|
16/9 – Thánh Corneliô, Giáo hoàng Tử đạo, và Cyprianô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 253)
Trống ngôi giáo hoàng 14 tháng sau khi thánh Fabianô tử đạo vì Giáo hội bị bách hại dữ dội. Trong thời gian đó, Giáo hội được một số linh mục điều hành. Thánh Cyprianô, bạn của thánh Corneliô, viết rằng Corneliô được bầu làm giáo hoàng “bởi phán quyết của Thiên Chúa và của Đức Kitô, bởi chứng thực của đa số giáo sĩ, bởi mọi người, với sự đồng thuận của các linh mục cao niên và các giáo dân tốt lành.
Vấn đề lớn nhất trong 2 năm làm giáo hoàng của Corneliô là phải xứ lý về bí tích Hòa giải và tập trung vào việc tái thu nhận các Kitô hữu đã bội giáo trong thời gian bị bách hại. Thánh Cyprianô, giám mục của Phi châu, kêu gọi giáo hoàng xác nhận vị thế của mình mà những người trở lại chỉ được hòa giải bằng quyết định của giám mục (ngược lại cách khoan dung của Novatus).
Tuy nhiên, tại Rôma, thánh Corneliô có cách nhìn khác. Sau khi ngài được chọn làm giáo hoàng, một linh mục tên là Novatian (một trong những người cai điều hành Giáo hội lúc đó) đã tự phong cho mình làm giám mục của Rôma – đây là ngụy giáo hoàng đầu tiên. Ngụy giáo hoàng này phủ nhận Giáo hội có quyền hòa giải không chỉ với những người bội giáo đã trở lại, mà cả những người phạm tội giết người, tà dâm, thông dâm hoặc vợ nọ con kia! Thánh Corneliô đã nâng đỡ Giáo hội (nhất là Cyprianô của Phi châu) trong việc kết án tà thuyết Novatian, dù tà thuyết này hiện hữu suốt vài thế kỷ. Thánh Corneliô triệu tập một công nghị tại Rôma năm 251 và cho phép những người bội giáo đã trở lại được gia nhập Giáo hội qua bí tích Hòa giải.
Tình bạn giữa thánh Corneliô và thánh Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một trong số đối thủ của thánh Cyprianô kết án ngài. Nhưng mọi chuyện được giãi bày. Một tài liệu của thánh Corneliô cho thấy mức quy mô tổ chức trong Giáo hội La Mã hồi giữa thế kỷ III: 46 linh mục, 7 phó tế, 7 phụ phó tế. Số Kitô hữu ước tính khoảng 50.000 người. Thánh Corneliô qua đời vì cực khổ trong thời gian bị đi đày ở nơi mà nay là Civitavecchia (gần Rôma).
17/9 – Thánh Robert Bellarmine, Giám mục Tiến sĩ (1542-1621)
Ngài thụ phong linh mục năm 1570, nghiên cứu lịch sử Giáo hội và các Giáo phụ ở trong tình trạng thờ ơ. Là một học giả có triển vọng từ hồi còn trẻ ở Tuscany, ngài chuyên tâm vào 2 vấn đề, kể cả Kinh thánh, để hệ thống hóa giáo lý chống lại sự tấn công của các nhà cải cách Tin Lành. Ngài là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên trở thành giáo sư ở Louvain.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là 3 cuốn Bàn luận về các cuộc tranh cãi Đức tin Kitô giáo (Disputations on the Controversies of the Christian faith). Ngài phát triển lý thuyết về quyền gián tiếp của giáo hoàng trong các việc tạm thời; mặc dù ngài bảo vệ ĐGH khỏi triết gia Barclay người Scotland, ngài cũng chịu đựng cơn giận của ĐGH Sixtô V.
Ngài được ĐGH Clementô VIII tấn phong hồng y. Khi bận việc ở Tòa thánh, ngài vẫn giữ thói quen sống khổ hạnh. Ngài chi tiêu ít, chỉ ăn những đồ ăn dành cho người nghèo. Ngài là thần học gia của ĐGH Clementô VIII, soạn bộ giáo lý ảnh hưởng nhiều tới Giáo hội.
Cuộc tranh luận lớn về cuộc đời ngài xảy ra năm 1616 khi ngài phải khiển trách bạn mình là Galilê, dù ngài khâm phục. Ngài khiển trách nhân danh Giáo hội về thuyết nhật tâm (heliocentric theory, lấy mặt trời làm tâm điểm) của Copernicus là ngược với Kinh thánh. Đó là một ví dụ cho thấy các thánh không phải không sai lầm.
