11 THÁNG MƯỜI

Bài Sai Muôn Thuở


Lời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, vẫn luôn vang vọng: ”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).


Đó là những lời sau cùng của Chúa trước khi Ngài rời bỏ mặt đất cách hữu hình để trở về với Cha. Những lời ấy, trong sức mạnh và hiệu năng của nó, cho thấy rõ căn tính của Giáo Hội – đó là một Giáo Hội được ủy thác kho tàng sự thật và ơn cứu độ thần linh không phải để giữ cho riêng mình nhưng là để thông chia cho mọi người khác nữa. Những lời ấy của bản văn Tin Mừng theo Thánh Matthêu là hiến pháp của Giáo Hội, vì Giáo Hội, tự bản chất của mình, là một cơ chế truyền giáo.


Loan báo Tin Mừng, đó là công bố cho toàn thế giới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để làm Chúa của kẻ sống và người chết. Từ bối cảnh đó, chúng ta hiểu ý tưởng của Thánh Augustinô, như được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Các Tông Đồ, là nền móng của Giáo Hội, bắt chước mẫu gương của Chúa Kitô, đã rao giảng lời chân lý và xây dựng các giáo đoàn” (AG, 1).


12 THÁNG MƯỜI

Muối Và Ánh Sáng Cho Trần Gian.


Trước khi được tung vào khắp thế giới, các Tông Đồ đã cùng với Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, cầu nguyện và chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã hứa gởi Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, đến đưa dẫn các Tông Đồ vào toàn bộ chân lý và ban cho các ngài ân sủng để đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng. Thật vậy, phải có sức mạnh của Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể soi sáng cho mọi người. Chỉ nhờ Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể trở thành muối và ánh sáng cho trần gian (Mt 5, 13-14). Chỉ nhờ Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể canh tân và cứu độ mọi người, đem họ đến cùng Chúa Kitô.


Khi Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin lần đầu tiên được chính thức thành lập, đó cũng là giai đoạn sôi động của những khám phá lớn lao về các vùng đất mới. Những thế giới mới mở ra vẫy gọi bước chân các nhà truyền giáo của Giáo Hội. Và nhu cầu thiết lập một cơ chế để phục vụ cho mục đích rao giảng Tin Mừng trở thành cấp thiết hơn bao giờ.


Ngày nay, chúng ta đang ở trong một thời đại khác hẳn. Công cuộc thám hiểm trái đất đã hoàn tất. Tất cả các lục địa đều đã mở ra sẵn sàng đón nhận sứ điệp của Tin Mừng, với những giáo hội tươi trẻ và đầy triển vọng. Một mùa gặt bội thu đang mời gọi những thợ gặt có khả năng là ánh sáng và muối cho trần gian.


Hai ngàn năm lịch sử Giáo Hội, xét về mặt địa dư thì Tin Mừng đã được loan báo cho toàn thể thế giới. Nhưng trong bối cảnh sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình, Giáo Hội không quên bổn phận thăng tiến con người, phát triển xã hội và bảo vệ các quyền của con người.


13 THÁNG MƯỜI

Một Thời Đại Khẩn Trương


Thật bi đát là còn nhiều vùng trên thế giới, người ta vẫn chưa biết hoặc đã lãng quên Tin Mừng. Xã hội hiện đại vốn tự hào là một xã hội thông tin, nhưng có hàng triệu con người mong mỏi được nghe Tin Mừng mà chỉ mới được biết loáng thoáng hoặc chẳng biết gì cả về Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Và trong thế giới cũ, vốn in đậm truyền thống đức tin Kitô giáo hàng bao thế kỷ, đang tồn tại những ý thức hệ sai lạc và tư tưởng duy vật quá tràn ngập đến nỗi nhiều người sợ rằng thế giới có nguy cơ bị nhận chìm vào trong vực thẳm đen tối của chủ nghĩa vô thần. Vì thế, song song với nhu cầu Phúc Aâm hóa, chúng ta nhận ra một nhu cầu cấp bách không kém, đó là tái rao giảng Tin Mừng.


Tất cả chúng ta – linh mục cũng như giáo dân – đều được mời gọi khơi lại ý thức trong Giáo Hội về nhu cầu khẩn thiết của việc Phúc Aâm hóa và tái Phúc Aâm hóa. Đặc biệt, chúng ta phải giúp cho thế hệ trẻ nắm bắt sứ điệp này. Tâm hồn các bạn trẻ thường bị phân tán bởi những hy vọng trống rỗng. Chúng ta phải nhấn mạnh với họ về tính khẩn thiết của công việc truyền giáo, là lời tiếng gọi thách đố tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. Chúng ta cũng cần phải làm cho các cộng đoàn Kitô hữu trở nên liên đới mật thiết với những nhu cầu những thử thách của các anh em tại các vùng truyền giáo.


