vũng_nước
02-05-2009, 06:36 AM
Bài Của Lm. Mai ÐứcVinh
Trích từ: http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html
"Đạo nào cũng giống nhau" là một câu nói rất quen nghe nơi người Á Châu, cách riêng giữa người Việt Nam và cách riêng nữa nơi những người ngoài Công giáo. Người ta nói với nhau khi câu chuyện chạm đến vấn đề tôn giáo, mà đặc biệt: khi một người được mời vào đạo Công giáo; hay khi người ta có con cháu, bạn hữu đi học giáo lý để gia nhập Giáo Hội. Nói như thế bởi vì trên 90% những người trưởng thành học đạo với tôi trong 15 năm qua đều đã nghe bà cô, bà bác hay anh chị em bạn rỉ tai: "Ðạo nào cũng giống nhau, đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ. Vậy thì cha mẹ theo đạo nào, con cháu theo đạo đó, tội gì phải vào đạo Công giáo. Ðã đi làm vất vả còn phải đi học giáo lý. Ðạo nào cũng giống nhau. Chỉ cần mình sống ngay lành là đẹp lòng Trời rồi."
Những người nói câu "đạo nào cũng giống nhau" thường là những người thành tâm, có niềm tín ngưỡng, muốn quý trọng hết mọi đạo. Họ nói câu này với con cháu, bạn bè như để cho một lời khuyên, một sự thông cảm, một ý kiến xây dựng, chứ không ngăn cản ai, không có ý phê bình chỉ trích tôn giáo nào. Ðối với họ đạo nào cũng tốt và cũng đáng kính trọng. Cách đây mấy năm, tại ga xe hỏa gần Paris, tôi gặp một ni cô, một bà Phật tử và một bà Công giáo tôi quen biết. Bà Công giáo nói với tôi "Con dẫn ni cô và bà này đi mua một 'pavillon' để làm Phật đường." Trong câu chuyện dài không đầy 10 phút, cả ba người đều lần lượt nói rất tự nhiên: "Ðạo nào cũng giống nhau cả cha ạ!."
Càng ngày tôi càng xác tín: đây là vấn đề rất quan trọng trong mục vụ giáo lý. Không một người tân tòng nào lại không được cắt nghĩa tường tận vấn đề này trước khi quyết định đón nhận đức tin Công Giáo. Và để chu toàn công việc mục vụ giáo lý này, tôi nghĩ những người có trách nhiệm dạy giáo lý cho người trưởng thành cần góp ý và trao đổi kinh nghiệm với nhau. Ðó chính là mục tiêu của những trang viết thô sơ này.
Chúng ta biết: một cách chung, về phạm vi tôn giáo, thế giới bao giờ cũng chia thành hai khối lớn: khối hữu thần và khối vô thần. Khối hữu thần lại chia làm hai, khối độc thần (Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo) và khối đa thần (Linh hồn giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo ...).
Riêng tại Việt Nam, về tôn giáo nổi bật hai khối:
1) Khối độc thần hay Thiên Chúa giáo (Hồi giáo, Kitô giáo tức Công giáo và Tin lành). Xét về số tín đồ, về sinh hoạt và ảnh hưởng xã hội, Công giáo mạnh hơn cả.
2) Khối đa thần hay Tam giáo (Lão giáo, Khổng giáo, Phật giáo). Vì khó phân biệt tín đồ của mỗi tôn giáo này, cho nên dù "số tín đồ Phật giáo thuần túy" hay đã "qui y tam bảo" không nhiều, cho đến nay Phật giáo vẫn "được coi" là quan trọng và đông đảo tín đồ hơn cả.
Nhận định trên cho phép chúng ta hạn định việc tìm hiểu câu "Ðạo nào cũng giống nhau, cũng dạy làm lành lánh dữ" vào việc so sánh Công giáo với Phật giáo trên ba điểm chính:
1) Người sáng lập đạo.
2) Niềm tin.
3) Sống đạo.
Chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: đối chiếu Ðức Kitô và Ðức Phật, câu nói "Ðạo nào cũng giống nhau" không đúng. Xét về "Niềm tin," câu vừa nói cũng không đúng. Vì căn bản của quan điểm về Thiên Chúa (Thượng Ðế quan), về con người (nhân sinh quan) và về vạn vật (vũ trụ quan) giữa Công giáo và Phật giáo thật khác nhau. Xét về "Sống đạo," câu nói trên kia không hoàn toàn đúng, bởi vì trong cách sống đạo giữa Công giáo và Phật giáo có nhiều điểm giống nhau về sự kiện nhưng lại rất khác nhau về ý nghĩa. Chúng ta trình bày tóm lược như sau:
I. Ðấng Sáng Lập Ðạo:
Ðiều phải nói ngay: So sánh Chúa Giêsu với Ðức Phật không có nghĩa là đặt Chúa Giêsu và Ðức Phật ngang hàng nhau. Nhưng chúng ta có thể theo ý kiến của Cha Romano Guardini trong cuốn Le Seigneur, ngài viết: "Il n'y a qu'un personnage qui pourrait donner l'idée de le rapprocher de Jésus, c'est Bouddha" (Chỉ có một nhân vật có thể gợi lên ý tưởng xích gần người lại với Chúa Giêsu, đó là Phật Thích Ca) 1 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Rồi cũng chính Cha Romano Guardini trong cuốn "L"Essence du Christianisme" quyết đáp: "Le Christ n'est pas au niveau du Bouddha, mais ne peut être que infiniment au-dessus" (Ðức Kitô không thể đồng hàng với Ðức Phật nhưng chỉ có thể vô cùng trổi vượt)2 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vậy chúng ta có thể nêu lên mấy điểm đối chiếu sau đây:
1. Chúa Giêsu:
a. Ngài là Thiên Chúa làm người:
"Ngôi Lời đã nhập thể và ở giữa loài người" (Galát 1,14); "Thiên Chúa đã sai con mình đến trần gian, mặc lấy thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta" (1Côrintô 8,3); "Ðồng bản tính với Thiên Chúa, song đã hạ mình nhận lấy thân phận tôi tớ và nên giống như phàm nhân" (Pl 2,7). "Ðiều chắc chắn là Chúa Giêsu từ trời đã đến trong trần gian (1Timôtê 1,15), và Ngài là người thật" (1Timôtê 2,5). "Chúng tôi tin chắc Ngài là Thiên Chúa thật" (1Galát 5,20)...
b. Chọn đạo là chọn chính Ngài:
Hay đúng hơn là chính Ngài chọn chúng ta (Galát 15,16), cho chúng ta kết hợp với Ngài như cành nho với thân nho (Galát 15,5-7), "như chi thể trong thân thể" (Rôma 12,5). Vì Ngài là đường đi, là sự sống và là chân lý (Galát 14,6) là sự sống vĩnh cửu (1Galát 5,20). Vậy chúng ta là những người mang chân lý của Chúa Kitô trong mình (2Côrintô 11,10), chúng ta phải bước đi trong Ðức Kitô, hãy ăn rễ trong Ngài (Cl 2,6), sống kết hợp với ngài (1Ts 5,10), để chúng ta ở trong Ngài và ngài ở trong chúng ta (Galát 14,20), để "chính Chúa Kitô sống trong chúng ta" (Mihi vivere Christus est) (Pl 1,21)...