Ngài qua đời ngày 17-9-1621. Tiến trình phong thánh cho ngài bắt đầu từ năm 1627, nhưng trì hoãn vì lý do chính trị, xuất phát từ những gì ngài viết, cho tới năm 1930. Năm 1931, ĐGH Piô XI tôn phong ngài là Tiến sĩ Giáo hội.
18/9 – Thánh Giuse Cupertino, Linh mục (1603-1663)
Ngài nôi tiếng về xuất thần khi cầu nguyện. Hồi nhỏ, ngài rất thích cầu nguyện.
Sau một thời gian làm việc với các tu sĩ Dòng Phanxicô, ngài xin vào dòng và được học làm linh mục. Dù học hành khó khăn đối với ngài, nhưng ngài vẫn hiểu biết nhờ cầu nguyện. Ngài thụ phong linh mục năm 1628.
Xuất thần của ngài trong lúc cầu nguyện tđôi khi là cây Thánh giá; một số người đến cũng nhìn thấy. Ngài sống khiêm nhường, kiên nhẫn và vâng lời, đôi khi ngài cũng bị cám dỗ và cảm thấy bị Chúa bỏ rơi. Ngài thường ăn chay và đeo xiềng xích để đền tội.
Khi điều tra phong thánh cho ngài, có 70 lần xuất thần được ghi nhận. Ngài được phong thánh năm 1767.
19/9 – Thánh Gianuariô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 305?)
Không biết gì về cuộc đời thánh Gianuariô. Chỉ biết ngài tử đạo năm 305 trong cuộc bách hại đạo của hoàng đế Diocletianus (*). Truyền thuyết kể rằng sau khi thánh Gianuariô bị ném vào hầm gấu ở đấu trường Pozzuoli, ngài bị chém đầu, và máu ngài được đưa về Naples.
------------------------------
(*)Hoàng đế La mã Gaius Aurelius Valerius Diocletianus (284-305), muốn phục hồi tôn giáo cũ của Rôma nên dẫn đến việc bách hại đạo từ năm 303.
19/9 – Thánh Gioan Henry Newman, Hồng y (1801-1890)
Ngài là một trong những người trí thức Công giáo của thế kỷ XIX. Ngài sinh tại London. Việc tìm kiếm tâm linh của ngài bắt đầu từ tuổi thanh xuân, sau đó ngài học thần học tại ĐH Oxford. Rồi ngài trở thành mục sư Anh giáo (Anglican pastor), bạn của Oriel College, và là trưởng Phong trào Oxford nghiên cứu nguồn gốc đức tin Công giáo ở Anh quốc. Năm 1842, khi viết “Essay on the Development of Christian Doctrine” (Tiểu luận về việc Phát triển Giáo lý Kitô giáo), ngài “vỡ lẽ” và quyết định gia nhập Công giáo. Ngài được nhận vào Công giáo năm 1845 và thụ phong linh mục tại Rôma ngày 1-6-1847.
Sau đó, được ĐGH Piô IX khuyến khích, ngài thành lập Nguyện đường Thánh Philip Neri ở Anh quốc. Năm 1852, ngài được bổ nhiệm làm uyên úy ĐH Công giáo Dublin ở Ireland, và ngài giữ chức vụ này tới năm 1854. ĐGH Leo XIII tấn phong ngài làm hồng y năm 1879. Ngài qua đời năm 1890 tại Nguyện đường ở Edgbaston. Án phong chân phước cho ngài bắt đầu từ năm 1958. Sự can thiệp kỳ lạ của ngài là chữa lành bệnh đau cột sống cho Jack Sullivan, và ngài được ĐGH Bênêđictô XVI tôn phong chân phước cho ngài vào tháng 7-2009 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-9-2010.
