|  | 
 Lễ Thánh Gia  2009 - Năm C                                                                                 THIẾU                              NIÊN MƯỜI HAI TUỔI NƠI ĐỀN THỜ                                                           R. GutzwillerNhững          biến cố chung quanh vị thiếu niên trong đền thờ đã mang một tầm mức đặc          biệt vì đó là tất cả những gì người ta biết được trong khoảng thời gian          dài của ba mươi năm ẩn dật; chỉ có một lần này là im lặng bị phá vỡ: vì          thế quang cảnh này như là một luồng sáng giữa đêm đen. 
 1.          Lễ Vượt Qua.
 Cần          phải nói qua về lễ Vượt Qua. Từ nguồn gốc lễ Vượt Qua là lễ mùa xuân của          những người chăn chiên du mục trong hoang địa. Mỗi khi họ tụ tập lại          dưới căn lều để ăn thịt chiên thui và nướng, chia sẻ bánh và vây quanh          chén lớn, thì họ ý thức về cộng đoàn của họ; với việc bôi máu chiên trên          cọc lều họ tin rằng đã đuổi được ma quỷ. Cứ thế, họ có thể tán tụng mùa          xuân đang tới trong niềm vui vẻ.
 Môisen,          sau khi đã biết lễ này nơi hoang địa, ông thánh hoá nó và mang lại cho          nó một ý nghĩa mới. Đưa vào đó một mùa xuân của các tân cộng đồng, gia          đình và dòng tộc dân Chúa. Trong máu con chiên là hiến lễ hy sinh, là          bảo vệ đời sống và chiến đấu chống lại thần chết. Như vậy Israel hằng          năm cử hành lễ kỷ niệm cuộc rời bỏ Ai cập và ra đi dưới sự phù trợ của          Giavê. Nhưng phải đứng mà ăn chiên, tay cầm gậy du hành: dấu hiệâu cho          thấy Israel chưa đạt được mục đích và luôn trên đườgn lữ thứ.
 Khi dự          lễ Vượt qua cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ mang lại cho nó một ý nghĩa mới          nữa. Chính Ngài sẽ là con chiên và máu Ngài sẽ bảo vệ khỏi satan và khỏi          cái chết thiêng liêng. Cộng đoàn dùng bữa mà Ngài thiết lập không hệ tại          ở chuyện ăn cùng một bánh, uống cùng một chén: bánh này đã được đổi          thành Thịt Ngài, rượu này thành Máu Ngài và như vậy, người ta sẽ thành          kẻ đồng bàn với Ngài và bởi đó cũng là đồng bàn với nhau.
 Để kỷ          niệm cuộc thoát ách tôi đòi ở Ai cập ngày xưa, Ngài đã liên kết vào việc          từ bỏ tội lỗi và làm nô lệ cho nó để đi vào đời sống mới của tự do. Sự          sống lại từ cõi chết của Ngài là bước đầu của một dân mới Thiên Chúa          trong nước Vinh Quang.
 Hơn          nữa, đó luôn còn là ngày lễ Giáo Hội lên đường. Nhưng với ngày tái lâm          của Chúa mới là cuộc biến đổi thứ tư của lễ Vượt qua này. Khi đó, dân          được chọn sẽ bỏ đời sống tạm này để bước vào cuộc biến hình trên trời.
 Tất cả          sẽ nhận biết rằng mình đã được cứu nhờ Máu Con chiên và được dự phần          trong tiệc cưới của cộng đoàn Đức Kitô. Đó là lễ Vượt Qua vĩnh cửu mà          người ta nhắc đến mỗi năm và nhớ đến mỗi tuần trong ngày Chủ nhật. Đây          là những giai đoạn của cuộc lễ này, từ khởi đầu hoàn toàn tự nhiên và          chưa được khai hoá, có tính cách tượng trưng nơi dân Israel, tới khi          hoàn tất với việc Đức Kitô đến rồi trọn vẹn đầy đủ khi Ngài trở lại.
