PDA

View Full Version : Linh mục và các mối tương quan



littlewave
13-12-2007, 07:34 PM
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÚC MẮC VÀ NAN GIẢI VỀ CÁC MỐI TƯƠNG QUAN CỦA CÁC LINH MỤC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÁC VỤ MỤC VỤ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA HỌ

Tác giả : Giám mục Vianney Fernando

Ủy ban về giáo sĩ thuộc Liên Hiệp các Hội Đồng Giám mục Á châu đã tổ chức Hội Nghị Các Giám Mục về “CHĂM SÓC CÁC LINH MỤC, ĐẶC BIỆT CHO NHỮNG LINH MỤC ĐANG GẶP KHÓ KHĂN”, tại Trung Tâm Dòng Chúa Cứu Thế, Pattaya - Thái Lan, từ ngày 27/8-1/9/2007, qui tụ 74 tham dự viên gồm 1 hồng y, 69 Tổng Giám mục và Giám mục, và 5 chuyên viên. Hội Nghị đã thảo luận xoay quanh các chủ đề liên quan đến trách nhiệm của Giám mục Giáo phận đối với hàng giáo sĩ, như bản đúc kết của Hội Nghị ghi nhận: “Các giám mục suy tư về vai trò mục tử của mình trong Giáo hội, sự quan tâm đến toàn giáo phận, ngoài ra diễn tả tình yêu đặc biệt dành cho linh mục, là những cộng tác viên thân cận nhất trong sứ vụ. Nhu cầu đặc biệt của thời đại chúng ta là việc thường huấn liên tục để sứ vụ của linh mục có thể đáp ứng cách tương xứng với các nhu cầu của nhân loại”. Được sự đồng ý cho dịch và phổ biến của Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương, Chủ tịch UB Giáo sĩ-Chủng sinh, NGUUỒN VUI xin giới thiệu đến độc giả bản dịch một trong những bài thuyết trình có giá trị tại Hội Nghị nêu trên của Đức cha Vianney Fernando.

DẪN NHẬP

Nhiều năm trước đây, lúc đó tôi còn làm Tổng Đại Diện, vị giám mục tiền nhiệm của tôi nhận được thư giới thiệu của một cha Giám Tỉnh, xin cho một tu sĩ trẻ từ Hội Dòng của ngài được chuyển sang ơn gọi làm linh mục giáo phận. Lá thư của cha Giám Tỉnh nói rằng tu sĩ này là một người có tài năng, nhưng Hội Dòng xét thấy thầy này không có tính cộng đoàn, nghĩa là thầy không thể thích ứng được với bất kỳ cộng đoàn nào mà thầy được gởi tới. Nhưng Cha Giám Tỉnh khẳng định trong thư rằng thầy này có thể sẽ là một linh mục giáo phận tốt, bởi vì thầy sẽ không phải sống đời cộng đoàn.

Đức Cha tiền nhiệm của tôi, một người rất đạo đức tốt lành, không nhận thấy lập luận đó là sai lầm, nên đã chấp nhận tu sĩ đó vào Giáo phận và rồi sau cho thụ phong linh mục. Vị tiền nhiệm tội nghiệp của tôi đã phải trả giá cho sai lầm đó của mình. Bắt đầu từ lúc vị linh mục trẻ lãnh “bài sai”, là bắt đầu xảy ra thảm hoạ, vì cha này đã không thể giao tiếp lâu dài với bất kỳ ai và đã đụng chạm với mọi người.

“Chức linh mục tự bản chất có tính cộng đoàn. Do đó, việc linh mục có khả năng giao tiếp với những người khác là điều có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là điều tuyệt đối cần thiết đối với một người được kêu gọi để lãnh trách nhiệm về một cộng đoàn và để làm một con người của sự hiệp thông” (Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, 1992).

Chủ đề của tôi cho buổi thảo luận này là “Những vấn đề khúc mắc và nan giải về các mối tương quan của các linh mục có ảnh hưởng đến tác vụ mục vụ và đời sống của họ”.

Theo kinh nghiệm 24 năm làm giám mục, tôi thấy rằng phần lớn thời giờ và năng lực của một Giám mục được sử dụng để giải quyết những vấn đề nan giải về các mối tương quan của các Linh mục của ngài – hoặc với Giám mục, hoặc giữa họ với nhau, hoặc với dân chúng, và không ít lần với các tu sĩ làm việc trong giáo xứ.

Tôi muốn bắt đầu suy tư của tôi bằng việc phác hoạ một số chuyện khúc mắc có thật về các mối tương quan, tuy các danh tính nêu lên ở đây đã được hư cấu hoá.

PHÁC HOẠ

1. Cha Cliff là một linh mục thông minh đã nỗ lực hết sức để theo đuổi việc học vấn. Cha rất có năng lực và làm việc rất có phương pháp. Cha có nhiều ý tưởng rất độc đáo. Cha tin Giáo Hội phải là của người nghèo, cho người nghèo và với người nghèo. Cha có những quan điểm rất mạnh mẽ về các vấn đề xã hội dựa trên sự hiểu biết của cha. Tuy nhiên cha có một nét rất rõ ràng là không chấp nhận những quan điểm khác của các thành viên khác trong linh mục đoàn. Trong khi cha hoạt động rất tích cực trong cánh đồng mục vụ, cha hay phê bình mọi người khác, đặc biệt là các anh em linh mục của cha. Đối với cha, trong tương quan giữa cha với những người khác, chỉ có “trắng” và “đen”. Cha quên một điều này, là người khác không phải hoàn toàn sai cũng như không phải hoàn toàn đúng. Cha chẳng có một ý niệm nào rằng con người là một pha trộn phức tạp giữa xấu và tốt, có những khía cạnh đáng yêu nhưng cũng có những khía cạnh không thể chấp nhận.