20/9 – Anrê Kim Taegon, Linh mục, và Phaolô Chong Hasang cùng các bạn Tử đạo (1821-1846)
Anrê Kim Taegon la linh mục người Hàn quốc đầu tiên, cha mẹ ngài là tân tòng. Cha ngài là Ignatius Kim, tử đạo trong thời bắt đạo năm 1839 và được phong chân phước năm 1925. Sau khi được rửa tội lúc 15 tuổi, ngài vượt đường xa 1.300 dặm tới một chủng viện ở Macao, Trung quốc. Sau 6 năm học tập, ngài trở lại quê hương qua đường Manchuria. Cùng năm đó ngài vượt Hoàng giang tới Thượng Hải và được thụ phong linh mục. Trở lại quê hương, ngài được sai đi truyền giáo. Ngài bị bắt, bị hành hạ, và cuối cùng bị chém đầu ở sông Han, gần Seoul.
Paul Chong Hasang là chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô giáo đến Hàn quốc trong cuộc viễn chinh của quân Nhật năm 1592, khi một số người Hàn quốc được rửa tội, có thể do các binh sĩ Nhật theo Kitô giáo. Truyền bá Phúc âm rất khó vì Hàn quốc không chịu ký kết với thế giới bên ngoài, trừ việc hàng năm tới Bắc Kinh để nộp thuế. Khoảng năm 1777, văn chương Kitô giáo có được nhờ các tu sĩ Dòng Tên ở Trung quốc đã giúp người Hàn quốc tiếp cận với Công giáo. 12 năm sau, khi một linh mục Trung quốc lén vào được, ngài thấy có 4.000 người Công giáo, chưa bao giờ thấy linh mục nào. 7 năm sau có 10.000 người Công giáo. Tôn giáo được tự do năm 1883.
Khi chân phước GH Gioan Phaolô II thăm Hàn quốc năm 1984, ngài đã phong thánh cho Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang, cùng với 98 người Hàn quốc và 3 nhà truyền giáo người Pháp đã tử đạo trong thời gian từ 1839 tới 1867. Trong số đó có những giám mục và linh mục, nhưng đa số là giáo dân: 47 nam và 45 nữ.
Trong các vị tử đạo năm 1839 có Columba Kim, một cô gái 26 tuổi chưa kết hôn. Chị bị tù, bị chọc vào người bằng những thanh sắt nóng và đóng dấu bằng than hồng. Columba và người chị em là Agnes bị lột trần và bị nhốt trong xà lim 2 ngày trong với các phạm nhân người khác, nhưng không bị làm nhục. Sau khi Columba than phiền về sự nhục nhã, không phụ nữ nào khác bị lột trần nữa. Hai chị em bị chém đầu. Một cậu bé 13 tuổi là Peter Ryou đã lấy phần da thịt nát của mình ném vào những người xét xử. Cậu bé chết bằng vì bị bóp cổ chết. Protase Chong, một nhà quý tộc 41 tuổi, đã bỏ đạo sau khi bị hành hạ và được thả. Sau đó ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị hành hạ tới chết.
21/9 – Thánh Matthêu, Tông đồ Thánh sử
Thánh Matthêu là người Do Thái, làm việc cho quân đội La Mã với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái. Dù người Do Thái không cho phép lấy thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là hầu bao riêng. Họ không để ý những nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó dân thu thuế bị người Do Thái ghét như những kẻ phản bội. Người Pharisêu (Biệt phái) bị gán vào phường tội lỗi. Nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người như thế làm môn đệ.
Chính nhân viên thu thuế Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc”: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý coi thường nghi lễ và việc thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương người khác là điều quan trọng hơn.
22/9 – Thánh Lawrence Ruiz và các bạn Tử đạo (1600?-1637)
Lawrence (Lorenzo) sinh tại Manila, cha là người Trung quốc và mẹ là người Philippine. Ngài học tiếng Trung quốc và tiếng Tagalog từ cha mẹ, học tiếng Tây Ban Nha từ các tu sĩ Dòng Đa Minh, giúp lễ và lo việc phòng thánh cho các lm Dòng Đa Minh. Ngài viết chữ đẹp, chép các tài liệu theo nghệ thuật thư pháp, và thành viên của Hội Mân Côi. Ngài kết hôn, có 2 con trai và 1 con gái.
Cuộc đời ngìa rẽ sang bước ngoặt khi ngài bị kết tội sát nhân. KKhông biết gì thêm về ngài ngoài câu nói của 2 tu sĩ Đa Minh: “Ngài bị chính quyền tìm bắt vì tội sát nhân”.
Lúc đó, 3 linh mục Dòng Đa Minh là Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza sắp đi Nhật mặc dù ở Nhật đang bị bách hại dữ dội. Họ lên đường cùng LM Vicente Shiwozuka de la Cruz, người Nhật, và Lazaro, một giáo dân bị phong cùi. Thánh Lawrence đang ẩn náu và được phép đi với họ. Nhưng khi tàu đã nhổ neo thì ngài mới biết họ đi Nhật.