 
 2.          Cậu thiếu niên ở lại.
 Đức          Maria và Thánh Giuse lên đường trở về cùng với dân Nagiarét, mà tân hồn          họ đang hân hoan vì còn vang vọng niềm vui ngày lễ. Các trẻ nhỏ thường          đi chung với họ, và chỉ tìm thấy chúng vào buổi tối nơi trạm nghỉ chân          đầu. Lần này Chúa Giêsu ở lại. Điều đó hẳn có ý nghĩa. Đây là lần đầu          tiên Chúa ở lại đền thờ của Cha Ngài với đầy đủ ý thức và ở đó, trong          ánh sáng chói loà, trong sự sung mãn dồi dào, trong sự cao cả lan toả.          Ngài hiểu sứ mạng đặc biệt nhận từ nơi Cha, sự hiện diện của Ngài bên          Cha, và trong Cha. Đó là cảnh huy hoàng, hùng vĩ thứ nhất của Tin mừng.
 Cảnh          thứ hai là khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan với tiếng nói từ trời và          Thần Trí ngự xuống, còn cảnh thứ ba là trên núi Tabor.
 Cả khi          Chúa Giêsu được hưởng kiến Chúa Cha trong bản tính cao với của Ngài, tâm          hồn Ngài cũng không luôn để tràn ra nếu Ngài đã không biết đến đau khổ.          Việc Ngài lớn lên, trưởng thành, học hỏi, triển nở tiệm tiến chỉ là một          tác vi bên ngoài và mang tính cách nhân loại. Thỉnh thoảng ánh sáng từ          trên cao mới vọt sáng nơi Ngài theo như sứ mạng cứu thế của Ngài. Trên          bờ sông Giođan một sự sung mãn tràn lan trên Ngài, thống trị Ngài tới độ          sự phong phú của Thần khí thúc đẩy Ngài xa lánh con người để vào nơi          hoang địa.
 Trên          núi Tabor, ánh sáng chói ngời vây phủ Ngài đến nỗi Ngài biến hình hoàn          toàn.
 Ở đây,          cậu bé mười hai tuổi, đã đầy tràn Thần khí Thiên Chúa đến độ ở lại đền          thờ và trong một tầm mức nào đó, đã mất đi cái ý niệm về không gian và          thời gian. Trong nhà của Cha Ngài, Ngài ngụ cách hữu hình đã vậy, nhưng          luôn luôn vẫn là cách vô hình. Nhưng tại sao Ngài phải ra đi? Sự hiện          diện của Ngài ở đền thờ không phải là cuộc hành hương ngắn ngủi; Ngài          thực sự ở nhà Ngài, nơi mà Ngài phải ở. Cái làm ta ngạc nhiên là chuyện          Ngài sẽ ra đi vào một lúc nào đó, chứ đâu phải chuyện Ngài ở lại.
 Đối với          chúng ta thì khác, sựï diện kiến Chúa Cha trong những phút ngắn ngủi của          các giờ kinh nguyện, luôn là một kinh nghiệm yếu đuối. Chỉ là một tiếng          vọng vang nhẹ, xa xa của lời mời gọi mạnh mẽ đã đủ đi sâu vào tâm hồn          thiếu niên Giêsu, thoát ra một luồng ánh sáng mờ mờ từ một Thần trí          phong phú. Hình như đối với chúng ta, việc trở lại vết xe cũ một cách          nhanh chóng, quả là quá tự nhiên. Chúng ta thấy mình bỡ ngỡ trong những          cái mà chúng ta phải quen thuộc. Thế giới cầu nguyện có lẽ là cái gì          không hề và ít được biết đến, đang khi chúng ta quá biết rằng chúng ta          đang ở một nơi mà chúng ta phải nhận thực rằng: cách biệt với Thiên          Chúa.
 
 3.          Lời của Chúa Giêsu
 Đây là          lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu được ghi lại trong Tin mừng; nó mang đến          cho chúng ta một ý nghĩa đặc biệt, và như trước và sau đó, là một vực          thẳm im lặng vây kín. Lời đó giống như một hòn đảo kỳ dị chìm xuống đại          dương trầm lặng.
