử Cảnh cho giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu cứu. Vì Pháp giúp quân và tàu chiến, Nguyễn Ánh phải dâng cửa Hội An và đảo Côn Sơn cho người Pháp. Ngoài ra, chúa Nguyễn còn xin cầu cứu nước Xiêm La (Thái Lan). Vua Xiêm cho 20 ngàn quân và 300 chiến thuyền sang giúp, cốt để tìm lợi ích về sau.
Nguyen Anh seeking for help from French and Thai Lan: Nguyen Anh entrusted prince Canh to Bishop Joseph Georges Pigneau de Behaine to go to France and ask for help. Since French helped Lord Nguyen with troops and warships, Nguyen Anh had to give Hoi An port and Con Lon island to French. Lord Nguyen also asked for help from Xiem La (Thailand). King Xiem La sent 20 thousand soldiers and 300 warships over to help, but actually for their later interest.
Nguyên Anh cherchant de l'aide des français et de Thai Lan: Nguyên Anh confia à l'évêque Joseph Georges Pigneau de Behaine le prince Canh pour aller en France de l'aide. Pour l’aide des français avec leurs troupes et navires de guerre, le Seigneur Nguyên dut leur céder le port de Hôi An et l'île de Côn Son. Le Seigneur Nguyên demanda également l'aide de Xiêm La (Thaïlande).Le roi Xiêm La envoya 20 mille soldats et 300 navires de guerre pour l’aider, mais en réalité pour ses intérêts ultérieurs.
69. Nguyễn Huệ phá quân Xiêm La: Quân Xiêm với 20 ngàn thủy quân tiến vào nước Nam. Nguyễn Huệ vào Gia định, nhử thủy quân Xiêm vào Mỷ tho rồi đánh một trận. Quân Xiêm đại bại tan tành, chỉ còn lại vài ngàn người phải chạy bộ về nước.
Nguyen Hue defeated Xiem La army: Nguyen Hue advanced into Gia Dinh, lured Xiem navy to My Tho then defeated them. Xiem army was destroyed, only few thousand soldiers survived to run back their country.
Nguyên Huê défit l’armée de Xiêm La: Nguyên Huê avança dans Gia Dinh, attira la marine de Xiêm à My Tho puis la vainquit. L’armée Xiêm fut détruite, seuls quelques milliers de soldats survécurent pour retourner dans leur pays.
70. Năm 1786, họ Trịnh mất nghiệp Chúa: Họ Trịnh truyền ngôi đến thời Trịnh Khải thì suy yếu vì tranh giành quyền lợi. Nguyễn Huệ lấy cớ phù Lê diệt Trịnh đem quân đánh chiếm thành Thăng Long. Chúa Trịnh tự tử chết.
Year 1786, Trinh family lost their Lord’s authority: The authority of Trinh family, installed to Trinh Khai, was unstable due to their own competition for power. Nguyen Hue used “Supporting Le, eliminating Trinh” as the reason to lead troops to attack Thang Long capitol. Lord Trinh committed suicide.
An 1786, la famille Trinh perdit son autorité de seigneur: L'autorité de la famille Trinh, jusqu’à Trinh Khai, fut instable à cause d’une concurrence interne pour le pouvoir. Nguyên Huê pris parti de « soutenir Lê pour éliminer Trinh » comme motif pour diriger des troupes pour attaquer la capitale Thang Long. Le seigneur Trinh se suicida.
Sưu Tầm
Lịch Sử Việt Nam - phần 8
71. Đời vua Lê Chiêu Thống, đại tư đồ Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền làm điều trái phép. Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Chỉnh. Sau Nguyễn Huệ thấy Vũ Văn Nhậm kiêu căng lại đem binh ra Bắc lần thứ 2 đánh Vũ Văn Nhậm.
In Le Chieu Thong’s reign, master Nguyen Huu Chinh abused the power to do illegal things. Nguyen Hue ordered Vu Van Nham lead troops to fight Chinh. Seeing that Vu Van Nham was arrogant, Nguyen Hue led troops to the North the second time to fight Vu Van Nham.
Sous le règne de Lê Chiêu Thông, le maître Nguyên Huu Chinh abusa du pouvoir pour faire des choses illégales. Nguyên Huê ordonna à Vu Van Nhâm de conduire des troupes pour combattre Chinh. Voyant que Vu Van Nhâm était arrogant, Nguyên Huê conduisit les troupes vers le nord la seconde fois pour combattre Vu Van Nhâm.
72. Cõng rắn cắn gà nhà: Vua Lê Chiêu Thống sợ hãi chạy qua Tàu cầu cứu. Vua Càn Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị kéo 200 ngàn quân cùng với Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống sang đánh chiếm Thăng Long.
Inviting snake home to bite his own chicken: King Le Chieu Thong was panic-striken then ran to ask help from the Chinese. Emperor Can Long of Thanh dynasty ordered Ton Si Nghi, Hua The Hanh and Sam Nghi Dong led 200 thousand soldiers over to conquer Thang Long.
