PDA

View Full Version : Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày



bethichconlua
15-07-2009, 03:51 PM
Suy Niệm: 1



SUY NIỆM VỀ SỰ CHẾT


Một hôm, Ðức Giáo Hoàng Innocenté IX mời người bạn thân của mình là cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên, lúc đó là cha Laudius Aquaviva, vào phòng riêng và chỉ cho cha một cái hộp nhỏ để trên bàn làm việc của mình và nói:
- Cha biết có gì trong hộp này không? Trong đó có điều quí nhất. Cha hãy mở ra xem.
Cha Aquaviva mở hộp ra và cha rất ngạc nhiên khi nhìn thấy trong hộp một xác người nhỏ xíu nằm ngay ngắn và giống như Ðức Giáo Hoàng. Cha đang phân vân không biết tại sao, thì Ðức Innocenté IX tâm sự như sau:
- Này Cha, hình người chết giống như tôi nằm trong hộp đó là điều rất quí giá. Bởi vì nó gợi lại cho tôi nhớ đến lúc mình sẽ phải chết. Và mỗi lần tôi cần phải quyết định điều gì quan trọng thì sau khi đã cầu nguyện, xin ơn Chúa soi sáng, tôi vào đây, mở hộp này ra, nhớ đến giây phút tôi phải chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: "Nếu tôi phải chết ngay trong lúc này thì tôi sẽ phải quyết định như thế nào". Chính vì thế mà chiếc hộp này rất qúi đối với tôi.



* * *


Quý vị và các bạn thân mến,
Ðó là bí quyết của Ðức Giáo Hoàng Innocenté IX. Hy vọng đó cũng là bí quyết của mỗi tín hữu chúng ta. Không những chúng ta chỉ đặt mọi quyết định của mình trong viễn tượng cái chết, nhưng còn phải đi xa hơn. Là hãy đặt mọi quyết định của mình trong viễn tượng ánh sáng của điều bên kia cái chết, của sự phục sinh và của sự sống đời đời sau cái chết.
Bài Phúc Âm theo thánh Gioan: chương 11, từ câu 38 đến câu 44, kể lại biến cố Chúa Giêsu cho Lazarô đã chết 3 ngày được sống lại, chuẩn bị cho chúng ta suy niệm về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, nhưng cái chết và sự sống lại của Chúa không phải chỉ là một hiện tượng riêng rẽ trong lịch sử, mà là một hiện tượng còn luôn trong lịch sử và liên hệ đến cuộc đời mỗi người chúng ta ngay ngày hôm nay. Chúa đã chết và sống lại để mang ơn cứu chuộc cho chúng ta, để mỗi người chúng ta được sống với Ngài và sống đời đời.
Trong bài Phúc Âm nói về phép lạ Chúa làm cho Lazarô sống lại cũng cho chúng ta thấy: Chúa đã dùng cái chết của Lazarô để mạc khải cho Maria, Martha và những người Do Thái có mặt quanh đó về một sự thật căn bản. Ðó là sự sống đời đời: "Ta là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống". Chúa dùng một thử thách ở đây nói đến cái chết của Lazarô để mạc khải cho Maria và Martha sự thật căn bản này. Có thể trong cuộc đời chúng ta cũng vậy. Chúa có thể dùng những đau khổ, những bất hạnh để mạc khải cho chúng ta hoặc làm cho chúng ta xác tín về một khía cạnh nào đó cần thiết cho cuộc sống của mình.
Mỗi người chúng ta cần đặt một quyết định, cần sống cuộc sống hiện tại của mình theo ánh sáng của cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, cũng như theo ánh sáng của cái chết và sự sống lại đời đời của chính cá nhân mình. Chúng ta đã xác tín về sự thật này chưa? Chúng ta hãy sẵn sàng chờ đợi dịp Chúa dùng những biến cố nào đó xảy ra trong cuộc đời để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại sự thật này.
Trong biến cố Lazarô được Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho 3 người sống lại. Chúng ta có thể nói vậy: Martha, Maria và Lazarô. Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà Lazarô tiếp theo đó được Chúa cho sống lại. Tất cả quy hướng chúng ta về điểm quan trọng cuối cùng: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống. Và phép lạ Lazarô sống lại chuẩn bị cho phép lạ lạ lùng nhất là biến cố chính Chúa Giêsu sống lại, hoàn tất công trình cứu chuộc con người.
Lạy Chúa, xin ban ơn soi sáng và thêm sức mạnh để trong cơn gian nan thử thách, chúng con còn có thể nhìn thấy sự hiện diện và hành động mạc khải của Chúa cho chính cuộc sống của chúng con.
Lạy Chúa, xin hãy phán, này con đang lắng nghe.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin thêm đức tin cho chúng con. Amen.