Tàu cặp bến Okinawa. Thánh Lawrence tời Formosa, ngài nói: “Tôi quyết định ở với các cha, vì nếu không thì người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi ở đó”. Tại Nhật, họ sớm bị phát hiện, bị bắt và bị đưa tới Nagasaki. Đây là nơi đẫm máu khi bom nguyên tử đã tạo nên thảm họa trước đó. Khoảng 50.000 Công giáo đã từng sống ở đó đã bị bách hại hoặc tản mác.
Họ chịu đủ loại nhục hình: Sau khi bị đổ nước đầy bụng, họ bị bắt nằm xuống, rồi người ta lấy tấm ván dài đặt lên bụng, bọn lính cùng nhau đứng lên tấm ván để đạp cho nước phụt ra từ miệng, mũi và tai các tử tù. LM Antonio qua đời sau vài ngày. Linh mục người Nhật và Lazaro bị đâm các ngón tay bằng tre nhọn, nhưng ai cũng can đảm chịu đựng. Khi mọi người đều chết, thấy 3 linh mục Đa Minh vẫn sống nên bị họ chém đầu.
Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh cho 6 vị này và 10 vị khác là người Á châu và Âu châu, cả nam và nữ, những người đã rao giảng đức tin ở Philippines, Formosa và Nhật. Lawrence Ruiz là vị tử đạo đầu tiên của Philippines được phong thánh.
23/9 – Thánh Padre Piô, Linh mục (1887-1968)
Ngày 16-6-2001, chân phước GH Gioan Phaolô II đã phong thánh cho LM Padre Piô, linh mục Dòng Phanxicô, người xứ Pietrelcina. Đây là lễ phong thánh thứ 45 trong triều đại giáo hoàng của ĐGH Gioan Phaolô II. Hơn 300.000 người quy tụ đầy Quảng trường Thánh Phêrô và những con đường gần đó. Ngài nói: “Đây là sự tổng hợp cụ thể nhất về giáo huấn của linh mục Padre Piô”. Ngài nhấn mạnh việc làm chứng của linh mục Padre Piô là chịu đau khổ.
Năm 1962, khi còn là tổng giám mục ở Ba Lan, ĐGH Gioan Phaolô II đã viết thư cho linh mục Padre Piô để xin cầu nguyện cho một phụ nữ Ba Lan bị ung thư họng. Trong vòng 2 tuần, phụ nữ này đã hết bệnh.
Ngài sinh ngày 25-5-1887, tên “cúng cơm” của ngài là Francesco Forgione, sống trong một gia đình nông dân ở Nam Ý. Cha ngài Grazio làm việc ở Jamaica, New York 2 lần (1898-1903 và 1910-1917) để kiếm tiền nuôi gia đình.
Lúc 15 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô và lấy tên dòng là Padre Piô. Ngài thụ phong linh mục ngày 10-8-1910, lúc 22 tuổi. Sau khi được phát hiện bị bệnh lao phổi, ngài đã thổ huyết. Năm 1917, ngài chuyển tới nhà dòng ở San Giovanni Rotondo, cách Bari 75 dặm.
Ngày 20-9-1918, sau khi rước lễ và cầu nguyện trước Thánh Giá, ngài được thị kiến Chúa Giêsu. Sau khi hết thị kiến, ngài được ghi 5 dấu trên 2 tay, 2 chân và cạnh sườn (thường gọi là Cha Piô 5 dấu). Năm 1956, ngài thành lập Nhà Khuây khỏa Đau khổ (House for the Relief of Suffering), bệnh viện này phục vụ 60.000 bệnh nhân mỗi năm.
Từ đó, cuộc sống ngài trở nên phức tạp hơn. Các bác sĩ, giáo quyền và những người tò mò đến để chứng kiến “hai năm rõ mười” về Cha Padre Piô. Năm 1924 và năm 1931, chuyện 5 dấu của ngài được chất vấn. Ngài không được phép làm lễ công khai hoặc giải tội. Ngài không than viền gì về chuyện này, nhưng không lâu sau ngài hết bị cấm. Tuy nhiên, ngài không viết lá thư nào từ sau năm 1924. Tài liệu viết khác duy nhất của ngài là một cuốn sách mỏng viết về cơn hấp hối của Chúa Giêsu, nhưng được viết trước năm 1924.