Ramener un serpent dans sa maison pour mordre son propre poulet: le roi Lê Chiêu Thông fut pris de panique et courut demander de l’aide aux chinois. L’empereur Càn Long de la dynastie Thanh ordonna à Tôn Si Nghi, Hua Thê Hanh et Sâm Nghi Dông de conduire 200000 soldats pour conquérir Thang Long.
73. Vua Quang Trung đại phá quân Thanh: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế rồi kéo đại quân ra Bắc. Vua cho quân ăn Tết trước rồi giữa đêm giao thừa chớp nhoáng tấn công giặc. Đêm mùng 3 Tết quân Tàu ở đồn Hà Hồi bị đánh quá rát phải ra đầu hàng.
Emperor Quang Trung defeated Thanh army: King Quang Trung Nguyen Hue took the throne then led his great troop to the North. The King let soldiers to celebrate early Tet then opened a lightning attack to the enemies in the Eve night. The third day of Tet, Chinese army in Ha Hoi fort was intensely attacked then surrendered.
L’empereur Quang Trung vainquit l'armée Thanh: le roi Quang Trung Nguyên Huê prit le trône et mena ensuite sa grande troupe vers le Nord. Le roi laissa ses soldats célébrer à l’avance le Têt puis déclencha une attaque éclair des ennemis dans la nuit à la veille du Têt. Le troisième jour du Têt, l'armée chinoise du fort Hà Hôi fut attaquée avec vigueur et se rendit.
74. Trận Ngọc Hồi: Mùng 5 Tết quân ta đánh đồn Ngọc Hồi, súng bắn ra như mưa. Vua Quang Trung cho quân khỏe mạnh khiêng ván đi trước, bộ binh theo sau. Quân ta tràn vào đồn rút dao chém giặc chết ngổn ngang, máu chảy thành sông. Hứa Thế Hanh tử trận, Sầm Nghi Đống phải treo cổ chết.
The Ngoc Hoi battle: On the fifth day of Tet, Viet army attacked Ngoc Hoi fort; guns were fired continuously from the fort out. King Quang Trung ordered strong soldiers to carry wooden boards to advance first then infantries followed. The soldiers advanced into the fort and killed enemy with big knives. Enemy’s blood ran as a river. Hua The Hanh died in the battle. Sam Nghi Dong hung himself to death.
La bataille Ngoc Hôi: Le cinquième jour du Têt, l’armée Viêt attaqua le fort Ngoc Hôi ; les canons tiraient en permanence à partir du fort. Le roi Quang Trung ordonna aux soldats vigoureux de porter des planches de bois pour avancer en premier, puis l’infanterie suivit. Les soldats avancèrent dans le fort et tuèrent l'ennemi avec de grands couteaux. Le sang de l’ennemi s’écoula comme une rivière. Hua Thê Hanh mourut dans la bataille. Sâm Nghi Dông se pendit à mort.
75. Tôn Sĩ Nghị đang ngủ say, nửa đêm nghe báo tin không kịp thắng yên ngựa, không mặc áo giáp bỏ đồn chạy. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ chạy, tranh nhau qua cầu Nhị Hà. Cầu đổ, quân Tàu té xuống sông chết đuối, thây nổi như rạ.
At night, Ton Si Nghi was heavily asleep when he received bad news. He hurrily ran away from the city, even forgot to wear his armor and put saddle on his horse. Seeing their general ran away, Thanh soldiers vied with each other to withdraw through Nhi Ha Bridge. The bridge broke, Thanh soldiers fell into the river and drowned. Their dead bodies were floating as stubble.
La nuit, Tôn Si Nghi était profondément endormi quand il reçut de mauvaises nouvelles. Il s'enfuit précipitamment de la ville, oubliant même de porter son armure et de seller son cheval. Voyant leur général s’enfuir, des soldats de Thanh rivalisèrent entre eux pour se retirer par le pont de Nhi Hà Le pont cassa et les soldats de Thanh tombèrent dans la rivière et s'y noyèrent. Leurs cadavres flottèrent comme du chaume.
76. Vua Quang Trung là một ông vua anh dũng, có nhiều mưu lược và cũng là một ông vua có lòng độ lượng, am hiểu việc trị nước, biết trọng nhân tài. Ông cho sứ đi cầu phong với nhà Thanh để giữ hòa khí. Mặt khác ông cho huấn luyện quân sĩ, chuẩn bị đánh nước Tàu . Tiếc thay giấc mộng chưa thành thì ông chết sớm, hưởng thọ 40 tuổi.
King Quang Trung was not only brave and clever, but also generous and understanding in ruling the country and using talented people. On one hand, he sent messengers to Thanh to confer a title and to keep peace between two countries. On the other hand, he trained his army to be ready to attack China later. What a pity that he died at the age of 40 before he could carry out his dream.
Le roi Quang Trung ne fut pas seulement courageux et habile, mais aussi généreux et compréhensif dans le gouvernement du pays et dans l’utilisation de gens talentueux. D'une part, il envoya des messagers à Thanh pour lui conférer un titre et pour maintenir la paix entre les deux pays. D'autre part, il forma son armée pour être prêt à attaquer la Chine plus tard. Quel dommage qu’il mourut à l'âge de 40 ans avant d'avoir pu réaliser son rêve.