bethichconlua
15-07-2009, 03:59 PM
Suy Niệm: 2

NGHĨA TRANG
Lẽ thường, ai ai cũng sợ chết cả. Không phải bằng thể lý nhưng bằng ý nghĩ, người ta tìm cách tránh né những hình ảnh gợi nhớ về sự chết như quan tài, ngôi mộ hay nghĩa trang… Bà con có niềm tin thì cứ vào dịp xuân về hay dịp kỵ giỗ người thân, thưòng đi tảo mộ. Kitô hữu, cách riêng người Công giáo thì có thêm một ngày đặc biệt trong năm là ngày 02-11, ngày hướng lòng về những người đã khuất. Khác với bà con lương dân hay anh em khác đạo, Kitô hữu quây quần bên nhau tại các nghĩa trang quanh các ngôi mộ với một bầu khí tưng bừng như lễ hội.

Xin được chia sẻ một đôi tâm tình, đúng hơn là một vài cảm nghiệm liên hệ đến cái nơi được gọi là nghĩa trang. Nếu được hỏi nghĩa trang là gì ? Ta dễ dàng trả lời đó là nơi chôn cất người chết. Văn vẻ hơn thì nói đó là nơi yên nghĩ của những người đã ra đi, đã giả từ dương thế. Nếu chịu khó nghĩ suy một chút thì hai từ nghĩa trang còn gợi mở cho ta nhiều điều sâu xa.

Từ “nghĩa” diễn tả những việc, những điều hợp lẽ đạo. Chẳng hạn “nghĩa tử, nghĩa tận” tức là những gì ta làm cho người đã khuất là làm cho đến cùng mới hợp lẽ đạo. Từ “nghĩa” còn diễn tả sự kết hợp, sự nối liền nhờ ân tình. Chẳng hạn nghĩa tử, nghĩa phụ, nghĩa huynh, nghĩa đệ, nghĩa tế… tức là nhờ ân tình mà nối kết nhau thành cha con, anh em... Từ “trang” diễn tả nơi ở, nơi sinh hoạt. Chẳng hạn “gia trang” là nơi ở, nơi sinh hoạt của gia đinh, “nông trang” là nơi ở, nơi sinh hoạt của nông dân…Ghép hai từ nghĩa trang thì ta có được khái niệm đó là nơi ở của những người liên kết với nhau bằng ân tình, một nơi ở hợp lẽ đạo.

“Sinh ký, tử quy” và “lá rụng về cội”. Chết là đi về. Người đã khuất thì sẽ về một mối là về với cội nguồn. Trước đây, khi còn sống, người ta có thể khác nhau về tuổi tác, xa nhau về môi trường sống, sinh hoạt, khác nhau về địa vị, công việc…nhưng sau khi chết người ta được gần kề nhau. Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, người già hay trẻ bé, là đàn ông hay đàn bà…tất thảy đều nằm bên nhau và với nhau, không một chút tị hiềm hay cạnh tranh, không một chút so sánh hay đôi co hơn thiệt. Khi còn sống, có thể khác nhau huyết nhục, có thể khác nhau ngôn ngữ hay màu da và cả khác nhau về chính kiến hay niềm tin, người ta vẫn nằm kề bên nhau, có khi lại nằm chồng lên nhau trong sự an bình, yên tỉnh. Nghĩa trang là nơi ở của những người được kết nối với nhau bằng ân tình, hợp lẽ đạo là đạo làm người.

Nhiều người với nhiều cái xưa khác nhau, nay lại yên nghỉ trong cùng một mái nhà ân tình là nghĩa trang, ít nhiều cũng nhắc nhớ chúng ta quy luật của muôn đời, đúng hơn là quy luật của Đấng Tạo thành đặt để trên phận người là rồi đây ai cũng sẽ trở về với nơi mình phát xuất ra. Trong đức tin, chúng ta tin nhận rằng mọi người, bất phân chính kiến, màu da, quốc tịch hay niềm tin, thảy đều phải ra trình diện trước Đấng Chí Tôn, Đấng Tạo Thành. Hết thảy mọi người rồi sẽ trở về với cội nguồn để trả lẽ về những gì mình đã sống trên cõi dương gian này. Và cái nơi hội ngộ của ân tình là nghĩa trang cũng nhắc nhớ chúng ta tiêu chuẩn căn bản mà chúng ta phải trả lẽ trước Đấng Hoá Công đó là trái tim, tấm lòng của chúng ta đối với nhau khi ta còn lữ thứ. Chúa Kitô đã minh nhiên nói lên sự thật này trong dụ ngôn ngày phán xét chung ( x. Mt 25,31-46 ).