 ‘Thì          tại sao lại tìm con?’ Cha mẹ không biết là con phải ở nơi nhà Cha con          sao? Lời của Đức Maria: ‘Này con, sao làm như vậy?’ Hẳn là một lời khiển          trách nghiêm khắc. Chúa Giêsu đã trả lời lại với vẻ hơi ngạc nhiên và          che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Tại sao người ta lại tìm Ngài ở những          chỗ không phải là của Ngài? Nếu muốn kiếm Ngài, thì phải đến nơi Cha          Ngài, đó là chỗõ của Ngài. Chớ gì họ biết đến điều đó và hành động theo          đó. Chúng ta cũng thế, đôi khi ta cũng tìm Đức Kitô không đúng chỗ, ta          nghĩ Ngài sẽ đến chỗ đang xẩy ra những biến cố quá quan trọng nhưng lại          thật vô ích; ở những nơi mà dục vọng quả thực là rất đê tiện, đã làm ta          choáng váng, cuối cùng ở những chỗ mà chúng ta cho là quan trọng đối với          cuộc sống, mặc dù nó chỉ là những cái không đáng để ý gì hết. Thật ra,          chúng ta phải tìm Chúa không phải nơi ta ở mà là nơi Ngài ở: bên trong          Chúa Cha, trong thánh ý và thần trí Ngài.
 Lời          Chúa nói đây đặt ra những khoảng cách đâỳ ý nghĩa. Ngài không thuộc về          cha mẹ thế trần này. Ngài sẽ không ở trong căn nhà nhỏ bé Nagiarét,          trong giới hạn của Thánh gia này. Nếu bây giờ Ngài trở về đó và vâng          phục các vị, thì Đức Maria và Thánh Giuse, từ nay cũng biết rằng chuyện          đó không kéo dài mãi đâu, vì đấy chỉ là tạm thời và nặng tính cách sửa          soạn thôi. Ngài được ban cho các vị, thực ra, là để các vị trao lại          Ngài. Ngài ở lại giữa các vị, ngõ hầu để Ngài đi vào giữa lòng dân tộc          và nhân loại. Không phải vì chuyện ích kỷ mang mầu đạo đức hay lợi dụng          ơn thánh, nhưng hồng ân phải được triển đạt và tuần hoàn.
 ‘Con          phải ở nơi nhà Cha con’. Phải tham dự vào vẻ vĩ đại và bao la của nước          Thiên Chúa. Thế giới và nhân loại thuộc về Cha Ngài. Tất cả thuộc Cha          Ngài. Chính vì thế mà Ngài đến cho vũ trụ và con người, cho mọi loài và          mọi người. Sứ mạng của Ngài thật lớn lao phổ quát. Khi Ngài ngồi dưới          hàng cột đền thờ giữa các vị thông thái để hỏi và đáp lời họ, đó chính          là dấu hiệu bên ngoài của thái độ ở giữa nhân loại của Ngài để đặt ra          những câu hỏi mà đã lâu con người không biết trả lời và đưa ra những          giải đáp mà không ngừng gây ngạc nhiên cho chính các vị thông minh và          giỏi giang.
 Từ          những lời này, mỗi người trong nhân loại sẽ nhận được một lời mời gọi          riêng của Thiên Chúa, dù là linh mục, tu sĩ, để biết rằng phải bỏ sự an          toàn của đời sống gia đình êm ấm, nhưng chật hẹp, biết rằng họ sẽ phải          ném vào làm mồi cho một thế giới náo loạn, hiếu chiến; vào những vấn đề          lớn lao và khó khăn mà chỉ còn một nơi nương ẩn duy nhất là lòng Chúa          Cha.
 Biến cố          lạ kỳ của ngày lễ Vượt qua đầu tiên đây chỉ là bước đầu; giai đoạn kỳ lạ          hơn phải là ngày vượt qua cuối cùng của đời sống trần thế của Chúa          Giêsu, đó mới là kết luận và đồng thời là khởi điểm của một đời sống mới          bên Chúa Cha.
