21 THÁNG GIÊNG
Những Người Tht Nghip –
Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi

Tôi đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong các gia đình.
Chúng ta cần có những sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng, đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.

22 THÁNG GIÊNG
Tin Mừng Lao Động

Lao động, đó trước hết là một ơn gọi của con người. Lao động là dấu hiệu cho thấy bản tính của con người: những hữu thể có lý trí! Mỗi người đều được ban cho trí tuệ và ý chí. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa – và được mời gọi làm chủ mọi tạo vật.

Để đáp trả tiếng gọi này, chúng ta có mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu. Người đã lao động suốt ba mươi năm hàn vi ở thị trấn nghèo Na-da-rét, với Thánh Giu-se, trong nghề thợ mộc.

Ba mươi năm âm thầm này – và cái nghề rất đỗi khiêm hạ này trong cuộc đời của Đức Giêsu – có chất chứa một sứ điệp nào đó gọi mời chúng ta học hỏi. Ba mươi năm ấy, có thể nói, là trường đào tạo chàng trai Giê-su: càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, và càng dồi dào ân sủng. Con Thiên Chúa – là Con Người – đã đảm nhận lấy lao động, một loại lao động cơ bản, là chính tiếng gọi mà Thiên Chúa đã ủy trao cho con người ngay từ thuở ban sơ.

Ngôi nhà Na-da-rét ấy và xưởng mộc đơn sơ ấy của Thánh Giu-se và chàng trai Giêsu là trọng tâm và là tiêu điểm của Tin Mừng Lao Động. Mẫu gương lao động này muốn nhắc nhở chúng ta rằng điều thật sự đáng cho ta chú ý không phải là loại công việc được làm nhưng là chính những con người làm việc. Tiêu điểm ấy sẽ cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn về giá trị nhân bản và siêu nhiên của lao động.

23 THÁNG GIÊNG
Tôn Trọng Nhân V Con Người
Tại Môi Trường Lao Động

Nhãn quan Kitô giáo về thực tại tập chú trên con người và phẩm giá của con người xét như một ngôi vị được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định mạnh mẽ rằng nhân vị phải luôn luôn là mối ưu tiên đệ nhất trong lao động. Khẳng định ấy sẽ đưa ta tới một quan điểm hết sức quan trọng về đạo đức. Đành rằng quả thật con người được gọi và được định liệu để lao động; song, lao động tiên vàn là cho con người, chứ không phải con người cho lao động. Nói cho cùng, mọi loại lao động của con người – dù tầm thường hay đơn điệu đến mấy đi nữa – cũng luôn luôn nhận cứu cánh của nó là chính con người (Laborem exercens 6).
Toàn bộ cơ cấu lao động phải vận hành xoay quanh chiếc trục bản lề là chính con người. Lao động là thực tại cao quí. Nhưng con người còn cao quí hơn muôn muôn triệu lần. Con người là thiêng thánh. Và tính thiêng thánh này không thể bị xúc phạm. Dứt khoát phải tôn trọng nhân vị con người trong mọi môi trường lao động.

Tính thiêng thánh ấy là gốc rễ từ đó bật ra tất cả các quyền đặc biệt của con người. Bất cứ cảnh vực lao động nào muốn tạo lập một môi trường đạo đức lành mạnh đều phải tôn trọng nhãn giới ấy về con người.
Thật vậy, chất lượng luân lý và đạo đức của một doanh nghiệp – và thường kể cả mức hiệu năng của doanh nghiệp ấy trên thị trường nữa – được đo lường chính nơi thái độ của doanh nghiệp này đối với con người.

Công nghệ, tư bản, lợi nhuận, và tất cả những gì góp phần đem lại sự thành công về tài chánh đều được trân trọng và tưởng thưởng theo mức độ mà chúng tôn trọng phẩm giá con người trong môi trường lao động. Chúng phải luôn luôn lệ thuộc con người – và con người phải luôn luôn chiếm được sự quan tâm hàng đầu tại mọi môi trường lao động.

24 THÁNG GIÊNG
Sống Để Làm Vic –
Hay Làm Việc Để Sng?

Con người được mời gọi trân trọng phẩm giá của mình trong công việc mình làm.

Đáng tiếc, rất nhiều hiện trạng lao động dường như đang phản nghịch lại mục tiêu quan trọng ấy. Tình trạng làm việc quá nặng, quá căng thẳng, quá chú trọng đến tính ganh đua hay sức sản xuất của người công nhân, và rất nhiều những khía cạnh cơ giới hóa khác … đều đang nhất tề ‘thọc gậy bánh xe’! Nhiều khi chúng đi đến mức biến công việc thành chủ của con người chứ không phải con người làm chủ công việc.

Nhiều người bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình sống để làm việc chứ không phải là làm việc để sống.
Có người đã đặt câu hỏi với tôi: Phải đối phó thế nào với tình hình như vậy? Rõ ràng vấn đề có liên hệ đến người lao động, đến gia đình của họ và điều kiện làm việc của họ. Tôi tin rằng – một cách căn bản – tôi có thể chỉ ra câu trả lời cho vấn đề. Đó chính là một tuyên bố rất hàm súc của Công Đồng Vatican II: “Điều quan trọng hệ tại ở chỗ con người là gì chứ không phải ở chỗ con người có gì” (MV 35). Một châm ngôn đệ nhất!

Người ta phải không ngừng tự tra xét mình để hiểu sự thực mình là ai. Mỗi người phải lặn sâu xuống đáy lòng mình để khám phá sự thực về hướng đích của mình trong lao động. Phải nhận ra những giới hạn của mình và cố vượt qua chúng càng nhiều càng tốt. Phải nhận ra những khả năng của mình và làm cho chúng sinh hoa trái phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Càng nhận hiểu sự thực về mình, chúng ta sẽ càng hiểu hơn mình phải làm gì để quân bình và hòa điệu các quyền và các bổn phận của chúng ta trong tư cách là những con người .

Làm người – đó phải là nền tảng để đánh giá cả những gì mình làm lẫn những gì mình có. Đó là điểm qui chiếu mà mọi hoạt động của chúng ta phải hướng về. Đó là cơ sở để bảo đảm mối thống nhất trong chính con người chúng ta. Mọi khía cạnh của con người phải hòa hợp chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, những trách nhiệm mà người công nhân đảm nhận ở sở làm phải giúp cho người ấy trưởng thành hơn trong đời sống gia đình cũng như trong sự đóng góp của đương sự đối với cộng đồng.

25 THÁNG GIÊNG
Gia Đình Và Lao Động –
Tìm Sự Cân Đối Thích Đáng

Tôi biết có nhiều doanh nghiệp được điều hành bởi các gia đình. Bổn phận nuôi dưỡng gia đình qua việc đáp ứng các nhu cầu nhân văn và xã hội của nó là một chủ đề thường xuyên được nhắc đến trong giáo huấn của Giáo Hội. Kể từ Đức Lê-ô XIII, ý niệm về lương bổng luôn luôn được gắn kết với tầm mức của gia đình người lao động – nhằm đáp ứng những đòi hỏi của công bằng. Cũng có thể nói tương tự như thế về bất cứ lãnh vực nào khác trong đời sống xã hội.

Trong Thông Điệp Laborem exercens, tôi đã nhấn mạnh đến điểm cốt lõi của mối tương quan giữa gia đình và lao động: “Gia đình vừa là một cộng đồng được tồn tại nhờ lao động vừa là trường dạy lao động tiên quyết cho mọi con người” ( Số 10). Cũng trong thông điệp ấy, tôi đã ghi nhận cảm thức ngày càng tăng về tính khẩn thiết của vai trò người mẹ. “Trong thời đại chúng ta, xã hội đang có một sự đánh giá lại đối với các công việc của người mẹ, về những vất vả của các bà mẹ, và về nhu cầu cần được yêu thương và được chăm sóc của trẻ em – để chúng có thể lớn lên trở thành những con người có ý thức trách nhiệm, những con người trưởng thành về đạo đức và quân bình về tâm lý” (Số 19).

Mối gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và lao động càng làm nổi bật lên sự thật rằng con người làm việc để sống. Sự mệt mỏi thể xác và tâm thần – xét như hệ quả của lao động – là một phần của chính sự sống. Và sự sống của con người thì thánh thiêng. Đức tin bảo với chúng ta rằng sự sống này là một món quà rất đỗi lớn lao của Thiên Chúa.

Chúng ta phải tuyệt đối trân trọng sự sống ngay từ lúc bắt đầu là bào thai trong lòng người mẹ cho tới cái chết tự nhiên. Mầm sống đầu tiên cũng thánh thiêng như hơi thở cuối cùng. Cả hai đều cần phải được kính trọng và chăm sóc hết mức.

26 THÁNG GIÊNG
Nạn Tht nghip – Mt Tai Ương Xã Hội

Con người luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây trước tình hình này?

Cần phải nhận ra rằng tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động) là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’ của mình.

Chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.

Trong công cuộc tìm kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.

27 THÁNG GIÊNG
Bảo V Quyn Li Người Lao Động
Trong Thời Đại T Động Hóa

Hiểu được giá trị trỗi vượt của con người trong môi trường lao động, chúng ta thấy rõ rằng con người không thể bị hy sinh để phục vụ cho hiệu năng của tự động hóa. Vâng, các môi trường lao động hiện đại phải hết sức lưu tâm để bảo vệ quyền làm việc của con người – bằng cách chỉ triển khai loại thay đổi này (tức tự động hóa) sau khi đã vạch kế hoạch kỹ lưỡng. Với thiện chí và với sự tiên lượng tốt, chúng ta có thể giúp cho nhiều người trong số những kẻ mất việc làm do sự thay đổi công nghệ được đào tạo lại và được tái thu dụng vào lực lượng lao động.

Trong tình hình như vậy, ý nghĩa đích thực của nhân vị và của phẩm giá con người phải là mối ưu tiên hàng đầu trong bất cứ trường hợp nào liên can đến sự thu dụng hay chuyển đổi chỗ làm của người lao động. Những người chủ việc phải cố gắng đứng ở vị trí bảo vệ quyền làm việc thích đáng cho mọi công nhân của mình. Tôi đặc biệt đề xuất điều này với các tổ chức công đoàn – là những tổ chức có bổn phận bênh vực quyền lợi của người công nhân. Các công đoàn không thể giới hạn tầm nhìn của mình nơi chỉ một loại công nhân nào đó, nhưng cần phải quan tâm đến phẩm giá của mọi người trong môi trường lao động.

28 THÁNG GIÊNG
Làm Việc Là Mt Quyn Căn Bn

Tầm mức toàn cầu của vấn đề lao động đang thúc bách chúng ta phải khẩn trương làm một cái gì đó. Không thể chần chừ thêm nữa. Đó là một trong những quan điểm của Thông Điệp Laborem exercens, cũng đồng nhịp với nhu cầu cần phải có những sự cộng tác quốc tế thông qua những hiệp ước và những bản thỏa thuận. “Căn bản của những hiệp ước này phải nhắm đến việc liệu sao cho có thêm việc làm cho người ta. Quyền làm việc là quyền căn bản của mọi người, và những người cùng làm việc như nhau phải được hưởng thù lao tương ứng với nhau. Phải liệu sao cho mức sống của người lao động trong mọi xã hội có thể bớt bộc lộ những sự chênh lệch khủng khiếp về mức lương bổng – là điều vốn bất công và thậm chí có thể châm ngòi cho những phản ứng bạo động” (Số 18). Vì thế, ở đây các nhà lãnh đạo quốc gia phải đứng trước một công cuộc có qui mô rất lớn.

Bản thân người lao động cũng có thể đóng góp vào công cuộc lớn lao này, bằng cách hiện diện trong những tổ chức quốc tế nơi mà họ có một tiếng nói đầy sức tác động, chẳng hạn Tổ Chức Lao Động Quốc Tế.
Trong phạm vi quốc gia mình, người lao động được kỳ vọng tác động vào công luận. Tại những nước dân chủ, điều đó có thể góp phần tạo ra những chính sách đặt nền tảng không phải trên sự phân biệt đối xử nhưng là trên cơ sở rằng người ta có quyền được nuôi sống chính mình và gia đình mình một cách thích đáng. Chúng ta phải nắm vững nhãn quan này về thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại, một nhãn quan đòi hỏi chúng ta phải vượt qua những sự chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia – về vấn đề việc làm và về tiềm lực kinh tế.