c. Chính Ðức Kitô là người giải thoát và là cứu cánh sự giải thoát:
"Thiên Chúa đã sai tôi đến đem tin lành cho kẻ nghèo khó, an ủi kẻ buồn phiền, báo cho các tù nhân biết họ được tha, cho các người mù biết họ được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức biết họ được tự do" (Luca 4,18). Ta là đường (Galát 14,6) ai đi theo Ta, người đó sẽ không đi trong bóng tối (Galát 8,13); Ta là chân lý (Galát 14,6) và chân lý giải thoát anh em (Galát 8,32); Ta là sự sống (Galát 14,32) Ta đến để ban sự sống cho thế gian (Mát-thêu 20,28), để cho mọi người được sự sống (Galát 3,14-15), ai tin theo Ta người đó sẽ được sự sống muôn đời (Galát 3,15). Tóm lại, "Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta để chúng ta sống tự do" (Gl 5,1) Và ngoài Ngài, chẳng ai giải thoát chúng ta (Cv 4,12)...
2. Ðức Phật Thích Ca:
a. Ðức Phật chỉ là người trần, tu thân thành Ðại Giác (illuminé).
Như lời khẳng định của Cha Romano Guardini "En réalité, il ne se présente que comme le premier des illuminés" (Sự thật, Ðức Phật chỉ hiện thân như một người đại giác cao nhất) 3 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Giáo sư Walpola Rahula, trong cuốn "What The Bouddha Taught" (Những điều Ðức Phật đã dạy) viết: "Trong số những nhà sáng lập các tôn giáo, Ðức Phật (nếu có thể gọi Ngài là nhà sáng lập một tôn giáo theo nghĩa thông thường của danh từ) là vị Thầy độc nhất đã không tự xưng là gì khác hơn là một con người, hoàn toàn chỉ là một con người. Ngài lại là một con người tự nhận không được một thiên khải nào từ bất cứ một vị Thần linh hay một quyền năng nào khác" 4 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ban Hoằng Pháp, soạn giả của bộ "Phật Học Phổ Thông," ở mục "Ai khai sáng ra đạo Phật?," sau khi tóm tắt rõ ràng gia thế, danh xưng của Ðức Phật, đã viết: "Lúc nhỏ Ðức Phật có trí huệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên, nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ"5 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðàng khác trong chương nói về "Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật," Ban Hoằng Pháp xác định rõ rệt: ý nghĩa của việc "Thờ Phật" là để tỏ lòng tri ân đối với một người đã có ân đức lớn với nhân loại; Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một trong các Ðức Phật đáng ghi ân, và đáng thờ 6 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Trong cuốn "Ðại Thừa Phật Giáo tư tưởng luận," bác sĩ Kimura Taiken viết: "Phật giáo tuy lấy Ðức Phật làm trung tâm để thành lập, song nói theo Phật giáo, Ðức Phật -- dù là Phật lý tưởng chăng nữa -- không giống như một vị thần của các tôn giáo khác chủ trương, hoặc giống bất cứ vị thần thiên nhiên nào, mà chỉ được coi là do sức tu hành của một người đã đạt đến quả vụ Phật mà thôi" 7 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vì thế theo Toan Ánh, có những chuyện như "vừa sinh ra, Ðức Phật đã đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà thét 'Trên thì trời, dưới thì đất, duy có ta là đáng thờ nhất' (Thượng thiên hạ địa, độc ngã duy tôn) chỉ là chuyện hoang đường do các môn đồ thêu dệt ra" mà thôi 8 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
b. Chọn Ðạo Phật không phải là chọn Ðức Phật:
Ðức Phật là người sáng lập ra đạo Phật, nhưng con người của Ðức Phật, cá nhân Ðức Phật không đồng hóa với đạo Ngài dạy, nghĩa là Ngài không giữ một vai trò nào trong công việc giải thoát của người khác. Ðức Phật đã bày tỏ một con đường mà chính Ngài cũng đã theo, một con đường chung cho mọi người, trong đó có một cá nhân là Ðức Phật. Ðức Phật đem đến cho nhân loại một lối thoát, một lý thuyết, nhưng cá nhân Ngài ở ngoài lý thuyết đó, cũng như người mang thư không liên hệ gì đến bức thư mình mang 9 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Khi đã được giác ngộ rồi, Ðức Phật đi thuyết pháp và luôn dặn: "Những điều ta nói chẳng phải là chân lý." Lời dạy của bậc giác ngộ không phải là chân lý mà chỉ là phương tiện đi tới chân lý. Ðức Phật nói rõ: "Chân lý như mặt trăng, giáo lý ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho các ngươi thấy. Vậy đừng chấp nhầm ngón tay ta là mặt trăng"10 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
c. Ðức Phật không phải là người giải thoát và không phải là cứu cánh sự giải thoát:
Trong cuốn "Lịch sử triết học Ðông Phương III," giáo sư Nguyễn Ðăng Thục, có đoạn trích sau đây: "Phật không phải là người giải thoát cho người khác, nhưng Ngài dạy mọi người cách tự mình giải thoát cho mình cũng như Ngài đã làm lấy. Người ta tin theo lời truyền bá về chân lý của Ngài không phải vì chân lý ấy từ ở Ngài xuất ra mà bởi vì qua lời nói của Ngài một sự hiểu biết cá nhân của mình về những điều Ngài nói đã biểu lộ ra trong ánh sáng của chính tinh thần mình" (Oldenberg: Buddha) 11 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Nói cách khác để thực hiện việc giải thoát, Ðức Phật dạy "mỗi người hãy nương tựa nơi chính mình và không bao giờ tìm nơi nương tựa hay sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác, kể cả Ðức Phật." Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ võ mỗi người hãy tự tu tập và tìm sự giải thoát cho chính mình. Ngài nói "Các ngươi nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi." Nếu người ta có gọi Ðức Phật là một người "cứu thế" đi nữa, thì cũng chỉ có nghĩa là Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến sự giải thoát mà cứu cánh là Niết Bàn. Nhưng tự chúng ta, ta phải bước trên con đường ấy 12 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vậy, con đường giải thoát của mỗi người không phải là Ðức Phật, nhưng là Pháp và Luật mà Ðức Phật dạy. Ai muốn được giải thoát thì kiên thủ Pháp và Luật. Trước khi chứng nhập Niết Bàn, Ðức Phật đã nói với các đệ tử: "Ðừng than khóc rằng: Ðức đạo sư của chúng ta đã đi mất và chúng ta không có ai để tuân theo. Những gì Ta đã dạy, Pháp cùng với Luật, sẽ là đạo sư của các ngươi sau khi Ta vắng bóng. Nếu các ngươi tuân hành Pháp và Luật không hề gián đoạn, há chẳng khác Pháp thân của Ta vẫn còn ở đây mãi sao?" 13 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Có thể nói, tất cả Pháp và Luật của Ðức Phật dạy, thu gọn vào trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Banares về tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo đế. Tứ diệu đế là giáo lý căn bản của đạo Phật, chung cho cả Tiểu Thừa và Ðại Thừa. Muốn thấu triệt cõi đời là khổ, phải lắng nghe Ðức Phật dạy về Khổ đế. Muốn tìm kiếm nguyên nhân của khổ, hãy lắng nghe Ðức Phật trình bày chi tiết trong Tập đế. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn (cứu cánh của sự giải thoát), phải thực hiện những lời dạy của Phật trong Diệt đế. Muốn thực hiện Niết Bàn, phải có đủ phương tiện. Những phương tiện này, Ðức Phật đã cung cấp một cách đầy đủ trong Ðạo đế. Như vậy Ðức Phật đã làm đầy đủ bổn phận của kẻ dẫn đường, đã đặt vào tay chúng ta bản đồ chỉ dẫn đi tới Niết Bàn là cứu cánh của sự giải thoát toàn mãn 14 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Giáo sư Takakusu viết: "Trong tâm của người theo đạo Phật, Niết Bàn không chứa chấp một ý tưởng thần thánh hóa nào về Ðức Phật" 15 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều ấy có ý nói rằng Niết Bàn là cứu cánh của sự giải thoát chứ không phải Ðức Phật. Theo ý nghĩa nguyên thủy (Tiểu Thừa), Niết Bàn mang nghĩa tiêu cực là "hủy diệt," hủy diệt sinh tử, hủy diệt thế giới dục vọng. Theo kinh Ðại Bát Niết Bàn (Ðại Thừa), thì Niết Bàn mang nghĩa tích cực, là nơi Phật tồn tại trong hoan hỉ và an lạc, là sự giải thoát trọn vẹn, là lúc chúng ta trở về được cái thể Chân Như, trở thành thực sự Vô Ngã (không có bất biến), Vô Thường (không có trường tồn), là trạng thái thật sự của chúng ta và là trạng thái cuối cùng của Niết Bàn 16 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
II. Niềm Tin
1. Thượng Ðế quan:
a. Công giáo: Tin nhận một Thượng Ðế tối cao... Ngài tạo dựng mọi sự... Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất hữu hình và vô hình" (xem Sáng Thế Ký 1,1...; Ðnl 4, 39; 1V 8,60; Mác-cô 12,29; Mát-thêu 22,35; Luca 10,26)...
b. Phật giáo: Không tin nhận có Thượng Ðế tối cao, không tin nhận có Ðấng tạo dựng mọi loài... Giáo sư Kimura Taiken khẳng định: "Ðức Phật phủ nhận một Ðấng Tạo-vật-chủ, đã sáng tạo ra vũ truï"17 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ban Hoằng Pháp, trong cuốn Phật Giáo phổ thông, nói vắn gọn hơn: "Khác với các tôn giáo, Phật Giáo không tin có một Tạo-vật-chuû" 18 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Giáo sư Takakusu viết: "Ðạo Phật đứng hẳn ngoài các chủ trương nhất nguyên hay đa nguyên. Ðạo Phật là vô thần, cái đó khỏi phải nghi ngờ. Khi được hỏi về Nguyên nhân hay Nguyên lý tối sơ, Phật luôn luôn không nói" 19 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). "Vì thế Phật giáo không coi trọng ý niệm về Nguyên lý, Căn nhân, hay Nguyên nhân đệ nhất như ta thường thấy trong các hệ thống triết học khác. Ðương nhiên, một ngành triết học như thần học không phát triển trong Phật giáo. Ðừng mong có một thảo luận về thần học nơi một triết gia Phật giáo"20 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều đó dễ hiểu, bởi vì "Nói về Thượng Ðế chính là phải đề cập đến vấn đề siêu hình. Thế mà Ðức Phật bao giờ cũng tránh né vấn đề siêu hình. Ngài cho là chuyện vô ích. Kinh Phật thường lưỡng lự trước ba thái độ về các vấn đề siêu hình: Từ chối--Công nhận-- Không đề cập tới. Ðức Phật theo thái độ thứ ba là không đề cập tới. Ðó là một thái độ trung dung. Ðức Phật bảo: "Ðạo của tôi là Trung Ðạo, tránh cái quá khích, tôi không nói vật sống khác hay không khác với bản ngã trường tồn. Tôi chỉ dạy luật giải thoát, đau khổ của sinh diệt, sinh hành; hành là dục, dục là vô minh" 21 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Kết luận Phật Giáo không tin nhận có một Thiên Chúa, một Thượng Ðế hay một ông Trời tối cao, tự hữu, sáng tạo mọi loài. Do đó không có "Thượng Ðế quan" trong Phật giáo.
2. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan:
a. Công giáo: Tự đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ và mọi loài, và Công trình sáng tạo của Chúa đều tốt lành (Sáng Thế Ký 1,1 ...) Nhất là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa (Sáng Thế Ký 1,27), có nam có nữ (Mát-thêu 19,4). Vì thế Chúa là vua vũ trụ (Thánh Vịnh 48,8), là vua mọi loài thụ tạo (Thánh Vịnh 92,1). Ngài chăm sóc và nuôi sống mọi loài (Mát-thêu 6,24-34). Vì thế con người luôn ngước mắt về đấng Tạo Thành (Israel 17,7), mọi vật đều ca tụng Thiên Chúa (Thánh Vịnh 144,10), làm vinh danh Chúa (Thánh Vịnh 28, 1; Pl 2,11); Mọi vật thụ tạo đều đặt hi vọng nơi Thiên Chúa (Thánh Vịnh 24,5). Con người trông chờ ơn cứu độ (Thánh Vịnh 32,20), vì Chúa chính là phần rỗi của mỗi người (Thánh Vịnh 70,5), là Ðấng giải thoát của con người (Thánh Vịnh 39,18; 143,2)... Mọi người "trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau" (xem Kinh Tin Kính).
b. Phật giáo: Con người không do Chúa dựng nên, sống nhiều kiếp (luân hồi). Cứu cánh của con người là được giải thoát vào Niết Bàn tức trở về thể Chân Như.