77. Giám mục Bá Đa Lộc mang hoàng tử Cảnh về Pháp mộ tàu chiến và quân đội qua giúp Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh mang quân đánh từ Nam ra nhiều lần chiếm được thành Qui Nhơn và thành Phú Xuân.
Bishop Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine went back France with prince Canh to get warships and army to help Nguyen Anh. From the south, Nguyen Anh brought his army towards north to attack many times, then seized Quy Nhon and Phu Xuan forts.L'évêque Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine retourna la France avec le prince Canh pour obtenir des navires de guerre et une armée pour aider Nguyên Anh. Venant du sud, Nguyên Anh mena son armée vers le nord, attaqua de nombreuses fois, puis s'empara des forts de Quy Nhon et Phu Xuân.
78. Trong khi các vua quan sau của nhà Tây Sơn càng ngày càng yếu kém, chúa Nguyễn càng ngày càng cường thịnh. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh thắng quân Tây Sơn gồm thâu cả nước.
The later kings and imperial officials of Tay Son reign were incapable, while Lord Nguyen reign was more and more settled and flourishing. In 1802, Nguyen Anh defeated Tay Son’s army to take over the whole country.Les derniers rois et fonctionnaires impériaux du règne de Tây Son furent des incapables, alors que le règne du seigneur Nguyên était de mieux en mieux assis et prospère. En 1802, Nguyên Anh vainquit l'armée de Tây Son pour prendre la possession de l'ensemble du pays.
79. Nhà Nguyễn, 1802- 1945: Nguyễn Ánh lên ngôi xưng là vua Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam, đóng đô ở Huế (Phú Xuân). Nhìn chung Nguyễn Ánh là người hẹp hòi, đã cho đào mả của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ vứt thây đi, và còn hành hạ, đánh giết tướng quân của Nguyễn Huệ. Mặt khác ông cũng giết hại công thần của chính ông. Tuy nhiên ông cũng có công trong việc khai khẩn miền Nam và cải tổ việc triều chính. Ông sai ông Nguyễn Văn Thành soạn bộ luật Gia Long gồm 22 quyển.
The Nguyen dynasty, 1802 - 1945: Nguyen Anh ascended the throne, proclaimed himself as King Gia Long, named the country Viet Nam, found Hue (Phu Xuan) as the capital. In general, Nguyen Anh was an ungenerous person, he ordered people to dig out the grave of Nguyen Nhac and the grave of Nguyen Hue to throw their corpses away. He also ordered people to torment and kill Nguyen Hue’s generals. He also killed his own meritorious officials. Anyhow, he also contributed in developing new lands in the South and reformed the imperial court affairs. He ordered Mr. Nguyen Van Thanh to write the Gia Long law, which had 22 books.
La dynastie des Nguyên, 1802 - 1945: Nguyên Anh monta sur le trône, se proclama le roi Gia Long, nomma le pays Viêt Nam, fonda Huê (Phu Xuân) comme capitale. En général, Nguyên Anh fut un homme peu généreux, il ordonna aux gens de creuser la tombe de Nguyên Nhac et la tombe de Nguyên Huê pour y jeter leurs corps. Il ordonna également aux gens de torturer et de tuer les généraux de Nguyên Huê. Il tua également ses propres fonctionnaires méritants. Quoi qu'il en soit, il contribua également au développement de nouvelles terres dans le Sud et réforma les affaires de la cour impériale. Il ordonna à M. Nguyên Van Thành d’écrire la loi de Gia Long, qui fut rédigée en 22 livres.
80. Năm 1820, vua Minh Mạng: Vua Minh Mạng là một ông vua siêng năng chăm lo việc nước và có nhiều cải cách. Ông đã đánh dẹp được nhiều giặc giã. Ông cũng cấm đạo Chúa, nhiều giáo sĩ và tín đồ bị giết.
Year 1820, King Minh Mang: King Minh Mang took well care of the country affairs and carried out many reforms. He put down many rising rebellions. He also suppressed Catholism and killed many priests and Catholics.
An 1820, le roi Minh Mang: le roi Minh Mang prit bien soin des affaires du pays et effectua de nombreuses réformes. Il mata de nombreux soulèvements. Il supprima également le Catholicisme et tua de nombreux prêtres et catholiques.
Sưu Tầm
Lịch Sử Việt Nam - phần 9
Lịch Sử Việt Nam - phần 9
81. Năm 1841, vua Thiệu Trị - Pháp bắn phá Đà Nẵng: Vua Thiệu Trị là một ông vua hiền hòa, không có nhiều cải cách. Năm 1847 có 2 tàu chiến của Pháp đậu ở Đà Nẵng, đang điều đình xin cho bỏ cấm đạo. Vì hiểu lầm là quân ta sắp tấn công, họ bắn chìm nhiều thuyền bè ta rồi bỏ chạy.
