PDA

View Full Version : Lễ Thánh Phêrô và Phaolô Tông Ðồ



bethichconlua
29-06-2009, 04:46 PM
CHUNG MỘT TẤM LÒNG
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô Tông Ðồ

Ngày 29 tháng 06 hằng năm Giáo Hội long trọng mừng kính chung hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Các ngài là nền tảng kiên cố của tòa nhà Hội Thánh. Các ngài là hai vị thánh lớn đã có nhiều cống hiến cho Giáo Hội thời sơ khai. Vì Chúa biến đổi con người hai ngài cho nên xứng đáng với sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ. Ơn Chúa thật sự hoạt động trong cuộc đời của các ngài. Chính Chúa liên kết hai con người có nhiều điểm khác nhau trong cùng một lòng mến. Cho nên điểm hẹn cuối cùng và cũng là điểm hẹn quan trọng nhất của cả đời các ngài là cái chết làm chứng cho Ðức Kitô Phục Sinh.

Thánh Phêrô là người xuất thân từ nghề đánh cá, ít học, tính khí nóng nảy thẳng thắn và năng nổ. Một đặc điểm trong cả cuộc đời của Thánh Phêrô là luôn sống chân thật. Ðiều này thật đáng quý mà con người thời này khó có thể sống được. Chỉ có Thánh Phêrô dám nói thẳng ra những gì ngài suy nghĩ trong lòng mà không "rào trước đón sau". Chính vì thế trong Tin Mừng chúng ta thấy rải rác những lời phát biểu đơn sơ của ngài. Chỉ có Thánh nhân mới dám nói lên ý định cản ngăn không cho Ðức Giêsu lên Giêrusalem chịu chết. Và lời nói tệ nhất trong cuộc đời thánh nhân là lời phủ nhận mình là môn đệ của Ðức Giêsu. Có thể Thánh Phêrô là người có nhiều sai phạm hơn so với các bạn đồng môn, thậm chí những lỗi lầm đó rất nặng đến độ đáng phải bị trừng phạt. Song Chúa Giêsu vẫn yêu thương ngài. Chúa không từ bỏ ý định đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh. Ðiều đó cho thấy Thiên Chúa trước sau như một, Ngài không bao giờ thất vọng vì con người, ngay cả với những người tội lỗi, Chúa hằng ngày đợi chờ những người lầm lỗi, sám hối trở về với ngài. Ðối với Chúa, dù có lỗi nặng hay lỗi nhẹ, nhiều hay ít không là gì cả. Chỉ có một tấm lòng sám hối chân thành và biết sửa đổi đời sống mới xóa bỏ mọi lầm lỗi. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho mọi lầm lỗi của chúng ta. Khi trao cho Thánh Phêrô vị trí đứng đầu Giáo Hội, Chúa đã hết lòng tin tưởng ở ngài. Còn về phía thánh nhân, từ sự khóc lóc sám hối vì mình đã chối Chúa, thánh nhân đã thay đổi hoàn toàn đời sống. Thánh nhân cũng đặt hết tin tưởng ở Thiên Chúa. Như thế suốt cuộc đời ngài như là một lời tuyên xưng niềm tin vào Ðức Kitô: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Vì Chúa thánh nhân có thể mạnh dạn bước vào con đường thập giá mà không một chút sợ sệt. Với một lòng yêu mến Chúa, ngài có thể làm tất cả mọi sự mà không sợ bị bách hại và sợ bị giết chết.

Cuộc đời thánh Phaolô cũng được tình thương Chúa chở che. Trước tiên Chúa đã yêu thương kêu gọi thánh Phaolô làm tông đồ dân ngoại. Dựa vào tài năng, trí thông minh, vốn liếng kiến thức được học hành và nhất là tâm huyết ngài có thể đem rất nhiều người trở về với Chúa. Ngài có khả năng giảng dạy giáo lý một cách mạch lạc và dễ hiểu đối với mọi người. Kể từ biến cố "té ngựa" trên đường đi Ða-mát đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời thánh Phêrô. Từ một người bắt bớ các Kitô hữu ngài đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ. Ngài sẵn sàng quên mình để đi đến với những người ngoài Do-thái giáo và tiếp xúc với họ. Dù được biết Chúa muộn hơn nhưng những đóng góp của ngài cho Giáo Hội thì không thua kém ai. Lòng yêu mến Chúa chân thành là động lực thúc đẩy ngài đi đến với dân ngoại. Thánh nhân đã ý thức được sự hoạt động của Chúa khi ngài nói; "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi ". Giáo Hội mà ngài xây dựng là cộng đoàn phổ quát gồm nhiều người thuộc nhiều quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, nhưng chung một niềm tin và lòng mến vào Chúa Kitô.

Mừng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô chúng ta cảm phục Thiên Chúa đã thực hiện một sự kết hợp kỳ diệu giữa hai con người. Chúa lập nên Giáo Hội từ những sự khác biệt nhưng có thể hợp tác bổ túc cho nhau.
Mỗi người trong Hội Thánh dù khác nhau về trình độ, giai cấp, tính tình nhưng luôn có chung một tấm lòng. Ðó là tấm lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội. Vì khi biết đồng tâm hiệp lực với nhau làm việc người ta sẽ có thể vượt qua được mọi khó khăn gian khổ. Chung một tấm lòng để cùng nhau làm việc người ta sẽ làm được những điều kỳ diệu vượt quá sức tưởng tượng. Tình yêu Chúa đối với chúng ta phải là động lực mạnh mẽ nhất giúp chúng ta phục vụ Hội Thánh.

Ngày nay Chúa đang mời gọi mỗi người Kitô hữu đáp lại tình thương của Chúa bằng việc phục vụ Hội Thánh. Chúng ta có thể phục vụ Giáo Hội khi biết tham gia vào những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ nơi mình đang sống. Những công việc đó dù bị người ta xem là "việc bao đồng" nhưng thực chất là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu.
Lạy Chúa, khi biểu dương gương sáng đời sống của hai thánh Phêrô và Phaolô Chúa muốn dạy chúng con về tinh thần phục vụ Hội Thánh. Chúng con nhiều khi phải mất thời gian giàn xếp những lộn xộn nội bộ vì không biết cộng tác với nhau để làm việc cho Chúa. Xin cho chúng con tuy nhiều người nhưng chỉ có một tấm lòng chung đó là lòng yêu mến Chúa nồng nàn. Amen.

Martin Lê Hoàng Vũ




CHẾT CŨNG KHÔNG NÓI RA

René Belbenois, người tù khổ sai trên đảo Guyane thuộc Pháp, đã vượt ngục trên chiếc thuyền độc mộc của thổ dân. Ông vượt hàng ngàn hải lý qua biển Antilles, đi bộ xuyên những cánh rừng bạt ngàn ở châu Mỹ La tinh, để sau cùng đến được Mỹ. Tập nhật ký dầy cộm của ông ghi nhận trung thực số phận bị thảm của tù nhân được các nhà xã hội học và giới văn học Mỹ đặc biệt quan tâm. Sau khi được sắp xếp, gọt giũa lại, tác phẩm bỗng chốc trở thành một best-seller với hàng triệu ấn bản được tiêu thụ trong thời gian ngắn. Xin trích giới thiệu cùng bạn đọc một đoạn sau đây:



********************************


Dòng hải lưu đẩy con thuyền nhỏ của chúng tôi lao vun vút hướng về cửa sông Rio Acarouany. Ánh chiều tà bắt đầu nhợt nhạt để bóng tối chóng dâng lên từ các cánh rừng già mênh mông. Sau lưng chúng tôi là ngục tù thảm khóc. Trước mặt là biển Antilles lúc nhúc cá nhà táng, mồ chôn xác những kể đánh đu cùng định mệnh tìm đường vượt biển.

Marcel, tên đầu sỏ, ra lệnh cặp thuyền vào bờ, cạnh một trại tù bỏ phế để qua đêm. Loay hoay tìm một cành khô đốt lửa, chúng tôi bắt gặp một ngôi mộ nhỏ cùng cây thánh giá gọt đẽo sơ sài, vùi dập dưới đám dây leo chằng chịt. Nơi đây, tù nhân chết thường được vứt cho cá mập đớp gọn. Ngôi mộ là một hiện tượng bất thường. Marcel vung thanh mã tấu gọt sạch rong rêu trên cây thánh giá, trầm giọng bảo:
Linh mục Pierre đấy! Cũng là một tù khổ sai như tớ và các cậu. Bất chợt, giọng anh ta chùng hẳn lại, hầu như thì thầm: Một sứ giả của Chúa.


Có thể nói Marcel là tên bất trị trong số những tù nhân hung hãn nhất trong trại. Thân thể lực lưỡng của hắn xâm đầy hình ảnh thô tục, mặt chằng chịt sau những trận đánh nhau. Lần đầu tiên trong đời, chúng ta vừa thấy hắn biểu lộ nét tôn kính.
Quây quần bên ngọn lửa bập bùng, bốn đứa chúng tôi nép mình sau làn khói cay sè, xua dạt đàn muỗi đen kịt lượn lờ chung quanh. Marcel trầm ngâm đảo mắt nhìn cây thánh giá chơ vơ đến tội nghiệp bên ven rừng.

********************************

Tớ gặp cha Pierre trên chuyến tàu chở những trọng phạm lưu đày sang quần đảo Guyane. Chúng tớ không "ngửi" được ông ấy khi biết ông đã nhẫn tâm giết một bà lão góa bụa cư ngụ cạnh giáo đường. Chúng tớ thường gọi ông là "lão thầy Tu lạc đạo". Một sáng, người ta tìm thấy thi thể mụ góa Duval nằm sóng sượt trước nhà, quần áo rắch tươm. Những vết chân còn lưu lại từ nhà mụ đến cổng giáo đường, đôi giầy và chiếc áo dòng loang lổ máu của cha chôn giấu ở khuôn viên nhà nguyện là bằng chứng cụ thể bọn cướp trưng ra chống lại cha Pierre. Cha nhận bản án chung thân, dù luôn khẳng định mình vô tội.