29 THÁNG GIÊNG
Làm Việc – Con Đường Nên Thánh

Trong đời sống, rõ ràng có một bậc thang các giá trị. Chúng ta đề cao lao động. Đúng. Chúng ta đề cao con người hơn, trong quan hệ với lao động. Điều này thậm chí càng đúng hơn. Nhưng con người cần một cái gì đó vượt quá chính mình. Con người cần cơm bánh hằng ngày, vâng, nhưng con người không sống duy chỉ nhờ vào cơm bánh.
Con người luôn luôn được nội tâm mình thôi thúc kiếm tìm một cái gì đó khác. Những kho báu giấu ẩn trong thâm sâu cõi lòng con người thật nhiều vô kể. Lương thức, mỹ cảm, lòng quảng đại, hoài niệm, hy vọng, thao thức về huyền nhiệm, cảm thức đạo đức và luân lý, khát vọng công lý, khát vọng tự do, khả năng liên đới và cộng tác … – tất cả những điều ấy tiềm ẩn trong sâu thẳm trái tim con người.

Càng vượt qua chính mình hơn, con người càng trở thành ‘người’ hơn. Đó chính là chân trời của những giá trị tâm linh. Những giá trị ấy vượt ngoài kinh nghiệm giác quan và tạo thành thế giới siêu nhiên.

Như vậy, những suy tư của tôi hôm nay lại trở về với cốt lõi của Tin Mừng lao động. Khi Giáo Hội sát cánh với người lao động và khi Giáo Hội nỗ lực thăng tiến phẩm giá của họ – không phân biệt chủng tộc, niềm tin, giai cấp – thì đấy là Giáo Hội đang thực thi sứ mạng được Đức Kitô trao phó cho mình. Đức Kitô đã và vẫn đang tiếp tục là đồng minh và là trạng sư vĩ đại nhất của con người. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta – như ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính – Người đã từ trời xuống thế để làm một con người ở giữa chúng ta.

Bất cứ ai tin vào Người sẽ tìm thấy ánh sáng soi dẫn mình tại mỗi bước quặt cuộc đời. Dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô, lao động là một con đường hoàn thiện nhân bản và là một tiếng gọi siêu nhiên. Đó là một con đường nên thánh.
Ngày nay, sau Công Đồng, người giáo dân Công Giáo chúng ta đạt được một bước trưởng thành hơn, và chiều kích tâm linh của lao động cũng được nhận thức nhiều hơn. Đó là một linh đạo phải được đào sâu thêm mãi qua việc nỗ lực xây dựng tình huynh đệ chân thành đích thực, và qua việc nỗ lực làm thấm nhập ơn bình an của Đức Kitô vào môi trường lao động.

30 THÁNG GIÊNG
Kỹ Thut: Đồng Minh Hay K Thù?

Kỹ thuật và những máy móc tinh xảo là những sản phẩm và là công cụ của lao động con người. Chủ thể thật sự của lao động vẫn là chính con người. Không bao giờ một công cụ lại có thể được nâng lên hàng chủ thể. Nó không thể được đặt trên người lao động hay người sử dụng nó – bởi vì nếu làm thế, trật tự của thực tại đã bị đảo lộn. Đó sẽ là điều không may. Phương tiện và cứu cánh của lao động đã bị xáo trộn!

Kinh nghiệm hiện đại cho thấy rằng sự áp dụng kỹ thuật – một khi không được hướng dẫn và được soi sáng bởi một trật tự đạo đức cao hơn – có thể trở thành một kẻ thù thay vì là một đồng minh của con người. Một ví dụ của điều này đó là khi sự tự động hóa trong công nghiệp hất cẳng con người, tước đi chỗ làm của nhiều người lao động. Một ví dụ khác: những trường hợp máy móc được đề cao và con người bị hạ xuống chỉ còn là một cái gì đó phục vụ cho máy móc (Laborem exercens 5).
Chúng ta được mời gọi làm chủ trái đất và làm chủ những sự thay đổi – chứ không phải phó mặc cho nó thống trị mình. Chỉ có thể làm chủ được như vậy nếu chúng ta vượt qua được sự đứt đoạn giữa đạo đức và kinh tế – chính sự đứt đoạn này đã làm cho những thành tựu ngoạn mục của thời hiện đại không thể phục vụ hoàn toàn cho thiện ích của con người.

31 THÁNG GIÊNG
Hợp Tác Và Liên Đới

Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem exercens 6).

Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.

Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.

Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).

Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).
Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.

Sưu Tầm