Year 1841, King Thieu Tri: King Thieu Tri was a benevolent king but he did not reform our country much. In 1847, two French warships anchored at Da Nang port to negotiate with the imperial court to have religious suppression lifted. They misunderstood that our army was going to attack them, so they started the fire sinking many of our boats then ran away.
An 1841, le roi Thiêu Tri: roi Thiêu Tri fut un roi bienveillant mais il ne réforma pas beaucoup notre pays. En 1847, deux navires de guerre français s’ancrèrent dans le port de Dà Nang pour négocier avec la cour impériale la levée de la répression religieuse. Ils comprirent de façon erronée que notre armée était sur le point de les attaquer, pour cette raison ils commencèrent à faire feu coulant beaucoup de nos bateaux et s’enfuirent.
82. Năm 1847, vua Tự Đức: Tự Đức là một ông vua học rộng, hiểu nhiều, thờ mẹ rất chí hiếu . Ông chăm lo việc vua, nhưng quan lại phần đông là những người thủ cựu, hẹp hòi. Nhiều đề nghị canh tân, cải cách của ông Nguyễn Trường Tộ và những người khác đều bị bác bỏ. Nước ta dùng chính sách bế quan tỏa cảng, không chịu giao tiếp với nước ngoài nên mất đi nhiều cơ hội quý báu mở cửa học hỏi, giao thương. Nếu vua Tự Đức có những phản ứng thích hợp, ông đã có thể đưa đất nước ta từ chỗ ngu muội, lạc hậu lên hàng phát triển, cường thịnh như là nước Nhật.
Bài đọc thêm về ông Nguyễn Trường Tộ . More reading about Mr. Nguyen Truong To
Year 1847, king Tu Duc: King Tu Duc was not only a knowledgeable and understanding king, but also a good and thankful son. Even though he worked hard, many of his imperial officials were conservative and narrow-minded. Many proposals to reform our country from Mr. Nguyen Truong To and others were rejected. Since our country applied a closed-door policy, we lost many opportunities to learn good things from other countries and to do business with them. If King Tu Duc took proper movements, he could have led our country to wealth and success.
An 1847, le roi Tu Duc: le roi Tu Duc n'était pas seulement un roi bien informé et compréhensif, mais aussi un bon et reconnaissant fils. Même s’il travaillait dur, nombre de ses fonctionnaires impériaux furent conservateurs et bornés. De nombreuses propositions pour réformer notre pays de M. Nguyên Truòng Tô et d'autres furent rejetées. Puisque notre pays appliqua une politique de fermeture, nous perdîmes de nombreuses occasions d'apprendre de bonnes choses d'autres pays et de faire des affaires avec eux. Si le roi Tu Duc avait pris de bonnes décisions de changements, il aurait pu conduire notre pays à la richesse et au succès comme le Japon.
83. Pháp chiếm Nam kỳ: Năm 1859, Pháp đem tàu chiến tấn công Đà Nẵng rồi đánh chiếm thành Gia Định. Ông Nguyễn Tri Phương đắp thành Kỳ Hòa miệt Chí Hòa chống giặc, nhưng rồi cũng thua. Sau đó Pháp đánh tiếp và lấy được Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long.
French seized the South: In 1859, the French used their warships to attack Da Nang and then seized Gia Dinh city. Mr. Nguyen Tri Phuong built Ky Hoa fort to fight back, but later defeated. French then attacked and seized My Tho, Bien Hoa and Vinh Long provinces.
Les français qui s’emparent du Sud: En 1859, les Français employèrent leurs navires de guerre pour attaquer Dà Nang et s’emparèrent de la ville de Gia Dinh. M. Nguyên Tri Phuong construit le fort de Ky Hoà pour riposter, mais fut défait plus tard. Les français attaquèrent et prirent alors My Tho, Biên Hoà et Vinh Long.
84. Thất trận, triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất, 1862, nhường Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Triều đình cho Pháp, Ý tự do giảng đạo và phải bồi thường thiệt hại cho 2 nước nầy. Triều đình cũng cử ông Phan Thanh Giản đi sứ nước Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ nhưng không thành công.
Losing the battles, the imperial court signed a peace treaty to offer Bien Hoa, Gia Dinh and Dinh Tuong provinces to the French. The imperial courts also allowed French and Italian to preach Catholicism, and also paid war indemnity to French and Italian. The imperial court sent Mr. Phan Thanh Gian to France on a mission of redeeming 3 provinces of the South, but did not succeed.
Perdant les batailles, la cour impériale signa un traité de paix pour offrir les provinces de Biên Hoà, Gia Dinh, Dinh Tuòng aux Français. L’ensemble de la cour impériale permit également aux français et aux italiens de prêcher le catholicisme, et aussi aux français et aux italiens de percevoir une indemnité de guerre. La cour impériale envoya M. Phan Thanh Gian en France pour une mission de rachat des 3 provinces du Sud, mais ne réussit pas.