Cố nhạc sĩ họ Trịnh không chỉ cảm nhận “ người chết nối linh thiêng vào đời” mà còn đồng cảm với Kitô hữu chúng ta rằng người chết nhắc nhớ ta hãy sống với nhau cho có ân tình :“ Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng, để làm gì, em biết không ? Để gió cuốn đi…”, nghĩa là để bình an, thanh thản mà đi đến nơi mọi người sẽ đến là nghĩa trang, căn nhà của ân tình. “ Nào, những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát. các ngươi đã cho Ta uống…” ( Mt 25,34 tt ).

Ha(`ng na(m va`o tha’ng 11 , Hội Thánh mẹ mở kho tàng ân phúc của Chúa tạo dịp để các tín hữu mở rông tấm lòng hướng về người đã khuất. Các nguồn ân đại xá hay tiểu xá dành cho các linh hồn nơi luyện hình chính là những quà tặng của ân tình. Trao cho người đã khuất, dù chỉ là một món quà mọn cũng là vô giá, vì các linh hồn trong luyện hình giờ đây không thể làm được gì cho bản thân. Mầu nhiệm Hội Thánh thông công là một trong những mầu nhiệm đẹp của tình yêu. Dù rằng Hội Thánh dạy mỗi ngày chỉ có thể lãnh nhận một ân xá dành chi các linh hồn thế mà vẫn có đó hình ảnh nhiều cụ ông, cụ bà hết vào Nhà Thờ cầu nguyện lại ra nghĩa trang cầu nguyện. Có người vừa bước ra khỏi Nhà thờ lại quay vào để tiếp tục kiếm xin ân tình của Chúa mà trao dâng cho các linh hồn. Nói đến các linh hồn thì ít ai tiếc xót công hay của. Nhiều người đang nằm đó trong các nghĩa trang như một lời mời gọi chúng ta hãy sống cho có ân tình không chỉ cho chính họ mà cho cả chúng ta, những người đang con trong kiếp lữ thứ gian trần.


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

bethichconlua
15-07-2009, 04:03 PM
Suy Niệm: 3

“TÌNH ĐÃ CHẾT, NHỮNG MONG TÌNH SỐNG LẠI”


