PDA

View Full Version : NĂM LINH MỤC: 6 bài gợi ý suy tư - cầu nguyện



littlewave
18-06-2009, 05:04 PM
ĐI THEO THẦY GIÊSU TRONG THÁNH THẦN



Bài 1: NGƯƠI Ở ĐÂU?


Điểm nhắm: Nhìn lại chính mình. Mô tả con người mình hiện nay. Đặt con người mình trong viễn tượng cả hành trình cuộc đời – để thấy cần làm gì với chính mình.

1. Một minh hoạ: Đám này là đám nào?

- Giác ngộ - Thầy nói - có nghĩa là bất cứ lúc nào bạn cũng biết chính xác mình đang ở đâu. Một điều không hề dễ dàng!

Rồi Thầy kể về một ông bạn của Thầy tuy đã gần 90 tuổi nhưng rất được người ta mến mộ và mời mọc tham dự các đám tiệc của họ. Có lần, tại một buổi tiệc, có người hỏi ông ta tham dự bao nhiêu bữa tiệc nội trong buổi tối hôm ấy.

- Sáu đám! Ông ta vừa trả lời vừa dán chặt đôi mắt vào cuốn sổ tay.
- Cụ xem gì thế? Cụ kiểm tra thử sau đám này sẽ tới đám nào phải không?
- Không - ông trả lời - Tôi kiểm tra để xem đám này là đám nào.
(A. de Mello, Một Phút Tầm Phào)

Ông cụ phải mở sổ tay để kiểm tra xem đám tiệc mà ông đang dự là đám nào!

- Nghĩa là, có thể ông ăn uống rất tích cực, nói cười rất sôi nổi, hiện diện xem chừng rất năng động ở đó, song ông không biết ông đang ở đâu!

- Nghĩa là, thực ra, ý thức ông không đang ở đó: ý thức của ông về thực tại xung quanh, và ý thức của ông về chính mình.

- Nghĩa là, những gì gọi là ‘năng động’ nơi ông thực ra chỉ là những phản xạ có điều kiện, hoàn toàn máy móc.

- Nghĩa là, trông có vẻ ông ở đó mà kỳ thực ông không đang sống ở đó. Ông đang sống ở một chỗ nào khác, hoặc ông không đang sống chỗ nào cả.

- Cũng Cha de Mello, trong một tác phẩm khác, quyển Thức Tỉnh, mô tả những con người “không đang sống ở đó” là những “người chết.” Ngài nói: “Tôi đề cập đến tình trạng người ta đang mê ngủ, đang chết. Người chết đang điều khiển chính quyền, người chết đang điều khiển các công việc kinh doanh, người chết đang giáo dục những người khác...”

- Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một người Việt Nam được kể vào số các nhà linh đạo nổi tiếng nhất của thế giới hiện đại – và linh đạo của Nhất Hạnh chứa đựng trong chỉ một từ: “ý thức” (mindfulness: tình trạng hoàn toàn nhận thức được thực tại đang diễn ra, chính mình và xung quanh mình, nghĩa là tình trạng hoàn toàn sống ở đây và lúc này).

Xem thế, hình ảnh Ađam và Eva chui trong bụi tuy thật đáng tiếc nhưng không hẳn là quá tệ. Hai ông bà ý thức: ý thức về sự trần truồng của mình; và hai ông bà biết rõ mình đang ở đâu khi nghe Thiên Chúa hỏi: “Ngươi ở đâu?”

2. Ngươi ở đâu?

Đây là câu hỏi đầu tiên, một trong những câu hỏi lớn nhất qua mọi thời đại. Câu hỏi mà Thiên Chúa hỏi con người ở đầu Sách Sáng Thế (3,9). Ađam và Eva, sau khi bất tuân phục Thiên Chúa, đã chui vào trong bụi để lẩn tránh Ngài. Thiên Chúa đi dạo trong vườn, gọi con người và hỏi “Ngươi ở đâu?” Ađam thưa: “Con nghe tiếng Ngài, và con sợ hãi, vì con trần truồng.” Thiên Chúa hỏi: “Làm sao ngươi biết là ngươi trần truồng?”