 Tin          mừng viết thêm: ‘Nhưng ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với các vị’.          Đức Maria và Thánh Giuse, những người sáng suốt, thông thái đã chẳng          hiểu gì về cả các hành vi lẫn ngôn từ trong ngày lễ Vượt qua này. Mà đâu          phải dễ hiểu, dù là trong tầm mức nhỏ nhoi, bí mật của Chúa Giêsu, và          những lời nói lạ lùng của Ngài. Đức Maria chỉ có thể để những điều đó          thấm vào lòng dần dần, từ từ, tầm trí Mẹ chỉ có thể được như vậy thôi,          vì như Tin mừng cho thấy: ‘Ngài giữ hết những sự việc đó trong tâm hồn’.          Chỉ ai có được trí tuệ thông suốt và một tâm hồn giầu đức ái, năng suy          lời Chúa và giữ trong tâm hồn, mới đi dần dần, nhẹ nhàng vào thế giới bí          ẩn thần thiêng được.
 
 NAGIARÉT (2, 51-52)
 
 1.          Cuộc sống.
 Người          ta không thể hình dung đủ về cuộc sống ở Nagiarét như lúc khởi thuỷ          được, cả bằng điều kiện sinh sống bên ngoài lẫn quá trình của cuộc sống.          Đây là một làng ở hướng đông thành Galilê, nằm trên một miền cô quạnh          của những đồi trọc, chỉ ngưng làm việc vào những ngày Sabbat và lễ tôn          giáo. Người ta tự hỏi tại sao Chúa Giêsu mang trong mình một sứ mệnh quá          ư là lớn lao mà lại làm người sống hơn ba mươi năm trong cảnh u tịch và          xét về mặt con người trong cảnh sinh hoạt vô nghĩa này.
 Tin          mừng không cho ta biết lý do, vì thế, khi suy niệm, chúng ta phải tìm          đến những suy tư cá nhân. Chắc chắn chúng ta được phép đề cập đến những          điểm sau:
 Trước          hết, đời sống ẩn dật tự nó là một lý do đầy đủ vì nó cho ta thấy rằng          đối với Thiên Chúa có cái gì khác; với cái nhìn phàm trần, để gây ấn          tượng, thì phải có những gì đập vào mắt, vào tai, gây chú ý… Tác vi và          công việc bên ngoài hình như là tiêu chuẩn quyết định. Còn với Thiên          Chúa thì lại khác hẳn, ý hướng bên trong đáng giá hơn cả. Những việc          bình thường thôi, nhưng được làm với lòng mến tuyệt vời lại lớn lao,          đang khi việc lớn mà làm với ý hướng thấp yếu, thì kém giá trị.
 Một dân          quê cả đời chỉ biết có xóm làng quê mùa của miền sơn cước, hết năm này          qua năm khác trung thành với nhiệm vụ của mình thôi, thì hiển nhiên,          theo phán quyết của Thiên Chúa là lớn lao và ảnh hưởng hơn một người làm          đảo lộn thế giới, hoàn tất những công trình vĩ đại, làm ngạc nhiên tất          cả những ai như họ, và để lại đằng sau họ một luống sâu. Người không          biết đến giá trị của đời sống âm thầm và ẩn dật không thể tự bào chữa          trước mặt Thiên Chúa, Đấng hoà hoãn và ẩn mình.
 Thứ đến          phải nói thêm vào đó tầm quan trọng của việc sửa soạn. Trước một sứ mệnh          thật lớn lao, Chúa Giêsu đã theo luật dậy là phải có thời giờ để sửa          soạn. Một luật gia không thể xuất hiện trước quần chúng trước khi được          ba mươi tuổi. Chỉ có người chín chắn thực sự mới được coi là đã chuẩn bị          đủ để loan báo luật Chúa. Vì thế, linh mục mà vai trò của Ngài là giảng          truyền và phân phát ơn thánh, phải biết dành tời giờ để sửa soạn lòng          trí và tâm hồn. Những người đến với Ngài chắc chắn không phải để gặp một          người lịch sự xã giao hoàn hảo, chỗ nào cũng đầy thoải mái, hay một cầu          thủ ‘hết xẩy’ với vai u thịt bắp hoặc là một thương gia tài khéo, biết          kinh doanh sinh lợi lộc về tiền bạc. Và càng không muốn tìm kiếm một          người lành nghề tổ chức, không bao giờ thiếu kế hoạch kinh doanh; một          nhà trí thức, thông thái trả lời được mọi vấn đề hay nhà ngoại giao giỏi          giang luôn tìm ra được cánh cửa kín, nhưng người ta tìm nơi linh mục,          người của Thiên Chúa, là người biết đón nhận lời Chúa trong học hỏi và          cầu nguyện, và thành thực cố gắng sống theo những nguyên tắc đó. Trên          tất cả, con người linh mục phải phát triển trong an hoà và tĩnh mịch.