85.Ông Phan Thanh Giản: Năm 1867, Pháp lại đánh tiếp chiếm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản chống không lại, đành nộp thành rồi uống thuốc độc tự tử chết. Người Pháp kính trọng lòng trung liệt của ông đối với đất nước nên cho chôn cất ông đàng hoàng.
Mr. Phan Thanh Gian: In 1867, the French again attacked and seized 3 provinces Vinh Long, An Giang and Ha Tien. Mr. Phan Thanh Gian was defeated. He had to give up the provinces then committed suicide with poison. The French respected his loyalty to the country and carefully burried him.
M. Phan Thanh Gian: En 1867, les français attaquèrent de nouveau. M. Phan Thanh Gian fut défait. Les français prirent 3 provinces Vinh Long, An Giang et Hà Tiên. Il dut les abandonner et se suicida ensuite avec du poison. Les Français respectèrent sa loyauté envers le pays et l’enterrèrent soigneusement.
86. Giặc giã thời Tự Đức: Dù Tự Đức là 1 ông vua chăm chỉ, nhưng giặc giã nổi lên rất nhiều vì lòng người còn nhớ nhà Lê. Thời đó có giặc Tam Đường, giặc Châu Chấu, giặc tên Phụng, giặc kinh thành, giặc Khách...
Rebellion in Tu Duc reign: Even though Tu Duc was a hard-working king, many rebellions raised up, since people still remembered the Le time. There were Tam Ðuong rebellion, Chau Chau rebellion, Phung rebellion, capital rebellion, and Chinese rebellion…
Rébellion durant le règne de Tu Duc: Même si Tu Duc était un roi qui travaillait dur, de nombreuses rébellions se déclenchèrent puisque les gens se souvenaient encore de la dynastie de Lê. Il y eu la rébellion Tam Ðuòng, la rébellion Châu Châu, la rébellion Phung, la rébellion dans la capitale et la rébellion chinoise ...
87. Năm 1873, Pháp chiếm Bắc kỳ lần thứ 1: Lợi dụng tên Đồ Phổ Nghĩa gặp cản trở trong việc buôn bán ngoài Bắc, đại úy Garnier đem tàu chiến từ Sài gòn ra tấn công thành Thăng Long. Dù vũ khí thô sơ, ông Nguyễn Tri Phương anh dũng chiến đấu giữ thành, bị thương và bị giặc bắt. Ông không chịu để giặc băng bó vết thương, nhịn ăn mà chết. Về sau đại úy Garnier bị quân ta giết chết ở cầu Ô Giấy.
Year 1873, French occupied the North the first time: Taking the advantage of the matter that Jan Dupuis was prevented to do business in the North, captain Garnier sent warships from Saigon out to the North to attack Thang Long capital. Mr. Nguyen Tri Phuong bravely fought back, but he got wounded and was arrested by the enemy. He didn’t accept the medical treatment from the enemy and starved himself till died. Later, captain Garnier was killed at Ô Giay bridge.
Vết đạn quân Pháp bắn vào thành Hà Nội vẫn cònAn 1873, les français occupent le Nord pour la première fois: Prenant prétexte que Jean Dupuis (Dô Phô Nghia) était empêché de faire des affaires dans le Nord, le capitaine Garnier envoya des navires de guerre de Saigon au Nord pour attaquer la capitale Thang Long. M. Nguyên Tri Phuong luta courageusement, mais il fut blessé et fut arrêté par l'ennemi. Il n'accepta pas le traitement médical de l'ennemi et fit la grève de la faim jusqu’à en mourir. Plus tard, le capitaine Garnier fut tué au pont Ô Giây par notre armée.
88. Năm 1874, Hòa ước Giáp Tuất : Triều đình Huế ký hòa ước với Pháp, Bắc kỳ được trả lại cho Việt Nam. Việt Nam cho người Pháp tự do giảng đạo và thương gia Pháp được tự do buôn bán. Nhưng sáu tỉnh Nam kỳ vẫn thuộc về nước Pháp.
Year 1874, Giap Tuat peace treaty: Hue imperial court signed the peace treaty with French that the North was returned to Vietnamese. French missionaries could freely preach and French businessmen freely did business. But six Southern provinces still belonged to France.
An 1874, le traité de paix de Giap Tuât: la cour impériale de Huê signa le traité de paix avec les français selon lequel le Nord était remis aux viêtnamiens. Les missionnaires français pourraient librement prêcher et les hommes d'affaires français faire librement des affaires. Mais six provinces du Sud appartenaient toujours à la France.
89. Pháp chiếm Bắc kỳ lần thứ 2, tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn: Đổ lỗi việc giặc Khách ngăn trở người Pháp buôn bán, quân Pháp đem quân ra đánh thành Hà Nội lần thứ 2. Thành mất, quan Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.
The French occupied the North the second time: Blaming on the Chinese rebellion that prevented the French business on the North, French troops were sent to north to attack Ha Noi city the second time. The French occupied Ha Noi. Ha Noi province chief, Hoang Dieu, hang himself for losing the city.