Câu chuyện lạ lùng này trong trình thuật sáng tạo không chỉ là câu chuyện của Ađam và Eva. Đây thực sự là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Đây là một mạc khải cho biết chúng ta đang ở đâu. Vẫn câu hỏi “ngươi ở đâu?” ấy được đặt ra cho mỗi thế hệ, mỗi thời đại, mỗi người. Vào mọi khoảnh khắc trong đời mình, Thiên Chúa vẫn không ngừng hỏi chúng ta: “Ngươi ở đâu? Tại sao ngươi lẩn tránh?”

Tất cả những câu hỏi nền tảng nhất liên quan đến hạnh phúc của con người sẽ bật lên khi chúng ta bắt đầu tự hỏi mình câu hỏi cào cứa này: Tôi đang ở đâu? Tôi đang ở đâu trong liên hệ với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác? Đây chắc chắn là câu hỏi cốt thiết nhất của cuộc nhân sinh.

Cha Thomas Keating, dòng Xitô, cho thấy sự tương đồng nào đó giữa câu chuyện trên với một câu chuyện khác trong truyền thống Hồi giáo:

Ông thầy không thể vào nhà vì đã đánh mất chìa khoá cửa. Ông gập mình bò trên đám cỏ trước sân nhà, vạch từng bụi cỏ để tìm chiếc chìa khoá. Một nhóm đệ tử bước tới. Thấy cảnh tượng ấy, họ hỏi:

- Có chuyện gì vậy, thưa thầy?
- À, ta đang tìm chiếc chìa khoá, để vào nhà. Ông thầy đáp.
- Để chúng con giúp cùng tìm với thầy.
- Được lắm. Ông thầy gật đầu.

Thế là cả nhóm đệ tử sà xuống, bò lê trên đám cỏ, lùng sục từng centimét. Thầy trò cứ thế cặm cụi mò tìm, dưới cái nắng mỗi lúc một gay gắt hơn. Một đệ tử lên tiếng hỏi:

- Nè, thầy có nhớ chính xác thầy đã đánh mất chìa khoá ở chỗ nào không?
Ông thầy ngước lên, trả lời:
- Đương nhiên là ta nhớ chứ. Ta đã đánh mất nó ở trong nhà.
Cả đám đệ tử cùng trố mắt ngạc nhiên:
- Ủa, vậy sao thầy lại chúi mũi kiếm nó ở ngoài này?
- Vì ở đây sáng sủa, dễ tìm hơn.

Ông thầy ở đây sẽ được mô tả là: điên, khùng, ngốc, ngớ ngẩn...!

Tất cả chúng ta đều đã lạc mất chìa khoá vào nhà. Chúng ta không còn sống trong ngôi nhà của mình nữa. Chúng ta không kinh nghiệm Thiên Chúa ở trong mình. Chúng ta không ở trong sự thân mật với Thiên Chúa mà Ađam và Eva đã từng kinh nghiệm trong vườn Êđen, sự thân mật mà ông thầy trong câu chuyện trên kia từng kinh nghiệm trước khi ông đánh mất chìa khoá cửa. Ngôi nhà ấy tượng trưng cho hạnh phúc – và hạnh phúc là sự thân mật với Thiên Chúa, là kinh nghiệm về sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có kinh nghiệm này, mọi sự khác đều bế tắc. Có kinh nghiệm này, mọi sự đều được khai thông.

Đó là thân phận con người. Ta không biết đâu là nguồn hạnh phúc đích thực; hoặc giả có biết, ta cũng đã đánh mất chìa khoá để mở cánh cửa hạnh phúc ấy. Ta vô vọng kiếm tìm hạnh phúc nơi mà hạnh phúc chẳng thể được tìm thấy. Chìa khoá không rơi mất ngoài đám cỏ. Nó không rơi mất bên ngoài ta. Nó lạc mất đâu đó bên trong ta; và ta cần phải tìm kiếm nó bên trong chính mình.

Một cách để đặc tả thân phận con người, đó là: Ai cũng loay hoay kiếm tìm chìa khoá mà chẳng ai biết nó ở đâu. Thân phận con người, vì thế, vô cùng đớn đau. Và nếu bạn cần sự giúp đỡ trong khi bạn đang tìm chìa khoá ở nơi không hề có nó, thì sự giúp đỡ có đầy cho bạn đấy. Bởi vì mọi người cũng đang tìm nó ở nơi không hề có nó: Nơi sáng sủa hơn, vui thú hơn, an toàn hơn, có nhiều sự dễ chịu hơn, và có nhiều sự chấp nhận của người khác hơn. Người ta gắn bó với nhau trong cuộc kiếm tìm mà chẳng có dấu hiệu gì để hy vọng sẽ gặp được điều mình tìm kiếm.