Vì những thái độ và quan điểm này, cha Cliff trở nên bất khoan dung với phần đông các linh mục đồng nghiệp. Bất cứ ai không chấp nhận quan điểm của cha, đặc biệt về những vấn đề xã hội và giáo hội, đều bị loại khỏi đời sống và mọi tương quan của cha. Dần dần, cha bị cô lập. Cha rất khổ tâm vì vị thế bị cô lập của mình và cảm thấy là mình không thể giao tiếp với phần lớn các linh mục. Cha trở nên dễ cáu kỉnh và điều đó ảnh hưởng đến mối tương quan của cha với đàn chiên. Cha soạn bài giảng rất kỹ nhưng thường có khuynh hướng phê bình quyền bính và những người không đồng ý với cha. Vì vậy, tuy là một linh mục thông thái, dấn thân, có phương pháp, nhiệt tình, nhưng kết cuộc là cha không hạnh phúc chút nào, vì những mối tương quan của cha đã bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng bởi những thái độ và quan điểm cứng nhắc của cha.

(Đây có lẽ là một điển hình cho loại người có nhiều thành tích trong những năm được đào tạo về tri thức và thần học. Tuy nhiên sự thiếu quân bình giữa cảm xúc và trí tuệ đã để lại một lỗ hổng trong các mối tương quan nhân bản. Người đó để cho các cảm xúc thống trị các hành vi và thái độ của mình. Người đó không sử dụng những khả năng trí tuệ mình có để điều khiển đời sống và tác vụ của mình. Rõ ràng là nếu biết cải thiện các mối tương quan của mình thì người ấy sẽ là một kho tàng cho bất kỳ cộng đoàn nào.)

2. Cha Jim là một người vui tính. Tuy nhiên, cha giao tiếp với các linh mục chỉ bằng mặt. Cha có chương trình riêng của cha và có khả năng ngụy trang con người thật của mình bằng cách tỏ vẻ rất thân thiện. Nhưng có vẻ như không ai có thể thăm dò được con người thật của cha. Cha lúc nào cũng bận rộn nhưng không dành ưu tiên cho những trách nhiệm mục vụ. Cha luôn hiếu động nhưng không hẳn là dấn thân về mục vụ cho giáo xứ của cha. Dân chúng khó có thể gặp cha vì cha không giữ hẹn. Ngay cả đối với những nhu cầu mục vụ bình thường, các tín hữu phải cố gắng nhiều lần mới gặp được cha.

Cha Jim lấy làm ngạc nhiên khi người ta chỉ cho cha thấy những nhược điểm này. Cha xác quyết là cha làm việc rất hệ thống. Cha rất đòi hỏi khi gặp những người nghèo và những người bên lề xã hội, mặc dù chính cha lại không giữ nguyên tắc khắt khe mà cha đòi hỏi nơi đàn chiên. Cha không tỏ ra là một người yêu thương, chăm sóc trong những tương quan mục vụ của cha. Khi nghe những lời phàn nàn, cha lại càng bất bao dung hơn và có khuynh hướng trả đũa những người phàn nàn. Phản ứng của cha là tỏ ra rất cục cằn với họ.

Mặc cho nhiều lần được nhắc nhở, cha vẫn tiếp tục đối chọi với đàn chiên trong những trách nhiệm mục vụ của mình.

Trong khi ai cũng thấy sự thiếu sót trách nhiệm mục vụ gây nguy hại này, thì cha vẫn không hề nhận ra thực trạng của mình. Có lẽ điều này có thể nhận thấy được qua việc người tín hữu không ngừng phàn nàn rằng bài giảng của cha phần lớn là kể ra những lỗi lầm của họ và thường chêm vào những lời nói bóng gió gây tổn thương cho họ. Cha Jim là nguyên nhân gây suy sụp cho bất kỳ cộng đoàn giáo xứ nào, và là cái gai bên sườn cho mọi giám mục giáo phận.

(Thiếu hồi tâm hình như là nguyên nhân chính gây ra các vấn đề nan giải về các mối tương quan của cha Jim. Chúng ta có thể ghi nhận là có một lỗ hổng nghiêm trọng rất rõ trong động cơ và sự dấn thân mục vụ của cha. Những lãnh vực này đã không được lưu ý đến trong những năm đào tạo. Không có gì tệ hơn việc phải làm việc với một linh mục không chấp nhận những giới hạn của mình và do đó, không chịu thay đổi. Rốt cuộc sứ vụ mất chất lượng và các tín hữu phải chịu đau khổ.)

3. Cha Young là một linh mục sáng giá, một tự điển bách khoa sống. Cha chu toàn nhiệm vụ học tập rất chu đáo. Cha có một vành đai các linh mục ngưỡng mộ những thành quả học vấn của cha. Tuy nhiên, cha rất dị ứng với mọi quyền bính, bắt đầu là Đức Giám mục. Không nhất thiết là bản thân Đức Giám mục. Cha không thể chịu được bất kỳ người nào có quyền bính. Cha dị ứng mạnh mẽ với quyền bính, điều đó khiến công việc của cha không sinh hiệu quả. Thái độ tiêu cực của cha trong vấn đề này ảnh hưởng tai hại cho các cha trẻ trong linh mục đoàn đang ngưỡng mộ kiến thức học vấn và sự đóng góp của cha. Ngay cả trong lãnh vực chuyên môn của cha, cha cũng không cộng tác đầy đủ vào bất cứ dự án nào cần đến sự giúp đỡ của cha nếu như dự án đó phát xuất từ những người có quyền bính.