Les Français occupent le Nord une seconde fois: Blâmant la rébellion chinoise qui les empêchait de faire des affaires au Nord, les français y envoyèrent leurs troupes pour attaquer Hà Nôi. Le gouverneur de la province de Hà Nôi, Hoàng Diêu se suicida en se pendant pour avoir perdu la ville de Hà Nôi.
90. Sự sai lầm của quan quân nhà Nguyễn: Trong khi các cường quốc kỹ nghệ cần mở rộng giao thương buôn bán thì vua quan nước ta u tối không biết thừa cơ mở cửa ra học hỏi, thông thương cho nước giàu dân mạnh. Nước mình lại đóng cửa cấm đoán mọi thứ, làm các nước khác có cớ để xâm lấn nước ta . Thời đại biến đổi mà mình không biết biến đổi. Trong khi Nhật Bản, Thái Lan mở cửa giao thương học hỏi, thì mình tự cho mình là văn minh, coi các nước khác là lạc hậu, mọi rợ.
The mistakes of imperial officials and generals of the Nguyen dynasty: While industrial great powers wanted to do business with out country, our kings and imperial officials didn’t take that opportunity to learn and trade for our success. We closed all ports and prohibited foreigners from doing everything, creating chances for other countries to invade ours. The world was making fast progresses but our country was not. While Japan, and Thailand opened for learning and doing business, we considered ourselves as civilized, and other countries as behind the times, and savage.
Les erreurs des fonctionnaires impériaux et les généraux de la dynastie des Nguyên: Alors que les grandes puissances industrielles voulaient faire des affaires avec le pays, nos rois et les fonctionnaires de l'Empire ne saisirent pas cette occasion d'apprendre et d'échanger pour notre succès. Nous fermâmes tous les ports et interdîmes aux étrangers de tout faire, créant des occasions pour les autres pays de nous envahir. Le monde faisait de rapides progrès, mais notre pays non. Alors que le Japon et la Thaïlande s’ouvraient pour apprendre et faire des affaires, nous nous considérions comme civilisé, et les autres pays en retard, et sauvage.
Sưu Tầm
Lịch Sử Việt Nam - phần 10
Lịch Sử Việt Nam - phần 10
91. Năm 1884: Vua quan ta không chịu mở cửa giao thương, lại thích sang Tàu cầu viện. Quân Tàu cũng sang giúp ta đánh Pháp dù rằng nước Tàu cũng đang rối ren. Sau Pháp và Tàu ký hòa ước Fournier, nước Tàu rút quân về để Pháp tiếp tục đánh chiếm nước ta.
Year 1884: Our Kings and imperial officials didn’t communicate with the world and only asked Chinese for reinforcement. The Chinese still helped us to fight against the French even though China was in disturbance itself. Later on, China and France signed the Fournier peace treaty; the Chineses withdrew their army back, letting the French continued to conquer our country.
An 1884: Nos rois et fonctionnaires de l'Empire ne communiquèrent pas avec le monde et demandèrent seulement un renfort aux chinois. Les chinois continuèrent à nous aider à combattre les français, même si la Chine était elle-même en période de troubles. Plus tard, la Chine et la France signèrent le traité de paix Fournier; les chinois retirèrent leur armée laissant les français continuer à conquérir notre pays.
Ông Tôn Thất Thuyết (Tài liệu: Một Thời Hoàng Tộc của Bảo Thái)
92. Vua Hàm Nghi và Hịch Cần Vương: Triều đình Huế ngày một rối ren, quyền hành ở trong tay 2 ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Năm 1885, Pháp tấn công triều đình Huế. Vua Hàm Nghi phải chạy ra Quảng Bình, ban hịch Cần Vương kêu gọi dân giúp vua chống Pháp. Triều đình không có vua phải lập vua Đồng Khánh lên ngôi.
King Ham Nghi and Can Vuong Edict: The Hue regime was more and more disordered; the power was in the hands of Mr. Nguyen Van Tuong and Mr. Ton That Thuyet. In 1885, the French attacked Hue imperial court, King Ham Nghi had to flee to Quang Binh where he proclaimed the Can Vuong Edict to call people for helping the King to fight the French. The imperial court had no king so they had to advance King Dong Khanh to the throne.
Le roi Hàm Nghi et l’édit de Cân Vuong: Le régime de Huê fut de plus en plus désorganisé, le pouvoir était entre les mains de M. Nguyên Van Tuong et M. Tôn Thât Thuyêt. En 1885, les français attaquèrent la cour impériale de Huê, le roi Hàm Nghi dut fuir à Quang Bình où il proclama l’édit de Cân Vuong pour appeler le peuple à l’aider à combattre les français. La cour impériale qui n’avait plus de roi promut au rang de roi Dông Khanh en le portant sur le trône.
93. Năm 1887: Pháp lập quan Tổng Đốc toàn quyền ở Sài Gòn để trông coi việc cai trị ở Nam kỳ và Cao Miên, cùng với việc bảo hộ ở Bắc kỳ. Mỗi nơi có 1 viên Thống sứ đứng đầu. Người Pháp thường nhúng tay vào công việc triều đình. Họ hay ủng hộ việc lập các ông vua trẻ lên ngôi để dễ dàng thuyết phục và khuynh loát.