Thân phận con người là thân phận lạc mất. Theo Augustinô, sự lạc mất đầu tiên ấy để lại 3 hậu quả là mê lầm, dục vọng và yếu nhược: (1) mê lầm: Ta không biết hạnh phúc nằm ở đâu; (2) dục vọng: Ta tìm hạnh phúc ở những nơi không thực sự có nó; và (3) yếu nhược: Hoặc giả ta nhận ra được đâu là nơi có hạnh phúc đích thực, thì ý chí của ta cũng quá yếu ớt và ta không đủ sức theo đuổi.

3. Tôi đang ở đâu?

Trong 3 chiều không gian và một chiều thời gian, thật không khó để xác định gần như chính xác tuyệt đối tôi đang ở đâu. Wikimapia hoặc Google Map có thể giúp chỉ ra chính xác tôi đang ở kinh tuyến và vĩ tuyến nào trên bề mặt địa cầu này.

Và câu trả lời ấy đúng cho tất cả mọi người đang có mặt với tôi ở đây.

Nhưng khi vấn đề đặt ra là tôi đang ở đâu trong quan hệ với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác, thì câu trả lời không thể “xài chung” được nữa. Mỗi người sẽ dừng lại, nhắm con mắt thể lý, mở con mắt tâm hồn ra, nhìn quanh, xác định những dấu mốc, để nhận ra chính xác mình đang ở đâu.

Một năm, một tháng, một tuần qua, tôi có những chuyển hoá nào? Tôi thêm kiến thức, thêm kỹ năng, thêm các mối quan hệ... và phải chăng tôi cũng thêm tin, yêu, tự do và hạnh phúc?

Đã có những thay đổi nào trong thói quen, trong tầm nhìn, trong đánh giá, trong cách phản ứng của tôi?

Thời gian đã giúp tôi trở nên phong phú hơn, hay tôi đã hoá ra nghèo nàn hơn?

Hệ trục tọa độ:

- Với Thiên Chúa: Đức Tin, Cậy, Mến của tôi? Đời sống cầu nguyện của tôi? Việc cử hành phụng vụ, bí tích? Chỗ đứng của Lời Chúa trong đời sống của tôi?

- Với chính mình: Tôi đã làm gì với thời gian của mình? Sức khoẻ của mình? Tiền bạc của mình? Các khả năng mà Thiên Chúa ban cho mình?

- Với người khác: Tôi có thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại? Tôi có chịu đựng và tha thứ ? Tôi có yêu thương? (cf. Cl 3,12-14)

Tóm lại, tôi đang ở đâu? Tôi đang ở trong bụi rậm nào khi Chúa đến gọi tôi lúc này? Sự thật nào nơi mình làm cho tôi thấy mình trần truồng và xấu hổ?

Ý thức trần truồng và sự xấu hổ, thật ra, không phải là cái gì quá tệ hại. Trái lại, đó là điều kiện cho sự chữa lành, sự cứu độ (salvation). Tôi thậm chí cần phải xin ơn cho được ý thức về sự trần truồng của mình, xin ơn cho được cảm thấy xấu hổ về sự trần truồng ấy – và xin ơn để chui ra đối diện với Chúa, để nhận trách nhiệm về tất cả sự thật của mình trước mặt Ngài, và để được Ngài nâng đỡ mà bắt đầu lại từ chính sự thật ấy.

Nhìn lui rồi nhìn tới – tôi cũng nên nhìn tới tương lai một chút (coi như một cách để chia trí!) Tôi dừng lại chiêm ngắm tấm bia mộ sẽ mang tên tôi: “Giuse Lê Công Đức, 1959 – 20..”

littlewave
20-06-2009, 09:38 AM
Bài 2: THẦY Ở ĐÂU? (Ga 1,38)

Điểm nhắm: Hỏi “Thầy ở đâu?” là một cách thăm dò tinh tế để điều tra cho một dấu hỏi căn bản hơn: “Thầy là ai?” Hai môn đệ đầu tiên đến chỗ của Thầy và ở lại với Thầy hôm ấy, như chính thức bắt đầu một hành trình khám phá Đức Giêsu sẽ còn tiếp tục mãi, không cùng. Đức Giêsu là một con người quá kỳ lạ. Không gì ngớ ngẩn cho bằng giả thiết rằng mình đã ‘nắm’ Ngài. Và, nhiều khi, thái độ lý tưởng là tháo gỡ hết mọi tiên kiến, mọi quan niệm có sẵn về Ngài – để tiếp xúc với Ngài như thể mới phút đầu gặp gỡ...