Khi muốn nói về con người và vũ trụ bởi đâu mà có hay nguồn gốc con người và vũ trụ trong Phật giáo như thế nào, thì chúng ta phải ghi nhận ý kiến của giáo sư Takakusu: "Về vấn đề sáng thế luận hay vũ trụ luận thì Phật giáo không có lý thuyết dành riêng cho chúng. Phật Giáo không đề cập đến sự sáng thế hay sáng tạo nào. Vũ trụ không có điểm đồng tâm. Nó là một cộng đồng tạo tác của cả mọi loài. Hơn nữa mỗi chúng ta đều tự tác tự thọ. Phật giáo không tin tưởng các học thuyết cho rằng tất cả phát xuất từ một nguyên nhân, mà quả quyết rằng vạn hữu nhất định xuất hiện do nhiều nguyên nhân" 22 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Nói cách khác, "Phật giáo, khác với các tôn giáo khác, không tin có Tạo-vật-chủ. Ðối với Phật giáo, vũ trụ vạn hữu sinh ra không nhờ một Ðấng nào hay một phép nào ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỉ nhân quả tiếp nối nhau mà thành. Như thế đối với Phật giáo vũ trụ là vô thỉ, không có cái ban đầu. Mà đã vô thỉ thì làm gì có cái nguyên nhân đầu tiên?" 23 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Như trên, khi bàn về vũ trụ quan, Phật giáo không chấp nhận đặt câu hỏi: "Nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ là gì?" hay "Ai sáng tạo vũ trụ vạn vật?" Ðặt câu hỏi như vậy là sai lầm, phải đặt như thế này: "Thực tại của vũ trụ vạn hữu như thế nào? Phát nguyên từ thực tại, vũ trụ vạn hữu đã thành hình và biến chuyển bởi những nguyên nhân gì và như thế nào?"
Trả lời câu hỏi thứ nhất, Phật giáo có Thực Tướng Luận, tức là lý thuyết về thực thể của vũ trụ mà Phật giáo quen gọi là Thể Chân Như (Thể: trạng thái, Chân: cái thật, Như: cái không thay đổi). Trả lời câu hỏi thứ hai, Phật giáo có Duyên Khởi Luận, tức là năm lý thuyết nói về nguyên nhân phát sinh vũ trụ vạn hữu, trong đó có con người. Cả năm lý thuyết đều công nhận:
1. Chân Như là bản thể của vũ trụ vạn hữu.
2. Nguyên nhân làm sanh khởi vũ trụ vạn hữu là mê vọng hay vô minh.
3. Muốn giải thoát, phải trừ cho được mê vọng 24 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Tóm lại Phật giáo cho rằng vũ trụ vạn vật và con người có là do Thể Chân Như bị quấy động. Nói cách khác "Chân Như vì duyên với vô minh mà diêu động và làm phát sanh ra vũ trụ vạn hữu" 25 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Theo kinh điển nhà Phật, "Chân Như là một trạng thái bất biến, viên mãn, tròn đầy, trong sáng." Kinh Phật thường ví sự xuất hiện của vũ trụ, trong đó có con người như nước biển nổi sóng. Chân Như là nước biển yên lặng. Nước động thành sóng tức là thành vũ trụ, thành con người giả tưởng, biến hóa sinh diệt... Khi được hỏi tại sao thể Chân Như bị quấy động, Ðức Phật cho rằng "đó thuộc vấn đề siêu hình, không cần biết đến" 26 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều quan hệ là nhận sự kiện Thể Chân Như bị quấy động đó, rồi trở lại được với Thể Chân Như yên lặng trong sáng. Ai đạt tới tức là Như Lai. Người ta thường gọi Ðức Phật là Ðức Như Lai, nghĩa là người đã viên giác trở về với Thể Chân Như. Thể Chân Như đây là một trạng thái sống hoàn toàn trong Niết Bàn, chứ không phải là một ngôi vị, một Thượng Ðế.
Nếu hỏi "mỗi vật hữu hình được tổ hợp bởi những yếu tố nào?," Phật giáo trả lời: "Tất cả những sắc pháp hay vật hữu hình đều là một tổ hợp của bốn đại chủng (tứ đại), tức là bốn yếu tố hạt giống: đất (cứng), nước (ướt), lửa (ấm) và gió (động) (Thổ, thủy, hỏa, phong)." Nếu hỏi "mỗi nhân cách (người) hình thành như thế nào?", Phật giáo trả lời: "Mỗi nhân cách (người) hình thành do tổ hợp của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức" 27 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Mà vì được phát sinh ra do Thể Chân Như bị quấy động nên đời sống của con người và vạn vật là đau khổ: Sinh - Lão - Bệnh - Tử là khổ. Khế Kinh có câu "Ðời là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" 28 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Vì chủ trương vạn hữu, kể cả con người, là Vô Ngã, Vô Thường, nên Phật giáo không chấp nhận có một Ðấng Tối Cao hằng hữu, cũng như không chấp nhận "người ta có linh hồn bất tử (hay có Ngã Thường Hằng). Phật giáo nói rõ: "Một Atman hay một linh hồn, hay một ngã là điều không thể có, tin có linh hồn bất tử và Ngã Thường Hằng là sai lầm và điên rồ" 29 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Không chấp nhận linh hồn bất tử, Ngã Thường Hằng, nhưng Phật giáo lại dạy mọi vạn hữu đều tử sinh, sinh tử trong kiếp luân hồi. Ðức Phật đã dùng hình ảnh bánh xe quay tròn để diễn tả luân hồi: sanh tử, tử sanh không ngừng giống như bánh xe lăn. Thân xác con người (hay thân con thú) đều do tứ đại mà có là đất, nước, gió, lửa. Khi thân người chết, tứ đại lại trở về bản thể cũ rồi do cơ duyên tụ họp lại để thành thân người khác, súc khác, vật khác... cứ vậy mà luân hồi mãi. Con người không chỉ có thân xác mà còn có tinh thần (không nói là linh hồn) và tinh thần là tổ hợp bởi ngũ uẩn: thọ, tưởng, hành, thức, sắc (riêng sắc lại là tổ hợp của tứ đại). Khi người ta chết, Tinh thần cũng không bị tiêu diệt mà chỉ biến chuyển xoay vần mà thôi, nghĩa là cũng chịu kiếp luân hồi 30 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Kiếp luân hồi theo luật nhân quả. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp theo nhau, tương quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà có. Do đó, nếu kiếp này tạo nhân tốt thì kiếp sau sẽ có quả tốt, bằng kiếp này tạo nhân xấu thì kiếp sau sẽ có quả xấu. Phật giáo bảo: tùy theo nhân quả tốt hay xấu mà sau mỗi kiếp trong vòng luân hồi, một chúng sinh (vật, người) nhập vào một trong sáu cảnh giới (kiếp mới): địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, a-tu-la, loài người và cõi trời. Nhập vào cõi trời là cảnh giới cao nhất, nhưng vẫn chưa ra khỏi vòng luân hồi. Chúng sinh chỉ ra khỏi vòng luân hồi khi nhập vào một trong bốn cõi Thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Buddha được gọi là Phật vì Ngài đã nhập vào cõi Thánh cao nhất 31 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Trích từ: http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html
"Đạo nào cũng giống nhau" là một câu nói rất quen nghe nơi người Á Châu, cách riêng giữa người Việt Nam và cách riêng nữa nơi những người ngoài Công giáo. Người ta nói với nhau khi câu chuyện chạm đến vấn đề tôn giáo, mà đặc biệt: khi một người được mời vào đạo Công giáo; hay khi người ta có con cháu, bạn hữu đi học giáo lý để gia nhập Giáo Hội. Nói như thế bởi vì trên 90% những người trưởng thành học đạo với tôi trong 15 năm qua đều đã nghe bà cô, bà bác hay anh chị em bạn rỉ tai: "Ðạo nào cũng giống nhau, đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ. Vậy thì cha mẹ theo đạo nào, con cháu theo đạo đó, tội gì phải vào đạo Công giáo. Ðã đi làm vất vả còn phải đi học giáo lý. Ðạo nào cũng giống nhau. Chỉ cần mình sống ngay lành là đẹp lòng Trời rồi."