(Cha Young có thể là nạn nhân của những hoàn cảnh trong những năm cha còn ở tuổi đang lớn. Thái độ dị ứng với quyền bính của cha có lẽ có gốc rễ là lúc còn nhỏ, cha đã sống với một người cha độc đoán quá đỗi nghiêm khắc với cha. Như vậy, cha đã bị tổn thương nặng về phương diện tâm lý, và mặc dầu cha đã đạt được nhiều tiến bộ về tri thức, nhưng những vết thương lòng của cha vẫn chưa được chữa trị, và việc đào tạo nhân bản cho cha xưa kia đã là thiếu sót và nó đã không giúp cha vượt thắng chiều kích cảm xúc này. Do đó thay vì tác vụ của cha mang lại nhiều hiệu quả rất giá trị, thì lại bị hạn chế vì cha không có khả năng có mối tương quan với các bề trên của cha một cách trưởng thành và vô tư.)

4. Cha Michael là một linh mục có trí thông minh trung bình. Nói chung cha là một mục tử khá tốt. Cha không có nhiều sáng kiến lắm trong việc mục vụ. Cha khá chậm không dám mạnh dạn khởi đầu các công việc mục vụ. Trong tác vụ linh mục, cha đúng là loại người chỉ biết “kinh sách lễ lạc”. Cha Michael thuộc loại người khép kín, có rất ít bạn bè trong linh mục đoàn. Cha có khuynh hướng rất dễ nản lòng khi gặp thất bại hoặc thử thách. Trong những trường hợp như thế cha không ngần ngại xin thuyên chuyển đi nơi khác. Nhưng khi khủng hoảng qua rồi thì cha lại xin hoãn thuyên chuyển, dĩ nhiên điều đó gây nhiều khó khăn cho Giám mục.

Cha cũng gặp khó khăn trong tương quan với cộng đoàn dòng nữ trong giáo xứ. Chỉ cần một hiểu lầm nhỏ liên quan đến một vấn đề mục vụ, cha cũng không ngần ngại cắt đứt mọi tương quan với các nữ tu đang tích cực hoạt động tông đồ. Khi cha đến dâng lễ tại các điểm truyền giáo có các nữ tu đang làm việc, cha từ chối “đồng bàn” với họ, đến độ ngay cả một tách trà của nhà dòng cha cũng từ chối. Cha còn vội vàng quyết định cấm các nữ tu làm các công tác mục vụ thông thường. Thậm chí cha Michael còn dùng cả tòa giảng để kể tội các nữ tu. Mối bất hòa giữa cha Michael với các nữ tu đã ảnh hưởng rất xấu đến cộng đoàn giáo xứ. Các tín hữu bình thường bị ảnh hưởng nặng nề bởi gương mù gương xấu đó. Họ mất lòng tin nơi vị mục tử của mình. Bài giảng của cha không còn đáng tin cậy nữa. Rất khó sửa chữa tổn thương này, bởi vì các tín hữu mất lòng kính trọng cả vị linh mục lẫn các nữ tu, những người đáng lẽ ra phải là gương mẫu của “tình hiệp thông”.

Đây là hiện tượng chung nơi nhiều linh mục, chỉ vì một vài hiểu lầm hoặc với bề trên hoặc với một cá nhân của một cộng đoàn dòng tu, đã không ngần ngại tẩy chay họ và gây gương mù gương xấu cho giáo xứ.

(Một lần nữa, những khúc mắc của cha Michael cũng do thiếu trưởng thành về mặt tình cảm mà làm tổn hại các mối tương quan, và do đó, làm hỏng thừa tác vụ. Cha Michael mặc dù ít nói nhưng lại rất cố chấp những khi đụng chạm đến các mối tương quan, và không sao thấy được những tiền hậu bất nhất trong thái độ của cha, ngay cả khi người ta trình bày cho cha những vấn đề này một cách hết sức hợp lý. Rõ ràng là chiều kích nhân bản trong nhân cách của cha cần phải lớn lên nhiều hơn nữa.)

5. Cha Charles là một người làm việc âm thầm làm cho người ta có cảm tưởng cha là một “lãng tử đơn độc”. Cha làm việc cật lực và có tinh thần trách nhiệm. Tuy nhiên các mối tương quan nhân bản của cha còn chưa tốt. Trước hết cha luôn luôn đa nghi. Cha thấy khó mà tin tưởng được những người khác. Gặp ai cha cũng nhìn người đó như một kẻ đáng phải đề phòng.

Khuynh hướng cẩn thận quá đáng này lập tức tạo nên một rào cản trong các mối tương quan. Cha thậm chí có thái độ nghi ngờ cả với những người làm việc trong nhà và thế là không ai có thể ở lại phục vụ cha lâu dài. Ngay cả đối với các anh em linh mục, cha cũng “đề phòng” trong các công việc chính thức. Bằng cách ấy cha tạo nên một cảm giác xa lánh và vô tình xúc phạm các anh em linh mục của cha do thái độ nghi ngờ và thiếu cởi mở.