1. Nhân danh Đức Giêsu Kitô!!!

Bộ phim Jesus của đạo diễn Roger Young bắt đầu bằng một cảnh cực kỳ gây sốc nhưng cũng là một cảnh đầy lịch sử tính: Trên màn hình là một con người bị trói hai tay và bị treo hẫng trên giàn hoả thiêu; lửa được châm và bùng lên thiêu đốt người ấy, trong khi đó một vị (không rõ là giáo hoàng hay giám mục) với phẩm phục và mũ gậy đầy đủ, đứng bên cạnh dõng dạc tuyên bố:

“Nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Vâng, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ở trên trời, ta xử tử ngươi vì ngươi làm chứng điều sai trái, vì người tin những điều sai trái, vì ngươi nói những lời sai trái, và vì ngươi làm ố danh của Chúa Giêsu Kitô!”

Thật khó có gì mỉa mai hơn! Người xem phim bất chợt tự hỏi: Ai thực sự đang làm ố danh Đức Giêsu Kitô, kẻ bị thiêu sống hay là kẻ đang thiêu sống người khác? Không có gì dễ cho bằng nhân danh Đức Giêsu. Nhưng liệu khi nhân danh Ngài như vậy, ta đã thực sự hiểu về Ngài? Ở đây lộ ra một vấn đề căn bản nhất: Đức Giêsu bị hiểu lầm, hoặc thậm chí bị cố tình ép nặn cho vừa với cái khuôn suy nghĩ của người ta. Và ta đừng quên, đây là bi kịch trong Giáo Hội và do Giáo Hội, đã từng kéo dài trong một thời.

Mới đây, Linh mục Nguyễn Trọng Viễn, OP., có ra một quyển sách nhỏ mang tựa đề “Những Căn Bệnh Trầm Kha trong Đời Sống Đức Tin Công Giáo tại Việt Nam.” Tác giả liệt kê 5 căn bệnh trầm kha, gọi là 5 thứ ‘đạo’: đạo sinh hoạt, đạo hiếu kính, đạo thiêng liêng, đạo luân lý và đạo thực dụng. Các tên gọi này thoạt nghe không đến nỗi ‘vấn đề’ gì lắm, nhưng thực ra đó là những ‘đạo’ rất là có ‘vấn đề’, rất là xa lạ với đạo đích thật của Đức Giêsu – và do đó cũng rất xa lạ với chính Đức Giêsu! Sau đây là những dòng tác giả viết trong lời ngỏ:

“Tôi nghe kể: có một người kia, rất giàu có và có những 18 bà vợ. Mỗi bà vợ đều có cơ ngơi riêng, cuộc sống tương đối an nhàn. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được rửa tội...

Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!

Những nhận định kiểu như thế ta có thể thấy khá nhiều. Và nếu vậy, thì những người Công Giáo đạo gốc đã không được ‘hên’ như thế, vì họ phải biết đạo sớm, phải lo giữ đạo cả một cuộc đời mà không chắc có được lên thiên đàng hay không.

Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một gánh nặng phải mang vác để đổi lấy cuộc sống thiên đàng mai sau. Quả thật, nói chung, những cộng đoàn Kitô giáo vẫn chưa có mấy dấu hiệu khá lên về đời sống bác ái; tổ chức quản trị trong Giáo Hội ít biểu lộ một thái độ tôn trọng tín hữu, nhất là những người bé mọn; sinh hoạt trong Giáo Hội ít triển nở thành thái độ có tâm huyết với cuộc đời.

Trong nhân cách Kitô hữu, nói chung, chúng ta cũng ít thấy biểu lộ một sự trưởng thành và triển nở phong phú vì được làm con cái Chúa. Thái độ người Kitô hữu ít diễn tả được sự tự do của con cái Chúa, nhưng thường là một thái độ dúm dó, sợ hãi, nệ luật, lách luật, hình thức, và ấu trĩ...”