Những người nói câu "đạo nào cũng giống nhau" thường là những người thành tâm, có niềm tín ngưỡng, muốn quý trọng hết mọi đạo. Họ nói câu này với con cháu, bạn bè như để cho một lời khuyên, một sự thông cảm, một ý kiến xây dựng, chứ không ngăn cản ai, không có ý phê bình chỉ trích tôn giáo nào. Ðối với họ đạo nào cũng tốt và cũng đáng kính trọng. Cách đây mấy năm, tại ga xe hỏa gần Paris, tôi gặp một ni cô, một bà Phật tử và một bà Công giáo tôi quen biết. Bà Công giáo nói với tôi "Con dẫn ni cô và bà này đi mua một 'pavillon' để làm Phật đường." Trong câu chuyện dài không đầy 10 phút, cả ba người đều lần lượt nói rất tự nhiên: "Ðạo nào cũng giống nhau cả cha ạ!."
Càng ngày tôi càng xác tín: đây là vấn đề rất quan trọng trong mục vụ giáo lý. Không một người tân tòng nào lại không được cắt nghĩa tường tận vấn đề này trước khi quyết định đón nhận đức tin Công Giáo. Và để chu toàn công việc mục vụ giáo lý này, tôi nghĩ những người có trách nhiệm dạy giáo lý cho người trưởng thành cần góp ý và trao đổi kinh nghiệm với nhau. Ðó chính là mục tiêu của những trang viết thô sơ này.
Chúng ta biết: một cách chung, về phạm vi tôn giáo, thế giới bao giờ cũng chia thành hai khối lớn: khối hữu thần và khối vô thần. Khối hữu thần lại chia làm hai, khối độc thần (Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo) và khối đa thần (Linh hồn giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo ...).
Riêng tại Việt Nam, về tôn giáo nổi bật hai khối:
1) Khối độc thần hay Thiên Chúa giáo (Hồi giáo, Kitô giáo tức Công giáo và Tin lành). Xét về số tín đồ, về sinh hoạt và ảnh hưởng xã hội, Công giáo mạnh hơn cả.
2) Khối đa thần hay Tam giáo (Lão giáo, Khổng giáo, Phật giáo). Vì khó phân biệt tín đồ của mỗi tôn giáo này, cho nên dù "số tín đồ Phật giáo thuần túy" hay đã "qui y tam bảo" không nhiều, cho đến nay Phật giáo vẫn "được coi" là quan trọng và đông đảo tín đồ hơn cả.
Nhận định trên cho phép chúng ta hạn định việc tìm hiểu câu "Ðạo nào cũng giống nhau, cũng dạy làm lành lánh dữ" vào việc so sánh Công giáo với Phật giáo trên ba điểm chính:
1) Người sáng lập đạo.
2) Niềm tin.
3) Sống đạo.
Chúng ta có thể khẳng định ngay rằng: đối chiếu Ðức Kitô và Ðức Phật, câu nói "Ðạo nào cũng giống nhau" không đúng. Xét về "Niềm tin," câu vừa nói cũng không đúng. Vì căn bản của quan điểm về Thiên Chúa (Thượng Ðế quan), về con người (nhân sinh quan) và về vạn vật (vũ trụ quan) giữa Công giáo và Phật giáo thật khác nhau. Xét về "Sống đạo," câu nói trên kia không hoàn toàn đúng, bởi vì trong cách sống đạo giữa Công giáo và Phật giáo có nhiều điểm giống nhau về sự kiện nhưng lại rất khác nhau về ý nghĩa. Chúng ta trình bày tóm lược như sau:
I. Ðấng Sáng Lập Ðạo:
Ðiều phải nói ngay: So sánh Chúa Giêsu với Ðức Phật không có nghĩa là đặt Chúa Giêsu và Ðức Phật ngang hàng nhau. Nhưng chúng ta có thể theo ý kiến của Cha Romano Guardini trong cuốn Le Seigneur, ngài viết: "Il n'y a qu'un personnage qui pourrait donner l'idée de le rapprocher de Jésus, c'est Bouddha" (Chỉ có một nhân vật có thể gợi lên ý tưởng xích gần người lại với Chúa Giêsu, đó là Phật Thích Ca) 1 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Rồi cũng chính Cha Romano Guardini trong cuốn "L"Essence du Christianisme" quyết đáp: "Le Christ n'est pas au niveau du Bouddha, mais ne peut être que infiniment au-dessus" (Ðức Kitô không thể đồng hàng với Ðức Phật nhưng chỉ có thể vô cùng trổi vượt)2 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vậy chúng ta có thể nêu lên mấy điểm đối chiếu sau đây:
1. Chúa Giêsu:
a. Ngài là Thiên Chúa làm người:
"Ngôi Lời đã nhập thể và ở giữa loài người" (Galát 1,14); "Thiên Chúa đã sai con mình đến trần gian, mặc lấy thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta" (1Côrintô 8,3); "Ðồng bản tính với Thiên Chúa, song đã hạ mình nhận lấy thân phận tôi tớ và nên giống như phàm nhân" (Pl 2,7). "Ðiều chắc chắn là Chúa Giêsu từ trời đã đến trong trần gian (1Timôtê 1,15), và Ngài là người thật" (1Timôtê 2,5). "Chúng tôi tin chắc Ngài là Thiên Chúa thật" (1Galát 5,20)...
b. Chọn đạo là chọn chính Ngài:
Hay đúng hơn là chính Ngài chọn chúng ta (Galát 15,16), cho chúng ta kết hợp với Ngài như cành nho với thân nho (Galát 15,5-7), "như chi thể trong thân thể" (Rôma 12,5). Vì Ngài là đường đi, là sự sống và là chân lý (Galát 14,6) là sự sống vĩnh cửu (1Galát 5,20). Vậy chúng ta là những người mang chân lý của Chúa Kitô trong mình (2Côrintô 11,10), chúng ta phải bước đi trong Ðức Kitô, hãy ăn rễ trong Ngài (Cl 2,6), sống kết hợp với ngài (1Ts 5,10), để chúng ta ở trong Ngài và ngài ở trong chúng ta (Galát 14,20), để "chính Chúa Kitô sống trong chúng ta" (Mihi vivere Christus est) (Pl 1,21)...