Khi biết lòng anh như đã chết
Mây thôi hồng mà lá cũng thôi xanh.
Mầu hoa tươi cũng héo ở trên cành.
Và vũ trụ thấy một mầu đen tối.
( dẫn nhập từ thơ Thâm Tâm )
Tình đã chết, nhưng tin chắc tình anh sẽ sống lại. Sống lại rồi, để tất cả sẽ vinh danh tình của Cha. Tình Chúa Cha, hôm nay được diễn bày thật rõ nét nơi trình thuật về anh La-da-rô. Có sự chết. Có tình người sống lại.
Trình thuật hôm nay, là Tin Mừng về sự sống, nỗi chết và sự sống lại. Qui trình sống-chết, là qui trình không ngừng diễn tiến nơi mọi sinh vật, nơi trần thế. Nơi con người. Với muông thú, cùng cỏ cây.
Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an viết khởi đầu bằng một khẩn báo, là: La-za-rô, người anh của Mác-ta và Ma-ri-a, bạn thiết thân với Đức Giê-su, nay đã mệt nhiều. Nghe anh mệt nhiều, nhưng Đức Giê-su vẫn cứ ngồi trầm tĩnh, rồi mới giải thích: La-da-rô dù mệt nhiều, nhưng nào đã đi dần vào cõi chết. Đây, là cơ hội để vinh quang Chúa được tỏ bày nơi mọi người. Vinh quang Chúa, nay thể hiện nơi Người Con Thân yêu của Cha. Vì thế, dù thương bạn đang mệt nhiều, Đức Giê-su vẫn bình thản. Trầm tĩnh. Những hai ngày sau, Ngài mới dạy: nào ta đi Giu-đê-a, đến thăm anh.
Thoạt nghe Ngài dạy bảo, các môn đồ liền cảnh báo ngay về những nguy hiểm, đang chờ Ngài. Đó là những đe doạ ném đá. Đe dọa ném đá, là vì các vị thủ lĩnh tôn giáo cứ kích động người dân đi Đạo nổi lên, quyết ám hại. Và đó cũng là lúc, ta có được câu nói để đời, từ Đức Chúa: “Phàm ai đi đứng vào lúc ban ngày, ắt sẽ không bị vấp ngã. Có vấp chăng, chỉ về đêm, khi không có ánh sáng ở với mình.” ( Ga 11, 9 – 10 ).
Bằng vào xác quyết này của Ngài đã ám chỉ: nay đã đến thời của sự sáng. Thời, mà mọi người không còn hãi sợ, dù có đe doạ bị ném đá. Hẳn ta còn nhớ, trước đó Đức Giê-su đã nhất mực tỏ bày: “Giờ Ta chưa đến”. Ngài tỏ bày nhiều lần, để mọi người không còn thôi thúc Ngài ra tay, không đúng lúc. Nay đã đến thời của sự sáng, tức: thời của những đối đầu chung cục, khó mà tránh. Và, Đức Chúa: “Thầy đi đánh thức anh ấy đây !” ( Ga 11, 11 ) Ở đây nữa, cũng như dân thường, môn đồ Chúa đã lẫn lộn giữa thức và ngủ. Thức – ngủ, ở đời thường. Thức - ngủ, tựa sự chết với sống lại. Thế nên, Chúa nói tiếp: “La-za-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có đó để anh em tin.” ( Ga 11, 14 – 15 ). Thành thử, “nay đã đến thời của sự sáng”, còn là xác định về thời để “anh em tin” !
Với niềm tin sẵn có, em của La-da-rô là Mác-ta bèn thưa: “Có Thầy ở đây, em con đã không chết !” ( Ga 11, 21 ). Lại nữa, cũng từ đây, hậu duệ chúng ta lại có thêm xác quyết để đời khác, từ Đức Chúa: “Thầy là sự sống và sự sống lại. Ai tin Thầy, dù có chết cũng sẽ được sống.”( Ga 11, 25 ).
Trọng tâm Lời Chúa hôm nay, nhằm vào nhận định kiên vững, Ngài vừa nói. Kiên định và vững chắc đến độ, nếu tiếp tục nghe, người người đều hiểu rõ lập trường của Đức Giê-su về sự chết và sự sống. Với Ngài, sự sống nay đã vượt quá mộ phần. Vượt cả lằn ranh sống – chết. Bởi từ nay, sự sống mới đã khởi đầu. Khởi đầu là khởi từ thái độ sống đối với những ai chấp nhận con Đường Ngài vạch ra.