Ngài hiếm khi ra khỏi nhà dòng từ khi ngài được in 5 dấu, Nhưng nhiều người vẫn tìm đến. Mỗi buổi sáng từ 5 giờ, nhà thờ chật người dự lễ, rồi ngài giải tội cho tới trưa. Ngài nghỉ lúc nửa buổi sáng để chúc lành cho các bệnh nhân và những người đến gặp ngài. Trưa nào ngài cũng vẫn giải tội. Trung bình mỗi ngày ngài giải tội 10 giờ, người đến xưng tội phải lấy số trước.
Ngài thấy Chúa Giêsu trong các bệnh nhân và người đau khổ. Theo ngài thúc giục, một bệnh viện được xây ở gần Mount Gargano. Năm 1940 một ủy ban được thành lập để thu tiền. Năm 1946 bệnh viện hư hỏng, rồi được xây lại với tên “Nhà Xoa Dịu Đau Khổ” (House for the Alleviation of Suffering) với 350 giường.
Cũng như tổ phụ dòng là thánh Phanxicô, LM Padre Piô đôi khi cũng bị người ta xé áo làm kỷ niệm. Một trong những đau khổ của ngài là những người vô ý tứ đã truyền miệng những lời tiên tri cho là của ngài. Thật ra ngài không bao giờ nói tiên tri về các sự kiện thế giới và không hề có ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc giáo quyền. Ngài qua đời ngày 23-9-1968, lúc 81 tuổi, và được phong chân phước năm 1999.
24/9 – Thánh Pacifico San Severino, Linh mục (1653-1721)
Ngài sinh trong một gia đình khá giả ở San Severino, thuộc Ancona ở Trung Ý. Ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục. Ngài dạy triết học 2 năm rồi đi giảng đạo. Ngài sống khổ hạnh, ăn chay trường, chỉ ăn chút bánh mì, súp hoặc uống nước. “Áo lông” ngài mặc làm bằng những sợi sắt. Ngài nổi bật về đức khó nghèo và vâng lời.
Lúc 35 tuổi, ngài bị bệnh khiến ngài bị điếc, mù và đi khập khiễng. Ngài dâng mọi đau khổ của mình để cầu cho các tội nhân biết sám hối. Ngài chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài. Ngài được bầu làm bề trên nhà dòng ở San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.
25/9 – Thánh Elzear (1286-1323) và Chân phước Delphina (1283-1358)
Ông Elzear sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Nam Pháp. Sau khi ông kết hôn với bà Delphina, bà cho ông biết rằng bà đã khấn giữ đồng trinh trọn đời, và ngay đêm tân hôn ông cũng khấn hứa như vậy. Ông Elzear là Bá tước vùng Ariano, đã từng tư vấn cho Công tước Charles vùng Calabria ở Nam Ý. Bằng công lý, ông Elzear đã cai trị lãnh địa của mình ở vương quốc Naples và ở Nam Pháp.
Ông Elzear và bà Delphina cùng vào Dòng Ba Phanxicô và dấn thân làm việc từ thiện. Mỗi ngày có 12 người nghèo cùng ăn với họ. Bức tượng thánh Elzear cho thấy ngài đã chữa nhiều bệnh nhân phong.
Họ cùng điều hành một trại phong. Mọi người tham dự thánh lễ hàng ngày, xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thức mọi xúc phạm lẫn nhau. Sau khi ông Elzear qua đời, bà Delphina tiếp tục công việc từ thiện hơn 35 năm. Đặc biệt bà quan tâm nâng mức độ luân lý ở triều đình của vua Sicily.
Thánh Elzear và chân phước Delphina được an táng tại Apt, Pháp quốc. Ông được phong phong thánh năm 1694, còn bà được phong chân phước năm 1936.
26/9 – Các thánh Cosmas và Đamianô, Tử đạo (qua đời năm 303?)
Không ai biết gì nhiều về cuộc đời các ngài ngoài việc các ngài tử đạo tại Syria trong thời bách hại của Diocletianô (*).
Lòng sùng kính hai vị thánh này lan rộng nhanh chóng cả ở Đông phương và Tây phương. Một đền thờ được xây dựng dâng kính các ngài ở Constantinople. Tên các ngài được ghi trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể từ thế kỷ VI.
Tương truyền các ngài là anh em song sinh ở Ả Rập, đều là bác sĩ giỏi. Các ngài được sùng kính ở Đông phương với danh xưng la “những người không tiền” (moneyless ones), vì các ngài không lấy tiền ai khi chữa bệnh cho người ta. Những người nổi bật như vậy không thể không bị “lưu ý”, thế nên các ngài đã bị bắt và bị chém đầu.
-------------------------------
(*) Hoàng đế La Mã (284–305), thoái vị năm 305, đã ra chiếu chỉ bắt đạo trong những năm 303–304.
27/9 – Thánh Vinh Sơn Phaolô, Linh mục (1580?-1660)
Việc giải tội cho một người hấp hối đã giúp ngài thấy nhu cầu tâm linh cấp bách của dân quê nước Pháp. Đây có vẻ là khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ một nông trại nhỏ ở Gascony, Pháp quốc, và trở thành linh mục.
Chính nữ bá tước Gondi đã thuyết phục chồng tài trợ một nhóm các nhà truyền giáo nhiệt thành có thể hoạt động giữa những người nghèo, các thuộc hạ, tá điền và dân quê nói chung. Thánh Vinh Sơn mới đầu khiêm nhường không nhận chức lãnh đạo, nhưng sau một thời gian hoạt động ở Paris giữa những nô lệ bị tù, ngài trở thành người lãnh đạo của nhóm người mà nay là Dòng Truyền giáo (Congregation of the Mission), còn gọi là Dòng Vinh Sơn (Vincentians). Các linh mục này – với 4 lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh, Vâng lời và Kiên định – hoàn toàn dấn thân phục vụ mọi người ở các nơi xa xôi hẻo lánh.
Sau đó ngài lập Hội Bác Ái (Confraternities of Charity) để xoa dịu nỗi đau tinh thần và thể lý của người nghèo và người bệnh. Với sự giúp đỡ của thánh nữ Louise de Marillac, có thêm Dòng Nữ tử Bác ái (Daughters of Charity), có các phòng bệnh nhân, nhà nguyện là nhà thờ giáo xứ, hành lang là đường phố. Ngài quy tụ các phụ nữ giàu có ở Paris để gây quỹ cho việc truyền giáo, mở các bệnh viện, gây quỹ cho các nạn nhân chiến tranh và chuộc hơn 1.200 nô lệ người Bắc Phi. Ngài nhiệt thành trong việc hướng dẫn tĩnh tâm cho các giáo sĩ nguội lạnh, lạm dụng và khinh suất. Ngài là người tiên phong trong việc đào tạo giáo sĩ và thành lập chủng viện.
Đáng nói là ngài là người rất nóng tính (very irascible person), bạn bè ngài cũng phải công nhận điều đó. Ngài nói rằng nếu không có ơn Chúa thì ngài gay gắt, lạnh lùng, thô lỗ và bực bội. Nhưng ngài đã thuần hóa thành dịu dàng và trìu mến, rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác. ĐGH Leo XIII tôn ngài làm bổn mạng các hội từ thiện. Nổi bật trong số đó là Hội Vinh Sơn Phaolô (Society of St. Vincent de Paul), được chân phước Frederic Ozanam thành lập năm 1833.
28/9 – Thánh Venceslaô, Tử đạo (907?-929)
Thánh Venceslaô (Wenceslaus) ủng hộ các giá trị Kitô giáo ngay giữa các âm mưu chính trị tiêu biểu của Bohemia hồi thế kỷ X.
Ngài sinh gần Prague, con của công tước vùng Bohemia. Người mẹ của ngài là bà Ludmilla đã nuôi dạy ngài và tìm cách nâng ngài lên làm người lãnh đạo vùng Bohemia thay cho bà. Bà Ludmilla ủng hộ các phe chống Kitô giáo nhưng cuối cùng bị giết chết, nhưng lực lượng đấu tranh của Kitô giáo đã chiến thắng, và ngài có thể lãnh đạo chính phủ.
Cách cai trị của ngài nổi bật bằng các nỗ lực đoàn kết với Bohemia, ủng hộ Giáo hội và thương thuyết hòa bình với Đức quốc. Chính sách của ngài khiến ngài gặp rắc rối với sự đối lập chống Kitô giáo. Em trai ngài là Boleslav đã tham gia âm mưu, và tháng 9 năm 929, Boleslav đã mời ngài tời Alt Bunglou mừng lễ thánh Cosmas và Đamianô. Trên đường đi dự lễ, ngài bị Boleslav tấn công, và ngài bị giết chết dưới tay những kẻ ủng hộ Boleslav.