Cha cũng giữ thái độ này trong tương quan với các vị bề trên có thẩm quyền của cha. Sự hiệp thông với những người như thế có thể bị gãy đổ nghiêm trọng, bởi vì người ta không biết chính xác cha đang nghĩ gì. Cách chung một linh mục với cá tính như vậy cũng chẳng cởi mở cả với Giám mục, vì lúc nào cũng thấy là cách Giám mục đối xử đều không tốt.

(Một lần nữa, ta thấy có một số thiếu sót trong sự “trưởng thành nhân bản” của vị linh mục khá tốt lành này. Mặc dù nhiều lần được Giám mục thúc giục cải thiện các mối tương quan với các linh mục và dân chúng, coi bộ cha vẫn không cải thiện được mấy. Mọi người khác đều thấy sự thiệt hại do não trạng “đa nghi” này gây nên, nhưng chính vị linh mục này hình như không nhận ra là cha phải thắng vượt thái độ sai lầm này. Hậu quả là Giám mục phải tốn nhiều công sức và thời giờ để giải quyết những thiệt hại do cách cư xử thiếu trưởng thành của cha gây ra.)

6. Cha Philip là một linh mục trẻ nhiều tài năng. Cha có tài về khoa hùng biện và được phú cho một cá tính dễ thu hút sự chú ý. Tuy nhiên, trong những năm đào tạo cha luôn bị đánh giá là “khó nắm bắt” và không cởi mở. Không mấy ai có khả năng hiểu được con người thật của cha. Cả khi còn ở Chủng viện dường như cha luôn có chương trình riêng cho mình. Mặc dù linh đạo của cha “thiên về đoàn sủng”, đã có những lời tố cáo là cha đã thân thiết quá mức một cách không lành mạnh với các cô gái trẻ. Vì những lời tố cáo này cha đã bị đình hoãn không được phong chức linh mục. Cuối cùng cha cũng được chịu chức, nhưng rồi chẳng bao lâu sau, cha Philip đã gặp rắc rối nghiêm trọng, vì đã quan hệ tình dục với một phụ nữ trẻ và điều này kéo theo những hậu quả trầm trọng. Khi điều tra kỹ mới biết rằng quan hệ này đã bắt đầu khi cha còn là một chủng sinh trẻ. Dù đã trải qua nhiều năm huấn luyện, những vần đề này đã không hề được cân nhắc và quan hệ như thế vẫn cứ diễn ra cho đến khi nó đưa đến thảm hoạ, không lâu sau khi cha thụ phong linh mục. Cha Philip đã không hề thấy rằng những quan hệ như thế là bất tương hợp với sự cam kết sống độc thân.

(Khi một ứng viên nhập chủng viện, anh mang theo mình cả một “hành lý” cồng kềnh là những vết thương tình cảm không được chữa trị, chúng đã cản trở tiến trình lớn lên và trưởng thành của anh. Bởi vì phần lớn những điều này bị chôn sâu bên dưới, nên việc huấn luyện nhân bản cần giúp cho nhà huấn luyện “khai quật” những nhu cầu tình cảm này và giải quyết chúng. Không thể có một linh đạo huấn luyện đích thực nếu không có tiến triển đúng đắn về mặt tình cảm, một sự tiến triển bao gồm sự tự thức tỉnh, tự biết mình và tự bộc lộ chính mình. Như Meister Eckhart, nhà thần bí dòng Đa-minh nói: “Để đạt đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa, trước tiên con người phải vào tận nơi sâu thẳm của mình hết sức có thể”.)

Ngoài những nhận xét ngắn gọn sau mỗi trường hợp, tôi không có ý phân tích chi tiết những trường hợp riêng rẽ này bởi vì tôi không phải là nhà tâm lý. Mục đích trình bày những trường hợp này và những lời nhận xét nhằm làm sáng tỏ đề tài của tôi. Các vấn đề mà mỗi cá nhân gặp phải có thể bị quy cho nhiều thứ nguyên nhân chẳng hạn nóng tính, thiếu phán đoán, thiếu tự chủ, những kinh nghiệm thời thơ ấu. Nhưng tất cả những thiếu sót này có thể được giảm thiểu phần lớn nếu như để ý hơn đến sự trưởng thành về tình cảm của người đó trong những năm đào tạo. Những trường hợp nêu trên đều có một điểm chung là thiếu trưởng thành về mặt tình cảm và thiếu sự huấn luyện về tình cảm. Các linh mục được kêu gọi để trở thành những nhà lãnh đạo. Để mang lại hiệu quả trong vai trò lãnh đạo, trong số những công cụ không thể thiếu, là “những kỹ năng liên quan đến con người” (people skills). Những kỹ năng như thế chỉ phát triển trong một môi trường huấn luyện, trong đó điều được nhấn mạnh thích đáng không chỉ là phát triển trí thức mà còn là phát triển về tình cảm và xã hội, hoặc còn gọi cách khác là khả năng hiểu biết về tình cảm và khả năng hiểu biết về xã hội. Vào những thập niên gần đây, trong thế giới hợp tác chặt chẽ, đã có sự thay đổi tận gốc rễ về các đòi hỏi đối với vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo không phải là thống trị. Đó phải là một nghệ thuật thuyết phục con người làm việc hướng đến một mục tiêu chung. Đã qua rồi thời đại của những người điều khiển bằng thủ thuật, hoặc những ông chủ “tự tung tự tác, múa gậy vườn hoang”. Nhà lãnh đạo có khả năng bậc thầy trong việc kiến tạo các tương quan liên nhân vị sẽ là tương lai của cộng đồng.