Year 1887: The French set up the General-Governor in Saigon to rule the South of Vietnam and Cambodia, and to dominate the north of Vietnam. Each region had a separate resident Superior. The French tried to intercept our imperial affairs and usually support very young kings so they could easily manipulate.
An 1887: Les français établirent le gouvernement général à Saigon pour gouverner le sud du Viêt-Nam et le Cambodge et en même temps pour dominer le nord du Viêt-Nam. Chaque région avait un Supérieur résident différent. Les français tentaient d'interférer dans nos affaires impériales et soutenaient le plus souvent des rois très jeunes afin qu'ils puissent facilement les manipuler.
94. Trong khi Pháp lo xếp đặt ở Bắc kỳ thì ở Trung kỳ đảng Cần Vương đánh phá mạnh. Vua Đồng Khánh ra mặt Bắc để chiêu dụ vua Hàm Nghi và các quan đại thần về cho yên việc đánh dẹp, nhưng các cựu thần vẫn nổi lên làm loạn. Vua Đồng Khánh phải trở về kinh.
While the French was busy with the Northern affairs, the Can Vuong party in the central attacked them. King Dong Khanh had to travel to North to persuade King Ham Nghi and high-ranking mandarins to go back but they still rebelled. King Dong Khanh had to return to the imperial court.
Tandis que les français étaient occupés avec les affaires du Nord, le parti Cân Vuong se souleva. Le roi Dông Khanh dut se rendre au Nord pour convaincre le roi Hàm Nghi et des mandarins de haut rang de ne plus se révolter mais ils continuèrent à le faire. Le roi Dông Khanh dut donc retourner à la cour impériale.
95. Vua Hàm Nghi bị bắt: Bị phản bội, vua Hàm Nghi bị bắt đày đi Algerie, nhiều quan quân bị Pháp giết. Tùy tướng Tôn Thất Đạm viết thư xin lỗi vua đã không làm tròn nhiệm vụ rồi tự vẫn.
King Ham Nghi was arrested: King Ham Nghi was betrayed, arrested and deported to Algerie. Many other officials and soldiers were killed by the French. Mr. Ton That Dam, one of the King’s officers, wrote a letter to apologize to King Ham Nghi then committed suicide.
Le roi Hàm Nghi fut arrêté: le roi Hàm Nghi fut trahi, arrêté et déporté en Algérie. De nombreux autres fonctionnaires et soldats furent tués par les français. M. Tôn Thât Dam, un des officiers du roi, écrivit une lettre pour présenter des excuses au roi Hàm Nghi et se suicida ensuite.
96. Cách cai trị của người Pháp: Nam kỳ gọi là thuộc địa, coi như lãnh thổ nước Pháp. Bắc kỳ là xứ bảo hộ, quan Việt phải phục tùng quan Pháp. Trung kỳ do vua nước Nam giữ. người từ miền nầy qua miền khác phải xin phép chính phủ bảo hộ. Đây là chính sách chia để trị nhằm chia rẽ người Việt để người Pháp dễ bề cai trị. người Pháp thu nhiều thứ thuế để nuôi dưỡng quan quân bảo hộ.
French ruling: The South was a French colony, which was the same as French land. The North was a dominated land by French so Vietnamese imperial officials had to obey French mandarins. The central belonged to Vietnamese kings. Vietnamese who traveled from one region to another had to get permission from the French dominating government. This is a divided and conquered policy, which aimed to drive a wedge between Vietnamese so it would be easier for French officials to rule our people. The French set up many kinds of taxes to get money to pay for dominating officials.
La méthode de domination française : Le Sud était une colonie française, considérée comme terre française. Le Nord était une terre dominée par les français de sorte que les fonctionnaires impériaux viêtnamiens devaient obéir mandarins français. Le centre du pays appartenait aux rois viêtnamiens. Les Viêtnamiens qui voyageaient d'une région à l'autre devaient obtenir l’autorisation du gouvernement français. C’était une politique de division et de conquête ayant pour objectif d’enfoncer un coin entre viêtnamiens de sorte à permettre aux fonctionnaires français de diriger plus facilement notre peuple. Les français créèrent de nombreuses taxes pour obtenir des fonds pour payer les fonctionnaires dirigeants français.
97. Ông Phan Đình Phùng: Ông Phan Đình Phùng thi đỗ làm quan, có cả tài văn võ. Ông đứng đầu đảng Văn Thân, xây chiến lũy Ba Đình, tập luyện binh sĩ chống Pháp. Ông có tài tổ chức quân đội, huấn luyện binh sĩ theo lối Âu châu. người Pháp đánh dẹp nhiều năm không xong. Sau ông già bị bịnh mà mất.