c. Chính Ðức Kitô là người giải thoát và là cứu cánh sự giải thoát:
"Thiên Chúa đã sai tôi đến đem tin lành cho kẻ nghèo khó, an ủi kẻ buồn phiền, báo cho các tù nhân biết họ được tha, cho các người mù biết họ được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức biết họ được tự do" (Luca 4,18). Ta là đường (Galát 14,6) ai đi theo Ta, người đó sẽ không đi trong bóng tối (Galát 8,13); Ta là chân lý (Galát 14,6) và chân lý giải thoát anh em (Galát 8,32); Ta là sự sống (Galát 14,32) Ta đến để ban sự sống cho thế gian (Mát-thêu 20,28), để cho mọi người được sự sống (Galát 3,14-15), ai tin theo Ta người đó sẽ được sự sống muôn đời (Galát 3,15). Tóm lại, "Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta để chúng ta sống tự do" (Gl 5,1) Và ngoài Ngài, chẳng ai giải thoát chúng ta (Cv 4,12)...
2. Ðức Phật Thích Ca:
a. Ðức Phật chỉ là người trần, tu thân thành Ðại Giác (illuminé).
Như lời khẳng định của Cha Romano Guardini "En réalité, il ne se présente que comme le premier des illuminés" (Sự thật, Ðức Phật chỉ hiện thân như một người đại giác cao nhất) 3 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Giáo sư Walpola Rahula, trong cuốn "What The Bouddha Taught" (Những điều Ðức Phật đã dạy) viết: "Trong số những nhà sáng lập các tôn giáo, Ðức Phật (nếu có thể gọi Ngài là nhà sáng lập một tôn giáo theo nghĩa thông thường của danh từ) là vị Thầy độc nhất đã không tự xưng là gì khác hơn là một con người, hoàn toàn chỉ là một con người. Ngài lại là một con người tự nhận không được một thiên khải nào từ bất cứ một vị Thần linh hay một quyền năng nào khác" 4 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ban Hoằng Pháp, soạn giả của bộ "Phật Học Phổ Thông," ở mục "Ai khai sáng ra đạo Phật?," sau khi tóm tắt rõ ràng gia thế, danh xưng của Ðức Phật, đã viết: "Lúc nhỏ Ðức Phật có trí huệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên, nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ"5 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðàng khác trong chương nói về "Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật," Ban Hoằng Pháp xác định rõ rệt: ý nghĩa của việc "Thờ Phật" là để tỏ lòng tri ân đối với một người đã có ân đức lớn với nhân loại; Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một trong các Ðức Phật đáng ghi ân, và đáng thờ 6 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Trong cuốn "Ðại Thừa Phật Giáo tư tưởng luận," bác sĩ Kimura Taiken viết: "Phật giáo tuy lấy Ðức Phật làm trung tâm để thành lập, song nói theo Phật giáo, Ðức Phật -- dù là Phật lý tưởng chăng nữa -- không giống như một vị thần của các tôn giáo khác chủ trương, hoặc giống bất cứ vị thần thiên nhiên nào, mà chỉ được coi là do sức tu hành của một người đã đạt đến quả vụ Phật mà thôi" 7 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vì thế theo Toan Ánh, có những chuyện như "vừa sinh ra, Ðức Phật đã đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà thét 'Trên thì trời, dưới thì đất, duy có ta là đáng thờ nhất' (Thượng thiên hạ địa, độc ngã duy tôn) chỉ là chuyện hoang đường do các môn đồ thêu dệt ra" mà thôi 8 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
b. Chọn Ðạo Phật không phải là chọn Ðức Phật:
Ðức Phật là người sáng lập ra đạo Phật, nhưng con người của Ðức Phật, cá nhân Ðức Phật không đồng hóa với đạo Ngài dạy, nghĩa là Ngài không giữ một vai trò nào trong công việc giải thoát của người khác. Ðức Phật đã bày tỏ một con đường mà chính Ngài cũng đã theo, một con đường chung cho mọi người, trong đó có một cá nhân là Ðức Phật. Ðức Phật đem đến cho nhân loại một lối thoát, một lý thuyết, nhưng cá nhân Ngài ở ngoài lý thuyết đó, cũng như người mang thư không liên hệ gì đến bức thư mình mang 9 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Khi đã được giác ngộ rồi, Ðức Phật đi thuyết pháp và luôn dặn: "Những điều ta nói chẳng phải là chân lý." Lời dạy của bậc giác ngộ không phải là chân lý mà chỉ là phương tiện đi tới chân lý. Ðức Phật nói rõ: "Chân lý như mặt trăng, giáo lý ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho các ngươi thấy. Vậy đừng chấp nhầm ngón tay ta là mặt trăng"10 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
c. Ðức Phật không phải là người giải thoát và không phải là cứu cánh sự giải thoát:
Trong cuốn "Lịch sử triết học Ðông Phương III," giáo sư Nguyễn Ðăng Thục, có đoạn trích sau đây: "Phật không phải là người giải thoát cho người khác, nhưng Ngài dạy mọi người cách tự mình giải thoát cho mình cũng như Ngài đã làm lấy. Người ta tin theo lời truyền bá về chân lý của Ngài không phải vì chân lý ấy từ ở Ngài xuất ra mà bởi vì qua lời nói của Ngài một sự hiểu biết cá nhân của mình về những điều Ngài nói đã biểu lộ ra trong ánh sáng của chính tinh thần mình" (Oldenberg: Buddha) 11 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Nói cách khác để thực hiện việc giải thoát, Ðức Phật dạy "mỗi người hãy nương tựa nơi chính mình và không bao giờ tìm nơi nương tựa hay sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác, kể cả Ðức Phật." Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ võ mỗi người hãy tự tu tập và tìm sự giải thoát cho chính mình. Ngài nói "Các ngươi nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi." Nếu người ta có gọi Ðức Phật là một người "cứu thế" đi nữa, thì cũng chỉ có nghĩa là Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến sự giải thoát mà cứu cánh là Niết Bàn. Nhưng tự chúng ta, ta phải bước trên con đường ấy 12 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Vậy, con đường giải thoát của mỗi người không phải là Ðức Phật, nhưng là Pháp và Luật mà Ðức Phật dạy. Ai muốn được giải thoát thì kiên thủ Pháp và Luật. Trước khi chứng nhập Niết Bàn, Ðức Phật đã nói với các đệ tử: "Ðừng than khóc rằng: Ðức đạo sư của chúng ta đã đi mất và chúng ta không có ai để tuân theo. Những gì Ta đã dạy, Pháp cùng với Luật, sẽ là đạo sư của các ngươi sau khi Ta vắng bóng. Nếu các ngươi tuân hành Pháp và Luật không hề gián đoạn, há chẳng khác Pháp thân của Ta vẫn còn ở đây mãi sao?" 13 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Có thể nói, tất cả Pháp và Luật của Ðức Phật dạy, thu gọn vào trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Banares về tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo đế. Tứ diệu đế là giáo lý căn bản của đạo Phật, chung cho cả Tiểu Thừa và Ðại Thừa. Muốn thấu triệt cõi đời là khổ, phải lắng nghe Ðức Phật dạy về Khổ đế. Muốn tìm kiếm nguyên nhân của khổ, hãy lắng nghe Ðức Phật trình bày chi tiết trong Tập đế. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn (cứu cánh của sự giải thoát), phải thực hiện những lời dạy của Phật trong Diệt đế. Muốn thực hiện Niết Bàn, phải có đủ phương tiện. Những phương tiện này, Ðức Phật đã cung cấp một cách đầy đủ trong Ðạo đế. Như vậy Ðức Phật đã làm đầy đủ bổn phận của kẻ dẫn đường, đã đặt vào tay chúng ta bản đồ chỉ dẫn đi tới Niết Bàn là cứu cánh của sự giải thoát toàn mãn 14 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Giáo sư Takakusu viết: "Trong tâm của người theo đạo Phật, Niết Bàn không chứa chấp một ý tưởng thần thánh hóa nào về Ðức Phật" 15 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều ấy có ý nói rằng Niết Bàn là cứu cánh của sự giải thoát chứ không phải Ðức Phật. Theo ý nghĩa nguyên thủy (Tiểu Thừa), Niết Bàn mang nghĩa tiêu cực là "hủy diệt," hủy diệt sinh tử, hủy diệt thế giới dục vọng. Theo kinh Ðại Bát Niết Bàn (Ðại Thừa), thì Niết Bàn mang nghĩa tích cực, là nơi Phật tồn tại trong hoan hỉ và an lạc, là sự giải thoát trọn vẹn, là lúc chúng ta trở về được cái thể Chân Như, trở thành thực sự Vô Ngã (không có bất biến), Vô Thường (không có trường tồn), là trạng thái thật sự của chúng ta và là trạng thái cuối cùng của Niết Bàn 16 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
II. Niềm Tin
1. Thượng Ðế quan:
a. Công giáo: Tin nhận một Thượng Ðế tối cao... Ngài tạo dựng mọi sự... Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất hữu hình và vô hình" (xem Sáng Thế Ký 1,1...; Ðnl 4, 39; 1V 8,60; Mác-cô 12,29; Mát-thêu 22,35; Luca 10,26)...
b. Phật giáo: Không tin nhận có Thượng Ðế tối cao, không tin nhận có Ðấng tạo dựng mọi loài... Giáo sư Kimura Taiken khẳng định: "Ðức Phật phủ nhận một Ðấng Tạo-vật-chủ, đã sáng tạo ra vũ truï"17 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ban Hoằng Pháp, trong cuốn Phật Giáo phổ thông, nói vắn gọn hơn: "Khác với các tôn giáo, Phật Giáo không tin có một Tạo-vật-chuû" 18 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Giáo sư Takakusu viết: "Ðạo Phật đứng hẳn ngoài các chủ trương nhất nguyên hay đa nguyên. Ðạo Phật là vô thần, cái đó khỏi phải nghi ngờ. Khi được hỏi về Nguyên nhân hay Nguyên lý tối sơ, Phật luôn luôn không nói" 19 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). "Vì thế Phật giáo không coi trọng ý niệm về Nguyên lý, Căn nhân, hay Nguyên nhân đệ nhất như ta thường thấy trong các hệ thống triết học khác. Ðương nhiên, một ngành triết học như thần học không phát triển trong Phật giáo. Ðừng mong có một thảo luận về thần học nơi một triết gia Phật giáo"20 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều đó dễ hiểu, bởi vì "Nói về Thượng Ðế chính là phải đề cập đến vấn đề siêu hình. Thế mà Ðức Phật bao giờ cũng tránh né vấn đề siêu hình. Ngài cho là chuyện vô ích. Kinh Phật thường lưỡng lự trước ba thái độ về các vấn đề siêu hình: Từ chối--Công nhận-- Không đề cập tới. Ðức Phật theo thái độ thứ ba là không đề cập tới. Ðó là một thái độ trung dung. Ðức Phật bảo: "Ðạo của tôi là Trung Ðạo, tránh cái quá khích, tôi không nói vật sống khác hay không khác với bản ngã trường tồn. Tôi chỉ dạy luật giải thoát, đau khổ của sinh diệt, sinh hành; hành là dục, dục là vô minh" 21 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Kết luận Phật Giáo không tin nhận có một Thiên Chúa, một Thượng Ðế hay một ông Trời tối cao, tự hữu, sáng tạo mọi loài. Do đó không có "Thượng Ðế quan" trong Phật giáo.
2. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan:
a. Công giáo: Tự đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ và mọi loài, và Công trình sáng tạo của Chúa đều tốt lành (Sáng Thế Ký 1,1 ...) Nhất là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa (Sáng Thế Ký 1,27), có nam có nữ (Mát-thêu 19,4). Vì thế Chúa là vua vũ trụ (Thánh Vịnh 48,8), là vua mọi loài thụ tạo (Thánh Vịnh 92,1). Ngài chăm sóc và nuôi sống mọi loài (Mát-thêu 6,24-34). Vì thế con người luôn ngước mắt về đấng Tạo Thành (Israel 17,7), mọi vật đều ca tụng Thiên Chúa (Thánh Vịnh 144,10), làm vinh danh Chúa (Thánh Vịnh 28, 1; Pl 2,11); Mọi vật thụ tạo đều đặt hi vọng nơi Thiên Chúa (Thánh Vịnh 24,5). Con người trông chờ ơn cứu độ (Thánh Vịnh 32,20), vì Chúa chính là phần rỗi của mỗi người (Thánh Vịnh 70,5), là Ðấng giải thoát của con người (Thánh Vịnh 39,18; 143,2)... Mọi người "trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau" (xem Kinh Tin Kính).
b. Phật giáo: Con người không do Chúa dựng nên, sống nhiều kiếp (luân hồi). Cứu cánh của con người là được giải thoát vào Niết Bàn tức trở về thể Chân Như.