Đến đảo, chúng tớ được áp tải ngay đến trại Oraput nổi tiếng là khắc nghiệt. Tù phải lao động trong đầm lầy, nước ngập đen xì đến tận ngực, trên đầu muỗi vo ve như sáo. Cha lao động cật lực như chúng tớ và không bao giờ phàn nàn. Xong việc cha còn cố giúp những bạn tù thương tật khác. Năm sau cha được phân công đến phòng y tế thay cho tên vừa bị rắn độc mổ chết. Các cậu hẳn biết đấy là công việc béo bổ: bán thuốc quinine với giá cắt cổ cho những tên đang lên cơn sốt, ăn chận khẩu phần bồi dưỡng của những người ốm nặng... và còn biết bao là những bóc lột khác. Với cha Pierre không còn cảnh mánh mung trên xác chết. Đôi khi, cha "dập" chúng tớ một điếu thuốc cũng là để cho một người tù đau ốm khác. Bọn tớ rất quý cha, cả những tên cai ngục ác ôn cũng phải thay đổi thái độ trước con người trung thực ấy.
Khi trại Oraput được lệnh đóng cửa vì bệnh dịch, cha xin được di chuyển đến đảo Saint-Louis, nơi biệt giam những tên bị hủi, một thế giới hoàn toàn cách ly với xã hội con người. Hằng tuần, một tên cai ngục đáp ca-nô vứt bừa lên bãi cát một bao thực phẩm rồi chuồn thẳng. Gầy gò như cây đinh, nhưng cha vẫn chăm sóc bọn người hủi không mệt mỏi.


********************************


Một hôm, người ta mang đến cho cha tên Groscaillou. Nằm dài trên chiếc cáng, coi hắn không còn tí gì là dáng dấp của con người. Vừa thấy linh mục mang ly sữa đến, hắn hốt hoảng :
- Không, không thể là cha Pierre
- Anh biết tôi à? Cha dịu dàng hỏi.
- Con là Groscaillou, người làm vườn trong nhà thờ lúc trước, hắn đáp.
Cha nhìn hắn thật lâu trước khi thốt nên lời.
- Khốn khổ cho con. Chúa trừng phạt con thật nghiêm khắc.
Bọn hủi xum xít quanh tấm lều đổ nát, háo hức lắng nghe. Giọng tên tội phạm thì thầm như từ cõi âm vọng lại:
- Chính tôi đã giết mụ góa Duval. Biết mụ vừa nhận một món tiền khá lớn. Tối hôm đó, tôi khoác chiếc áo dòng đánh cắp của cha và đến bấm chuông. Thấy tà áo đen thấp thoáng, mụ tin tưởng vội ra mở cổng. Khi nhận ra rõ mặt, mụ hãi quá định gào lên cầu cứu, buộc lòng tôi phải siết cổ mụ. Quay lại nhà nguyện tôi chạm mặt ngay với cha Pierre. Người biết tôi vừa làm một cú dại dột. Sau khi nghe tôi xưng tội, cha khuyên tôi nên ra đầu thú. Lúc bọn «cớm» đến bắt cha, dù nắm rõ bí ẩn của vụ án, cha vẫn tuân thủ giới luật im lặng của Chúa. Chấp nhận một bản án chung thân như một tông đồ tử đạo, không hé răng khai báo. Các cậu hãy giải oan cho cha để tôi ra đi thanh thản.
- Không cần thiết con ạ ! Hãy thành tâm khấn nguyện và con sẽ được tha thứ. Cha từ tốn đáp.
Sáng hôm sau, các tù nhân bắt gặp thi thể Groscaillou ngoài bãi cát, bấp bênh theo triều sóng.


********************************

Sáu tháng trôi qua, khi quyết định tự do của cha được gởi đến thì đã quá muộn. Trước khi mất, cha mong sẽ được chôn trên đảo, giữa những người bất hạnh mà cha hằng chăm sóc. Chính những tên đại bàng đã kính cẩn an táng và dựng cho cha cây thánh giá này.
Marcel ngừng kể, đăm chiêu nhìn ngôi mộ đơn sơ ở bìa rừng rồi khẽ
kết luận: một tấm lòng vĩ đại.
Ngả người trên thảm lá khô, tôi bâng khuâng nhìn ánh sao đêm nhẹ lung linh trên bầu trời nhiệt đới, Gương thánh thiện của cha Pierre hầu như có mãnh lực cảm hóa được bốn tâm hồn đậm nét hận thù và tội lỗi: chúng tôi có cảm tưởng được cứu chuộc và dung thứ. Chắn hẳn, với niềm tin vừa tìm lại được, chúng tôi sẽ vững vàng đối mặt với vô vàn hiểm nguy và cái chết bất chợt đón chờ trong chuyến du hành dài đăng đẳng trở lại với xã hội con người.
Trích xuanha.net (http://xuanha.net/)


Trích Tinvui.org - Vietnam