|
11/10 – Chân phước Angela Truszkowska, Trinh nữ (1825-1899)

Hôm nay chúng ta kính nhớ một phụ nữ suốt đời tuân phục Thánh Ý Thiên Chúa – một cuộc đời đầy đau khổ.
Bà sinh năm 1825 ở miền Trung Ba Lan và được đặt tên là Sophia. Bà bị bệnh phổi khi còn trẻ. Thời gian dưỡng bệnh làm cho bà có thời gian suy nghĩ. Bà cảm thấy được Chúa kêu gọi để phục vụ người nghèo, trẻ em đường phố và những người vô gia cư ở khu ổ chuột Warsaw. Khi đó, một người chị em con thác bá cùng hoạt động với bà.
Năm 1855, hai chị em khấn riêng và tận hiến cho Đức Mẹ. Có nhiều người theo họ. Trong 2 năm họ hình thành một dòng mới, nay là Dòng Nữ Felician. Từ đó bà trở thành Mẹ Angela.
Bà làm bề trên nhiều năm cho tới khi phải từ chức lúc 44 tuổi vì yếu sức. Dòng phát triển sang Hoa Kỳ, có cả dòng nữ và nam. ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong bà lên hàng chân phước năm 1993.
12/10 – Thánh Seraphin Montegranaro, Tu sĩ (1540-1604)

Ngài sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Ý, đi chăn chiên từ nhỏ và thường dành nhiều thời gian để cầu nguyện. Có lần ngài bị người anh đối xử tàn tệ sau khi hai anh em mồ côi cha mẹ. Ngài vđi tu Dòng Phanxicô lúc 16 tuổi và làm mọi người ấn tượng về tính khiêm nhường và đại lượng.
Ngài noi gương thánh Phanxicô về ăn chay, tử tế với mọi người, nhiệt thành truyền giáo, nhưng bề trên không chọn ngài đi truyền giáo.
Mỗi ngày ngài dành 3 giờ cầu nguyện trước Thánh Thể, và đặc biệt yêu thương người nghèo. Dù đời ngài không có gì nổi bật, nhưng ngài được chú ý về sống nội tâm và nhiều phép lạ được coi là có sự can thiệp của ngài. Ngài qua đời ngày 12-10-1604, và được phong thánh năm 1767.
13/10 – Thánh Margaret Mary Alacoque, Trinh nữ (1647-1690)

Thánh Margaret Maria Alacoque được Chúa Giêsu chọn để khơi gợi lòng sùng kính Thánh Tâm. Những năm đầu đời bà ốm yếu. Bà viết: “Thánh giá nặng nhất của tôi là tôi không thể làm gì để làm nhẹ Thánh giá Đau khổ của mẹ tôi”. Bà đã định lập gia đình, nhưng rồi bà vào Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng lúc 24 tuổi.
Là một nữ tu bình thường, nhưng bà vui với sự nhỏ bé này. Một người bạn tập sinh nói Margaret rất khiêm nhường, giản dị và chân thật, đặc biệt là kiên nhẫn chịu đựng người khác phê bình và sửa lỗi.
Ngày 21-12-1674, sau 3 năm đi tu, bà được Chúa Giêsu mạc khải. Bà cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, dù bà luôn sợ mình bị ảo tưởng về những vấn đề như vậy. Trong 13 tháng kế tiếp, Chúa Giêsu hiện ra với bà nhiều lần. Thánh Tâm Chúa là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa và nhân loại (divine-human love). Tình yêu của bà dành cho Chúa để bù đắp sự lạnh nhạt của thế giới – bằng cách thường xuyên rước lễ, nhất là vào thứ Sáu đầu tháng, và cầu nguyện vào đêm thứ Năm để suy niệm về cuộc sầu khổ của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu. Chúa Giêsu muốn lễ Thánh Tâm được thiết lập.
Linh mục giải tội cho bà là chân phước Claude de la Colombiere, tu sĩ Dòng Tên, đã nhận thấy sự thật và ủng hộ bà. Sau khi làm giáo tập và phụ tá bề trên, bà qua đời lúc 43 tuổi khi đang lãnh nhận bí tích Xức dầu. Bà nói: “Tôi không cần gì khác ngoài Thiên Chúa, và được đắm mình trong Thánh Tâm Chúa Giêsu”.
14/10 – Thánh Callistô I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 223?)

Ngài là nô lệ của một gia đình hoàng đế La Mã. Có lần ngài bị nghi ăn cắp tiền nên bị xử tệ, ngài đã bỏ trốn nhưng bị bắt lại. Sau khi được giải oan, ngài được phóng thích. Ngài bị bắt vì cãi nhau trong hội đường Do Thái, và bị đi cải tạo lao động ở vùng mỏ tại Sardinia. Một thời gian sau ngài được phóng thích.
Sau đó ngài được cai quản khu chôn cấ người Kitô giáo ở Rôma (vẫn được gọi là Thánh địa Thánh Callistô), có thể đây là khu đất đầu tiên của Giáo hội. Đức giáo hoàng truyền chức phó tế cho ngài, coi ngài là bạn và là người cố vấn. Sau đó ngài được bầu làm giáo hoàng, rồi bị chống đối từ ngụy giáo hoàng là Hippôlytô, Cuộc ly giáo này kéo dài 18 năm.
Rồi Hippôlytô trở lại, qua đời tại Sardinia và được phong thánh. He was banished during the persecution of 235 and was reconciled to the Church. Thánh Hippôlytô đã từng kết án thánh Callistô là quá nhân hậu, vì các lý do: (1) Callistô cho các hối nhân được rước lễ, dù họ đã phạm tội sát nhân, dâm dục và gian dâm; (2) Callistô cho phép phụ nữ kết hôn với người nô lệ – ngược với luật La Mã; (3) Callistô chấp nhận truyền chức cho các đàn ông đã kết hôn 2 hoặc 3 lần; (4) Callistô cho rằng tội trọng là lý do đủ để truất quyền một giám mục; (5) Callistô ban hành chính sách khoan hồng đối với những người bội giáo tạm thời trong khi bị bách hại.
Thánh Callistô tử đạo trong thời gian náo động ở Trastevere, Rôma, và là vị giáo hoàng đầu tiên (trừ thánh Phêrô) được kính nhớ là thánh tử đạo trong thời Giáo hội sơ khai. Ngai2 d9uo75c coi la2 mot65 trong các vị giáo hoàng vĩ đại nhất.
15/10 – Thánh Têrêsa Avila, Trinh nữ Tiến sĩ (1515-1582)

Thế kỷ XVI là thời gian rối loạn và cải cách. Cuộc đời bà bắt đầu với cao điểm của thời Cải cách của Tin Lành (Protestant Reformation), và chấm dứt sau Công đồng Trentô. Bà có 3 điều gây ấn tượng: là phụ nữ, chiêm niệm, và tích cực cải cách.
Bà tu Dòng Kín dù người cha phản đối dữ dội. Bà là mỹ nhân có tài, thân mật, thoải mái, dễ thích nghi, có lòng trắc ẩn, can đảm, nhiệt thành, và rất nhân bản. Cũng như Chúa Giêsu, bà là một bí ẩn của những nghịch lý: khôn ngoan mà thực tế; thông minh mà hài hòa kinh nghiệm; thần bí mà cải cách tích cực và thánh thiện.
Bà là người sống vì Chúa, phụ nữ của sự cầu nguyện, kỷ luật và trắc ẩn. Bà bị hiểu lầm, bị phê phán oan sai, bị chống đối vì cải cách. Nhưng bà vẫn cương quyết, can đảm và trung tín. Bà chiến ấu với tính tầm thường của mình, với bệnh tật và với sự chống đối, nhưng bà vẫn trung thành với Thiên Chúa và cầu nguyện. Bà là người sống vì tha nhân, luôn canh tân chính mình và Dòng Kín, hướng dẫn chị em sống đúng luật dòng.
Năm 1970, Giáo hội tôn phong bà là Tiến sĩ Giáo hội. Bà và thánh Catherina Siena là những phụ nữ đầu tiên được nhận danh hiệu này.
16/10 – Thánh Marguerite d’Youville (1701-1771)

Thánh nữ sinh tại Varennes, Canada, tên đầy đủ là Marie Marguerite Dufrost de Lajemmerais. Bà phải nghỉ học lúc 12 tuổi để giúp mẹ vì cha mất sớm. Lúc 20 tuổi, bà kết hôn với Francois d'Youville (theo lệ ngoại quốc, phụ nữ lấy chồng thì dùng họ của chống nên bà mới có tên Marguerite d'Youville). Họ có 6 người con, nhưng 4 người con chết sớm. Dù chồng có máu “đỏ đen”, bán lậu rượu cho dân Mỹ bản xứ và lạnh nhạt với vợ, bà vẫn chăm lo cho chồng đàng hoàng, nhưng người chồng mất năm 1730 – sau 2 năm hôn nhân, nghĩa là Marguerite d'Youville góa chồng lúc mới 22 tuổi.
Bà vừa chăm sóc 2 con vừa điều hành một cửa tiệm để lấy tiền trả nợ cho chồng, đồng thời bà cũng giúp người nghèo. Khi con cái lớn khôn, bà và vài người bạn đã cứu bệnh viện Quebec đang có nguy cơ đóng cửa. Bà gọi bệnh viện này là Cơ sở Chị em Bác ái Montreal (Institute of the Sisters of Charity of Montreal). Người ta gọi họ là “Nữ tu Xám” (Grey Nuns) vì trang phục của họ màu xám. Dân nghèo ở Montreal có thành ngữ “Đến với các nữ tu xám, họ không từ chối phục vụ” (Go to the Grey Nuns; they never refuse to serve). Rồi 5 cộng đoàn tu khác cũng theo bước họ đến với các “Nữ tu Xám”.
Bệnh viện đa khoa ở Montreal được gọi là Nhà Chúa (Hôtel Dieu), có tiêu chuẩn về chăm sóc y tế và lòng trắc ẩn Kitô giáo. Khi bệnh viện bị cháy năm 1766, bà quỳ trên tro tàn và hát bài Te Deum (Thánh ca Tạ Ơn ca ngợi sự quan phòng của Thiên Chúa trong mọi trường hợp) và bắt đầu xây dựng lại. Bà đấu tranh vì chính phủ cản trở bà làm từ thiện và xây dựng nhà cho những trẻ bị bỏ rơi ở Bắc Mỹ.
Chân phước GH Gioan XXIII phong chân phước cho bà năm 1959, gọi bà là “Người mẹ của lòng Bác ái Hoàn vũ”. Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh cho bà năm 1990.
17/10 – Thánh Inhaxiô Antiôkia, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 107?)

Ngài sinh tại Syria, gia nhập Công giáo và trở thành giám mục giáo phận Antiôkia. Năm 107, hoàng đế Trajan đến Antiôkia và bắt người Công giáo phải chọn một là chết, hai là bỏ đạo. ĐGM Inhaxiô không chịu bỏ đạo nên bị giết chết tại Rôma.
Ngài có tiếng về 7 lá thư mà ngài viết trên hành trình dài từ Antiôkia tới Rôma, 5 trong 7 lá thư đó gởi cho các giáo hội vùng Tiểu Á. Các lá thư đó thúc giục các tín hữu trung thành với Thiên Chúa và vâng lời các vị bề trên của họ. Ngài cảnh báo họ về các tà thuyết, cung cấp cho họ các chân lý vững chắc về đức tin của Kitô giáo.
Lá thư thứ 6 gởi cho ĐGM Polycarp, GP Smyrna, sau này cũng chịu tử đạo vì đức tin. Lá thư thứ 7 xin các Kitô hữu ở Rôma đừng bỏ cơ hội tử đạo của mình: “Điều duy nhất tôi xin anh chị em là hãy theo tôi hiến mạng sống vì Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa mì của Chúa, tôi có thể bị nghiền nát giữa hàm răng của thú dữ để trở nên tấm bánh tinh khiết của Chúa Kitô”. Ngài đã hiên ngang trước những con sư tử ở Đấu trường Maximus.
18/10 – Thánh Luca, Thánh sử

Thánh Luca viết một phần chính của Tân ước, đó là sách Phúc âm thứ ba và sách Công vụ Tông đồ. Trong 2 cuốn này, ngài cho thấy song song giữa cuộc đời Chúa Kitô và cuộc sống của Giáo hội. Ngài là người duy nhất không phải là Do Thái trong số các tác giả Tin mừng. Truyền thống cho ngài là dân bản xứ Antiôkia, thánh Phaolô gọi ngài là “thầy thuốc yêu quý của tôi” (Cl 4:14). Phúc âm theo thánh Luca có thể được viết trong những năm 70 và 85.
Thánh Luca xuất hiện trong sách Công vụ Tông đồ trong hành trình thứ hai của thánh Phaolô, lưu lại Philippi vài năm cho đến khi thánh Phaolô trở về sau hành trình thứ ba, đi cùng thánh Phaolô tới Giêrusalem và vẫn ở bên cạnh nhau cho tới khi thánh Phaolô bị tù ở Caesarea. Trong 2 năm đó, thánh Luca có thời gian tìm hiểu thông tin và phỏng vấn những người biết Chúa Giêsu. Ngài theo thánh Phaolô trên chặng đường nguy hiểm tới Rôma, như Thánh Phaolô viết: “Chỉ có anh Luca ở với tôi” (2 Tm 4:11).
19/10 – Thánh Isaac Jogues, Gioan Brébeuf và các bạn tử đạo

Thánh Isaac Jogues, Linh mục (1607-1646): Ngài và một số người bạn là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Mỹ được Giáo hội chính thức phong thánh. Khi còn là tu sĩ trẻ Dòng Tên, ngài là người hiểu biết và có văn hóa, dạy văn chương tại Pháp. Sau đó ngài nghỉ dạy và làm việc giữa những người Ấn Độ Huron ở Tân thế giới (Mỹ). Năm 1636, ngài và các bạn, theo sự lãnh đạo của Gioan Brébeuf, đến Quebec. Người Huron luôn bị người Iroquois gây chiến, LM Jogues bị người Iroquois bắt tù 13 tháng. Các lá thư và báo chí của ngài cho biết cách ngài và các bạn bị đưa đi từ làng này sang làng khác, bị đánh đập, bị hành hạ và bị bắt xem những người Huron theo đạo bị làm nhục và bị giết.
Ngài có dịp trốn thoát nhờ người Hà Lan, và ngài trở lại Pháp. Ngài bị cắt vài ngón tay và những vết phỏng do bị đốt. ĐGH Urbanô VIII cho phép ngài dâng lễ với đôi tay bị thương: “Là điều xấu hổ nếu vị tử đạo của Chúa Kitô không được lãnh nhận Thánh Thể”. Ngài được gọi là anh hùng, ngài tạ ơn Thiên Chúa vì được trở lại an toàn và được chết an bình nơi quê hương. Nhưng lòng nhiệt thành thôi thúc ngài ra đi hoàn tất ước mơ.
Năm 1646, ngài và thánh Gioan đi Iroquois. Họ bị đảng Mohawk bắt, và ngày 18-10 ngài bị chém đầu. Thánh Gioan Lalande bị giết ngày hôm sau tại Ossernenon, một ngôi làng gần Albany, New York.
Nhà truyền giáo Dòng Tên tử đạo đầu tiên là René Goupil, bị hành hạ cùng với thánh Isaac Jogues năm 1642, và bị chém đầu vì làm dấu Thánh Giá trên trán một số trẻ em.
Thánh Gioan Brébeuf, Linh mục (1593-1649): Ngài là tu sĩ Dòng Tên, người Pháp, đến Canada lúc 32 tuổi và làm việc ở đó suốt 24 năm. Ngài trở lại Pháp khi người Anh chiếm Quebec năm 1629, và họ trục xuất các tu sĩ Dòng Tên, nhưng 4 năm sau họ trở lại. Dù các thầy thuốc nguyền rủa các tu sĩ Dòng Tên vì đại dịch đậu mùa trong người Hurons, ngài vẫn ở lại với họ.
Ngài soạn giáo lý và tự điển bằng tiếng Huron, và chứng kiến 7.000 người gia nhập đạo. Ngài bị người Iroquois bắt và giết chết sau 4 giờ hành hạ dã man tại Sainte Marie, gần vịnh Georgia, Canada.
LM Antôn Daniel làm việc với người Huron và trở lại Công giáo, ngài bị người Iroquois giết vào ngày 4-7-1648. Thi hài ngài được đưa vào nhà nguyện rồi bị phóng hỏa.
Thánh Gabriel Lalemant đã khấn lời khấn thứ tư – hy sinh cuộc đời cho người Ấn Độ. Ngài bị hành hạ dã man cho đến chết cùng với LM Brébeuf. LM Charles Garnier bị bắn chết khi đang rửa tội cho trẻ em trong đợt tấn công của quân Iroquois.
LM Noel Chabanel bị giết trước khi được gọi về Pháp. Ngài chịu đựng sự khô khan tâm linh trong thời gian ở Canada. Nhưng ngài khấn giữ sứ vụ cho đến chết. Cả 8 vị tử đạo Dòng Tên này của Bắc Mỹ được phong thánh năm 1930.20/10 – Thánh
Maria Bertilla Boscardin (1888-1922)

Thánh Maria Bertilla Boscardin sinh tại Ý năm 1888, sống trong nỗi sợ hãi vì người cha thô bạo và nghiện rượu. Việc học của bà bị giới hạn vì phải dành nhiều thời gian giúp gia đình và làm việc đồng áng. Bà chứng tỏ một ít tài năng và thường hay nói đùa.
Năm 1904, bà vào Dòng Tiểu muội Thánh Dorothy (Sisters of St. Dorothy) và được phân công làm bếp, làm bánh và giặt giũ. Sau một thời gian, bà học làm y tá và làm việc ở bệnh viện điều trị những trẻ bị bạch hầu (diphtheria). Tại đây bà có vẻ nhận ra ơn gọi của mình: Chăm sóc các bệnh nhân và trẻ em. Sau đó, khi bệnh viện bị quân đội chiếm trong thế chiến I, bà vẫn can đảm chăm sóc bệnh nhân giữa sự đe dọa của chiến tranh.
Bà qua đời sau nhiều năm bị ung thư. Một số bệnh nhân mà bà đã chăm sóc nhiều năm trước đều có mặt trong buổi lễ phong thánh cho bà năm 1961.
|
|