Mr. Phan Dinh Phung: Mr. Phan Dinh Phung was an imperial official who was both a scholar and warrior. He found Van Than party, built Ba Dinh fortification, and trained soldiers to fight the French. He was a talented general who trained the soldiers in European way. The French fought to dissolve Mr. Phan’s army in many years but failed. Mr. Phan Dinh Phung got old and died of sickness.
M. Phan Dình Phùng: M. Phan Dình Phùng fut un fonctionnaire impérial qui fut à la fois un érudit et un guerrier. Il fonda le parti Van Thân, construisit la fortification de Ba Dình et entraîna des soldats à combattre les français. C’était un général talentueux qui forma les soldats à l’européenne. Les français se battirent pendant des années sans succès pour dissoudre l'armée de M. Phan. M. Phan Dình Phùng vieillit et mourut de maladie.
98. Ông Nguyễn Trung Trực, anh hùng trên sông Nhật Tảo : Ông Nguyễn Trung Trực sinh quán tại Bình Định. Ông là một sĩ phu bất khuất, lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa 8 năm ở vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh. Chiến công chói lọi của ông là đốt cháy tàu Espérance trên sông Nhật Tảo, Tân An, và đánh chiếm thành Sơn Đá tại Kiên Giang. Sau kháng chiến thất bại, ông bị bắt chém tại chợ Rạch Giá năm 1868. Dân chúng chôn cất và lập đền thờ ông tại tỉnh Rạch Giá.
Mr. Nguyen Trung Truc, a hero on Nhat Tao river: Mr. Nguyen Trung Truc was born in Binh Dinh. He was an indomitable scholar who led righteous armies to rebel 8 years in the six provinces of the South. His glorious victories were burning the warship Esperance on Nhat Tao river, Tan An, and occupying the Son Da rampart in Kien Giang. Later, the rebellion was defeated; Mr. Nguyen Trung Truc was arrested and beheaded at Rach Gia market in 1868.
M. Nguyên Trung Truc, un héros de la rivière Nhât Tao: M. Nguyên Trung Truc naquit à Bình Dinh. Ce fut un érudit indomptable qui dirigea les armées rebelles pendant 8 ans dans les six provinces du Sud. Ses victoires glorieuses : la destruction par le feu du navire de guerre l'Espérance sur la rivière Nhât Tao, Tân An et l’occupation du rempart Son Da à Kiên Giang. Plus tard, la rébellion fut défaite, M. Nguyên Trung Truc fut arrêté et décapité au marché Rach Gia en 1868.
99. Ông Trương Công Định, anh hùng Gò Công: Ông Trương Công Định từng ở trong đội quân của Kinh Lược Sứ Nguyễn Tri Phương và đánh Pháp lập được nhiều chiến công. Ông cùng nghĩa binh xây dựng nhiều đồn lũy kiên cố ở Gò Công. Được dân chúng ủng hộ mạnh mẽ, nghĩa binh ông gây nhiều thiệt hại cho giặc. Về sau ông bị tên Huỳnh Công Tấn làm phản dẫn quân Pháp về đánh. Ông hy sinh, đền nợ nước, để lại thương tiếc cho mọi người .
Mr. Truong Cong Dinh, a hero of Go Cong: Mr. Truong used to be in the troop of the Viceroy Nguyen Tri Phuong, fighting the French many times. He was with his righteous armies to build ramparts at Go Cong. With strong support from people, he and his armies caused the enemy suffer heavy damages. Later, betrayer Huynh Cong Tan led French army to attack him. He died for the country causing great sorrow in people hearts.
M. Truong Công Dinh, un héros de Gò Công: M. Truong Công Dinh faisait partie de la troupe du vice-roi Nguyên Tri Phuong, lutant de nombreuses fois contre les français. Il érigea avec ses armées de solides forts à Gò Công. Avec appui ferme du peuple, lui et ses armées causèrent à l'ennemi de grands dommages. Plus tard, le traître Huynh Công Tân conduisit l'armée française pour l'attaquer. Il mourut pour le pays, causant une grande tristesse dans le cœur du peuple.
100. Ông Thiên Hộ Dương, anh hùng Đồng Tháp : Ông tên thật là Võ Duy Dương, làm chức Lãnh binh năm 1865. Ông khởi nghĩa ở miệt Đồng Tháp, Cái Bè, Mỹ Quý, Sa Đéc, gây nhiều thiệt hại cho thực dân Pháp. Sau ông bị bịnh chết, phong trào "Dân Chúng Tự Vệ" của ông từ đó cũng bị lu mờ.
Mr. Thien Ho Duong, hero of Dong Thap: Mr Thien real name was Vo Duy Duong. He was an army leader in 1865. His uprising, in Dong Thap, Cai Be, My Quy and Sa Dec, caused big loss for the French colonists. His death of illness made the “Defend Movement” in the area die out.
M Thiên Hô Duong, le héros de Dông Thap: Son vrai nom était Vo Duy Duong. Il était chef d'armée en 1865. Son soulèvement à Dông Thap, Cai Bè, My Quy et Sa Déc, occasionna une perte importante pour les colons français. Sa mort de maladie causa l’extinction du mouvement de défense dans la région.
Sưu Tầm