 Đó là          lý do tại sao người ta đã tách các linh mục tương lai ra khỏi gia đình          họ, khỏi đám bạn bè, khỏi nơi ồn ào và náo động của đời sống thị thành,          và chỉ chọn các nơi yên tĩnh để lập Đại chủng viện và Tập viện. Vị linh          mục cần có những năm yên ổn để học hỏi và suy nghĩ. Chỉ khi nào các Ngài          có cuộc sống Nagiarét, các Ngài mới có thể sống và hoạt động cho lợi ích          của Chúa Cha.
 Ta còn          tìm được lý do thứ ba của cuộc sống ẩn thân ở Nagiarét, vì đây là một          cuộc thánh hoá đời sống gia đình: vì nơi đó, người cha, người mẹ và cậu          con sống chung trong công việc và cầu nguyện, vui buồn có nhau. Đức Kitô          đã sống ba mươi năm trong tổ ấm không được biết tới nhưng rất thánh          thiện này để chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng của đời sống gia          đình và việc thánh hoá đời sống đó.
 Gia          đình chúng ta ngày nay đang tan vỡ. Ngoài những nguyên do bên trong hay          trật tự phong hoá đảo lộn, các sự việc bên ngoài cũng ảnh hưởng không          ít: chính sách sai lầm về nhà cửa, với những gian nhà ổ chuột, người đàn          bà bỏ sứ mạng làm mẹ nơi tổ ấm; với những người trẻ quá vất vả hầu như          chẳng được chút tiền gì, với những bố trí chưa ổn trong việc giải trí và          tất cả các thứ tổ chức khác…
 Truyền          thanh và truyền hình đôi khi cũng làm quấy rầy các cuộc truyện vãn trong          gia đình, và nhất là các gia đình bị phá đổ bởi dễ dàng ly dị, bởi giới          hạn sinh sản, mỗi ngày mỗi thiếu kính trọng, vâng phục và yêu thương          nhau trong thẳm sâu của tổ ấm gia đình. Phải canh tân đời sống gia đình          theo gương Thánh gia Nagiarét: đó là một trong những đòi hỏi quan trọng          nhất hiện nay.
 
 2.          Lớn lên.
 Chúa          Giêsu lớn lên theo tuổi, khôn ngoan và ân sủng trước nhan Chúa và trước          mặt người ta. Tin mừng nhấn mạnh tới các điểm này. Xét về tuổi thì          chẳûng có gì lạ cả. Trong phạm vi này, đó là luật chung dù muốn hay          không cũng vậy. Nhưng với Chúa Giêsu Đấng làm chủ muôn loài, Ngài không          lệ thuộc vào đó. Ngài, Đấng hoàn hảo, mà vẫn khuất phục luật sinh tồn          phát triển. Ở Nagiarét, vâng lời cha mẹ Ngài, tuân hành luật luân lý          cũng như uốn mình dưới các luật lệ khác của cuộc sống.
 Vì thế          nơi Ngài, thân xác vẫn phát triển: từ một trẻ nhỏ tới cậu thiếu niên,          thanh niên và người lớn. Nụ phát triển thành hoa thành trái. Thân xác          thêm mạnh mẽ, tâm trí thêm cởi mở lên. Ngài không đốt giai đoạn, vẫn          tuân theo luật trưởng thành tiệm tiến và lâu dài trong kiên nhẫn và chịu          đựng. Ngài không muốn cưỡng bức, ép buộc cái gì cả; Ngài tôn trọng luật          phát triển cơ thể trong không gian và thời gian. Việc phục tùng luật          thiên nhiên này cho thấy vẻ cao thượng của tâm hồn cùng với sự luôn sẵn          sàng nhận biết và chu tất Thánh ý Chúa Cha.