14 THÁNG MƯỜI

Loan Báo Tin Mừng,
Một Nhu Cầu Cấp Bách Và Toàn Diện


Công Đồng Vatican II, trong Sắc Lệnh Truyền Giáo, đã tổng hợp một cách tuyệt vời cả lý do lẫn trách nhiệm loan báo Tin Mừng. Sắc Lệnh này đề cập đến các hoạt động truyền giáo của Giáo Hội : “Lý do của sứ mạng truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên Chúa, Ngài ‘muốn tất cả mọi người được cứu độ và được biết sự thật. Và sự thật là: Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất. Cũng chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Đấng đã trao hiến chính mình làm giá chuộc cho mọi người’ (1Tm 2,4-6), và ‘không có ơn cứu độ nơi bất cứ ai khác’ (Cv 4,12). Do đó, mọi người phải trở về với Ngài sau khi đã nhận biết Ngài nhờ lời rao giảng của Giáo Hội, và phải kết hiệp mật thiết với Ngài cũng như với Giáo Hội là thân thể của Ngài qua Phép Rửa…”


“Đành rằng Thiên Chúa – bằng những cách thế chỉ một mình Ngài biết – có thể dẫn dắt những người có lương tâm ngay thẳng nhưng không biết Tin Mừng đến với đức tin – ‘bởi người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa được nếu không có đức tin’ (Dt 11,6); tuy nhiên, bổn phận tất yếu của Giáo Hội phải là rao giảng Tin Mừng, nghĩa là hoạt động truyền giáo của Giáo Hội luôn luôn còn đầy đủ tính khẩn thiết của nó – hôm nay và mãi mãi” (TG, 7).


Loan báo Tin Mừng là công việc thường xuyên của Giáo Hội. Nó luôn khẩn thiết và không bao giờ có thể chước miễn. Ơn cứu độ của con người luôn là vấn đề nóng bỏng. Đó là lý do tại sao Đức Phao-lô VI, trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, đã viết: “Người tông đồ phải hiến dâng tất cả thời giờ, tất cả sức lực, và nếu cần, hy sinh cả sự sống mình cho việc loan báo Tin Mừng” (EN, 5).


15 THÁNG MƯỜI

Tình Yêu Chúa Kitô
Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái


Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.


Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.


16 THÁNG MƯỜI

Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến


Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.


Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).


17 THÁNG MƯỜI

Người Nghèo Là Những Ai?


Nhưng ai là người nghèo trong thời đại chúng ta? Tin Mừng nói đến những người mù, những người bị áp bức, và những người bị giam cầm (Lc 4,18). Người nghèo là những người sống mà không có được những nhu cầu thiết yếu để sống, cả những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần.


Ngoài ra, trong thế giới hôm nay, hàng triệu người phải rời bỏ quê hương mình để lánh nạn. Hàng triệu người, đôi khi toàn bộ những bộ tộc hay những vùng dân cư, bị đứng trước nguy cơ tuyệt chủng vì hạn hán hay vì thiếu lương thực.

Làm sao người ta có thể nhắm mắt trước tình trạng nghèo khổ và ngu dốt của những đồng loại mình chưa bao giờ có được cơ hội đến trường? Làm sao có thể không day dứt khi nhìn thấy vô số người đang phải chịu đựng một cách hoàn toàn bất lực trước sự bất công và trước tình trạng kém phát triển? Cũng có rất nhiều người đã bị tước đoạt quyền tự do tín ngưỡng và phải đau khổ cùng cực bởi vì họ không thể tôn thờ Thiên Chúa theo lương tâm mình.


18 THÁNG MƯỜI

Mang Tin Vui Cho Người Nghèo


Thời đại của chúng ta đang đứng trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý, trong đó tự do và nhân phẩm của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng cực nhất là tình trạng của những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống. Lương tâm con người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là một dạng nghèo. Bao gia đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo. Chung qui, tất cả đều là cái nghèo của tội lỗi.


Trong một thế giới bị xâu xé bởi quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố gắng “mang tin vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng cách thể hiện những nỗ lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự của nhiều người khác. Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của họ đối với những con người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ và sứ mạng loan báo Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những chứng tá hy sinh chất chứa bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn khích lệ lớn lao. Đối với từng người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy là “một niềm khích lệ trong Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một sự thông dự trong Thánh Thần”. (Pl 2,1)

19 THÁNG MƯỜI

Chứng Từ Của Tình Yêu Huynh Đệ


Sau khi ghi nhận những công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).


Phải chăng những lời này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).


Đừng! Chúng ta đừng bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ! Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.

Cuối cùng, hãy cho phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.


20 THÁNG MƯỜI

Kiến Tạo Hòa Bình Bằng Tình Yêu


Chiến tranh và bạo lực là con đẻ của sự xem thường các quyền căn bản của con người. Quyền căn bản nhất của con người, đó là phải xem mỗi người là một ngã vị độc đáo và không thể thay thế được. Con người được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài. Qua Bí Tích Phép Rửa, con người trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa và thông dự vào ơn cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể.


Ở nơi đâu con người còn bị lạm dụng để làm thỏa mãn quyền lợi, nhu cầu, khát vọng của người khác thì ở đó sẽ nảy sinh bạo lực, lộn xộn và chiến tranh. Trái lại, ở nơi nào con người biết phục vụ cho quyền lợi của anh chị em mình, biết xem anh chị em mình “là những tạo vật duy nhất được Thiên Chúa yêu thương do chính bản chất của nó“ (MV 24), thì ở đó có tình yêu đích thực, hòa bình sẽ triển nở. Bởi vì nền móng của hòa bình là tình yêu.


Nói cách khác, Thiên Chúa là nguồn gốc của hòa bình – vì Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi tình yêu. Đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là đời sống yêu thương. Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha. Tình yêu này mạnh mẽ và biệt vị đến nỗi nó được biểu hiện như một ngã vị thần linh – đó là Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta cho phép Chúa Thánh Thần tràn ngập trong lòng chúng ta, nhất là khi lãnh nhận các bí tích, thì chúng ta sẽ có được tình yêu ấy và sẽ trở thành những người kiến tạo hòa bình đích thực.