Rồi tác giả tự hỏi:

“Làm thế nào để người Kitô hữu có được sự gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu nhiều hơn, chứ không chỉ tham dự sinh hoạt tôn giáo? Làm thế nào để người Kitô hữu nhận ra một Đức Giêsu là Bạn và là người Anh, là Đấng có thể chia sẻ cả những tội lỗi yếu đuối của mình? Làm thế nào để người Kitô hữu tìm thấy niềm vui chân thật, chứ không phải chỉ còng lưng ‘đóng thuế’ cho một thế giới thiêng liêng nào đó? Làm thế nào để người Kitô hữu nhận được tình thương cứu độ của Đức Giêsu chứ không phải chỉ là nỗ lực luân lý nhằm tu sửa một cách khó nhọc? Làm thế nào để người Kitô hữu gặp gỡ được chính Chúa và được biến đổi chứ không phải chỉ xoay sở và thu gom những công phúc cho cá nhân? Làm thế nào để thái độ trung tín với một Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cũng chính là lời loan báo Tin Mừng như một giải pháp cho cuộc sống nhân sinh hôm nay?”

Chúng ta sẽ làm thế nào để trả lời những câu hỏi “làm thế nào” đó đây, nếu không phải trước hết là quay lại với Đức Giêsu Kitô, để hỏi “Thầy, Thầy ở đâu?” – để đến ở với Thầy và khám phá Thầy.

2. Quay lại với Đức Giêsu Kitô

Cha Joseph Girzone, 79 tuổi, dòng Cát Minh ở New York, là một tác giả Mỹ ‘best-selling.’ Ngài thành lập tổ chức Joshua Foundation, nhằm mục đích giúp cho người ta hiểu Đức Giêsu nhiều hơn. Khoảng hai chục quyển sách của ngài, bán rất chạy, đều viết về Đức Giêsu, thuộc nhiều thể loại. Trong quyển Chân Dung Đức Giêsu, ngài viết:

“Phải một thời gian lâu lắm tôi mới ý thức rằng còn có cái gì thiếu sót trong lối hành đạo của chúng ta, và điều này làm cho tôi rất ái ngại. Chúng ta ai cũng nhạy cảm đối với phong tục tập quán của Giáo Hội mình. Các giáo sĩ lo bảo vệ đức tin của tín đồ và lo sao cho họ trung thành với nhà thờ hay hội đường của mình. Điều này không có gì sai. Nhưng một ngày nọ tôi cảm thấy rằng chúng ta chỉ quan tâm đến Giáo Hội và nhà thờ của mình mà ít quan tâm đến điều Thiên Chúa muốn... (bản tiếng Việt, tr.3-4). Tôi cảm nghiệm rằng mặc dù chúng ta hăng say hoạt động cho Giáo Hội, nhưng điều Đức Giêsu muốn thì lại không phải là động lực của chúng ta. Đối với những người lãnh đạo trong Kitô giáo thì điều Đức Giêsu muốn phải đứng hàng đầu, nhưng Giáo Hội, thần học và giáo luật lại là động lực căn bản! Vì thế nhiều vị trong khi hành sự không quan tâm đến điều Đức Giêsu muốn (tr. 6). Khi đi giảng về đời sống và về điều Đức Giêsu dạy, tôi phải ngạc nhiên khi nghe dân chúng nói rằng họ chưa bao giờ nghe nói về đời sống của Đức Giêsu. Một linh mục rất thánh thiện mà tôi kính yêu từ lâu nói rằng ông rất đỗi ngạc nhiên vì làm sao tôi có thể nói về Đức Giêsu suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Khi tôi hỏi tại sao ông ngạc nhiên thì ông bảo rằng trong ĐCV không có dạy về Đức Giêsu. Người ta chỉ dạy Kitô học, Kinh Thánh, giáo luật và một số môn học khác, nhưng không ai dạy môn học về con người Giêsu, về điều Giêsu nghĩ và tầm nhìn của Ngài.

Tôi cũng gặp một chuyện tương tự khác. Một sinh viên muốn mời tôi đến chủng viện của anh để nói về Đức Giêsu. Tôi bảo anh nên dàn xếp với phân khoa gửi giấy mời cho tôi. Trong khi chờ đợi, tôi đề nghị anh yêu cầu một giáo sư thần học trong ban giáo sư để dạy về Đức Giêsu. Anh trả lời rằng anh và các sinh viên khác đã đề nghị với một giáo sư thần học nổi tiếng, nhưng ông ta trả lời rằng người ta thuê ông dạy thần học chứ không phải dạy về Đức Giêsu.” (tr. 7-8).

