PDA

View Full Version : Có Ai Về Cát Minh (Trăng Thập Tự)



dvtung
04-08-2007, 07:38 AM
Trăng Thập Tự

Có ai về Cát Minh

Tuyển tậ̣p thơ Trăng Thập Tự̣
(1963-2004)
https://thanhcavietnam.info/HinhAnh-Logo/BiaTacPham/CoAiVeCatMinh-Bia.jpg


LỜ̀I TỰA

của Xuân Ly Băng

Từ Manila, qua lá thư đề ngày 25.01.2005, Trăng Thập Tự đã viết cho tôi, trong đó có một đoạn: “Những năm ở Tiểu chủng viện, con đã say mê thơ của cha, và cũng nhờ nhìn lên gương cha mà con đã theo đuổi tâm nguyện làm thơ cho Chúa. Do đó với lòng biết ơn con ước mong xin cha đề tựa cho tập thơ của con. Con hy vọng lời giới thiệu của cha sẽ cho thấy sự liên tục giữa các thế hệ văn học Công giáo Việt Nam, và cũng sẽ gợi hứng cho các anh chị em trẻ cầm bút ca ngợi Chúa”.

Lời thư của Trăng Thập Tự có quá cường điệu chăng? Nếu không, tôi chân thành cám ơn Trăng Thập Tự và xin cùng nhau cúi đầu tạ ơn Chúa. Riêng ý thứ hai của lá thư, tôi không biết mình có làm được gì – qua bài tựa – để gợi hứng cho anh chị em trẻ cầm bút ca ngợi Chúa. Dù sao đó cũng là một ý tưởng có tầm nhìn xa và rất xây dựng.

Trước khi đi vào thơ Trăng Thập Tự, xin góp một ít lời về thơ. Ngoài định nghĩa thông thường của khoa cử, còn có nhiều kiểu nói về thơ. Thơ là tiếng nói xé lòng của những tâm hồn đau khổ. Thơ là sự trào tràn chữ nghĩa trong những giờ phút điên loạn của trái tim và trí tuệ. Thơ là tiếng thì thầm trong tĩnh lặng của những giây phút xuất thần đối với các tâm hồn chiêm niệm. Thơ là tiếng hát giữa rừng khuya của một con họa mi cô đơn. Thơ là chắt lọc của tinh hoa, là ma lực của ngôn từ và hình ảnh, cực tả bản chất, chiều sâu, tức là cái linh hồn của vạn vật trong vũ trụ thiên nhiên. Nhưng thực ra, cái gì không phải thơ thì dễ nói, còn chính thơ là gì thì không dễ nói ra.

Xưa nay thơ có nhiều trường phái – hay nói đúng hơn, thơ có nhiều khuynh hướng – đại loại có thơ cổ phong, cổ điển, thơ cũ, thơ mới, thơ hiện thực, thơ siêu thực, thơ trừu tượng, anh hùng ca, thơ trữ tình lãng mạn… Vậy thế nào là tiếng thơ Trăng Thập Tự?

Trong bài dẫn nhập tuyển tập Có Ai Về Cát Minh, Trăng Thập Tự đã bộc bạch ý nghĩa bút danh của mình: “Trăng tượng trưng cho nghệ thuật, thập tự tượng trưng cho đời tu. Một bên tròn một bên vuông, tưởng chừng không sao hòa hợp được, thế nhưng khi Đức Giêsu gục đầu trên cây giá gỗ ấy thì quanh đầu Ngài tỏa ra một vòng hào quang...” Đặt Đức Kitô và cây thập giá của Ngài vào thơ, Trăng Thập Tự minh thị đã lấy Thánh Kinh làm nền tảng cho sáng tác của mình.

Về mặt văn chương, Thánh Kinh là một vườn thơ lấp lánh muôn vạn hào quang của những bài trần thuật, kí sự đầy ấn tượng và kịch tính, những trang sử huy hoàng, những bản anh hùng ca tráng lệ, những tứ thơ rất lạ lùng và những giai điệu trữ tình rất diễm tuyệt. Xưa nay trong những nền văn học chịu ảnh hưởng Kitô giáo, rất nhiều tác giả đã lấy Thánh Kinh làm đề tài sáng tác cho mọi bộ môn nghệ thuật, nhất là trong địa hạt văn chương.