Tiếp theo đây, tôi sẽ rút từ những tài liệu của Giáo Hội và xã hội để trình bày những chiều kích mới đã xuất hiện trong việc tìm kiếm giải pháp cho những khúc mắc về các mối tương quan, là đặc trưng cho các vấn đề nan giải mà các linh mục gặp phải khi thi hành tác vụ của mình, giống như những vị trong các câu chuyện mà tôi đã trình bày ở trên.

CHỨC LINH MỤC GẮN LIỀN VỚI CÁC MỐI TƯƠNG QUAN

Một người được truyền chức, không phải để hưởng đặc ân, nhưng là để đảm nhận một mạng lưới các mối tương quan. Vị linh mục đứng trong cộng đoàn với tư cách là một phần tử của Hội Thánh. Ngài sống trong Hội Thánh bởi các bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể, y như tất cả các tín hữu khác. Đồng thời, qua bí tích Truyền Chức Thánh, ngài đứng trước cộng đoàn với tư cách là thừa tác viên của dân Chúa, đến với dân Chúa, và cho dân Chúa. Căn tính của linh mục được liên kết mật thiết với cộng đoàn. Ngài nổi bật giữa các thành viên của cộng đoàn do cách ngài liên kết với họ như thế nào. Căn tính của ngài hệ tại ở cách ngài đứng trong cộng đoàn như thế nào, chứ không phải cách ngài tách biệt khỏi cộng đoàn. Vấn đề là trong vai trò duy nhất là người có chức thánh, ngài là tiêu biểu của điều gì đối với cộng đoàn (Markham & Repka, 1997).

Đây không phải là trở nên đặc biệt hay nổi bật vì được hưởng đặc ân. Ấn tín bí tích không phải là một quyền lợi của cá nhân. Đây là một trách nhiệm đặc biệt của thừa tác viên có chức thánh, đó là mối tương quan của ngài với Chúa Kitô và với cộng đoàn.

Chúa Giêsu là nhân vật trung tâm trong mối tương quan này. Đời sống và sứ vụ của Chúa Giêsu là để điều chỉnh các mối tương quan. Người quan tâm đến việc sắp đặt lại đời sống ở mọi cấp độ - cá nhân, xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Các mối tương quan được sắp đặt lại theo tầm nhìn của Người về cộng đoàn, với tính cách là “sự hiệp thông” – nước Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Phục Sinh, Thánh Thần đã được ban cho chúng ta để tiếp tục công việc tái sắp đặt các mối tương quan.

Do đó, là hiện thân của Đức Kitô (in persona Christi), linh mục có một nhiệm vụ độc đáo là phải sắp đặt các tương quan đúng đắn. Giống như Đức Kitô, linh mục thực hiện vai trò này gắn liền với tầm nhìn của ngài về cộng đoàn và về nước Thiên Chúa.

Linh mục tham gia Sứ Vụ; đây không phải là một sự dấn thân thụ động hoặc riêng tư vào thừa tác vụ nhưng là một dấn thân tích cực mang tính cộng đoàn với Thiên Chúa và dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Căn tính của linh mục là ngài được chọn để phục vụ nước Thiên Chúa và phục vụ trần gian.

Đồng thời linh mục cũng hành động với tư cách là hiện thân của Hội Thánh (in persona ecclesiae). Ở giữa cộng đoàn, cũng như khi ở trước cộng đoàn đòi hỏi sự đánh giá mục vụ không ngừng. Linh mục đóng vai trò là lăng kính đối với cộng đoàn, phản chiếu lại những khía cạnh khác nhau về đời sống của họ và sự thật về họ. Ngài phục vụ con người nhưng không theo sở thích của họ. Đây là một động lực mang tính tương tác:


Ngài lắng nghe / Đáp trả / Thách đố / Nâng đỡ

Ngài và cộng đoàn cảm nghiệm sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc lớn lên, trong sự thánh thiện và tầm quan trọng. Ngài ở đó không phải để làm vừa lòng dân Chúa nhưng để sắp đặt các khả năng theo sứ vụ. Là linh mục, ngài được cắt đặt và ủy thác làm công việc này – “Điều này thuộc về ‘sự sắp đặt’ của Bí tích Truyền Chức”.

TƯƠNG QUAN VỚI GIÁM MỤC

Cha Roger A. Statnick có những cách nhìn rất sâu sắc khi nói về tương quan giữa linh mục với giám mục. Bản chất của mối tương quan giữa giám mục với linh mục chỉ có thể được hiểu trong ánh sáng của Bí tích Truyền Chức. Điều này dựa trên một thực tại có tính thần học.

Các giám mục có những cá tính, triết lý và thần học khác nhau. Các linh mục thường có khuynh hướng giảm thiểu tương quan với giám mục vào chuyện thích hoặc không thích vị đó. Vai trò của giám mục là giám sát sự hiệp thông, giám sát đoàn dân được hình thành trong và bởi Chúa Thánh Thần. Như vậy mối tương quan này được cắm rễ trong mầu nhiệm Hợp Nhất của Chúa Ba Ngôi. Đây là một tương quan sâu xa – sâu xa hết sức có thể trong đức tin của chúng ta.

Giám mục giáo phận chia sẻ việc sắp đặt các đoàn sủng, với người được truyền chức. Căn tính của linh mục được thành hình trong mối tương quan duy nhất giữa ngài với vị giám mục của giáo hội địa phương.