Dù vậy, ngài vẫn được coi là tử đạo vì đức tin, mộ ngài là nơi được nhiều người hành hương kính viếng. Ngài được tôn vinh là thánh bổn mạng của nhân dân Bohemia và Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia).
29/9 – Các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel and Raphael
Các thiên thần là các sứ giả của Thiên Chúa, thường xuất hiện trong Kinh thánh, nhưng chỉ có các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael được nêu danh.
Tổng lãnh thiên thần (TLTT) Michael hiện ra trong thị kiến của Daniel với dạng “hoàng tử” bảo vệ Israel khỏi quân thù; trong sách Khải huyền, ngài hướng dẫn quân đội của Chúa chiến thắng ma quỷ. Lòng sùng kính TLTT Michael có từ lâu đời nhất, xuất hiện ở Đông phương từ thế kỷ IV. Giáo hội Tây phương bắt đầu mừng lễ kính các TLTT từ thế kỷ V.
TLTT Gabriel cũng hiện ra trong thị kiến của Daniel, thông báo vai trò của TLTT Michael trong kế hoạch của Thiên Chúa. Lần ngìa hiện ra được biết nhiều nhất là gặp một thiếu nữ Do Thái tên là Maria, người mang thai Đấng Thiên Sai.
Hoạt động của TLTT Raphael được thấy trong Cựu ước về ông Tobit. Ngài hiện ra để hướng dẫn con trai của ông Tobit là Tobia qua một loạt mạo hiểm dẫn tới kết cuộc hạnh phúc gấp ba: Đám cưới của Tobia với Sarah, chữa ông Tobit khỏi mù và lấy lại tài sản gia đình.
Lễ nhớ TLTT Gabriel (24-3) và TLTT Raphael (24-10) được thêm vào lịch La Mã năm 1921. Lịch năm 1970 kết hợp các lễ này thành lễ kính chung các TLTT hôm nay.
30/9 – Thánh Giêrônimô, Linh mục Tiến sĩ (345-420)
Thánh Giêrônimô có tính rất xấu là viết gay gắt, nhưng ngài rất yêu mến Chúa.
Ngài còn hơn một học giả Kinh thánh, dịch hầu hết các sách Cựu ước từ tiếng Hê-brơ (cổ ngữ Do Thái). Ngài còn viết những bài phê bình được cảm hứng từ Kinh thánh mà chúng ta có ngày nay. Ngài tư vấn cho tu sĩ, giám mục và giáo hoàng. Thánh Augustinô nói về ngài: “Những gì thánh Giêrônimô không biết, không quan trọng”.
Thánh Giêrônimô rất quan trọng đối với bản dịch Kinh thánh Vulgata (bản phổ thông). Đó không là bản dịch chính thức, nhưng được Giáo hội chấp nhận. Công đồng Trentô mời gọi bản dịch mới và chỉnh sửa từ bản Vulgata, và tuyên bố là bản chính thức của Giáo hội.
Để làm được như vậy, thánh Giêrônimô đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngài giỏi tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Hê-brơ và tiếng Chaldaic. Ngài bắt đầu học từ sinh quán của ngài ở Stridon thuộc Dalmatia (trước là Yugoslavia). Sau đó ngài học ở Rôma, trung tâm học tập thời đó, và rồi tới Trier, Đức quốc, nơi có nhiều chứng cớ. Mỗi nơi ngài ở vài năm, luôn cố tìm thầy giỏi nhất.
Sau đó ngài tới Palestine. Ngài là nhà thần bí (mystic), sống ở sa mạc Chalcis 5 năm để cầu nguyện, đền tội và học nghiên cứu. Cuối cùng ngài tới Belem, nơi sinh sống của Chúa Giêsu. Ngày 30-9-420, ngài qua đời tại Belem. Hiện nay hài cốt ngài được đặt tại Nhà thờ Đức Bà Cả (Basilica of St. Mary Major) ở Rôma. Ngài là bổn mạng các dịch giả.
http://gxthohoang.net/index.php/giup...3-th%C3%A1ng-9
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org, CatholicCulture.org) |
|