Với thơ Trăng Thập Tự, Thượng Đế của Thánh Kinh đã biến thành bài ca, điệu nhạc, thành một bức họa toàn bích để phong phú hóa và thánh hóa cõi nhân sinh vốn đã đóng băng, cằn cỗi tẻ nhạt, trống vắng vì đôi mắt không biết trông lên.

“Tôi sẽ đọc Thượng Đế thành bài thơ cho em nghe

Phổ thành bài ca cho em hát

Viết thành điệu nhạc để em ngâm

Họa thành bức tranh cho em ngắm

Vì em là người

Đôi mắt trông lên.”

(Cho em Thượng đế)

Khao khát vô biên, thèm mong tuyệt đối, ước mơ một hạnh phúc vĩnh cửu, đó là khuynh hướng bẩm sinh và siêu thoát của mọi người, nhất là đối với văn nghệ sĩ, vốn có một trái tim bén nhạy hơn người. Thế giới khả giác không lấp nổi khát vọng vô biên của con người. Nếu con người chỉ biết hưởng thụ vật chất, đắm chìm trong bến mê, con người càng thấy mình cô đơn buồn chán và trống rỗng. Nỗi khát khao, mong nhớ thiết tha vô cùng ấy đối với một Quê Hương vĩnh hằng lại càng day dứt dày vò như tâm sự của vị thánh nhà thơ Tây Ban Nha thế kỷ XVI:

Người ẩn nơi nao, hỡi Người Yêu Dấu,

Mà bỏ em rên rỉ?

Như một con nai, Người trốn biệt,

Sau khi đã làm cho em bị thương,

Em chạy ra, gọi với theo Người, thì Người đã đi.

(Gioan Thánh Giá, Khúc linh ca)

Tuyển tập Có ai về Cát Minh, lấy ra từ mười một tập mỏng, nói chung được xếp theo thứ tự thời gian, làm thành một tuyển tập đa dạng có dáng dấp thần bí, mang sắc thái nhiều hoàn cảnh tâm tư và tâm trạng khác nhau, dọc theo hành trình của ơn gọi tu hành và biến chuyển của lịch sử Giáo Hội và dân tộc.

Tập mỏng đầu tiên, Hoa học trò, giữ lại những bài thơ đầu đời. Đất nước trải qua 20 năm bị chiến tranh tàn phá, chứng kiến hằng ngày cảnh bom đạn gây ra chết chóc đổ vỡ, tâm hồn con người đã biến thành nước mắt, đọng lại như một bản kinh sầu, kinh cầu cho quê hương. Lúc bấy giờ tác giả đã khẩn khoản cầu xin Đức Mẹ:

“Hỡi Nữ Vương của bình an chân thật,

Hỡi Nữ Vương nước Việt ngự trên trời!

Xin hãy ban hòa bình cho hiện tại,

Để khởi hành vào hạnh phúc tương lai.”

(Chào Nữ Vương)

“Chúng con trốn vào đâu cho khỏi thấy

Chuyện đau lòng trên lãnh thổ quê hương

Dù có đến miền then cài cửa đóng

Vẫn còn nghe bom đạn giết yêu thương.”

(Con đến đây)

Ghê tởm chiến tranh và khát mong hòa bình là hai cực của tâm tư nhân loại. Xa rồi gần, tán rồi tụ, đó là lối mòn của lịch sử.

Mười tập mỏng còn lại được viết khi cánh chim hòa bình về bay lượn trên bầu trời quê hương thống nhất:

Ta dung dăng dung dẻ

Đưa nhau về Thăng Long.

Chị thật là nhỏ bé,

Em vẫn còn lông bông.

(Dung dăng dung dẻ)

Người chị ấy là thánh Têrêxa, người nữ tu Cát Minh thế kỷ XIX bên trời Âu đã ôm ấp Hà Nội trong lòng.