Ngày nay, chúng ta nói lễ “truyền chức giám mục” (ordination) chứ không nói lễ “thánh hiến giám mục” (consecration) như trước đây nữa. Sự thay đổi thuật ngữ này biểu lộ một thay đổi quan trọng trong cách suy nghĩ của Hội Thánh. Trong quá khứ giám mục được coi là “thượng tế”. Sự phân biệt giữa linh mục với giám mục không dựa trên nền tảng thần học cho bằng trên quyền bính chính thức về mặt thể chế. Trước kia, vai trò của giám mục đã được quan niệm trước tiên là quyền tài phán và uy quyền. Sau Công đồng Vatican II, chúng ta nói về vai trò của giám mục như “vị thụ phong” (ordained). Ngài được chọn để sắp đặt (order, do từ “ordinare”) các đoàn sủng trong giáo hội địa phương. Ngài thụ phong giám mục để trở thành thành viên của giám mục đoàn. Ngài có trách nhiệm chăm sóc Giáo Hội địa phương hay Giáo phận. Như Đức Kitô, ngài có nhiệm vụ kiến tạo các mối tương quan đúng đắn.

Ngài thực hiện nhiệm vụ này bằng cách gợi lên các đoàn sủng (khả năng Chúa ban); ngài điều phối các đoàn sủng đó, có thể đó là đoàn sủng của giáo dân, tu sĩ hoặc giáo sĩ, vì lợi ích của cộng đoàn và vì sứ vụ truyền giáo. Ngài phải làm vậy để xây dựng sự hợp nhất giữa hàng giáo sĩ của ngài, đặc biệt, không phải để tạo ra một tinh thần tranh đua, nhưng đúng hơn, để kiến tạo tinh thần hợp tác. Ngày nay hơn bao giờ hết, những người lãnh đạo mục vụ phải thấm nhuần thái độ này và ước ao nhìn thấy, như một trong những mục tiêu chính yếu của mình, việc tăng cường và duy trì các ơn ban và đoàn sủng của tất cả mọi người dưới sự lãnh đạo của mình, nếu không, họ có thể là những người làm việc tốt, nhưng không phải là những nhà lãnh đạo tốt biết cổ võ mọi người làm việc.

Ngay cả trong vấn đề bổ nhiệm các linh mục, Statnick (1999) đã nói rất đúng rằng: Giám mục phải đặt điều đó lên hàng đầu. Các linh mục thường cảm thấy những việc bổ nhiệm như là quyền lực áp đặt trên họ, chứ không phải như một cách sắp đặt các đoàn sủng vì ích lợi của toàn Giáo Hội. Đối với các linh mục, vẫn còn khuynh hướng như bị đe doạ bởi việc bổ nhiệm hoặc thuyên chuyển, và do đó họ có thể trở thành người theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ nghĩ đến mình, chỉ tìm tư lợi khi đến lúc Giám mục thấy cần có những thay đổi.

Điều cần thiết là xây dựng một bầu khí cộng tác để thi hành thừa tác vụ. Những lần thuyên chuyển các linh mục có thể tạo cơ hội cho mọi thành phần tham gia vào việc củng cố sự hiệp thông mà mọi người cùng dự phần với nhau, vào việc đặt ra những vấn đề về sứ vụ chung, về những đoàn sủng cần có, và về việc mọi người có thể làm việc chung với nhau như thế nào. Vị Giám mục, qua đối thoại và phân định, cố gắng tìm hiểu xem những thay đổi đó có làm cho toàn thể cộng đồng trở nên tốt hơn không. Ngài làm điều này với tư cách là người có trách nhiệm “sắp đặt” các đoàn sủng trong các Giáo Hội địa phương.

Trong bối cảnh việc khéo léo sắp đặt các đoàn sủng, có lẽ nói đôi điều về Chủ nghĩa duy giáo sĩ (Clericalism) và tham vọng (Ambition) cũng là điều hữu ích. Chủ nghĩa duy giáo sĩ có thể ảnh hưởng đến cả Giám mục lẫn linh mục. Trong nhật ký của mình, Alexander Schemen nói: “Chủ nghĩa duy giáo sĩ làm cho nghẹt thở: nó xen mình vào toàn bộ đặc tính thánh thiêng của Hội Thánh; nó cho là mình có quyền kiểm soát, hướng dẫn, điều khiển; có quyền thực hiện các bí tích, nhưng lại hiểu sai một cách chung chung rằng bất cứ quyền lực nào cũng là “quyền đã được ban cho tôi”. Chủ nghĩa duy giáo sĩ luôn luôn là sai chức năng và ngạo mạn, nó làm tê liệt sự trưởng thành thiêng liêng và tình cảm của linh mục, giám mục và phó tế trong mạng lưới của nó. Người giáo dân một cách tự nhiên chống lại các khuynh hướng kẻ cả và khống chế nơi các linh mục có đầu óc theo chủ nghĩa duy giáo sĩ. Linh mục độc đoán có khuynh hướng luôn nóng giận và nản lòng. Chủ nghĩa duy giáo sĩ cản trở sự hiệp thông nhân bản chân thành và cuối cùng làm cho các giáo sĩ bị cô lập.