Với quyển “Giôsua, Dụ Ngôn Cho Thời Nay,” Cha J. Girzone đã viết một tiểu thuyết hẳn hoi, trong đó ngài cho Đức Giêsu xuất hiện trở lại trong thế giới hiện đại, và Giêsu hiện đại này đã gây nhiều bất ngờ, đồng thời cũng gặp nhiều phiền phức, thậm chí do chính Giáo Hội!

Thế đấy, Đức Giêsu là một nhân vật kỳ lạ!

3. Đức Giêsu được mô tả thế nào trong các sách Tin Mừng?

Đức Giêsu là một nhân vật kỳ lạ. Và nói theo ngôn ngữ của Cha Albert Nolan, dòng Đa Minh, thì Đức Giêsu là một con người bị đánh giá thấp quá. Bị đánh giá thấp không chỉ bởi những con người chỉ nhận thấy nơi Ngài một bậc thầy tôn giáo, mà còn cả bởi những con người quá nhấn mạnh thần tính của Ngài, khiến Ngài không còn là một con người với đầy đủ nhân tính nữa. Khi người ta để Đức Giêsu tự nói về thân thế, khi người ta thử tìm hiểu Ngài với một đầu óc không định kiến, trong khung cảnh của thời đại Ngài đang sống, thì người ta sẽ nhận thấy một cái gì lộ rõ lên, đó là hình ảnh của một người có tư cách độc lập phi thường, có đức tính dũng cảm tuyệt vời, có thái độ trung thực vô song, một con người mà không ai giải thích nổi bản lĩnh. Tước đoạt nhân tính ở một con người như thế, tức là tước đoạt mất sự cao cả của Ngài.

Chúng ta khó hình dung được Đức Giêsu đã là một con người như thế nào mà khác tất cả những nhân vật có trước cũng như các người đồng thời cách triệt để đến thế. Tri thức to lớn của giới ký lục đã không làm cho người nao núng. Ngài không ngần ngại tách xa khỏi họ, mặc dù họ xem ra rất thông thạo hơn Ngài về các chi tiết lề luật và về cách giải thích lề luật theo cổ truyền. Đối với Ngài không có một truyền thống nào quá thiêng liêng đến không thể làm ngược lại, không có điều gì chắc chắn căn bản đến không thể biến đổi được.

Nhưng Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu không đối lập với thiên hạ vì đầu óc chống báng hay vì muốn bộc lộ sự bực bội sâu sắc đối với mọi người. Suốt cả cuộc đời, Ngài đã để lại cho chúng ta ấn tượng về một con người dám nói dám làm theo những quan niệm của mình, một con người độc lập đối với mọi người.

Nơi Đức Giêsu, không hề có một dấu vết sợ hãi. Không sợ gây gương xấu, không sợ mất tiếng tốt, không sợ ngay cả mất mạng sống của mình. Tất cả những con người tôn giáo, ngay cả Gioan Tẩy Giả, đều sửng sốt khi thấy Ngài hoà mình với những người tội lỗi, khi thấy Ngài vui thích bầu bạn với họ, khi thấy Ngài tự do đối với lề luật, khi thấy Ngài có vẻ như chẳng quan tâm mấy đến sự nghiêm trọng của tội lỗi, và khi thấy Ngài tương giao với Thiên Chúa một cách thật thoải mái. Đức Giêsu đã sớm tự chuốc lấy điều mà chúng ta có thể gọi là tiếng xấu: “Một kẻ háu ăn và nghiện rượu.” Chính Ngài đã thuật lại lời đàm tiếu ấy có pha một chút dí dỏm (Mt 11,16-19). Nói theo cách suy diễn, sự thân cận với những người tội lỗi khiến thiên hạ liệt Ngài vào hạng người tội lỗi (Mt 11,19; Ga 9,24). Và vào một thời mà sự đánh bạn với một phụ nữ không họ hàng gì với mình chỉ gây nên ngờ vực, dị nghị, thì việc Ngài giao thiệp với đàn bà, trong đó có những người mãi dâm, đã đủ làm cho Ngài mất hết danh giá (Lc 7,39; Ga 4,27). Đức Giêsu đã chẳng cần làm gì cả và chẳng cần thoả hiệp với ai để giữ lấy dù chỉ là một chút danh giá trước mắt người đời. Ngài đã không tìm kiếm sự tán thành, dù của “người lớn nhất trong số những kẻ được đàn bà sinh ra” – tức là Gioan Tẩy Giả.