Chấp nhận con đường sống, là có được thái độ như Mác-ta: “Con tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến với thế gian” ( Ga 11, 26 ). Lời thân thưa của Mác-ta làm ta trở về nhớ lại mặc khải Chúa ban cho nhiều người, cả người nữ phụ thành Sa-ma-ri, cho chí người hành khất mù ở Ga-li-lê, vào độ trước. Mặc khải ấy, nay lại đã trao ban cho anh em nhà La-da-rô, đại diện dân con của Đức Chúa.
Và khi đó, Mác-ta đã nhận ra, rằng:”Thầy đến rồi !” ( Ga 11: 28 ). Thầy đến rồi, là lời tuyên tín xuất từ tiếng Hy Lạp “parousia”, chỉ việc Đức Chúa quang lâm, nay hiện diện. Với thánh Gio-an, Thầy đến rồi ! và Thầy vẫn đang hiện diện nơi sự sống không có kết đoạn. Việc này, thực sự khởi sắc từ lúc Đức Giê-su đi vào cuộc sống. Của mọi người. Nghe câu nói đó, người chị Ma-ri-a lại đã một lần nhắc khéo Đức Chúa: ”Thưa Thầy, nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết !” ( Ga 11; 32 ).
Nghe đến đây, hẳn người đọc nhận ra khía cạnh rất “người” của Đức Giê-su, khi Ngài bật lên thành tiếng lòng, đầy thổn thức. “Thổn thức trong lòng và xao xuyến”, là ngôn từ mà trình thuật hôm nay muốn chứng tỏ: Đức Giê-su, cũng như mọi người, Ngài cũng biết sầu buồn. Cũng cảm thông trước tình huống phàm trần của đàn con thân yêu, khi có người thân thuộc vừa ra đi. Nghĩa là, Ngài cũng cất bước đến mộ phần người bạn thân La-da-rô, để làm cử chỉ tỏ bày tình thân; và để thông truyền một sứ điệp.
Nơi mộ phần đục sâu những đá tảng, Đức Giê-su đã trấn an thân thuộc người quá vãng, bằng một khẳng định: “Thầy há đã chẳng nói: nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” Và, sự việc tiếp diễn là để mọi người được thấy vinh quang Đức Chúa, ở với Ngài.
Toàn bộ trình thuật hôm nay, cần đọc và hiểu như một ngụ ngôn Chúa muốn kể: Đức Giê-su chính là Đức Ki-tô mà mọi người trông đợi. Việc La-da-rô sống lại từ cõi chết, không chỉ vực dậy thân xác con người vừa chết đi, nhưng còn là biểu trưng một cách hùng hồn về cuộc sống mới. Cuộc sống, mà mọi dân con nhà Đạo có lẽ sẽ từng trải. Là, khi tất cả đặt mình nơi quyền uy sức mạnh của Đức Giê-su là Đức Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, mọi người sẽ trỗi dậy từ việc chết đi cho những lầm lỡ/lỗi phạm, để rồi đến với sự sống, thấm nhuần tình yêu thương Thiên Chúa.
La-da-rô bước khỏi mộ phần, khiến ta nhớ lại lời lẽ Thánh Phao-lô mô tả phép thanh tẩy thời Hội Thánh tiên khởi. Vào thời đó, người chịu thanh tẩy đều ở bên hồ, cởi bỏ lớp áo trên người, bước sâu vào giòng nước, tượng trưng chấp nhận chết đi cho lỗi lầm mình mắc phạm, thời đã qua. Cũng giống như Đức Ki-tô Giê-su đi vào với sự chết, mang theo Ngài là toàn bộ lỗi phạm của ta. Để rồi, khi lên khỏi mặt nước, ( ở đây, phản ảnh việc Đức Giê-su rời bỏ mộ phần ), mặc áo trinh trong tượng trưng cho cuộc sống mới, có Chúa ở cùng.
Bằng vào trình thuật hôm nay, Thánh Gio-an đưa ta về với bối cảnh Nhiệm Tích Lễ Vượt Qua. Dịp đó, ta cử hành mừng kính tình yêu thương Chúa tỏ lộ cho ta, qua mọi sầu buồn, đau khổ. Qua sự chết. Và rồi, đạt sự sống lại của Đức Chúa. Kể như thế, Thánh Gio-an cũng đưa người đọc về với bối cảnh trong đó các dự tòng thời tiên khởi chuẩn bị lĩnh nhận ơn thanh tẩy, đêm Phục Sinh. Kể như thế, còn để giúp ta chuẩn bị hầu khởi đầu cuộc sống đích thực với ơn thanh tẩy, ta nhận lãnh.
Trong thông cảm cuộc Vượt Qua đầy thống khổ nhưng hy vọng, ta sẽ hát lời ca ý nghĩa, sau đây:


Bây giờ tháng mấy rồi hỡi anh ?
Em đi tìm mùa Xuân trên đời
Mùa đông chết đi, rồi mùa xuân
Mắt ta đẹp trời sao
Cho tình mình thương nhớ nhau
( Từ Công Phụng – Bây giờ tháng mấy )
Vâng. Đã chết rồi mùa Đông đầy lỗi phạm, những giá băng. Để rồi, ta đi vào mùa Xuân có thương, có nhớ. Nhớ rằng: “tình đã chết những mong tình sống lại”. Sống lại với Chúa. Với mọi người.
Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH, Mai Tá từ Úc diễn dịch

bethichconlua
15-07-2009, 04:05 PM
Suy Niệm: 4
HAM BẤT TỬ
(Ga 11, 1-45)

Khuynh hướng của con người ở đời là ham sống sợ chết. Ai cũng ước mong làm sao có thế kéo dài sự sống càng dài càng tốt. Nhưng từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây nào có ai chế tạo ra được lọai thuốc nào gọi được là trường sinh. Đây chỉ là những giấc mơ trong huyền thọai mà thôi. Con người chỉ có thể nhận ra một thực tế là sự chết không trừ một ai cả…
CÓ MỘT SỰ SỐNG BẤT TỬ ĐỜI SAU : Đọc lại Tin Mừng chúng ta như thấy có một cái gì thật gần gũi con người, thật gắn bó với ước mơ của con người như người phụ nữ Samaria đã xin Chúa Giêsu cho bà thứ nước không bao giờ khát nữa và bà cũng không phải tới giếng để múc nước hằng ngày. Vị thuốc bất tử con người mong tìm kiếm chúng ta có thể nhận ra ngay trong bài Tin mừng hôm nay:” Chính Thầy là sự sốn lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ khôn bao giờ phải chết”( Ga 11, 25-26 ). Đây là một thực tế, một chân lý, một niềm tin và thật ra ít người nhận ra sự thật này. Tại sao tin vào Chúa Giêsu Kitô sẽ có sự sống đời đời. Tại sao tin vào Đức Giêsu Kitô là đảm bảo cho sự sống đời đời. Ở đây, có lẽ có người cho rằng vì Lagiarô thân thiết với Chúa Giêsu, nên Chúa cho anh ta được sống lại ! Không, phép lạ xẩy ra vì lòng tin sâu xa của Maria và Matta vào Đức Giêsu là “ Sự sống và sự sống lại “ ( Ga 25 ). Phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lagiarô chết chôn bốn ngày trong mồ được sống lại, chính là niềm tin chuẩn bị cho một phép lạ cả thể, phép lạ lớn lao mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện nơi chính thân xác Ngài . Chúa Giêsu như lời đã tiên báo trước sẽ chết theo ý Thiên Chúa Cha, người ta sẽ chôn Ngài nơi huyệt đá và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại vinh quang khải hoàn. Đạo công giáo là đạo tình thường và tuần thánh giúp chúng ta hiểu rõ thế nào là tình thương của Chúa, thế nào là việc Chúa làm để cứu độ gian trần. Vâng, Chúa Giêsu chết và sống lại để đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, cõi sống trường sinh, vĩnh hằng, đưa con người từ nơi tạm bợ đến nơi trường sinh bất tử. Đó là đức tin của đạo công giáo, của những người theo Chúa.
PHẢI QUA SỰ CHẾT MỚI TỚI VINH QUANG: Thánh Phaolô đã viết :” Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình”( 1 Co 15, 17 ). Niềm tin đòi buộc con người phải sống tự hiến như Chúa. Chúa đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Đó là tình yêu của một con người tự hiến, một con người dám bỏ tất cả mọi sự để cứu lấy người khác. Tình yêu tự hiến là tình yêu vô vị lợi, tình yêu xả kỷ, tình yêu hy sinh cho người mình yêu. Người Kitô hữu tin vào sự chết và sự sống lại, chính là tin vào một con người đã tự hiến, đã hy sinh cho người mình yêu. Tin vào sự chết và sự sống lại, chính là sống như con người đã tự hiến và hoàn toàn xả kỷ vì người mình yêu. Tin vào Đức Giêsu Kitô sống lại chính là cùng với ngài gánh tội lỗi cho người khác để đi vào cõi phục sinh với Ngài. Người phục nữ Samaria bên thành giếng Giacóp đã được Chúa cho biết tất cả dĩ vãng, hiện tại của đời bà. Nhưng cuộc đời bà đã thay đổi tất cả khi Chúa mở mắt và ban lòng tin cho bà. Tin Đức Giêsu là sự sống lại, chính là chết đi cho những gì là tạm bợ, những gì là mau qua để chỉ tin vào sự vĩnh củu và bất tử của Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự sống. Không thể có một lọai thuốc trường sinh nào ở trần gian này được vì nếu có những người giầu sang, lắm tiền sẽ sống nhởn nhơ và trường sinh ở trần gian này. Chúa đã yêu thương Lagiarô :” Đức Giêsu liền khóc”( Ga 11, 35 ). Điều này diễn tả con người hoàn toàn người của Chúa Giêsu. Ngài yêu thương con người với tất cả con người của Ngài và khi làm cho Lagiarô sống lại từ cõi chết. Chúa muốn bầy tỏ con người còn đời sau và sự sống vĩnh cửu mới quan trọng. Ham sống vẫn là khuynh hướng của con người, nhưng sống vĩnh cửu mới là điều quí nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban long tin cho chúng con để chúng con tin vào tình yêu của Chúa và đặt niềm tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau. Amen.
Linh muc Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

bethichconlua
15-07-2009, 04:06 PM
Suy Niệm: 5
SỐNG LÀ ĐỨC KITÔ

Sống là một hồng ân. Chỉ khi nào mất mát hay bị đe dọa, sự sống mới nổi rõ như một giá trị lớn lao. Hôm nay Đức Giêsu sẽ mạc khải tất cả giá trị đích thực của sự sống trong tương quan với Thiên Chúa.
NGUỒN SỐNG.
Khi còn tại thế, Đức Giêsu sống giữa những tương quan khác nhau. Trong các tương quan, có lẽ Người gắn bó với gia đình Maria và Matta sâu đậm nhất. Sâu đậm đến nỗi đứng trước các chết của Lazarô, “Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.” (Ga 11:33) và “Đức Giêsu liền khóc.” (Ga 11:35) Tuy nhiên, Người không bị tình cảm đè bẹp trong nỗi thất vọng. Người vẫn tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa. Trái lại, chị em Matta đã không kìm chế nổi cơn thất vọng, mặc dù vẫn tin tưởng nơi Đức Giêsu. Cả hai đều nhất trí : “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây, em con đã không chết.” (Ga 11:21, 32) Nhưng vì thực tế quá bi đát, hai cô không dám xin Thầy làm phép lạ và cũng không dám tin Thầy sẽ trổ tài trong trường hợp đặc biệt này. Đó là lý do tại sao cô Matta nói : “ Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết,” (Ga 11:24) ngay sau khi Đức Giêsu đã quả quyết : “Em chị sẽ sống lại !” ( Ga 11:23) Đức Giêsu và cô Matta đều dùng chữ “sẽ”. Nhưng cô hiểu Lazarô sẽ sống lại trong thời cánh chung. Còn Đức Giêsu muốn cho cô và mọi người thấy tương lai không quá xa như thế. Lời hứa sẽ được thực hiện ngay lúc này. Nói khác, Người muốn cho mọi người thấy Tin Mừng luôn mang chiều kích “hôm nay”.
Vượt ngoài sức tưởng tượng, hai cô kinh ngạc trước việc Đức Giêsu trả lại Lazarô cho gia đình và xóm làng. Từ tình trạng tuyệt vọng, hai cô đã nhận lại tất cả những gì đã mất. Còn niềm vui nào lớn hơn ? Niềm vui phát xuất từ niềm tin nơi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Trước khi truyền cho anh Lazarô ra khỏi mồ, Đức Giêsu đã sốt sắng hướng về Chúa Cha như nguồn động lực khiến Người có thể quyết liệt hành động. Tin Mừng thuật lại khi đó “Đức Giêsu ngước mắt lên và nói : ‘Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.’” (Ga 11:41) Từ xác tín về tình yêu và sứ mạng Chúa Cha trao phó, Đức Giêsu đã mạnh dạn “kêu lớn tiếng : ‘Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!’” (Ga 11:43) Lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm từng nét từng chữ.
Làm sao lời Chúa có sức mạnh truyền tử thần phải buông tha con người ? Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết ! Lời Thiên Chúa đã giải thoát anh Lazarô khỏi ách tử thần. Những khăn vải trên người anh cũng đủ diễn tả cảnh gông cùm anh vừa trải qua. Đức Giêsu muốn giải thoát anh hoàn toàn. Thế nên, Người nói với những người chung quanh : “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” (Ga 11:44)

Đức Giêsu đã đưa anh trở về cuộc sống bình thường. Anh sung sướng vô cùng khi nhìn lại các chị và những người hàng xóm. Hơn ai hết, anh thấy sự sống như một hồng ân Thiên Chúa. Hồng ân đó hoàn toàn là dấu chỉ của lòng Chúa thương xót. Nhưng đồng thời, đó cũng là kết quả của niềm tin “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27) “để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa.” (Ga 11:4) Cô Matta đã tuyên xưng như thế. Cô đạt tới tột đỉnh niềm tin. Tuy thế, theo phản ứng tự nhiên, cô vẫn ái ngại trước lời Thầy đề nghị di chuyển phiến đá lấp cửa mồ (x. Ga 11:39) Khi anh Lazarô sống lại, cô đã “thấy được vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11:40) nơi sức mạnh Lời Chúa. Đúng như Chúa đã phán với Matta : “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” (Ga 11:25) Lazarô đã trở thành chứng nhân sống động nhất cho “trung tâm của niềm tin Kitô giáo” (Dictionary of Fundamental Theology 1995:311) : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.” (Ga 11:25)