Một tâm lý gia-linh mục đã nhận xét: “Tham vọng là một bản năng cơ bản của con người, cũng như tính dục”. Những phần thưởng có tính thể chế, với những cạm bẫy và quyền lực của chúng, rất được ưa chuộng trong cơ cấu hiện tại của chúng ta. Trong nền văn hóa phong kiến đề cao giáo sĩ, trong đó nhiều linh mục vẫn sống, hoạt động và làm việc, cái gật đầu chấp thuận của giám mục, ánh mắt nồng ấm của ngài, là những điều nhiều người tìm kiếm. Trong khi giám mục có bổn phận khuyến khích, chấp thuận và tuyên dương việc tốt của một linh mục, nếu linh mục đó chỉ tìm kiếm sự chấp thuận theo kiểu loài người cốt để “được lên chức”, thì điều đó có thể ngăn cản sự phát triển giá trị thật của ngài.

Giám mục là người đầu tiên phải phục vụ và xây dựng sự hiệp thông trong giáo phận. Thật sự giữa giám mục và các linh mục của ngài, có một “sự hiệp thông do bí tích” (communio sacramentalis), sự hiệp thông này được đặt trên nền tảng là sự tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, mặc dầu ở cấp độ khác nhau, nhờ thừa tác vụ duy nhất của những người được truyền chức thánh và cùng một sứ vụ tông đồ.

TƯƠNG QUAN GIỮA LINH MỤC VỚI LINH MỤC ĐOÀN

Khi một nam nhân được truyền chức, ông trở thành thành viên của một nhóm các linh mục phục vụ Giáo Hội địa phương. Người ta gọi nhóm này là linh mục đoàn (Presbyterate, Presbyterium). Đây là một thực tại có tính thần học. Nhờ bí tích truyền chức, những người này chia sẻ vai trò của giám mục là sắp đặt các đoàn sủng trong Giáo Hội địa phương. Họ không đơn thuần là một “nhóm bạn thân” hay những bạn đồng đội. Họ tham dự “bí tích truyền chức” và là những người được tham dự vào sự quan tâm của giám mục lo cho toàn Giáo Hội địa phương. Họ dấn thân làm việc chung với nhau cũng như với giám mục. Có một mối dây không thể cắt đứt giữa giám mục và hàng giáo sĩ của ngài – mục đích của nó thành hình từ mối tương quan của họ với giám mục và với nhau. Nếu một linh mục tự tách mình ra khỏi giám mục – về mặt thể lý, tình cảm, tâm lý, tinh thần, là ngài cắt đứt chính đường chuyền sự sống của mình với Hội Thánh và với Đức Kitô.

Tất cả chúng ta đều biết một số linh mục, những người vì lý do này hay lý do khác, lý do có thật hoặc tưởng tượng, đã tự tách mình khỏi giám mục và làm gương xấu cho các tín hữu, bằng cách từ chối, ngay cả việc đọc tên Đấng Bản Quyền trong Kinh nguyện Thánh Thể!!! Thường chính giám mục cũng có một phần trách nhiệm trong những trường hợp như vậy, vì thiếu đối thoại hoặc sai lầm trong việc phân định các đoàn sủng.

Căn tính chính yếu của linh mục là hành xử như hiện thân của Đức Kitô và của Hội Thánh (in Persona Christi et in Persona Ecclesiae). Căn tính của linh mục thành hình trong mối tương quan duy nhất của ngài với Giám mục của Giáo Hội địa phương. Sự nối kết, trong Chúa Thánh Thần, là qua Giám mục Giáo phận – chứ không phải theo cách sắp đặt của trần gian trong đó Giám mục phục vụ như Tổng giám đốc điều hành (Chief Executive Officer). Linh mục thi hành thừa tác vụ cùng với và dưới quyền Giám mục, trong bầu khí trao đổi và cộng tác.

Linh mục đoàn không đơn thuần là một “tình huynh đệ” của các linh mục. Một tình huynh đệ có là để nâng đỡ các thành viên, hoặc về mặt xã hội, về mặt thiêng liêng, hoặc nhờ vào sự chia sẻ những mối quan tâm. Điều đó là quan trọng. Nhưng linh mục đoàn tồn tại chính yếu là vì lý do khác. Cùng với nhau, tất cả các linh mục của một giáo phận chia sẻ trách nhiệm về Giáo Hội địa phương và sứ vụ của Giáo hội đó – và họ chia sẻ trách nhiệm đó với Giám mục Giáo phận. Do đó các thành viên của linh mục đoàn bó buộc phải củng cố mối tương quan huynh đệ sâu xa với nhau, nhằm một mục tiêu chung là làm tăng tiến sứ vụ của Giáo Hội địa phương.

Sự quan tâm và nâng đỡ nhau, sự cộng tác và cùng làm việc, là những điều cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo của các linh mục trong Hội Thánh, cùng với và dưới quyền Giám mục Giáo phận. Phải thấy rõ rằng linh mục đoàn tồn tại là vì Hội Thánh, chứ không vì chính mình. Do đó, lối sống tìm phục vụ bản thân, chẳng hạn như hành vi và lời nói phá hoại, bàn tán xấu, những tham vọng, mưu mẹo, biển lận tài chính, quấy rối tình dục trẻ em và những lạm dụng tình dục khác, làm cho sứ vụ bị hao mòn năng lực và hậu quả là làm tan nát những mối tương quan vốn được thiết đặt để phục vụ cho sứ vụ đó. Nó làm cho giáo phận bị sa sút và không còn hữu hiệu trong thừa tác vụ của mình.

TƯƠNG QUAN GIỮA LINH MỤC VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ỦY THÁC CHO NGÀI

Đây là một lãnh vực quan trọng khác của sự hiệp thông mà linh mục dấn thân phục vụ và củng cố.

Đây là điểm bánh xe tiếp giáp với mặt đường. Ngài phải sắp đặt một mạng lưới những mối tương quan trong tất cả sự phức tạp của nó, bao gồm cả các tương quan cá nhân của ngài. Mọi tương quan khác đều tùy thuộc vào việc ngài tự đào luyện để vận dụng các tương quan cá nhân đó như thế nào.

Cũng như căn tính của linh mục giáo phận không thể tách rời khỏi mối tương quan với Giám mục Giáo phận, căn tính của ngài cũng được nối kết với Dân Thiên Chúa trong Giáo Hội địa phương. Vai trò của linh mục, như chúng ta đã thấy ở trên, là để trở nên thành viên của Hội Thánh, để đứng trong Hội Thánh, cũng như đứng trước Hội Thánh với tư cách là người lãnh đạo-phục vụ dưới quyền Giám mục. Linh mục và Giám mục cùng với nhau nhắm đến việc sắp đặt mối tương quan đúng đắn để đưa Sứ vụ đi tới và mối tương quan này vượt trên cá tính, vượt trên những động lực điều hành và những quan tâm khác.

Andrew Greeley phân biệt “một người lãnh đạo máy móc” (Instrumental Leader) và “một người lãnh đạo diễn cảm” (Expressive Leader).

“Người lãnh đạo máy móc làm cho các công việc được thực hiện bằng cách tổ chức, quản lý, hoàn thành các nhiệm vụ. Ông là một người chịu làm, một người sắp chương trình, một người ra quyết định”.

“Người lãnh đạo diễn cảm quan tâm hơn đến toàn cảnh và đến những người ông lãnh đạo. Ông đảm bảo tầm nhìn của cộng đoàn được rõ ràng và tinh thần của các thành viên đều cao. Ông xoa dịu những tình cảm bị tổn thương, an ủi những người gặp khó khăn, khuyến khích những người ngã lòng, hòa giải những người nóng giận và truyền cảm hứng cho những người thất vọng”.

NHỮNG TƯƠNG QUAN CÁ VỊ VÀ NHỮNG TƯƠNG QUAN THEO CHỨC NĂNG
[color=blue:c15378161c]
Một linh mục, đặc biệt vị mới được truyền chức, có thể cảm thấy an toàn, được bảo vệ, và được chăm sóc, trong khuôn khổ những mối tương quan theo chức năng, trong một mô hình cộng đoàn cơ chế, khi ngài liên hệ với Giám mục, Tổng Đại Diện, Đại diện Giám mục, Giám đốc điều hành nhân sự, các Giám đốc khác, các Vị giám sát của các hoạt động tông đồ khác nhau. Phần đông có tương quan tốt theo cách thức này trong mô hình có cơ chế. Xét cho cùng, chúng ta được đào tạo trong chủng viện để sống phù hợp với cơ cấu phẩm trật này. Nhưng ý thức về sự liên kết mà chúng ta có được theo mô hình có cơ chế này có thể phai tàn, kẻ sớm người muộn. Do đó, một số linh mục có thể bắt đầu cảm thấy không được chăm sóc và bảo vệ một cách đầy đủ. Họ không chắc chắn lắm về những vai trò họ đảm nhận, và có thể bắt đầu cảm thấy không còn là một thành viên của giáo phận, hoặc thậm chí của linh mục đoàn nữa.

Với thời gian, linh mục đó có thể và thật sự bắt đầu khao khát một mô hình tương quan “mang tính cá vị hơn”, trong đó, sự bảo đảm và an toàn phát sinh do ý thức rằng mình được đánh giá cao và được chăm sóc. Tuy nhiên, mặc dù khao khát sự liên kết “mang tính cá vị” này, nhiều linh mục không có những kỹ năng cần thiết để thực hiện sự biến đổi.

Về điều này, Clark (1986) nói: “Tôi không nghi ngờ rằng chức linh mục giáo phận có thể hoàn toàn là một thực thể được thể chế hóa. Tôi cũng không mong ngày mà tất cả chúng ta đều ý thức về mối tương quan hoàn toàn mang tính cá vị”; ông cho rằng phải mất nhiều công sức lắm mọi người mới thừa nhận được điều đó. Tuy nhiên, ông yêu cầu rằng “chúng ta cần quân bình, nhưng ngày nay sự quân bình đó cần được nghiêng về phía ủng hộ một tương quan mang tính cá vị hơn”.

Chính nơi đây chúng ta thật sự bắt đầu đi sâu vào vô số những khúc mắc về tương quan mà một linh mục phải đối diện. Từ lòng mẹ chúng ta đã mang trong mình bản năng là được giao tiếp và thiết lập mối tương quan với những người khác.

Cha Clark trong quyển sách của ngài về “Con người có giới tính và độc thân” (“Being sexual and celibate”) đưa ra một số nhận định rất sâu sắc và có giá trị. Ông nói: “Nhu cầu của tôi và những khả năng nhận thức của tôi về việc liên kết với những người khác có nghĩa là phải phát triển đến mức trưởng thành nhân bản, lúc đó là lúc có thể đạt đến sự thân mật với những người khác. Sự thúc đẩy, động cơ, nhu cầu giao tiếp với người khác, tất cả đều là thành phần của hữu thể có giới tính của tôi. Nó cho phép tôi giao tiếp với những người khác bằng những mối tương quan vượt quá những mối tương quan theo chức năng. Nhưng những sự thúc đẩy, động cơ và nhu cầu