Nhiều nhân vật Thánh Kinh đã được minh họa trong tác phẩm. Từ nguyên tổ Ađam, Evà, tổ phụ Abraham, các ngôn sứ, Đức Mẹ Maria…, tất cả đều quy hướng về Đức Giêsu Kitô là chóp đỉnh, là tâm điểm và trọng điểm của toàn bộ Thánh Kinh Cựu và Tân ước.

Là linh mục làm thơ, Trăng Thập Tự đã đưa Lời Chúa vào tác phẩm của mình, tình Chúa và tình người đan quyện vào nhau, hòa nhập vào nhau như tiếng đàn và dây đàn, cùng hát lên một bài hợp xướng. Hình ảnh Đức Kitô đậm đặc cũng như bàng bạc ở hơn một nửa số các bài thơ. Từ mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh, Nadarét, cho đến cảnh rao giảng, hóa bánh ra nhiều, bước đi trên mặt nước, biến hình trên núi Tabor, rồi dùng bữa tại gia đình Bêtania:

Xin đến ngàn năm còn bỡ ngỡ,

Ngàn năm ai hiểu được người ơi,

Thiên Chúa cao xanh tình nặng nợ

Yêu thương nhân loại tới muôn đời!

(Thượng đế 33 tuổi)

Những câu lục bát không sáo ngữ, rất nhẹ nhàng, dễ thương, rồi những bài thơ ngũ ngôn, thất ngôn, kể cả Đường luật, phá thể, rất chững chạc, trong đó tác giả đã ký thác đời mình cho Chúa Giêsu Kitô:

Lạc nhau giữa phố Sài Gòn,

Tìm Ngài con đạp đến mòn bánh xe.

Thương nhau thì dắt nhau về,

Chúa ơi nắng thế, lá me đâu rồi?

(Diễm Ca)

Và Đức Kitô ấy như thế nào? Trăng Thập Tự không trình bày những sự kiện về Đức Giêsu Kitô như được mô tả trong Thánh Kinh, nhưng tác giả thường nhập vai, sống một mình với Chúa để cảm nghiệm rồi sau đó ghi lại một vài nét rất riêng tư độc sáng và cũng rất độc đáo. Tỉ như trong 10 bài cùng đề tựa Ghetsêmani, Đức Kitô hấp hối 10 cách nhau :

Ôi Thiên Chúa, đêm nay Ngài khóc,

Đêm nay Ngài trằn trọc trong tôi.



Mình trăng tư lự đêm dài,

Mực sương giấy lá chép bài kinh khuya.

(Ghetsêmani 7)

Đời lãng quên con hết,

Chỉ còn riêng Cha thôi.

Con sức cùng, lực kiệt,

Cha ơi, Cha đâu rồi!

(Ghetsêmani 10)

Và cả những bài về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh cũng thế:

Khi con gọi Êli

Ta cũng quay đi

Con biết không con?

Cha đã trút linh hồn!

(Con biết không con)

Con trăng chết rũ bêu cành,

Sáng nay nó dậy hóa thành Vầng Dương.



Con trăng bùn lấp hôm qua,

Sáng nay em rước lên tòa lòng em.

(Người Bị Đóng Đinh)

Ngang qua những nét riêng tư ấy, tác giả giới thiệu Đức Kitô, Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa là Ngôi Lời Hằng Hữu:

Ta là không, ta là chưa,

Ngài vừa là có, lại vừa là xong.

(Vọng 2000)


++++++

Con người bị hạn chế trong không gian tưởng như vô cùng và trong thời gian miên viễn. Văn chương nghệ thuật và sản phẩm của tâm não con người, hình thành bởi hơi thở thần linh, là vóc dáng thu gọn của thiên nhiên vũ trụ.

Tiếng nói của thi ca dù to lớn đến đâu cũng chỉ là một tích tắc phù du, một chấm phẩy li ti trước bao la trời đất. Điều đáng nói là con người không bao giờ nên liều lĩnh phủ nhận thân phận nhỏ bé của mình trước Đấng là nghệ sĩ tuyệt tài, Đấng Vĩnh Hằng là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, Đấng sáng tạo toàn năng nắm trong tay vũ trụ, lịch sử và con người.

Làm sao nói hết và nói đúng về một tác phẩm tương đối nặng về lượng và không nhẹ về phẩm. Những nét chính yếu trên đây mới chỉ là một cái nhìn khái quát về vườn thơ Trăng Thập Tự.

Tiêu biểu cho một số khá nhiều những cây bút trẻ và tương đối trẻ, có khuynh hướng tôn giáo trong thi ca, Trăng Thập Tự đã cho hồn mình đi vào Thánh Kinh, thấm đậm linh đạo Cát Minh, cầu nguyện với lời Chúa, diễn tả sự vật và biểu hiện tâm tình qua lăng kính của Đức Tin. Với văn phong của một cây bút còn sung sức, tác giả Có ai về Cát Minh sẽ không thất vọng khi đưa Đức Tin vào văn hóa dân tộc.

Xuân Ly Băng

Thanh Xuân mùa mưa 2005

Nguồn: juanpesocd@yahoo.com
và từ: www.dunglac.net (http://www.dunglac.net)

dvtung
04-08-2007, 08:04 AM
TRĂNG TU VIỆN

Nàng trăng hỡi thôi đừng trêu ghẹo nữa

Kẻ tu hành xin khẩn khoản van lơn.

Để mặc tôi dù trọn kiếp cô đơn

Nàng trăng hỡi thôi đừng trêu ghẹo nữa.

Thôi bước đi đừng chờ bên song cửa

Để cho tôi cầu nguyện hỡi nàng trăng.

Đây phung hủi thân hình sắp tan rữa

Đến làm chi, đừng đến nữa nàng trăng.

Xin để yên tôi cầu nguyện ăn năn

Những phút sống lỡ lầm trong hiện tại.

Cầu Chúa Trời cho tôi với đi trăng

Và bước đi đừng nhìn trở lại.

Nếu nàng đến tìm thơ ca trọng đại

Thì đời tôi chưa có mộng thi nhân.

Nàng về đi, kìa nguyệt cầu xa ngái

Đêm khuya rồi đừng có đợi thi nhân.

Trăng Thập Tự - 1963

dvtung
04-08-2007, 08:08 AM
SAU PHÚT TÌM MÌNH


Lòng ta ơi, em giả vờ giỏi quá,

Nhìn em ngoan, ta cứ ngỡ thiên thần!

Chiều ngập ngừng em đứng đó ăn năn,

Dường thổn thức, dường u sầu úa lệ.

Ta nhẹ dạ, ngồi nghe em kể lể,

Xót thương em, ta an ủi vỗ về.

Đường thật dài con nắng kéo lê thê,

Chiều buốt lạnh, ta dìu em ủ dột.

Ta ngây thơ tin lời em thề thốt,

Nghĩ mừng em son sắt tấm băng trinh,

Nghĩ thương em ôm mãi mối chân tình,

Tha thiết quá cho cuộc đời ngộ nhận.

Em biết đó, lòng ơi, đường vô tận,

Thấy em buồn, ta sẽ chẳng vui đâu.

Ta thương em, ta chẳng muốn em sầu,

Khi Chúa hỏi, ta kiếm lời biện hộ.

Nhưng Evà, lòng ơi, em biết đó,

Ai trong ta có thể dối được Ngài!

Ta run lên nghe Thiên Chúa thở dài,

Cúi gầm mặt, đâu ngờ em phản trắc.

Ôi Evà, đường bỗng dài dằng dặc,

Em làm ta phiền muộn đến muôn đêm.

Lòng ơi lòng, sao ta dám tin em,

Khi em đã biết giả vờ thánh thiện!

Lòng ta ơi, thôi đi, đừng ngụy biện,

Mãi tìm mình sao gặp được Trời Cao!

Trăng Thập Tự - 1978

dvtung
04-08-2007, 08:28 AM
AĐAM

Tôi đã đi trên những miền trái đất,

Trái thơm non xinh như một thửa vườn.

Thửa linh hồn xinh xắn múi yêu thương,

Yêu biết mấy nên lòng tôi tự hỏi:

Tự thuở nào ôi Ađam người hỡi,

Người đã bắt đầu sự sống ra sao?

Ra khỏi vô minh, cõi sống bước vào,

Bước những bước đầu đời trên thế giới,

Thế người đã nghĩ gì trong não mới

Não non tươi rất bỡ ngỡ ngước nhìn?

Ngước lên màu xanh mà thấy xinh

Thấy cây lá thấy, đồng bằng mượt cỏ,

Mượt xanh trên sườn đồi đang rực rỡ

Rực non sông chào đón khách về đây.

Về trên thiên nhiên làm chủ đất này

Đất ướt đẵm ơn trời như vũ lộ.

Vũ trụ hân hoan không quên ngày đó

Ngày sinh của loài người, ôi Ađam.

A! Hãy trút cho tôi cặp mắt phàm

Mắt tục lụy thay bằng mắt nhìn thẳng.

Nhìn núi nhìn rừng nhìn hoa nhìn nắng

Nhìn chung quanh mà nghe rõ lời thầm.

Lời ru lá xanh, lời đá trầm ngâm,

Trầm mặc giữa tiếng chim ca rộn rã.

Rộn với tiếng muông rừng và thú lạ

Thú đùa vui âu yếm vuốt ve nhau.

Ve vuốt thơm hương mới với muôn màu

Muôn ánh sáng hòa theo muôn ý vị.

Ý muôn loài vừa thức trong một ý

Một người thôi - và người đã nghĩ gì?

Nghĩ gì trong khoảnh khắc tiên tri

Tiên tay tục mà sao người đã nói?

Đã gọi tên từng loài vang dội

Vang rừng sâu sa mạc biển khơi.

Biển vẫy vùng cá mú cũng lên chơi

Lên cả mây xa, người gọi mặt trời.

Mặt vũ trụ ghi vết người từ đấy

Từ giữa muôn loài, nhưng người có thấy.

Có linh thiêng nơi sự sống đầy tràn,

Đầy vô cùng cho thỏa mãn tâm can.

Tâm hồn sáng Dáng Hình Ai rõ nét,

Rõ mồn một hẳn người phải biết.

Phải say mê đắm đuối đến miệt mài

Miệt đời đời hương sắc không phai.

Đâu có phải là người không hiểu,

Không nhìn ra Dáng Hình Ai huyền diệu!

Thì Ađam, tại sao người ra đi?

Có phải một hôm trên suối xuân thì,

Người cúi xuống thấy bóng mình lồ lộ?

Bỗng tương tư chính mình như điếu đổ,

Và ra đi tìm kiếm ruổi rong?

Cho nhớ thương gây chết chóc trong lòng!

Người đã đếm từng loài thụ tạo,

Giữa đất đá, cỏ cây, chim muông đông đảo,

Không có chi là hình ảnh của người,

Nên người buồn, lòng day dứt khôn nguôi!

Ôi Ađam, ai đã bịt mắt người?

Ôi Ađam, sao vô tình buông xuôi?

Kiếm tìm chi bóng hình ta dễ mất?

Người quên rồi? Ta chỉ là bụi đất!

Tìm bụi trần, ta sẽ trở thành tro!

Người thấy chưa? Sông núi đã thẹn thò,

Cầm thú cũng hoang mang mà buồn bã.

Ôi người đã ôm trong tay tất cả,

Sao còn buông ra chạy tìm hư vô?

(Tôi trở về trên một cánh đồng khô,

Cũng trông thấy bóng mình dưới đất.

Bóng quá gần nên không sao đuổi bắt

Chỉ trừ khi gục xuống với đất đen).

Ôi Ađam, ngày người chỉ ngước lên,

Người đã thấy địa cầu là tiên cảnh.

Ánh sáng dệt màu non tươi lấp lánh,

Tình yêu thương nhuộm đẵm cả muôn loài.

Lòng chan hòa bình an như thiên thai,

Cả vũ trụ là một trời hòa điệu.

Thưa Ađam, thưa người tôi hiểu,

Thửa vườn xưa đang ở giữa lòng ta.

Địa đàng chưa vỗ cánh bay xa

Tôi hiểu thế và tôi nhìn để thấy.

Nhưng thưa người, phải chăng từ thuở ấy

Mắt tôi trong đã nhuộm lấy mùi phàm,

Nên địa cầu như lẩn khuất xa xăm?

Cần phải có một vì Ađam mới,

Đến mở cửa địa đàng cho nhân loại,

Mở cho tôi đôi mắt của muôn đời.


Trăng Thập Tự - Đà Lạt 03/11/1980

dvtung
04-08-2007, 08:32 AM
EVÀ

Thưa Mẹ, lớn rồi con mới biết,

Mới biết tình yêu là dễ thương.

Mới hay giữa tội đáng ghét

Còn có con người rất đáng thương.

Con biết giữa trời cao vực thẳm

Mất còn là kẽ tóc chân tơ.

Con biết để rồi tôn kính lắm

Ôi Evà, lòng Mẹ như thơ.

Khi quanh con những Evà còn trẻ

Dâng cao trái cấm rủ rê đời,

Con vội gọi thầm tên của Mẹ,

Để trong con dáng Mẹ sáng ngời.

Chao ôi khi mở mắt chào đời,

Nét Mẹ dịu dàng như đôi mươi!

Chúa đẩy Mẹ vào trong vũ trụ:

Cha con sung sướng mỉm môi cười.

Khi lòng con khẽ run lên nhẹ,

Muốn yếu mềm như cha con xưa,

Con vội cúi đầu thi lễ Mẹ,

Ôi Evà rất đáng tôn thờ.

Cám ơn Mẹ đã thành hy vọng,

Thơm mát trần gian như sớm mai.

Mẹ mở cửa đời dâng sự sống

Cho loài người bước tới tương lai.

Nhưng Mẹ cũng vô cùng yếu đuối,

Ôi Evà, ôi Mẹ rất gần!

Mẹ đã sinh con vào tội lỗi,

Cái chết đem về một chuỗi ăn năn!

Khi Mẹ lỡ xòe tay phủ nhận,

Là đưa tay chạm đến vô cùng.

Cõi vô cùng vẫn muôn đời tiếp cận

Với mỗi phút giây này phù dung.

Mẹ đã gần con trong tội lụy

Thì cũng gần con trong thứ tha.

Chúa không nỡ để người tàn tạ,

Ôi Evà, Evà, Evà.

Mẹ đã trở thành rất thánh thiện

Bởi đi qua sự chết tẩy trần.

Xin Mẹ nhận đây lòng con kính mến,

Mẫu thân ôi, tựa khối trăng ngần.

Xin hãy nằm yên và thở nhẹ,

Đất này đang mới, Mẹ nghe chăng?

Đây Đấng Trời cho, người hậu duệ,

Về lay Mẹ dậy giữa vườn trăng!

Trăng Thập Tự - 1980

dvtung
04-08-2007, 09:53 AM
CÔ DÂU MỚI

Tặng các chị Mến Thánh Giá Nha Trang

Ngày xưa ta thật trẻ,

Bây giờ còn trẻ hơn.

Tình vẫn thường như thế,

Nhất là Ngài với con.

Máu Ngài càng truyền sang,

Trái tim càng mới mẻ.

Hơi thở Ngài chạm khẽ,

Đủ thấy vui rộn ràng.

Trăng khi đầy khi khuyết,

Đời khi buồn khi vui.

Riêng tình Ngài rất tuyệt,

Cay đắng với ngọt bùi.

Nẻo đường yêu thập giá

Dốc hẹp và gai.

Con được bước bên Ngài,

Lòng nghe êm dịu quá.

Đây đèn thắp đã sẵn,

Dầu đầy ắp trong tim.