SỰ SỐNG : MỘT GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI.
Sự sống là một giá trị tuyệt vời và cao cả nhất trên mặt đất. Nhưng giá trị đó đang tiêu trầm và băng hoại. Những nhóm người ủng hộ phá thai, đồng tính luyến ái đang hoạt động khắp nơi để chống lại con người. Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Hoa Kỳ đã giết 197,070 trẻ chưa sinh năm 2000, tăng 7.8 phần trăm so với năm 1999. Càng ngày Liên Hiệp càng có nhiều phương tiện tài chánh thực hiện việc phá hủy sự sống con người. Báo cáo tài chánh năm 2001 tổng cộng Liên Hiệp chi tiêu 672.6 triệu Mỹ kim. Trong đó 28 phần trăm do tư nhân đóng góp, chính phủ 30 phần trăm. Ông Douglas R. Scott, Chủ tịch Hội Quốc Tế Quyết Định Phò Sự sống, đã kêu gọi Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Hoa Kỳ chấm dứt “việc gia tăng khủng bố các trẻ chưa sinh.” (CWNews 12/03/02) Mặc dù rất nhiều phương tiện ngừa thai đã tung ra, nạn phá thai vẫn không giảm bớt. Vấn đề kế hoạch hóa gia đình ngày càng thêm tồi tệ. Một giải pháp nông cạn không thể giải quyết vấn đề. Xã hội sẽ không bao giờ có được giải pháp tốt đẹp nếu không tìm cách bảo vệ sự sống như một giá trị tuyệt đối. Tuyệt đối vì nguồn gốc và cứu cánh sự sống là Thiên Chúa. Nhất là, vì đã được phục hồi trong Đức Giêsu Kitô, nên sự sống trở thành vô giá.
Để phục hồi sự sống, cần phải đặt tất cả niềm tin nơi Đức Kitô. Thật vậy, chỉ Đức Giêsu mới “là sự sống lại và là sự sống” ! Không thể tìm được năng lực phục hồi sự sống nơi nào khác. Kết hiệp với nguồn mạch sự sống này, con người sẽ có khả năng hoạt động hữu hiệu. Quả thế, “chỉ những người cầu nguyện mới có thể là tác giả những hoạt động xã hội và tông đồ hiệu lực. Ước chi Thánh Thể, nguồn mạch bất tận phát xuất sự hiệp thông và quyết tâm tông đồ, luôn nằm tại trung tâm mọi sự.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit, 08/03/2002) Không kết hiệp với Đức Giêsu trong Thánh Thể, chắc chắn ĐGH đã không thể có tiếng nói mạnh mẽ thế giới như hôm nay. Thánh Thể là nguyên nhân hiệp nhất toàn thể nhân loại. Chính khi kết hiệp với “sự sống lại và sự sống” đó, con người mới hiểu được giá trị sự sống và tìm được đường lối phục hồi những giá trị và liên kết những khác biệt trong sinh hoạt nhân loại.

Đó là một niềm tin đích thực của Kitô hữu. “Niềm tin tôn giáo đích thực là một nguồn suối bất tận đem lại sự kính trọng lẫn nhau và sự hòa hợp giữa các dân tộc; thực vậy, đó là chủ lực chống lại bạo động và xung đột.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Nếu con người không tìm cách nào đối thoại với anh em đồng loại, nhân loại sẽ bị tiêu diệt. Quả thực, “cuộc đối thoại giua các tôn giáo và các nền văn hóa là một phần cốt yếu trong tiến trình tìm kiếm hòa bình.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Mặc dù hòa bình nhân loại luôn bị đe dọa, nhưng vẫn có “những dấu chỉ niềm hi vọng đích thực” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) trong các cuộc đối thoại văn hóa và tôn giáo đó đây. Các cuộc đối thoại đó nhằm khám phá “những con đường thực hành cổ động sự hiểu biết giữa các dân tộc và tạo lập nền tảng đối đầu với những vấn đề đang đè nặng gia đình nhân loại vào lúc khởi đầu kỷ nguyên này.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002)
Hi vọng đã vươn lên với tinh thần con người. “A’nh sáng muôn dân” sẽ giải thoát nhân loại khỏi những chế độ hà khắc, bất công, ích kỷ và đầy thành kiến nặng nề. Tương quan nhân loại sẽ tràn ngập niềm vui và hi vọng khi mọi người đều sống niềm tin đích thực của mình. Riêng Kitô hữu luôn xác tín “sống là Đức Kitô”. Chỉ Đức Kitô mới đem lại sự sống đích thực cho nhân loại mà thôi !
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP