|
11 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …
“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).
Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.
Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).
Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?
12 THÁNG TÁM
Đưa Vũ Trụ Về Với Thiên Chúa
Trong thế giới hữu hình, nguyên động lực chính của lịch sử và văn hóa là con người. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài và được Ngài bảo vệ để hiện hữu. Con người được Thiên Chúa hướng dẫn trong tình từ phụ để thực hiện vai trò làm chủ trên các tạo vật khác. Như chúng ta nhớ lại, một cách nào đó, con người là một “sự quan phòng của Thiên Chúa”.
Công Đồng Vatican II diễn tả điều này một cách chính xác như sau: “Đối với các tín hữu, chắc chắn hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phuc trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện – và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài, họ qui hướng về Ngài chính bản thân mình cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp cả địa cầu” (MV 34).
Cũng trong Hiến Chế trên, Công Đồng tuyên bố: “Thật vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó, Thiên Chúa Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).
13 THÁNG TÁM
Xây Dựng Một Nơi Cư Ngụ Xứng Đáng Cho Con Người
Con người được mời gọi phát triển thế giới, làm việc hướng về việc phát triển tốt hơn các hệ thống kinh tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn gọi con người, vì con người được mời gọi làm chủ trái đất. Đó là lý do tại sao sự suy nghĩ khoa học và kỹ thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của mọi thời phải được định hình bởi con người để phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đối với tạo vật của Ngài.
Công Đồng Vatican II nhìn nhận giá trị và chức năng của công việc và văn hóa trong thời đại chúng ta. Thật vậy, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình hình xã hội và văn hóa mới của chúng ta với những khả năng thay đổi và tiến bộ nhanh chóng của nó. Những khả năng này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm hy vọng cho nhiều người khác. (MV 53-54).
Công Đồng không ngần ngại nhìn nhận những thành tựu ngoạn mục của con người. Công Đồng đặt những thành tựu này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của Thiên Chúa cho con người. Công Đồng liên hệ những thành tựu ấy với Phúc Âm về tình huynh đệ được rao giảng bởi Đức Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
14 THÁNG TÁM
Mục Đích Phổ Quát Của Con Người Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Tuy nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.
Công Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài” (MV 3).
Rồi Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).
Một cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi “nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).
Cuối cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người” (MV 10).
15 THÁNG TÁM
Chúng Ta Chúc Tụng Mẹ Trên Trời
Kính chào Đức Maria!
Mẹ đã được đưa về trời.
Chúng con hiệp với thần sứ dâng lời chào Mẹ đầy ơn phúc.
Chúa ở cùng Mẹ (Lc 1,28).
Cùng với Ê-li-da-bét, chúng con kính chào Mẹ: Mẹ thật có phúc giữa mọi người phụ nữ;
Và hoa quả của cung lòng Mẹ cũng thật có phúc!
Mẹ thật có phúc vì đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa! (Lc 1,42.45).
Chúng con kính chào Mẹ bằng lời của Tin Mừng: “Mẹ thật có phúc vì Mẹ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa “ (Lc 12,28).
Mẹ đầy ơn phúc!
Chúng con ngợi khen Mẹ, ái nữ của Chúa Cha.
Chúng con chúc tụng Mẹ, là Mẹ của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Chúng con tôn vinh Mẹ, đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng con cầu khẩn Mẹ, là Mẹ và là gương mẫu của toàn thể Giáo Hội.
Chúng con nhìn ngắm Mẹ, sự viên mãn của mọi niềm hy vọng của con người trong tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế.
Chúa ở cùng Mẹ!
Mẹ là Trinh Nữ của ngày Truyền Tin,
Là tiếng “Xin Vâng” của mọi con người đối với mầu nhiệm cứu độ.
Mẹ là nữ tử Sion
Là hòm bia của giao ước mới
Trong mầu nhiệm thăm viếng.
Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu sinh tại Bê-lem,
Là Đấng đã giới thiệu Đức Giêsu cho các mục đồng chất phác, và cho các nhà thông thái từ phương Đông.
Mẹ là người Mẹ
Đã dâng Con trong Đền Thờ,
Đã đưa Con sang Ai-cập, và mang Con về Na-da-rét.
Lạy Đức Trinh Nữ hiện diện trên các nẻo đường của Đức Giêsu.
Hiện diện trong đời sống ẩn dật của Ngài và tại phép lạ ở Ca-na.
Lạy Mẹ sầu bi trên đồi Can-vê,
Và là Trinh Nữ vui mừng trong biến cố Phục Sinh.
Mẹ là Mẹ của các môn đệ Đức Giêsu
Trong niềm mong đợi và niềm hân hoan của Lễ Hiện Xuống.
Mẹ đầy ơn phúc!
Vì Mẹ đã tin vào Lời Chúa
Vì Mẹ đã hy vọng vào lời hứa của Ngài
Vì Mẹ đã trọn hảo trong tình yêu
Vì tình yêu đầy quan tâm của Mẹ đối với Ê-li-da-bét
Vì tấm lòng hiền mẫu của Mẹ ở Bê-lem
Vì nghị lực của Mẹ khi bị bách hại
Vì sự kiên trì của Mẹ trong cuộc tìm kiếm Con trong Đền Thờ,
Vì đời sống mộc mạc của Mẹ ở Na-da-rét,
Vì sự cầu bàu của Mẹ ở Ca-na,
Vì sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá,
Vì Mẹ trung thành đón chờ mầu nhiệm Phục Sinh,
Vì Mẹ chuyên chăm cầu nguyện trong biến cố Hiện Xuống.
Mẹ thật có phúc
Vì vinh quang của ngày Mẹ lên trời,
Vì Mẹ hằng chở che Giáo Hội trong tấm lòng từ mẫu
Vì Mẹ không ngừng chuyển cầu cho mọi người.
Lạy Đức Nữ Trinh,
chúng con tôn vinh Mẹ vì tất cả những điều ấy!
16 THÁNG TÁM
Cám Dỗ Tự Mãn
Nhìn con người trong thế giới hôm nay, ta thấy dường như hoàn toàn phi lý việc nghĩ rằng con người làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng vai trò làm chủ ấy sẽ được triển khai với sự giúp đỡ của sự quan phòng thần linh. Thật là một ảo tưởng hão huyền và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc sống mình và biến thế giới này thành một vương quốc chỉ phục vụ cho hạnh phúc của riêng mình và chỉ dựa vào sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ lớn mà con người hiện đại đang lún vào. Người ta quên rằng các qui luật tự nhiên đặt điều kiện ngay cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp của chúng ta (MV 26-27).
Nhưng thật dễ ngã vào cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước chứng tỏ quyền làm chủ của mình trên các sức mạnh của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến mức quên Thiên Chúa và thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng của Ngài. Trong thời đại chúng ta, sự táo tợn như thế xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi mà có những lúc xảy ra những hình thức khác nhau của sự lạm dụng về mặt sinh học, di truyền học và tâm lý học. Hãy coi chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật luân lý của Nước Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị tàn nhẫn của con người trên con người với những hậu quả vô cùng bi thảm.
Công Đồng nhìn nhận sự cao cả của con người hiện đại, nhưng Công Đồng cũng nhận ra những giới hạn của con người trong việc dàn xếp sự tự trị chính đáng của mọi vật thụ tạo (MV 36). Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc chúng ta nhớ đến chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người trong công cuộc xây dựng thế giới và phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này với Thiên Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng, con người có thể không ngừng khám phá lại căn nguồn ơn cứu độ của mình. Chúng ta hãy đến với Cha và đừng mù quáng cậy dựa vào sức mạnh và sáng kiến của riêng mình.
17 THÁNG TÁM
Sử Dụng Năng Lực Một Cách Đúng Đắn
Chúng ta sẽ thường xuyên tham chiếu đến những suy tư của Công Đồng Vatican II về tình trạng của con người trong thế giới hôm nay. Con người có một địa vị độc đáo trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Một đàng, con người được Thiên Chúa ủy trao nhiệm vụ làm chủ thế giới tạo vật. Đàng khác, trong tư cách là một thụ tạo, con người qui phục Thiên Chúa là Cha và là Đấng sáng tạo nên mình.
Ngày nay, hơn bất cứ thời nào khác, con người ý thức về tầm quan trọng của sứ mạng mình trong tư cách là người quản lý thiên nhiên. Con người phải chế ngự thiên nhiên và sử dụng thiên nhiên một cách khôn ngoan và một cách có trách nhiệm.
Tuy nhiên, có một trở lực nghiêm trọng đối với việc phát triển thế giới. Đó là tội lỗi và hậu quả xáo trộn đầy tai hại của tội lỗi. Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II nêu rõ tình trạng bi đát này: “Được Thiên Chúa thiết lập trong sự công chính, tuy nhiên, ngay từ đầu lịch sử, con người nghe theo Thần Dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa” (MC 13).
Hậu quả tất nhiên của sự lạm dụng tự do này là “sự tiến bộ – tuy là một lợi ích lớn lao của con người – nhưng cũng đem theo một cám dỗ mãnh liệt. Thực vậy, khi bậc thang giá trị bị đảo lộn, khi ác và thiện lẫn lộn, thì cá nhân cũng như tập thể chỉ xét quyền lợi của mình chứ không để ý đến quyền lợi kẻ khác. Do đó, thế giới chưa phải là nơi có tình huynh đệ thật, và sự gia tăng quyền lực của con người lại đe dọa hủy diệt chính nhân loại” (MV 37).
18 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Sử Dụng Chúng Ta Để Xây Dựng Công Cuộc Sáng Tạo Mới
Con người hiện đại chắc chắn ý thức về vai trò của mình. Nhưng “nếu … sự độc lập của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật không lệ thuộc Thiên Chúa và con người có thể sử dụng chúng mà không cần qui hướng về Đấng Tạo Hóa thì không một ai nhìn nhận Thiên Chúa lại không thấy rằng lập trường đó hết sức sai lầm. Thực vậy, không có Tạo Hóa, tạo vật đều tiêu tan… Quên mất Thiên Chúa, mọi tạo vật đều trở nên mờ tối” (MV 36).
Chúng ta nhớ lại một bản văn cho phép chúng ta nắm bắt khía cạnh khác của sự phát triển thế giới bởi con người. Công Đồng nói: “Thánh Thần Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26). Thánh Thần sử dụng chúng ta để xây dựng cuộc sáng tạo mới bằng cách giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và những sự dữ khác trong cuộc sống chúng ta. Rồi chúng ta có thể tái tạo bộ mặt trái đất và hoàn thành định mệnh của chúng ta. Nhờ Thánh Thần Chúa để vượt qua sự dữ, điều đó có nghĩa là chọn lựa sự tiến bộ luân lý của con người, chứ không chỉ là những tiến bộ vật chất và thể lý. Khi ấy phẩm giá của con người có thể được bảo vệ. Con người có thể đưa ra một câu trả lời cho những đòi hỏi thiết yếu nhất của một thế giới đích thực có nhân tính. Bằng cách này, Nước Thiên Chúa sẽ dần dần lớn lên trong lịch sử của con người, tìm thấy bản sắc tâm linh của mình và cho con người thấy những dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa.
19 THÁNG TÁM
Tiến Tới Một Thế Giới Có Tính Người Hơn
Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh rất rõ ràng ý nghĩa đạo đức của sự phát triển và tiến bộ của con người trong thế giới này. Công Đồng cho thấy lý tưởng đạo đức của một thế giới có tính người hơn gắn chặt với giáo huấn của Tin Mừng như thế nào.
Trong khi phân biệt rõ ràng giữa sự phát triển của thế giới và lịch sử cứu độ, các Nghị Phụ Công Đồng khảo sát mối tương quan giữa hai lãnh vực ấy: “Tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền của Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn. Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương Quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến” (MV 39). Về đầu trang
20 THÁNG TÁM
Hiệp Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của Giáo Hội
Công Đồng xác nhận những xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều thiện hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay: nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và một sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp nhất tương ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở thành một bí tích và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện đại là năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ không phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên qua duy chỉ những phương tiện của con người” (MV 42).
Vì những lý do này, một mối gắn kết sâu sắc và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa -một đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người trong xã hội và – đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng thực và trong những mối quan tâm sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội luôn luôn đứng trước thế giới khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư của con người.
Vâng, lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng. Những thành tựu vĩ đại của con người và những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là nền móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất chính là mục đích của kế hoạch Thiên Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự. |
|