 Chúa          Giêsu lớn lên về khôn ngoan. Điều này ta đã thấy rõ. Chắc chắn là mỗi          ngày sao thấy được sự khôn ngoan này nẩy nở thêm ở bên ngoài, vì đó là          sự phát triển tận bên trong. Đức Giêsu thực sự có học hỏi. Những kinh          nghiệm về cuộc sống luôn được Ngài tổng hợp tất cả; đó không phải chỉ là          một sự hiểu biết đã được tiêu hoá, mà còn là một sự khôn ngoan: vì Ngài          thấy cả các sự vật trong liên hệ xác đáng với Thiên Chúa Cha và như vậy          là hiểu đúng chỗ, đúng tầm mức và đúng quy cách.
 Sự khôn          ngoan này, sự khôn ngoan giúp phán đoán tất cả theo một thứ tự đúng đắn,          không để bị ràng buộc mù quáng, không bước theo những dấn thân sai lầm,          những xu hướng phóng đãng, những đam mê hỗn loạn, nhưng là được đức ái          của Thiên Chúa hướng dẫn và đem đến với Ngài, đó là sự khôn ngoan đích          thực mang lại giá trị riêng cho việc hiểu biết.
 Chúa          Giêsu lớn lên trong ơn sủng trước nhan Thiên Chúa và trước mặt người ta.          Điều đó có nghĩa là mỗi ngày của cuộc sống quý giá này làm rạng rỡ thêm          chương trình của Thiên Chúa và nhờ đó thánh hoá trái đất hơn nữa. Và vì          thế, chứng tỏ từ tâm đã mỗi ngày mỗi lớn thêm. Ở Nagiarét, Chúa Giêsu đã          chẳng làm gì cho người ta phải để ý đến. Chúng ta biết được điều đó khi          Ngài xuất hiện lần đầu ở quê hương Ngài.
 Trong          cuộc đời tuổi trẻ của Ngài, Ngài đã chẳng làm một dấu kỳ phép lạ nào,          nhưng Ngài được mọi người yêu mến, có cảm tình, quý chuộng… Sự yêu kính          này kéo dài tới khi Ngài không đáp ứng được những ước vọng của người          cùng quê Ngài vì họ đầy hẹp hòi, và Ngài đã làm nổ tung chân trời chật          hẹp của họ. Tuy nhiên, trong những năm tuổi trẻ này, Ngài lắng nghe và          vâng phục, im lặng lắng nghe nhiều hơn là nói năng, chống đối và phản          ứng chưa xuất hiện.
 Như vậy          Ngài làm rạng rỡ trên tuổi trẻ của Ngài một bầu trời xanh của một thiếu          niên đầy thiện chí. Ngài lớn lên và trưởng thành trong cảnh êm đềm sung          sướng; đó là mùa xuân hứa hẹn một mùa hè phong phú và một mùa thu nặng          chĩu hoa màu. Không ai có thể nghĩ khác, thực sự với cái nhìn của con          người, thì cuộc sống của Chúa cứu thế tiến triển và kết thúc tốt đẹp.
 
 Người          nào không được hưởng nếm mùa xuân thực sự của tuổi trẻ, thì sẽ không thể          sẵn sàng để đương đầu với những phong ba và nguy hiểm của cuộc đời. Cây          phải có rễ để chống cự với bão táp. Nhà phải có nền kẻo lung lay. Hãy          tạo một thế hệ mà tuổi trẻ của họ được hạnh phúc, thuần khiết về luân          lý, xác đáng về tôn giáo, hẳn sẽ là thế hệ biết thống trị tương lai và          rèn luyện mình theo Thánh Ý Thiên Chúa.
 
 
 http://tinmung.net/SUYNIEM_HANGTUAN/suyniemINDEX.htm
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |