|
1. Chúa Giêsu là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành
Chúa Giêsu nói rõ về ngài: “Ta là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành.”
Các tông đồ xua đuổi các em bé, nhưng Chúa Giêsu tốt lành dạy để các em đến với Ngài.
Các tông đồ muốn trừng phạt, nhưng Chúa Giêsu tốt lành trách họ: Con Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống.
Khi thấy các tông đồ tức nhau, cải nhau, tranh giành nhau rộn ràng, Chúa Giêsu quở trách và sửa dạy họ ngay.
Chúa Giêsu ngồi trên lưng con lừa và đi chậm rãi vào thành Giêrusalem một cách hiền từ mặc dân chúng hoan hô nồng nhiệt.
Trong hồi Thương Khó, bị sỉ vả nhục nhã ê chề, bị đánh đập hành hạ tàn nhẫn, Chúa Giêsu vẫn im lặng tha thứ.Trước khi tắt thở trên thập giá, muốn cho những kẻ đối xử độc ác với mình cũng được ơn lành, Chúa Giêsu lớn tiếng cầu xin Chúa Cha tha tội cho họ.
2. Tên trộm và Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá...
Trong một đền thờ ở tỉnh Bayern, Đức, có một Thánh Giá rất lạ: đôi tay Chúa Giêsu không bị đóng đinh giăng ra nhưng lại xoè ra như ôm lấy một vật gì.
Tại sao thế?
Số là, theo như lời truyền kể lại, một đêm âm u tối tăm kia, trong khi nhà thờ chỉ có một chút ánh sáng leo lét của cây đèn Nhà Tạm, trong khi mọi cửa nhà thờ đã đóng hết và ông từ đã về nhà nghỉ, thì có một tên trộm đào ngạch, chun vào nhà thờ. Nó chăm nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Cây Thánh Giá, không phải vì nó tỏ lòng ăn năn đau đớn tội lỗi nó đã phạm làm mất lòng Chúa, nhưng vì nó thấy trên đầu Chúa Giêsu, người ta có đặt một mũ triều thiên bằng vàng chạm ngọc.
- “Ta sẽ lấy chiêc mũ triều thiên nầy. Ta sẽ giàu có, sung sướng.” Nó ngghĩ bụng như vậy.
Tên trộm trèo lên bàn thờ, vói tay định lấy chiếc mũ triều thiên quý giá trên đầu Chúa Giêsu thì bỗng hãi hùng làm sao, hai bàn tay của Chúa Giêsu cũng rời khỏi hai lổ đinh thâu và ôm choàng lấy tên trộm.
Bị Chúa ôm thình lình, tên trộm không kịp phản ứng, và dầu rất mạnh, nó vẫn không thể nào vùng vẫy được vì Chúa ôm nó quá cứng. Tên trộm nhìn vào cặp mắt của Chúa. Chúa cũng nhìn nó lại.
Ba giờ trôi qua! Ba giờ, Chúa Giêsu và tên trộm nói chuyện thì thào với nhau trên Cây Thánh Giá.
Sau cùng, tên trộm khóc. Nó đau buồn vì đã phạm tội làm mất lòng Chúa. Nó xin xưng tội với Chúa. Nó hứa chừa tội và sửa mình lại. Xưng tội xong, nó ôm chặt lấy Chúa để tỏ lòng ăn năn đau đớn. Lúc đó, Chúa Giêsu lại càng ôm chặt nó hơn nữa...
3. Hai cái xương sườn gãy
Thánh Philiphê Nêri (1515-1595) có một quả tim yêu thương linh hồn người ta rất tha thiết. Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả thời giờ để ngồi toà giải tội.
Với nếp sống bình dân, dễ mến, ngài đã gây được ảnh hưởng trên nhiều người. Không ai quên được câu nói của ngài: “Với kẻ yêu mến Chúa thì không gì nặng nhọc mệt mỏi, nhưng đầy hân hoan trong nguồn suối chân thật.”
Trước tình trạng sa đọa trong Hội Thánh thời bấy giờ, ngài chủ trương: “Người ta chỉ có thể canh tân bằng sự thánh thiện, chứ không thể bằng cách nào khác.”
Năm 1593, ngài khiêm nhường từ chối mũ hồng y và lui về tu viện, sống đời ăn chay cầu nguyện.
Quả tim ngài luôn bừng cháy lửa yêu mến Chúa và các linh hồn đến nỗi Chúa làm phép lạ cho hai cái xương sườn bên cạnh quả tim, gãy và nổi cao lên rõ ràng trong lồng ngực. (Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng)
4. Chỉ có một trường hợp thôi.
Thánh Bênađô khuyên mọi người hãy lo ăn năn trở về với Chúa trong khi mình đang sống, chứ đừng dại chờ đến những giây phút cuối đời, mới lo phần rỗi. Ngài dọa rằng: “Cha đã đọc kỹ toàn bộ Sách Thánh. Cha chỉ gặp được một gương ăn năn trở lại trong giờ chết: đó là người trộm lành. Chỉ có một người ăn năn trở lại khi sắp chết, vì thế các con đừng ngã lòng. Chỉ có một người ăn năn trở lại khi sắp chết, vì thế các con đừng ỷ vào chuyện nầy.”
5. Người lạ mặt
Một người lạ mặt nói với nữ tu: “Thưa sơ, tôi bệnh. Tôi cần lo thuốc men trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Tôi không có tiền. Có thể tôi không bao giờ trả nổi.”
Các nữ tu tại bệnh viện Thương Xót ở Chicago nhận ngay người bệnh nhân lạ mặt nầy. Đó là năm 1911.
Một năm sau, nữ tu bề trên Raphael nhận được một bức thư của một người bạn của người lạ mặt. Người nầy tên là Ferris Thompson, con của một ông chủ ngân hàng giàu có ở New York. Trong bức thư, có kèm theo một ngân phiếu 250 ngàn đô la “để khuyến khích những công việc từ thiện như vậy.” Và từ đó, mỗi năm, các nữ tu nầy nhận được một ngân phiếu 5 ngàn đô la.
Năm 1930, các nữ tu xây một nhà nhà trẻ, lấy tên Ferris Thompson, để ghi nhớ các vị ân nhân.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, nữ tu Therese, quản lý của Dòng, nhận được một bức thư do một phòng luật sư từ New York gởi đến, trong đó có một ngân phiếu 200 ngàn đô la do bà Louise Thompson, vợ của ông Ferris Thompson, trối lại trước khi bà qua đời ngày 30 tháng 8 năm1946. (Treasure of catechism stories – Rev.Lawrence G.Lovasik, S.V.D.)
http://tonggiaophanhue.net/home/index.php
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|