Khi muốn nói về con người và vũ trụ bởi đâu mà có hay nguồn gốc con người và vũ trụ trong Phật giáo như thế nào, thì chúng ta phải ghi nhận ý kiến của giáo sư Takakusu: "Về vấn đề sáng thế luận hay vũ trụ luận thì Phật giáo không có lý thuyết dành riêng cho chúng. Phật Giáo không đề cập đến sự sáng thế hay sáng tạo nào. Vũ trụ không có điểm đồng tâm. Nó là một cộng đồng tạo tác của cả mọi loài. Hơn nữa mỗi chúng ta đều tự tác tự thọ. Phật giáo không tin tưởng các học thuyết cho rằng tất cả phát xuất từ một nguyên nhân, mà quả quyết rằng vạn hữu nhất định xuất hiện do nhiều nguyên nhân" 22 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Nói cách khác, "Phật giáo, khác với các tôn giáo khác, không tin có Tạo-vật-chủ. Ðối với Phật giáo, vũ trụ vạn hữu sinh ra không nhờ một Ðấng nào hay một phép nào ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỉ nhân quả tiếp nối nhau mà thành. Như thế đối với Phật giáo vũ trụ là vô thỉ, không có cái ban đầu. Mà đã vô thỉ thì làm gì có cái nguyên nhân đầu tiên?" 23 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Như trên, khi bàn về vũ trụ quan, Phật giáo không chấp nhận đặt câu hỏi: "Nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ là gì?" hay "Ai sáng tạo vũ trụ vạn vật?" Ðặt câu hỏi như vậy là sai lầm, phải đặt như thế này: "Thực tại của vũ trụ vạn hữu như thế nào? Phát nguyên từ thực tại, vũ trụ vạn hữu đã thành hình và biến chuyển bởi những nguyên nhân gì và như thế nào?"
Trả lời câu hỏi thứ nhất, Phật giáo có Thực Tướng Luận, tức là lý thuyết về thực thể của vũ trụ mà Phật giáo quen gọi là Thể Chân Như (Thể: trạng thái, Chân: cái thật, Như: cái không thay đổi). Trả lời câu hỏi thứ hai, Phật giáo có Duyên Khởi Luận, tức là năm lý thuyết nói về nguyên nhân phát sinh vũ trụ vạn hữu, trong đó có con người. Cả năm lý thuyết đều công nhận:
1. Chân Như là bản thể của vũ trụ vạn hữu.
2. Nguyên nhân làm sanh khởi vũ trụ vạn hữu là mê vọng hay vô minh.
3. Muốn giải thoát, phải trừ cho được mê vọng 24 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Tóm lại Phật giáo cho rằng vũ trụ vạn vật và con người có là do Thể Chân Như bị quấy động. Nói cách khác "Chân Như vì duyên với vô minh mà diêu động và làm phát sanh ra vũ trụ vạn hữu" 25 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Theo kinh điển nhà Phật, "Chân Như là một trạng thái bất biến, viên mãn, tròn đầy, trong sáng." Kinh Phật thường ví sự xuất hiện của vũ trụ, trong đó có con người như nước biển nổi sóng. Chân Như là nước biển yên lặng. Nước động thành sóng tức là thành vũ trụ, thành con người giả tưởng, biến hóa sinh diệt... Khi được hỏi tại sao thể Chân Như bị quấy động, Ðức Phật cho rằng "đó thuộc vấn đề siêu hình, không cần biết đến" 26 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl). Ðiều quan hệ là nhận sự kiện Thể Chân Như bị quấy động đó, rồi trở lại được với Thể Chân Như yên lặng trong sáng. Ai đạt tới tức là Như Lai. Người ta thường gọi Ðức Phật là Ðức Như Lai, nghĩa là người đã viên giác trở về với Thể Chân Như. Thể Chân Như đây là một trạng thái sống hoàn toàn trong Niết Bàn, chứ không phải là một ngôi vị, một Thượng Ðế.
Nếu hỏi "mỗi vật hữu hình được tổ hợp bởi những yếu tố nào?," Phật giáo trả lời: "Tất cả những sắc pháp hay vật hữu hình đều là một tổ hợp của bốn đại chủng (tứ đại), tức là bốn yếu tố hạt giống: đất (cứng), nước (ướt), lửa (ấm) và gió (động) (Thổ, thủy, hỏa, phong)." Nếu hỏi "mỗi nhân cách (người) hình thành như thế nào?", Phật giáo trả lời: "Mỗi nhân cách (người) hình thành do tổ hợp của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức" 27 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Mà vì được phát sinh ra do Thể Chân Như bị quấy động nên đời sống của con người và vạn vật là đau khổ: Sinh - Lão - Bệnh - Tử là khổ. Khế Kinh có câu "Ðời là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" 28 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Vì chủ trương vạn hữu, kể cả con người, là Vô Ngã, Vô Thường, nên Phật giáo không chấp nhận có một Ðấng Tối Cao hằng hữu, cũng như không chấp nhận "người ta có linh hồn bất tử (hay có Ngã Thường Hằng). Phật giáo nói rõ: "Một Atman hay một linh hồn, hay một ngã là điều không thể có, tin có linh hồn bất tử và Ngã Thường Hằng là sai lầm và điên rồ" 29 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Không chấp nhận linh hồn bất tử, Ngã Thường Hằng, nhưng Phật giáo lại dạy mọi vạn hữu đều tử sinh, sinh tử trong kiếp luân hồi. Ðức Phật đã dùng hình ảnh bánh xe quay tròn để diễn tả luân hồi: sanh tử, tử sanh không ngừng giống như bánh xe lăn. Thân xác con người (hay thân con thú) đều do tứ đại mà có là đất, nước, gió, lửa. Khi thân người chết, tứ đại lại trở về bản thể cũ rồi do cơ duyên tụ họp lại để thành thân người khác, súc khác, vật khác... cứ vậy mà luân hồi mãi. Con người không chỉ có thân xác mà còn có tinh thần (không nói là linh hồn) và tinh thần là tổ hợp bởi ngũ uẩn: thọ, tưởng, hành, thức, sắc (riêng sắc lại là tổ hợp của tứ đại). Khi người ta chết, Tinh thần cũng không bị tiêu diệt mà chỉ biến chuyển xoay vần mà thôi, nghĩa là cũng chịu kiếp luân hồi 30 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).
Kiếp luân hồi theo luật nhân quả. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp theo nhau, tương quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà có. Do đó, nếu kiếp này tạo nhân tốt thì kiếp sau sẽ có quả tốt, bằng kiếp này tạo nhân xấu thì kiếp sau sẽ có quả xấu. Phật giáo bảo: tùy theo nhân quả tốt hay xấu mà sau mỗi kiếp trong vòng luân hồi, một chúng sinh (vật, người) nhập vào một trong sáu cảnh giới (kiếp mới): địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, a-tu-la, loài người và cõi trời. Nhập vào cõi trời là cảnh giới cao nhất, nhưng vẫn chưa ra khỏi vòng luân hồi. Chúng sinh chỉ ra khỏi vòng luân hồi khi nhập vào một trong bốn cõi Thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Buddha được gọi là Phật vì Ngài đã nhập vào cõi Thánh cao nhất 31 (http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/daonao.html#tl).