Theo Máccô (rồi Mt và Lc cũng thế), thì cho đến cả những kẻ thù của Đức Giêsu cũng phải công nhận Ngài là một người ngay thật, chẳng sợ ai: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là một người chân thật và Thầy không sợ bất cứ ai; Thầy không quan tâm đến địa vị xã hội, nhưng Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa theo sự thật” (Mc 12,14).

Mặc dù họ nói thế để gài một cái bẫy, nhưng câu nói ấy cũng cho chúng ta ý niệm về ấn tượng mà Đức Giêsu đã in sâu vào tâm trí dân chúng. Gia đình có lần nghĩ Ngài là kẻ mất trí (Mt 3,21). Những người Pharisêu thì bảo Ngài là một kẻ bị quỉ ám (Mc 3,22). Họ tố cáo Ngài là một kẻ say rượu, một kẻ tham ăn, một kẻ tội lỗi, một kẻ phạm sự thánh, nhưng không ai có thể cho Ngài là một kẻ gian dối hay giả hình, không ai có thể trách rằng Ngài sợ những gì thiên hạ có thể nói về Ngài, hoặc sợ những gì người ta có thể làm để chống lại Ngài.

4. Đề nghị vài hướng để khám phá Đức Giêsu

-Theo bạn, đâu là điểm khác biệt căn bản giữa Đức Giêsu và các vị sáng lập các tôn giáo như Đức Phật, Mahomet, Khổng Tử, Lão Tử? Các vị ấy có thể dạy yêu thương, nhưng các vị ấy có khẳng định tình yêu của mình đối với các tín đồ và đòi các tín đồ yêu mình không? Bạn hãy hình dung tâm trạng của Đức Giêsu khi Ngài nói “Này là mình Thầy... / Này là máu Thầy...”, khi Ngài quì xuống rửa chân cho các môn đệ, hay khi Ngài nói những lời này: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).

-Bạn có thể thử nhắm mắt lại, ‘nhìn’ Chúa Giêsu, và hỏi Ngài “Thầy ở đâu?” một cách nóng bỏng, mới tinh, một cách đầy đủ tính thời sự không?

-Bạn cho rằng Kitô hữu là người có Đức Kitô, người mang Đức Kitô hay là người không ngừng khám phá Đức Kitô?

-Mahatma Gandhi, một người Ấn giáo, đã ‘mê’ Đức Giêsu trong các Sách Tin Mừng. Còn chúng ta, đọc Tin Mừng hoài, nhưng chưa chắc đã say mê Ngài như ông ấy. Bạn nghĩ trong việc khám phá Đức Giêsu thì đâu là điểm thuận lợi của Mahatma Gandhi so với nhiều Kitô hữu chúng ta? Nhưng Gandhi đã không bao giờ trở thành Kitô hữu... Bạn thử giải thích trường hợp này. [Liên hệ đến câu chuyện Gandhi bị từ chối, không cho phép bước vào một nhà thờ để tham dự Thánh Lễ - vì đó là ‘chỗ của người da trắng’, còn Gandhi lại là một người da đen.]

-Bạn hãy tưởng tượng Đức Giêsu đến làm người lần nữa, lần này Ngài sinh ra và lớn lên tại Việt Nam... Và bạn đi tìm gặp Ngài, thì nhiều khả năng bạn sẽ gặp Ngài đang làm gì, ở đâu? Bạn sẽ thấy Ngài yêu gì, ghét gì? Gặp rắc rối với những ai? Được thông cảm và ủng hộ bởi những ai?

-Hoặc bạn hình dung kiểu khác: Nếu kê ra danh sách 10 người hay 5 người được biết đến nhiều của thế giới trong 100 năm hay 50 năm trở lại đây, và đó là những người giống với Đức Giêsu như được trình bày trong các Sách Tin Mừng nhất – bạn sẽ đưa những tên tuổi nào vào danh sách? Tại sao?