Đêm từng đêm thức trắng,

Đợi Ngài, im rất im.

Trăng Thập Tự - Đà Lạt, 03/08/1990

dvtung
04-08-2007, 09:57 AM
CON BIẾT KHÔNG CON?

Trăng sáng như vô tình

Nhìn ai đó cầu kinh

Kìa con Ta hấp hối

Giữa lúc Ta ẩn mình!

Con cúi xuống nguyện cầu

Hỏi này Chúa ở đâu?

Ta chính là tảng đá

Trên đó con gục đầu!

Trăng có biết không trăng?

Sao có thấy hay chăng?

Con Ta đang gục chết

Giữa tiếng thưa vâng!

Tất cả như tình cờ

Cành sương giọt hững hờ

Và tiếng giun dế nọ

Đêm nay con có ngờ?

Rằng đó là Ta!

Khi môi nhắp chén đắng

Mà nghe như có mặn

Hãy biết là

Có pha lệ của Ta!

Khi con gọi Êli

Ta cũng quay đi

Con biết không con?

Cha đã trút linh hồn!

Trăng Thập Tự - Đà Lạt, 05/08/1990

dvtung
04-08-2007, 10:02 AM
ĐỨC MẸ VIỆT BẮC

Từ đỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi nhìn núi rừng chập chùng mà thấy phất phới giữa đất trời tấm khăn voan và tà áo Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình.

Cuối đường trại bay con đã về tận đỉnh:

Hoàng Liên Sơn, núi Mẹ sen vàng,

Những ngọn nối liền làm vua trên các núi.

Mẹ tung cánh áo dịu dàng

Phủ khắp non sông.

Cơn bão bình yên,

Con về thánh địa Hoàng Liên

Đi qua Vĩnh Phú thương tiên nhớ rồng.

Cha xuôi về biển xuống đồng

Mẹ men ngược nước sông Hồng lên non.

Đứng đó thương con

Thương Abel tiền sử

Thương Tiết Liêu đậm tình hiếu tử

Thương người vác củi lên Môria

Thương đứa con lòng Mẹ đẻ ra

Đứa con đổ dòng máu đỏ.

Sáng nay con vô tình đứng đó

Leo bè nứa trôi sông

Rửa chân trong nước sông Hồng

Và thấy mình được sạch.

Mẹ đã mở tấm lòng trinh bạch

Mà sinh ra trăm họ trên đời

Trong hiến lễ thờ trời

Của người con hiếu thảo.

Việt Bắc ơi! Việt Bắc ơi!

Núi cao lên đến tận trời

Mây sà xuống ơn lành ấp ủ.

Ngợi ca bao giờ mới đủ

Đức Mẹ của núi rừng.

Dặm tàu đi sấm dệt kính mừng

Cùng với Mẹ hát bài cảm tạ.

Tiếng hát ngược sông Hồng xuyên Á,

Đem tin vui cho một nửa loài người.

Con muốn viết ngàn lời

Xây thành tượng đài kính Mẹ

Cho người người trẩy lễ hành hương.

Nắng gió thương thương

Đã dịu bớt niềm đau của Mẹ

Giữa những điệp trùng lặng lẽ

Một thời đẫm lệ mồ hôi

Và máu của anh em tôi

Đã chảy cho thêm đỏ sông Hồng.

Con tàu đi trôi nổi bềnh bồng

Con sâu đo cứ đòi đo lòng mẹ

Đo mãi không xong.

Đằng sau kia đường sắt song song

Bước chân đi đếm trên tà vẹt

Những nấc thang không bao giờ hết

Nấc yêu thương của cuộc sống mỗi ngày.

Những nấc thang rồi đây

Sẽ dẫn bước muôn dân về sông Hồng

Lội xuống dòng máu đỏ

Cung kính chắp tay

Nhận ơn trời tuôn đổ.

Maria, xin kính chào cửa ngõ

Của đất trời

Của cuộc đời

Châu Á

Và Việt Bắc thân yêu.

Trăng Thập Tự - Đường sắt Phố Lu, Yên Bái, 21/9/1990