PDA

View Full Version : Bảy lời của Đức Maria và đời sống Linh Mục



cafeda2009
10-11-2009, 09:29 AM
Bảy lời của Đức Maria và đời sống Linh Mục


T4, 01/07/2009 - 08:50
ĐGM GIUSE VŨ DUY THỐNG
GIÁM MỤC PHỤ TÁ TỔNG GIÁO PHẬN SÀI GÒN
BẢY LỜI CỦA ĐỨC MARIA & ĐỜI SỐNG LINH MỤC
BIẾT MÌNH
“Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34)
Có một bài thánh ca từ lâu đã nổi tiếng, nhưng từ hơn một năm nay lại càng nổi tiếng hơn. Nổi tiếng vì nội dung phong phú như ánh sáng muôn đời soi dẫn cuộc đời phụng sự, nhưng cũng nổi tiếng vì cách vận dụng bài thánh ca ấy trong những tình huống cụ thể để trở thành bài ca thời sự cho người có đạo cũng như cho người ngoại đạo, cho tín hữu trong nước cũng như cho tín hữu ngoài nước. Bài ca là lời kinh gieo tin yêu hy vọng và nhất là khi được hát cộng đồng đã trở thành sức mạnh làm chứng đức tin, bất kể những khó khăn mọi mặt. Đó là bài hát cha Kim Long phổ nhạc lời “Kinh hoà bình” của thánh Phanxicô Khó Khăn mà hầu như mọi tín hữu Việt Nam đã thuộc nằm lòng. Bài hát là một lời kinh tin tưởng mở đường mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, cũng là bài ca vẽ lên chương trình phục vụ và yêu thương mọi người trong Chúa. Bài hát là kinh nguyện hoà bình dâng lên Chúa và cũng là ước nguyện đấu tranh bất bạo động gửi gắm cho con người.
Bản thân, khi được hoà vào dòng chảy hoà bình mạnh mẽ ấy, nhất là với ánh nến trên tay giữa bóng tối vây quanh, tôi cũng cảm nhận được những nghịch lý quắt quay của hành trình đức tin Kitô giáo. Hôm nay, nếu được hát bài ca này giữa cộng đoàn, xin chỉ dừng lại trong một nghịch lý cũng là chân lý ngàn đời của người phụng sự: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”, để thấy được rằng khi quên mình tưởng là không biết mình mà kỳ thực lại là cách khẳng định mình đẹp nhất, cũng như nói “mình không biết” lại là cách diễn tả “mình biết mình” hơn cả bao giờ.
Lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm là lời khẳng định Mẹ không biết, nhưng chính lại là lời cho thấy Mẹ biết mình rất rõ để từ đó làm cơ sở mà bước vào chương trình của Thiên Chúa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”. Trong khuôn khổ của những ngày tĩnh tâm linh mục, chúng ta trước hết sẽ tìm hiểu ý nghĩa lời của Đức Maria trong bối cảnh năm xưa, và tiếp theo sẽ xét xem lời đó rọi sáng điều gì trên đời sống hôm nay của linh mục.
I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA
1. Từ thái độ bối rối
Khi thốt lên lời thứ nhất, Đức Maria đang ở trong một hoàn cảnh khó xử. Khó xử bên ngoài có thể vì sự xuất hiện của một gương mặt lạ trong nhà mình, cho dẫu với kiến thức truyền thống của một thiếu nữ Sion ngoan đạo, Mẹ đã chẳng lạ gì với những tên tuổi thiêng liêng phụng mệnh Thiên Chúa. Trình thuật Phúc Âm đã không vòng vo để gọi tên vị khách lạ ấy là thiên sứ Gabriel. Sự xuất hiện của một người lạ phàm nhân như người hàng xóm chẳng hạn, có lẽ không gây khó xử vì là chuyện thường ngày; nhưng khi sứ thần Thiên Chúa đến gặp ai thì không còn là chuyện thường ngày nữa, mà xem ra đã là chuyện trọng đại ngoại thường. Nhưng khó xử bên trong nội dung câu chuyện trao đổi, từ lời chào cho đến sứ điệp chuyển đạt, mới là điều đáng nói. Nghe những lời ấy, ruột gan Đức Maria rối bời. Có thể lý giải những bối rối của Đức Maria, dựa trên chính lời nói của thiên sứ Gabriel.
Bối rối thứ nhất: Hồng ân Chúa quá cao, phận mình lại bé nhỏ. Trước lời chào đặc biệt của thiên sứ “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”, Đức Maria đã cảm nhận một bầu khí hồng ân đang bao bọc lấy mình. Đây không chỉ là lời chào thông thường, mà còn là lời xác nhận Thiên Chúa luôn hiện diện hỗ trợ. Đây cũng không chỉ là lời chào khuôn định xã giao, mà còn là lời mời gọi hãy mừng vui lên vì được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn để góp công góp sức góp thân góp phận vào công trình yêu thương của Ngài. Tiếng chào cao hơn mâm cỗ. Nếu mâm cỗ ở đây là ân sủng đầy tràn của Thiên Chúa, thì lời chào “Mừng vui lên” đã được đẩy lên tầm cao tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
Lạ lùng lắm sứ thần Gabriel sử dụng từ “kêcharitômênê – đầy ân sủng” áp dụng cho người trần, nên càng hiểu hơn nữa tâm tình phản tỉnh của Đức Maria. Trong tiếng Việt, có thể phân tích bằng ba chữ “đ” = “đã được đầy”. 1/ đã: Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương ban ơn và Ngài còn luôn ban ơn cho đến ngàn sau (chiều dài); 2/ được: Những ơn sủng Đức Maria có đều là nhận được từ Thiên Chúa tình thương (chiều cao); 3/ đầy: Tràn lan, chứa chan, trọn vẹn mỗi ơn và toàn vẹn mọi ơn (chiều rộng). Như thế, từ “kêcharitômênê” khi biến thành danh xưng gọi Đức Maria phải được giải thích là “Đấng đã được ban đầy tràn ân sủng”. Quả là một danh xưng ngoại thường, được xướng lên trong một khung cảnh trang trọng của buổi truyền tin, nhất là lại có sự xuất hiện của nhân vật từ trời, thử hỏi người nghe có thể bình tĩnh được chăng? Thảo nào, Phúc Âm kể: Đức Maria rất bối rối.
Bối rối thứ hai: Sứ mạng Chúa trao quá lớn, sức mình lại yếu ớt. Có lẽ chẳng cần dài lời lý giải, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của Đức Maria năm xưa, cũng đủ hình dung tâm tình của Mẹ trước câu nói của sứ thần. “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Quả là bối rối trước hàng loạt nghịch lý của sứ mạng đề ra: trinh nữ mà lại sinh con; con người mà lại sinh ra Con Đấng Tối Cao; nhà hai lúa mà lại được ban cho ngai vàng Đavít. Với đầu óc thiếu nữ thực dụng ngày nay, có thể đây là cơ hội ngàn vàng kiểu “ăn mày gặp xôi gấc”, phải chộp lấy ngay kẻo dịp may không quay trở lại, chẳng phải đắn đo lo nghĩ làm gì cho già người đi. Thế nhưng với Đức Maria thì khác. Ngài nghĩ: Chúa trao sứ mạng quá lớn, mà ngài thì sức yếu vai mềm làm sao gánh vác nổi. Phận cỏ mình rơm của một thiếu nữ miền quê Nagiarét làm sao dám mơ với lên lá ngọc cành vàng của Đức Chúa là Thiên Chúa.
Vì thế, đã bối rối về hồng ân cao cả lãnh nhận, lại càng bối rối hơn về sứ mạng lớn lao được trao, nhất là trong tình huống cụ thể của một gia đình tương lai mà Đức Maria chưa tưởng tượng hết được, ở đó việc đặt tên tuỳ thuộc phần lớn ở người đàn ông như trường hợp gia đình Giacaria chẳng hạn, còn ở đây, theo lời sứ thần, Mẹ sẽ phải cáng đáng nhiệm vụ ấy để nhận tên trước cho con trẻ là Giêsu, với ý nghĩa cao quý ở đỉnh cao lòng mong chờ của toàn dân: Giêsu = Giavê là Đấng Cứu Độ.
2. Đến câu hỏi “thế nào?”
Bối rối trước hồng ân và bối rối trước sứ mạng, dẫu thật là thế, cũng chỉ là những cảm nhận trong tâm tưởng của Đức Maria khi đối chiếu mình với lời nói của sứ thần Gabriel; nhưng chính khi buột miệng thốt ra lời đầu tiên, Đức Maria mới để lộ cho thấy điều ngài quan tâm hơn cả không phải là một tương lai dòng dõi hoàng vương, cũng không phải là một vị thế gia phong huy hoàng choáng ngợp nằm mơ cũng không thấy; mà là một điều liên hệ trực tiếp đến chính bản thân ngài vốn là một trinh nữ làm sao có thể đi vào nhịp cầu sinh nở, hay nhạy cảm hơn, làm sao có thể đón nhận mối quan hệ nam nữ như cửa ngõ duy nhất của việc sinh con, làm sao có thể dung hoà giữa hai bậc sống khác biệt đồng trinh và gia đình, và làm sao một cuộc đời đã thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn lại có thể chia sẻ ra để thuộc về người khác. Nghĩ sao nói vậy, Đức Maria thưa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.
Về lời đáp của Đức Maria dành cho sứ thần, cũng là một câu hỏi can dự đến lựa chọn bậc sống của ngài, trong tiếng Việt, có một cách dịch nghe ra không thuận lắm vì có thể làm suy giảm tâm tình cởi mở của Mẹ trước đề nghị của Thiên Chúa, đó là lời dịch “Việc đó xảy đến thế nào được”. Đã đành có bối rối, nhưng không thể để xuất hiện một lời mang hàm ý từ chối, trong khi lời dịch “Việc đó được xảy đến thế nào” lại bộc lộ một thái độ tiếp nhận dù còn chờ giải thích rõ hơn. Tiếng Việt hay lắm. Chỉ đảo vị trí chữ “được” thôi cũng thay đổi hẳn cả ý nghĩa, ấy là chưa nói đến cách bỏ dấu: “thế nào được!” sẽ đi với dấu chấm than, trong khi “được thế nào?” sẽ gọi theo dấu chấm hỏi.
Trong lời của Đức Maria, nếu phần đầu là một nỗi băn khoăn dấu hiệu của tâm tình bối rối: “việc đó được xảy đến thế nào?”, thì phần sau lại là một lý do hàm chứa một khẳng định quan trọng: “tôi không biết đến việc vợ chồng”. Lời này cho thấy:
Trực tiếp là việc Mẹ đưa ra lý do “không biết đến việc vợ chồng”. Mà đúng thật. Trong ngôn ngữ Do Thái, động từ “biết” là một động từ đặc biệt, nó không nhằm thái độ tri thức của một chủ thể đối với một khách thể cho bằng muốn diễn tả mối liên hệ cận thân xoắn xuýt của những thể ấy với nhau đến nỗi dẫu trong thực tế vẫn phân biệt chủ khách, nhưng trong thực thể không còn phân chia khách chủ nữa. Nói đúng hơn, chủ khách đã “nên một”. Chẳng phải nói dài lời, chỉ cần lần giở mục từ “biết” trong cuốn Điển ngữ Thần học Thánh Kinh hoặc trong một vài điểm chú giải của những bộ Thánh Kinh, người ta cũng có thể hình dung được ý nghĩa đặc trưng này, cách riêng trong mối quan hệ vợ chồng.
Khi Thánh Kinh nói “Adam biết Eva” thì không chỉ hiểu là họ nhận ra nhau trong tình thân vô tư theo kiểu bài hát sinh hoạt “Gần nhau trong cho nhau yêu thương tình loài người”, mà còn phải hiểu là họ đã gần nhau nên một xương một thịt, đã gần nhau qua việc chia sẻ sự sống cho nhau và đã gần nhau để ăn đời ở kiếp với nhau. Vì thế, khi Đức Maria nói không biết đến việc vợ chồng thì chắc chắn ngài đã sử dụng động từ “biết” của ngôn ngữ Do Thái trong ý nghĩa hiện thực nhất, tức là không liên hệ thân xác với người khác phái, cho dẫu đã đính hôn với một người phái nam theo quy định của luật pháp đường hoàng.
Nhưng gián tiếp, Đức Maria lại khẳng định “tôi biết mình là một trinh nữ”, một người nữ đã chọn cho mình bậc sống đồng trinh, một người nữ đã hiến dâng đời mình để trọn vẹn thuộc về Chúa. Trong trình thuật Phúc Âm liên hệ, thánh Luca đã sử dụng từ “trinh nữ” 2 lần. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nagiarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27).
Tại sao tác giả Phúc Âm không dùng chữ “thiếu nữ” hay “thiếu phụ”? Thưa chỉ vì muốn cho độc giả nhớ lại lời các tiên tri đã từng khẳng định Thiên Chúa sẽ được trinh nữ Israel đón nhận. Nếu trong bao thế kỷ, Thiên Chúa đã phải gánh chịu những tội bất tín bất trung của dân mình nhưng đã tha thứ hết cho họ, thì khi xuống thế làm người, Người lại muốn được dân mình đón nhận với lòng trung trinh, với đức tin hoàn hảo, nghĩa là, với một cuộc đời tựa đoá hoa ẩn kín chưa hề bị chiếm hữu, và muốn biến cả đời mình thành tặng phẩm hoàn toàn hiến dâng.
Chắc hẳn khi nêu lên lý do “không biết đến việc vợ chồng”, Đức Maria đã ý thức, đã biết rất rõ về nhân thân đồng trinh của mình; nếu không, không thể hiểu được tại sao Mẹ phải bối rối trước mặt thiên sứ, tại sao Mẹ phải bối rối khi nghe những lời ngọt ngào chào kính “bà đầy ân sủng” và “bà đẹp lòng Thiên Chúa”, và tại sao Mẹ phải phản tỉnh suy tư tự hỏi mình chán rồi mới bật ra thành lời, mà lời ấy lại là một câu hỏi thăm dò tìm hiểu xin soi sáng khởi đi trong tâm là “sự biết mình”, nhưng ngoài miệng là “sự không biết đến việc vợ chồng”.
3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi
Những ghi nhận nêu trên cho thấy trong lời đầu của Đức Maria đã hàm chứa cả một nghịch lý mang màu biện chứng giữa biết và không biết cả trên bình diện tri thức lẫn bình diện hiện thực, tương tự như biện chứng của thánh Phanxicô Khó Khăn giữa quên mình và gặp lại mình.
Nếu châm ngôn “Không nên nói hết những gì mình biết, mà nên biết hết những gì mình nói” là lời phổ cập cho hết mọi người, thì xem ra càng đúng hơn với trường hợp của Đức Maria với câu nói đầu tiên này: Mẹ biết hết những gì Mẹ nói. Đây không chỉ là phong cách đời sống mà xem ra đã là cốt cách của Mẹ trong cả cuộc đời dấn thân đón lấy hồng ân Chúa gửi và nhận lấy sứ mạng Chúa trao.
Nói “không biết đến việc vợ chồng, vì Mẹ biết mình là một trinh nữ” hay nói “biết mình là một trinh nữ, nên Mẹ không biết đến việc vợ chồng”, cách nào cũng không thay đổi ý nghĩa. Nghĩa minh nhiên hàm chứa nghĩa mặc nhiên, và nghĩa mặc nhiên làm điều kiện cho nghĩa minh nhiên. Biện chứng là thế và nghịch lý cũng là thế. Vừa là trinh nữ, vừa là mẹ; là trinh nữ mà vẫn sinh con; là mẹ mà vẫn ngàn đời trinh khiết.
Luôn luôn các biến cố đời Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu đều được xây dựng trên nền của cái thế đong đưa biện chứng giữa biết và không biết ấy. Chả thế mà trong trình thuật đời thơ ấu của Chúa Giêsu với những biến cố dồn dập, bao giờ cũng thế, thánh sử cẩn thận ghi lại tư thế của Đức Maria là: “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Tại sao vậy? Phải chăng vì Mẹ ít nói hay nói ít, cả Phúc Âm chỉ ghi lại bảy lời? Phải chăng vì Mẹ thích suy tư phản tỉnh trước mọi tình huống, hay vì Mẹ trầm tĩnh đắm mình trong biện chứng đong đưa giữa sự kiện và mầu nhiệm, giữa những gì rõ mười mươi trước mắt và những gì còn ẩn khuất bên trong, nói tóm lại, giữa biết và không biết? Ghi nhớ những việc xảy ra, vì Mẹ biết rõ mồn một; và suy niệm trong lòng vì Mẹ chưa biết hết ý nghĩa của từng việc, nhất là khi kết nối những việc ấy lại trong nhãn giới cứu độ. Ghi nhớ vì đã là kinh nghiệm thuộc về quá khứ; và suy niệm trong lòng vì việc đó còn là kinh nguyện cho tương lai. Ghi nhớ là kho tàng chất chứa những gì đã biết, còn suy niệm trong lòng là kho tàng để dành những gì hôm nay chưa biết hết nhưng sẽ được khám phá dần dần vào những ngày sắp đến tiếp theo.
Lấy ví dụ biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, người ta sẽ hiểu hơn về lối sống trong tinh thần biết mình của Đức Maria. Khi biết mình phải chu toàn lễ thanh tẩy vì mới sinh con và phải thánh hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa theo quy định của lề luật, Đức Maria đâu có ngờ gặp cụ ông Simêon và nghe ông cụ móm mém hát bài ca an bình ra đi. Nghe mừng mừng tủi tủi. Tính biện chứng giữa biết và không biết của biến cố cũng được trải ra thật rõ ở đây. Đức Maria biết mình phải dâng con phút đầu đời, nhưng không biết con mình cũng nên quà tặng cho những người phút cuối đời nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu đang được ẵm bế trong vòng tay mình, nhưng không biết trẻ ấy còn được trao cho những vòng tay khác nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu Hoàng Tử hoà bình, nhưng lại không biết trẻ thánh còn nên duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên; Đức Maria biết mình đang ôm ấp trẻ Giêsu hạnh phúc, nhưng không biết trẻ ấy sẽ còn thành dấu hiệu cho người đời chống báng; Đức Maria đã biết nhiệm vụ nuôi nấng chăm sóc trẻ Giêsu, nhưng làm sao biết được mầu nhiệm của lưỡi gươm sẽ đâu thấu tâm hồn.
Tóm lại, tìm hiểu lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm theo kiểu chẻ sợi tóc ra làm tư sẽ dẫn ta đến một nhận thức: biết mình là một bước quan trọng trong hành trình đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa.
Biết mình là bước đầu thật cơ bản làm tiền đề cho những bước tiếp theo. Nếu bước đầu biết đắn đo, những bước sau sẽ không phải lo nghĩ nhiều. Đầu xuôi đuôi lọt mà. Nhưng nếu bước đầu đã buông trôi, chẳng mong gì những bước sau sẽ vững chãi. Biết mình cũng là cả một hành trình biện chứng giữa biết và không biết. Nếu biết là chính đề thì không biết là phản đề, và hợp đề là những kinh nghiệm rồi quyết tâm đilên theo một bước biện chứng mới. Nơi Đức Maria, biết mình còn là một lối sống luôn luôn rộng mở để ghi nhớ và suy niệm trong lòng, để lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong bộ sách nổi tiếng “Từ đỉnh cao Thập giá”, đã khéo nối kết lời đầu của Chúa Giêsu trên Thánh giá với lời đầu của Đức Maria trong Phúc Âm để nêu cao nhận định về nét tích cực trong việc không biết. Chúa Giêsu xin Cha mở lòng tha thứ cho lý hình vì họ không biết việc họ làm; Đức Maria mở lòng cho ý định của Thiên Chúa vì Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Cả trong lời của Chúa Giêsu và lời của Đức Mẹ, sự không biết đã bật mở ra những câhn trời mới của hồng ân. Càng biết mình bao nhiêu, càng biết Chúa bấy nhiêu; và ngược lại, càng biết Chúa bao nhiêu, càng biết mình bấy nhiêu.
II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH
Nhìn vào Đức Maria qua lời đầu tiên của Mẹ, ta đã thấy sáng lên không chỉ một phản ứng cấp thời, mà còn cả một chiều dài của lối sống đức tin. Ánh sáng ấy đã dẫn Đức Mẹ tiến bước theo Chúa Giêsu trên đường cứu độ. Chậm mà chắc. Nhưng ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi điều gì trên đời sống của linh mục hôm nay?
1. Biết mình
Ngay từ những năm đầu của Đại chủng viện, qua ban Triết học, mỗi đại chủng sinh đã được làm quen với một phương pháp quan sát suy tư thuộc loại hàng đầu nếu muốn bước sâu tiến xa vào lầu đài triết học, đó là phương pháp nội quan: mình quan sát mình, mình nhìn vào mình để có những phản tỉnh và nhận thức về chính mình. Nhớ lại hồi ấy, khi cha giáo nêu ra dẫn chứng là câu “Connais-toi, toi-même” (Hãy biết mình) được ghi trên cổng đền thờ hy lạp nào đó, thú thật chủng sinh chẳng hiểu gì nhiều, cứ như lời cảnh báo xa gần của cha giám luật về hạnh kiểm cuối năm hoặc như lời giảng giải xét mình của cha linh hướng mỗi lần cử hành bí tích hoà giải. Thế nhưng, nghe riết rồi thấm; làm riết rồi quen, để khi lãnh chức linh mục đã thấy hình thành trong mình tự thuở nào một phương pháp suy tư phản tỉnh.
Rồi khi thi hành nhiệm vụ linh mục, ngày từng ngày, những lúc xét mình, những khi sám hối, những phút hồi tâm, những giờ linh hướng đã tích luỹ nơi mỗi linh mục một thứ hành trang không thể thiếu được, dẫu chẳng phơi bày, đó là việc biết mình. Cũng như nơi Đức Maria, biết mình nơi từng linh mục ảnh hưởng lên lối sống và nhất là hình thành nơi người mục tử một bản lĩnh đức tin.
Một linh mục đã nghỉ hưu nhưng còn khoẻ khoắn lắm, vẫn thường có mặt trong mọi sinh hoạt của Giáo Phận có lần đã chia sẻ kinh nhgiệm với các linh mục trẻ rằng: Nếu mỗi ngày sống trọn vẹn những phút hồi tâm sáng trưa chiều tối, đời sống linh mục sẽ khoẻ lắm. Nghe trong lời chia sẻ chân thành ấy, người ta hiểu xét mình chính là một cách biết mình không thể thay thế, để tiến triển trên đường nên thánh.
Nhưng linh mục biết mình đâu chỉ là biết một mình theo kiểu “một mình mình biết một mình mình hay” mà còn là biết mình trong tương quan với người khác qua việc đối nhân xử thế. Nếu cụm từ “chỉ biết mình” mang một nghĩa xấu diễn tả tính ích kỷ bo bo một mình, thì cụm từ “biết mình biết người” lại bộc lộ tính khôn khéo của kẻ thành công được lòng mọi người, vừa khôn trong tính toán, vừa khéo trong tương giao. Linh mục được sai đến một giáo xứ để phục vụ, dẫu làm việc hết mình, chẳng ai cầu toàn rằng mình được hết mọi người quý mến, nhưng thiết tưởng với châm ngôn “biết mình biết người” hướng dẫn cách cư xử, linh mục sẽ tìm được sức mạnh nâng đỡ để nếu gặp khó khăn cũng dễ vượt lên, gặp truân chuyên cũng dễ khắc phục và nếu có gặp sung túc cũng dễ chia sẻ giúp đỡ người khác. Ngày nào còn biết mình, ngày ấy còn hy vọng để tâm hồn thăng hoa; nhưng chẳng may một khi không còn biết mình đầy đủ nữa, linh mục sẽ vô tình dẫn vào đời mình một cách sống xa lạ với chính mình, một lối sống xa rời xã hội và ngại hơn nữa là một đời sống xa lìa lý tưởng hiến dâng và phục vụ. Trong ngôn ngữ hiện nay, người ta gọi đó là “đánh mất mình”.
Một linh mục trẻ vừa được thuyên chuyển chỉ vì quá mê vi tính, tối ngày khép mình không tiếp xúc với ai, quên cả ngủ ngáy, quên cả lễ lạy, không còn biết mình là linh mục được sai đi để phục vụ nữa. Khổ.
Biết mình sẽ giúp linh mục định vị được mình giữa mớ bòng bong đa chiều của những phận vụ đạo đời. Cha phụ tá nào được sai đến giúp một cha sở ở một giáo xứ nhất định và biết mình trong vị trí đó, ắt hẳn sẽ có những cư xử đúng mực. Phụ tá không phải phụ tá cho một giáo xứ mà cho một cha sở vốn là “chủ chăn riêng của một nơi” theo Giáo luật, nên không nóng vội coi mình bằng vai phải lứa với cha sở, để lên mặt cho mình gần gũi với giáo dân hơn cha sở hoặc lên máu hăng say qua mặt ngài trong mọi việc. Nhiều vị phụ tá nghĩ đơn giản rằng mình với cha sở đều là linh mục cả, nên đâu phải giữ khoảng cách làm gì. Nghe có vẻ thuận lý và thường được một số giáo dân tâng bốc đồng tình, nhưng như thế là không biết rõ về vị trí của mình. Xin nhớ cho rằng phần lớn những thất bại của các cha phụ tá là ở điểm này.
Cha sở nào có cha phụ tá và biết mình trong vị trí cha sở, ắt cũng có những cách chăm sóc thắm tình dành cho cha phụ tá của mình. Những tháng năm làm phụ tá cho những cha sở như thế sẽ trở thành kỷ niệm khó quên. Đước Giáo Hoàng Piô X luôn coi những năm làm phụ tá cho cha sở Costantini ở Tombolo là những năm hạnh phúc trong đời linh mục của ngài. Nơi cha sở, ngài nhìn được gương sáng đạo đức, ngài gặp được tấm lòng nhân hậu và ngài còn được chỉ dẫn tận tình về những công việc mục vụ. Phần đông các cha sở hôm nay đều hân hoan đón nhận cha phụ tá vàhết lòng nâng đỡ các ngài trong mọi việc để nên gương sáng cho giáo dân. Nhiều giáo dân rất ngưỡng phục mẫu gương ấy khi thấy đi đâu cha phụ tá cũng đèo cha sở mình trên chiếc Honda. Nhưng đó đây vẫn còn một số vị chưa coi các cha phụ tá như người cộng sự, như người hợp tác làm việc trên cùng cánh đồng dân Chúa, thậm chí có vị còn coi cha phụ tá của mình như một gánh nặng chẳng đặng đừng.
Một cha sở hiền hoà ở một giáo xứ lớn vừa được giám mục gỡ đi cha phụ tá đã tâm sự rằng: ở một mình làm việc vất vả nhưng vui vẻ; có cha phụ tá việc nhẹ nhàng hơn nhưng cuộc sống không vui. Chỉ vì cha phụ tá không biết vị trí của mình. Một cha phụ tá trẻ trung ở một giáo xứ lớn khác thường bị anh em cùng khoá chọc ghẹo là “linh mục ôsin” lại than thở rằng: cuộc sống ở xứ như ở đợ, cha sở bắt làm lễ nợ, cả năm cho ăn chứ không cho bổng lễ. chuyện khó tin nhưng có thật. Chỉ vì cha sở không biết vị trí của mình.
Những mảng sáng tối trong đời sống được nêu lên chỉ muốn khẳng định rằng: từng người biết mình, cuộc sống sẽ bình an ổn định; từng linh mục biết mình, cuộc đời sẽ bản lĩnh và hạnh phúc. Giống như trong thân thể từng bộ phận chu toàn phận vụ của mình, chủ nhân của thân thể ấy sẽ có sức khoẻ tốt làm điều kiện cho một đời sống hài hoà. Kinh nghiệm thường thức cũng xác nhận điều này: người táo bón thường hay cau có, kẻ mập mạp thường khó đi nhanh.
2. Linh mục và lời “tôi biết”
Biết mình trong tương quan với chính mình hoặc trong tương quan với người khác đã là những cách tích cực, nhưng linh mục trong nhịp sống thiêng liêng, chỉ có thể biết mình rõ nét khi đặt mình trong tương quan với Chúa. Chính ở đây, câu hỏi “linh mục là ai?” được nêu lên và mong ước trong tinh thần biết mình mỗi người sẽ đưa ra những câu trả lời xác định.
Linh mục trước hết là người thuộc về Chúa Kitô. Thực ra, theo định nghĩa cơ bản, là kitô hữu, ai mà chả thuộc về Chúa Kitô. Nhưng linh mục thì khác, biết mình thuộc về Chúa Kitô là Đầu, được chọn gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và cũng để làm việc trong tư cách của Chúa Kitô, in personna Christi Capitis. Lời khẳng định này linh mục nào mà chả biết. Thế nhưng từ biết chung chung trong học thuyết đến biết thuần nhị cá nhân để có thể khẳng định “tôi biết” lại là một khoảng cách không nhỏ. Thật vậy, biết mình thuộc về Chúa Kitô không dừng lại trong nhận thức mà còn trải ra thực hành, từ thực hành nhỏ đến thực hành lớn, từ thực hành một ngày đến thực hành một đời.
Qua những nỗ lực không ngơi nghỉ hướng về Chúa Kitô, linh mục quy chiếu mọi khoảnh khắc và công việc trong phận vụ mình vào đời sống Chúa Kitô để có sự hoà điệu thánh thiêng cần thiết mà diễn tả tính khả tín cũng như khả ái của sứ vụ được trao. Nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô mà đời sống không quy hướng về Chúa Kitô để dựng xây thì e rằng đã làm giảm thiểu tính khả tín trong sứ vụ; ngược lại những ý mình nghĩ những lời mình nói những việc mình làm biết quy hướng về Chúa Kitô sẽ cho thấy một khuôn mặt khả ái của linh mục ở giữa cộng đoàn. Giáo dân hôm nay xem ra rất bén nhạy về khía cạnh này. Ở đây tâm tình của thánh Phaolô cũng phải là tâm tình của mỗi linh mục: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nữa, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Và rồi, như ngựa chạy đường dài sẽ có ngày thấm mệt, linh mục trong đời cũng có những lúc đàn lỡ nhịp hoặc chùng dây không còn tấu lên điệu khúc dâng hiến như mộng ước ban đầu, những lúc ấy nhận thức mình thuộc về Chúa Kitô lại là một sức mạnh đem lại hy vọng để vươn lên tìm về với Chúa Kitô mà nhận lại sự sống. Như vậy, thuộc về Chúa Kitô là những nét cơ bản giúp linh mục soi bóng để biết mình.
Nhưng linh mục dầu thiện chí đến đâu cũng không tự mình có thể dấn thân vào đường sứ vụ. Sứ vụ phải được trao và được nhận, vì thế cùng với ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, linh mục cũng biết mình thuộc về Giáo Hội. Giáo Hội phổ quát là cả một kho tàng mênh mông ơn thánh, nhưng Giáo Hội địa phương nơi mình được sai đến mới là trọn vẹn tấm lòng gửi trao và cuộc đời thể hiện. Nếu trong đời sống dân sự, không thể có một công dân không quốc tịch, thì trong đời sống tôn giáo, cũng không thể có một linh mục trên không chằng dưới không rễ lông bông lang thang khắp nơi mà chẳng chịu nhập tịch vào Giáo Phận nào. Linh mục mà không thuộc về Giáo Hội địa phương nào thì không còn là linh mục đúng nghĩa nữa. Vì thế khi trả lời cho câu hỏi “linh mục là ai?” thì cũng là lúc khẳng định mình thuộc về Giáo Hội nào, nếu không sẽ có nguy cơ sống kiểu bèo giạt mây trôi vừa đánh mất mình vừa không nêu gương sáng cho người khác. Linh mục thuộc về Chúa Kitô nên cũng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô để nhận lấy trách vụ làm việc cho Chúa Kitô. Như Đức Maria, linh mục biết mình là người của hồng ân và sứ mạng, nên luôn ghi tâm khắc cốt: hồng ân Chúa ban, dấn thân theo đuổi, dong duổi một đời.
3. Linh mục và lời “tôi không biết”
Những khẳng định mình biết sẽ dẫn tới những lãnh vực mình khong biết nơi đời linh mục, vừa như một thái cực ngược lại để đối chiếu, vừa như một liệt kê tương phản để nỗ lực vượt qua.
Trước hết là lãnh vực tình cảm. Người ta bảo khác với đàn bà, trái tim đàn ông có nhiều ngăn lắm, mỗi ngăn dành cho một đối tượng theo thứ tự ưu tiêu. Không biết có đúng không? Khổ nỗi linh mục cũng là đàn ông, nên xin mượn hình ảnh ấy để minh hoạ. Trái tim linh mục cũng có nhiều ngăn: ngăn dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội; ngăn dành cho gia đình ruột thịt mẹ cha, rồi đến ngăn bao la dành cho già trẻ lớn bé bạn bè cộng sự. Lý ra những ngăn ấy được xếp theo thứ tự ưu tiên, nhưng nhiều khi lu bu tình Chúa tình người hoặc cả nể yêu người như mình ta vậy, những ngăn đó cứ bị đảo tung lên, sự việc đổ bể khiến mình bị thương tứ bề. Bị thương theo cả hai nghĩa: bị thương mến kiềm toả bủa vây và bị thương tổn danh dự khó vớt vát được.
Về tình yêu nam nữ, theo lý thuyết linh mục chẳng yêu riêng ai và cũng chẳng có ai làm của riêng cho mình, nhưng trên thực tế hành trình của động từ yêu nơi đời linh mục rối rắm khó lý giải lắm. Con tim có lý lẽ của nó. Có khi mới đầu chỉ là tình bạn giúp đỡ hỗ trợ một việc già đó, rồi dần dà thân thiết mọc cánh yêu thương; vẫn biết nam nữ thọ thọ bất thân, mà làm sao lại cứ cọ có rất thân không dứt ra được. Khổ. Có khi lúc đầu chỉ là tình cha con đỡ nâng dắt dìu dạy dỗ, rồi lâu ngày cô bé lớn lên bỗng muốn được dặt dìu tay đỡ tay nâng dạy ít dỗ nhiều, nên linh mục cũng khó tránh khỏi lưới giăng.
Kể ra thì nhiều lắm, vả lại cũng không cần thiết. Có điều là trong lãnh vực này, mỗi linh mục quyết tâm khảng khái như Đức Maria: “Tôi không biết đến việc vợ chồng”.
Một lãnh vực khác cũng cần linh mục nói lời “tôi không biết”, đó là lãnh vực tiền bạc. Tất nhiên, tiền bạc ai mà không cần. Có tiền mới có thể trang trải chi phí cho đời sống được, có tiền mới làm việc bác ái được, có tiền mới xây dựng mở mang cơ sở vật chất được. Nhưng cần tiền thì khác, còn dính bén đến tiền bạc thì khác.
Nhiều linh mục ở những giáo xứ rất giàu, nhưng cuộc sống riêng tư lại rất đạm bạc, chẳng màng chi của cải. Tiền bạc đi đâu? Thưa ngài dùng tiền chung để góp phần phát triển đời sống xứ đạo và giúp đỡ giáo dân cũng như những người nghèo khó. Giáo dân ở đó rất quý rất trọng ngài như người cha có trái tim người mẹ. Ngược lại, có một vài linh mục có những biểu hiện khác thường đối với tiền bạc, chẳng những quý tiền lại còn mê làm tiền nữa. Xây thì ít cất thì nhiều, khiến đời sống xứ đạo mỗi ngày mỗi tẻ nhạt. Trong câu chuyện sau lưng, giáo dân thường bảo cha chỉ thích những nhà mặt tiền thôi. Gặp ai cha cũng than thở mình túng thiếu, nhưng đến khi bị mất trộm, người ta mới biết cha bị mất cả bạc tỷ kìa. Một vài linh mục khác nữa lại rơi vào vòng luẩn quẩn tiền tình, cho cô này mượn một ít, cho cô kia giữ một ít, đến lúc có việc chung muốn lấy lại không được. Bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không?
Cuối cùng là lãnh vực quyền bính vốn là lãnh vực ít nhiều các linh mục phải hành xử trong sinh hoạt mục vụ điều hành giáo xứ. Ngoài những quyền thuộc diện quản trị điều khiển điều phối được quy định trong giáo luật và theo hướng dẫn của giáo phận mà linh mục nào cũng phải biết và biết chắc, còn có một số thẩm quyền được xem xét và hành xử tuỳ theo nhãn quan của mỗi mục tử trong những tình huống cụ thể nhằm lợi ích cho các linh hồn. Nhưng chính đó lại là những kẽ hở nhiều khi mở cho tính khí tác động làm nhạt nhoà đi mục đích cứu rỗi để chỉ còn là một biện pháp chế tài gây buồn lòng cho người trong cuộc và gây buồn cười cho khách bàng quan.
Chẳng hạn như một cha sở nọ quy định chỉ xức dầu cho các bậnh nhân vào chiều ngày thứ sáu đầu tháng, nên nhà nào có người đau yếu muốn nhận bí tích này phải báo trước cho ngài biết để ngài sắp xếp đến tận nhà. Ai không giữ quy định này thì đừng mong ngài phục vụ. Rủi có một người đau bất thình lình xin ngài ban bí tích sau hết bị từ chối và đêm ấy người ta mất, thế là cả nhà người ta ca thán giận hờn. Không bào chữa được. Có một cha sở khác chỉ vì mong muốn cho giáo xứ thăng tiến về mặt đạo đức, đã dùng bí tích giải tội như một biện pháp chề tài một giáo dân có gương xấu trong giáo xứ. Ngài công khai cấm ông ta sáu tháng không được xưng tội rước lễ, ông ta tức khí đứng lên bảo cho cha một năm luôn cho chẵn. Dở khóc dở cười. Mong rằng mỗi linh mục chúng ta biết nói không với những loại thẩm quyền mong manh ấy.
Tóm lại, lời đầu tiên của Đức Maria là một lời khẳng khái biết mình “không biết việc vợ chồng”, để trở nên lối sống gương mẫu vượt lên những nghịch lý biện chứng giữa biết và không biết trong đời của Mẹ, đồng thời cũng là lời dọi sáng trên đời sống của mỗi linh mục trong dịp tĩnh tâm. Mong rằng những gì linh mục biết về căn tính của mình sẽ nên nguồn lực giúp linh mục từ chối không biết đến những lãnh vực xa lạ với căn tính ấy, để đừng như bài hát “vì tôi là linh mục” vớ vẩn vẩn vơ vô vọng, mà sẽ trở thành lời kinh xác tín như thánh Phanxicô Khó Khăn “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” hay như bài báo của một GMVN “xứng đáng là biết mình bất xứng”.

cafeda2009
10-11-2009, 09:31 AM
VÂNG PHỤC
“Nầy tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38)
khi được trao mũ đỏ, Đức Hồng Y Yves Congar, OP đã vào tuổi về hưu và đang lâm bệnh, không còn tỉnh táo nhiều nữa. Một dịp ghé thăm các chị em Tiểu muội ở Paris, tình cờ gặp cảnh mấy người đang giúp ngài dùng bữa. Người thì lo trải khăn lên ngực đề phòng thức ăn vương vãi, người thì lo bưng chén cháo sẵn sàng phục vụ, và còn người nữa có mặt chỉ với nhiệm vụ ngọt ngào dỗ dành, mong sao ĐHY ăn được chút gì để sống. Lắng nghe điệp khúc dỗ dành như nói với trẻ thơ mà thấy buồn cười: “ĐHY ngoan nào, há miệng lớn nhé, ầm”. Và thế là một muỗng cháo đã được rót gọn vào miệng. Tiếp theo là những lời tưởng thưởng. “ĐHY hôm nay ngoan ghê, có các cha Việt Nam đến thăm nè”. Thấy bữa ăn cứ tiếp tục theo nhịp 4/4: lời dỗ dành; muỗng cháo; lời tưởng thưởng; lau miệng, người ta không khỏi không mủi lòng. Có biết đâu trước mặt mình là một nhân vật nổi tiếng anh hùng.
Thật vậy, thuở Công Đồng Vatican 2 khai mạc, Yves Congar đã là một nhà thần học danh tiếng về Giáo Hội học, đồng thời cũng là một chuyên gia trổi trang về vấn đề đại kết. Nhưng chỉ vì tư tưởng của ngài quá mới nếu không muốn nói là táo bạo ở thời điểm đó để có thể được Giáo Hội công nhận. Chính vì thế, lời yêu cầu thôi dạy học và thôi khai triển tư tưởng đã được gửi đến ngài. Cũng giống như trường hợp các thần học gia khác bị Rôma lưu ý, cha Congar đã trăn trở nhiều: hoặc là tiếp tục dấn thân trong tư tưởng dù phải mang thương tích; hoặc là chấp nhận phán quyết của Toà Thánh để thấy sự nghiệp mình sụp đổ trước mắt. Cuối cùng, ngài bày tỏ niềm vâng phục Giáo Hội một cách tuyệt đối để rút lui vào thinh lặng, thinh lặng cho đến 30 năm sau, khi được trả lại vinh dự bằng chiếc mũ đỏ, ngài chẳng còn tỉnh táo để đội nữa.
Đó là một trong những chuyện đầy kịch tính và cũng thật hào hùng của sự vâng phục. Hôm nay, chúng ta cũng đối diện với sự vâng phục trong lời thứ hai của Đức Maria qua tiếng “xin vâng”. Lời đó có tầm vóc thế nào và dọi sáng ra sao trên đời sống linh mục chúng ta?
I. LỜI XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA
Lời Đức Maria được ghi trong Phúc Âm Luca là lời đầy đủ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”; nhưng lời được đọc trong Kinh truyền tin lại là lời bình dân dễ đọc dễ nhớ và dễ hiểu hơn: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.
1. “Này tôi”
Một chủ thể hiện diện. Là chủ từ ngôi thứ nhất số ít, đại danh từ “tôi” xác định một chủ thể là ai khi thực thi một hành vi nào đó một cách cá vị không thể lẫn với người khác. Khi thánh Maximilien Kolbê nói lên lời “tôi là linh mục công giáo” thì ngài khẳng định căn tính của mình khác với căn tính của các tù nhân Đức quốc xã kia đang xếp hàng chờ lệnh vào lò sát sinh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã có bài giảng thấm thía cho các linh mục khi cắt nghĩa chữ “tôi là” này vừa như một lời xác định vừa như một tiếng công bố. Khi cô gái là nhân vật chính trong phim truyện “đơn giản tôi là Maria” dàn trải đời mình qua các tình huống mạch chuyện, người ta hiểu rằng cô gái ấy đang khẳng định đời mình, một cuộc đời khác hẳn với những nhân vật cùng xuất hiện trong phim. “Tôi là” chính là lời bộc lộ một căn tính.
Nhưng “Này tôi” còn là một công thức thường dùng để xác định một sự hiện diện trong ý nghĩa hiện thực nhất. Trong nghi thức giới thiệu ứng viên chức linh mục, mỗi người đều phải khẳng định sự có mặt khi nghe xướng tên của mình qua công thức “Có mặt”. Trong nghi thức khấn dòng nữ trước đây cũng có lời xác định sự có mặt qua công thức “Dạ có con”, nhưng vì bị cật vấn theo kiểu nôm na “Bụng dạ đã có con rồi thì khấn với hứa nỗi gì?”, nên sau này người ta đã đổi sang một công thức khác nghe thanh hơn và cũng có cơ sở Thánh Kinh hơn “Lạy Chúa, này con đây”.
Một chủ thể tự do. Không chỉ xác định một hiện diện lời “Này tôi” của Đức Maria còn là xác quyết của một chủ thể tự do trước hành vi sắp thực hiện, không bị thúc bách bởi bất cứ sức ép nào. Danh xưng Gabriel có nghĩa là sức mạnh củ Thiên Chúa, nhưng tuyệt nhiên không có một ẩn ý nào tác động lên sự tự do của Đức Maria, mà ngược lại còn làm gia tăng bầu khí tinh thần để sự tự do kia được phát huy và nâng đỡ. Lời chào của sứ thần với ba yếu tố “Mừng vui lên, hỡi Đấng được sủng ái, Thiên Chúa ở cùng bà”, gợi lại những sấm ngôn xa xưa của Xôphônia (3,14) hoặc Dacaria (9,9) như thu tóm lại toàn thể chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa trên dân, cũng không làm suy giảm sự tự do của Mẹ, mà ngược lại còn củng cố khích lệ. Và rồi sứ điệp tiếp theo của sứ thần như dồn dập với ba động từ “sẽ thụ thai, sẽ sinh hạ một con trai và sẽ đặt tên con trẻ” vọng lại sấm ngôn Isaia (7,14) về Đấng Mêsia tưởng có thể áp đảo, nhưng xem ra lại làm cho sự tự do của Đức Maria được minh bạch hơn nữa, khi đối chiếu sứ điệp ấy với tình trạng không có khả năng chu toàn nhiệm vụ được ký thác: “không biết đến người nam”. Chính vì tôn trọng sự tự do của Đức Maria mà Thiên Chúa mới cử sứ thần đến đối thoại và cuộc truyền tin đã diễn ra như một cuộc điều đình, để chỉ khi nhận được sự ưng thuận tự do của Đức Maria, sứ thần mới cáo biệt ra đi. Xem như thế, khi trả lời “Này tôi”, Đức Maria đã bộc lộ cho thấy mình là một chủ thể tự do hoàn toàn.
Một chủ thể sẵn sàng. Nhưng trên hết, qua lời “Này tôi” của Đức Maria, người ta thấy sáng lên một tâm tình sẵn sàng và ứng trực. Sẵn sàng mở lòng mình ra đón nhận tình thương Thiên Chúa và ứng trực hiến dâng đời mình để quyền năng Thiên Chúa hoạt động. Thiếu đi tâm tình sẵn sàng này, chắc sẽ không bao giờ có lời Fiat và vắng bóng tâm tình ứng trực này chắc mầu nhiệm nhập thể sẽ không giống như Phúc Âm mô tả và đúng như Hội Thánh tin hôm nay. Chả thế mà khi giảng giải về lời thứ hai này, các thánh ngày xưa đã không ngừng diễn tả lòng biết ơn về sự sẵn sàng đón nhận của Đức Maria đối với lời thiên thần truyền và coi sự ứng trực của Mẹ như chìa khoá mở toang cánh cửa trần gian làm địa chỉ để Con Thiên Chúa giáng trần. Thánh Augustinô diễn ý: trước khi cưu mang Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria đã cưu mang lời Thiên Chúa. Bởi vì lòng đã sẵn sàng đón nhận lời Chúa, nên thể xác cũng ứng trực để nên lều cho Thiên Chúa cư ngụ.
2. “là tôi tá Đức Chúa Trời”
Nếu khẳng định sự hiện diện, Đức Maria xuất hiện như một chủ thể tự do, thì khi xác định mình là tôi tá, Mẹ cho thấy ý thức rõ nét của Mẹ về thân phận mình trong tương quan với Thiên Chúa. Trong một xã hội không xa lạ gì với hình ảnh của những ôsin càng được đánh giá là giàu sang, đồng thời cũng vì thế mà được trọng vọng vị nể, thì nhận mình là nữ tỳ là gì nếu không phải là khẳng định vị thế của mình trong tương quan với vị làm chủ đời mình.
Khi Đức Maria nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa, Mẹ chân thành lặp lại một lòng tin truyền thống là mọi người mọi vật đều là của Chúa và thuộc quyền sở hữu của Ngài, đều là dân Chúa thuộc đàn chiên Ngài dẫn dắt, đều là thọ tạo do tay Chúa tác thành và ngày ngày đều được hưởng ơn mưa móc của Chúa để vui sống. Đó là tương quan sở hữu trong một niềm tin phổ quát. Và còn hơn thế nữ, khi Đức Maria đặt mình vào phận tôi tá của Chúa, Mẹ còn đảm lĩnh một tương quan rất tự nhiên không tách rời tương quan sở hữu, đó là tương quan tuỳ thuộc. Tôi tá tuỳ thuộc vào chủ. Tôi tá phục vụ ý muốn của chủ một cách đắc lực, hết mình và hết tình, mới là tôi tớ trung tín. Chính vì thế, tương quan tuỳ thuộc cũng chính là tương quan quy phục. Trước khi nói lời quy phục, Đức Maria xác định mình trong tương quan sở hữu và tuỳ thuộc: “Này tôi là tôi tá Chúa”.
Không cần nhiều lời, chỉ là một khẳng định về phận tôi tá của Chúa, nhưng đã bộc lộ một sự khiêm nhường từ trong ý thức, mà khiêm nhường đúng nghĩa chính là chân lý và công bình, nghĩa là nhìn thật về mình và đón nhận vinh quang tương ứng, nên Thiên Chúa cũng muốn bộc lộ mình qua dáng dấp của một vị Chúa cao cả mà gần gũi yêu thương, siêu việt mà không ngừng quan tâm thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Đức Maria nhận mình là tôi trung của Thiên Chúa; Thiên Chúa biểu lộ Ngài là Chúa của các tôi trung. Thực vậy, qua nội dung sứ điệp truyền cho Đức Maria, từ đầu đến cuối qua ba lời thoại của Gabriel, người ta thấy hiển hiện dung mạo của một vì Chúa thật đẹp.
Lời thoại một là hiển hiện hình ảnh của Thiên Chúa tình thương quan tâm hết mực đến phận số từng cá nhân: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”. Ở rải rác đó đây trong Thánh Kinh, người ta có thể bắt gặp những phẩm tính riêng lẻ của Thiên Chúa được nhắc đến, nhưng được tập hợp lại như trong lời thoại một quả là trọng đại và bao la: Thiên Chúa là Đấng gieo niềm vui, là Đấng ban ơn sủng và là Đấng luôn hiện diện cho từng người mà Đức Maria là đại biểu.
Lời thoại hai là chân dung của Thiên Chúa cứu độ đã đón nhận phận số con người trong lịch sử của dân thánh để giải cứu muôn dân. Trong lời sấm Cựu Ước, tất cả vẫn chỉ là niềm mong chờ, tất cả còn trong thì tương lai không thể tính toán được; còn ở đây trong lời thọai hai trực tiếp với Đức Maria, tất cả đã hiển hiện, rõ mồn một, Thiên Chúa không là Đấng không màng chi tới đời sống trần thế, trái lại, Ngài là Đấng can dự để thực thi ơn cứu độ; để cứu thế, Thiên Chúa đã nhập thể, để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.
Lời thoại ba xem ra muốn giới thiệu lại khuôn nhan của Thiên Chúa toàn năng “không gì không làm được”, nhưng đã mở ra nhãn giới hoàn toàn mới: Thiên Chúa không chỉ là duy nhất, mà còn là Ba Ngôi. Với sự xuất hiện của Thánh Thần ngự xuống và rợp bóng trên Đức Trinh Nữ, tất cả được dìu vào vận hành mới đậm mầu cứu rỗi và nơi Đức Maria, Thiên Chúa hoạt động trong tư cách là Ba Ngôi.
Đến đây, ta có thể nói: nếu Đức Maria đã thốt lên lời “Này tôi là tôi tớ Chúa” bằng một phong thái khiêm nhường, thì bởi vì trước đó, qua lời của sứ thần, Thiên Chúa đã cúi xuống với Mẹ để gợi lên trong lòng ý nghĩ “Này Ta là Chúa của các tôi trung”.
3. “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”
Tất cả những lắt léo suy tư trên rốt cuộc cũng để dẫn đến đích điểm là chữ “Fiat – xin vâng” vốn là trọng tâm lời thứ hai của Đức Maria. Nếu được phép chẩn đoán, chúng ta sẽ chẩn đoán thế này.
Trước hết, đó là lời xin vâng trong niềm vui với ý chí tự do và trách nhiệm cao độ. Vẫn biết trong ý thức, Đức Maria chỉ dám nhận mình là nữ tỳ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa đã không chọn giải pháp đơn giản như thế để mau chóng đạt được ý muốn của mình, mà xem ra lại hạ mình hết mức để một mặt từ từ dẫn giải như phương pháp giáo dục tiệm tiến muôn thuở của Ngài dành cho các tôi tớ tuyển chọn, và mặt khác tôn trọng sự tự do đáp ứng của thụ tạo như quà tặng độc sáng Ngài ban cho họ từ thuở tạo thành.
Bằng quyền năng, Ngài có thể có được sự ưng thuận của Đức Maria dễ dàng như trở bàn tay, nhưng bằng tình yêu, Ngài đã chinh phục nữ tỳ của Ngài từng bước. Xem ra trong cuộc trao đổi lạ lùng này, Thiên Chúa đã cho thấy ý định “làm người” của Ngài một cách quyết liệt. Ngài chờ đợi sự ưng thuận của người biết mình chỉ là tôi tá, để sẵn sàng nâng người tôi tá ấy lên phẩm chức là Mẹ của Thiên Chúa giáng trần.
Quả là kỳ diệu và lạ lùng đường lối của Thiên Chúa, thế nên khi nghe lời xin vâng của Đức Maria đối với sứ điệp truyền tin, người ta cũng nghe vang vọng lại niềm vui của lời chào phút đầu gặp gỡ. Có điều là ở đây, không chỉ Đức Maria đắm đuối trong niềm vui sâu lắng, mà chừng như chính Thiên Chúa cũng mừng vui không kém khi đạt được ý nguyện của mình, làm tiền đề vững chắc cho công cuộc nhập thể cứu đời. Những sách dẫn giải về đường thiêng liêng còn đi xa hơn nữa để bảo rằng thiên đàng cũng rộn vui và trần thế bỗng bật tung lên nhảy mừng. Đất với trời hợp lời giao duyên. Thiên Chúa xuống với gian trần và gian trần tìm lại được gốc gác nguyên thuỷ của mình. Đúng với Thiên Chúa đã sáng tạo cách lạ lùng và Ngài còn tái tạo cách lạ lùng hơn nữa, theo ngôn từ của Thánh Augustinô.
Tiếp theo, đó cũng là lời xin vâng trong tinh thần dấn thân trọn vẹn và suốt đời, không gì có thể làm đảo ngược được. Lời Fiat – xin vâng xem ra ngắn ngủi, nhưng âm vang một khi dâng lên là không ngừng lại nữa. Đức Maria từ lời thứ hai này sẽ đảm lãnh trọn vẹn lời ấy trong suốt quá trình cuộc sống bên cạnh Đấng Cứu Thế cũng là con của Mẹ, từ những lúc vui mừng nhất của đêm Giáng Sinh với tiếng hát vinh danh của ca đoàn thiên sứ tới những phút thê lương nhất của chiều tử nạn đứng đó chôn chân như tượng đài hiệp công cứu chuộc; từ những ngày tuổi thơ êm đềm của trẻ Giêsu bên cạnh cha mẹ tại quê hương Nagiarét đến những tháng năm đời công khai của Ngài dong duổi khắp đất nước mà rao giảng Tin Mừng cho mọi kẻ thành tâm. Trong niềm vui, lời xin vâng có thể không có gì đáng quan ngại, nhưng trong nước mắt nỗi sầu, lời xin vâng quả là một đỉnh cao phải lao đao chinh phục với khó khăn trăm bề. Trong hạnh phúc, ai cũng dễ dàng nói tiếng xin vâng, nhưng trong bất hạnh, tiếng xin vâng xem ra chỉ thuộc về những tâm hồn cao thượng. Như ông Gióp biết dâng lời tạ ơn khi giàu sang phú túc cũng như khi khổ cực bần hàn; như cha thánh Lê Bảo Tịnh biết “xin tạ ơn Chúa muôn đời” khi có được bầu khí tự do thi hành đạo giáo cũng như khi phải xích xiềng tù tội.
Tiếng xin vâng cất lên một lần xem ra không khó, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng ân cần nhắc lại như một điệp khúc hiến dâng tưởng không dễ lắm đâu. Xin vâng là tiếng đầy kịch tính.
Sau nữa, đó còn là lời xin vâng trong hào hùng dân hiến. Xin ghi nhận một chi tiết rất nhỏ, nhưng xem ra lại không kém phần quan trọng, đó là phần kết thúc lời nói thứ hai của Đức Maria: “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Đã đành, vâng lời là vâng lời Thiên Chúa, nhưng trong thực tế của phần lớn lịch sử Giáo Hội Công giáo bây giờ, Thiên Chúa đâu có nói chuyện trực tiếp diện đối diện với con người như giữa cuộc thần hiển nữa, mà xem ra Ngài lại thích truyện trò với con người qua trung gian của những người đại diện. Không phải vì Ngài bận trăm công ngàn việc không có giờ dành cho con người, cũng không phải vì khả năng ngôn ngữ Ngài giới hạn hoặc không còn kiên nhẫn nữa, mà chỉ vì muốn cho con người khi vâng lời Ngài cũng biết chứng minh bằng sự hào hùng.
Buổi truyền tin, Chúa nói với Đức Maria qua trung gian của sứ thần, nên lời xin vâng của Mẹ như tái xác nhận sự tôn trọng của Mẹ đối với vị trung gian này. Thực ra, nếu Đức Maria chỉ thưa “tôi xin vâng ý Chúa” cũng đã trọn nghĩa lắm rồi, vì Mẹ nhìn nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” mà. Nhưng một khi phải đi đường vòng để dài dòng bằng câu “tôi xin vâng như lời thiên thiên truyền”, thì về mặt đối thoại, Đức Maria đã để lại một tương quan đẹp với sứ thần, và nhất là về mặt sư phạm, Mẹ đã nêu lên mẫu gương vâng phục Chúa qua trung gian của vị đại diện.
Chính với hình ảnh vâng phục tuyệt đẹp tuyệt sáng này, người ta luôn trình bày Mẹ với phong thái hiến dâng: dâng trọn ý muốn, dâng trót cả cuộc đời, dâng không bằng lời mà còn dâng mãi dâng hoài bằng từng nhịp bước của hành trình theo Chúa và thực thi lời Chúa. Sau lời Fiat – xin vâng, sứ thần ra đi, nhưng Thiên Chúa từ đây cư ngụ vĩnh viễn trong tâm hồn và đời sống của người đã sẵn sàng thưa lời xin vâng với mình.
II. SỰ VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI LINH MỤC
Cuộc đời Đức Maria là tiếng xin vâng kéo dài. Không thể nói đến Mẹ mà không nói đến tiếng xin vâng diệu kỳ này, cũng như đừng mơ đến mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc được trình bày như trong tín lý hiện nay nếu không có tiếng xin vâng lạ lùng ấy. Suy tư để dẫn sang thực hành, vì thế chúng ta thử xem lời xin vâng ấy sẽ có những âm vang nào trong đời sống linh mục.
1. Vâng phục là thành phần cuộc đời linh mục
Khởi đầu nghi thức bí tích truyền chức, mỗi ứng viên linh mục được mời gọi trả lời tích cực cho những câu thẩm vấn công khai trước cộng đoàn phụng vụ. Tổng hợp những câu trả lời này được coi như bản tuyên bố trước mặt dân chúng quyết tâm của ứng viên về nhiệm vụ sắp lãnh nhận. Sách nghi thức gọi đó là “lời hứa của các ứng viên”. Trong số các câu hỏi ấy, đặc biệt có một câu mà từng ứng viên phải quỳ với đôi tay chắp lại đặt trong tay giám mục để thưa. Đó cũng chính là câu mà ứng viên phải nói bằng lời “thưa con hứa” khác với những câu thẩm vấn trước là “thưa con muốn”. Câu đó thế này: “con có hứa kính trọng và vâng phục cha cùng các đấng kế vị cha không?”. Chỉ nguyên việc này thôi cũng đủ để cho thấy sự vâng phục không phải chỉ là hiệu quả đến sau bí tích truyền chức để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa, mà chính là tiền đề để thánh chức được trao ban và là điều quan trọng không thể thiếu được để là một linh mục đích thực.
Đã đành đây chỉ là một lời hứa đúng với chữ nghĩa vốn khác với lời khấn vâng phục của các tu sĩ về cấp độ, nhưng về bản chất, hứa hay khấn cũng chẳng cách xa nhau bao nhiêu, nếu không muốn nói là tương đồng. Thành ra, có thể khẳng định: ngay trong nghi thức bí tích truyền chức, vâng phục đã trở nên thành phần của đời linh mục. Ngôn từ “thưa con hứa” và hành vi “tay trong tay” tự nó đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa và nét đẹp của sự vâng phục nơi người linh mục. Không biết các cha thế nào chứ bản thân tôi khi lãnh chức linh mục, với câu hỏi này tôi đã ngước mặt lên và bắt gặp ánh mắt âu yếu của vị chủ phong đang nhìn vào mắt mình, bất giác tôi cảm động và đã nói lời “thưa con hứa” với cả tâm tình.
Nhưng tại sao lại phải gài lời hứa vâng phục giám mục vào trong nghi thức truyền chức? Thưa chắc không phải vô tình đâu, mà có lẽ là một hữu ý, một mặt cho thấy người ta không htể cứ muốn làm linh mục là tự nhiên thành, mà phải được kêu gọi; và mặt khác cũng nhắc nhở rằng khi thi hành nhiệm vụ, linh mục không thể cứ muốn làm gì thì tự ý làm, mà phải tuỳ thuộc vào giám mục của mình.
Kinh nghiệm cho biết trong linh mục đoàn mỗi giáo phận cũng có vài người cá tính khá độc lập tự do cho mình cái quyền muốn làm gì thì làm, chẳng hỏi ai và cũng chẳng phải trả lời ai. Làm như đã là linh mục người ta nghiễm nhiên trở thành “cha toàn năng” làm được và được làm mọi sự không kể chi đến phẩm trật quyền bính. Như một cha xứ nọ có máu kinh doanh, thấy khuôn viên nhà thờ còn rộng nên nảy ra sáng kiến xây một dãy nhà ở đó để cho thuê mở câu lạc bộ thể hình, vừa được tiếng là tích cực tham gia phong trào khoẻ tại địa phương, vừa tháng tháng có chút đỉnh chi tiêu. Giáo dân ngứa mắt vì ngày ngày đi lễ đều thấy những hình thể lồ lộ không cầm trí được, nên phản ảnh về Toà Giám mục. Giải pháp đưa ra là đề nghị cha dẹp ngay cái câu lạc bộ “trên hở ngực dưới hở đùi, khi đi thiếu vải khi ngồi thừa da” kia đi. Nhưng có lẽ vì tiếc của, vị linh mục này không nghe. Sự việc xập xình mãi cho đến lúc phải thuyên chuyển linh mục đi, người ta mới dẹp được cái bộ lạc câu khách kia.
Vâng phục là một phần trong nghi lễ phong chức. Linh mục luôn ý thức. Nhưng từ ý thức đến thực hành lại là một khoảng cách. Chính khi xem sự vâng phục như một phần kỷ luật đời sống, linh mục mới thể hiện mình một cách cụ thể và tròn đầy. Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã nêu rõ tính tông đồ, tính cộng đoàn và tính mục vụ trong sự tuân phục của linh mục. Chỉ nam Linh mục cũng không ngần ngại đưa ra những hướng dẫn cụ thể để linh mục có thể chu toàn sự tuân phục trong đời sống phục vụ của mình. Nhưng tuân phục không phải là một đức tính riêng lẻ, mà đúng ra là thành phần trong một toàn bộ lớn chính là đời sống hiếng dâng. Linh mục đã hiến dâng đời mình cho Chúa thì dâng cho trót và đã hiến dâng cho Giáo Hội thì dâng cho trọn. Đừng giữ lại phần ý riêng cho mình, dẫu đâu đó người ta xem mình là có cá tính, hay đôi khi người ta tâng bốc mình là có bản lãnh. Đã đành, linh mục theo kiểu nói ngày xưa là “thầy cả”, nhưng nếu vịn vào đó để không thích vâng phục quyền bính Giáo Hội nữa thì e rằng mình đang đi đường ngược chiều, có thể bị thổi còi bởi cảnh sát giao thông bất cứ lúc nào. Trong ý nghĩa này, câu nói “Giáo Hội có kỷ cương” của những cha trọng tuổi đã xem ra rất ám hạp để nói về sự tuân phục trong đời sống của các mục tử chúng ta. Để vâng phục bề trên, người ta cần phải xoá mình, và càng biết xoá mình bao nhiêu người ta càng dễ buông mình theo quy định chung bấy nhiêu.
Ở một giáo xứ lớn nội thành (Tp. HCM), đầu tháng nào giáo dân cũng rủ nhau đi lễ rất đông, tưởng là cha sở có sáng kiến mục vụ đặc biệt như mời cha khách giảng tuần đại phúc hay có thêm những sinh hoạt sùng kính bình dân khác như suy tôn lòng thương xót của Chúa hoặc đặt tay xin Chúa chữa lành. Nhưng không phải, người đến đó đi lễ rỉ tai nhau: “sướng lắm, chả phải xưng tội xưng lỗi gì cả, trước thánh lễ cha đều giải tội tập thể, thế là cứ đi lễ rước lễ thoải mái. Vô tư”. Quả là vô tư thật: giáo dân vô tư rước lễ, cha sở vô tư ban phép xá giải. Nhưng giáo phận, vì kỷ cương Hội Thánh, không thể vô tư được, nên đã xin cha sở bản phúc trình và cuối cùng phải dùng biện pháp hành chánh để ngưng cái tối kiến mục vụ kia đi. Thi hành biện pháp theo phương thức cuốn chiếu. Cuối cùng, cha sở ấy cũng chịu tuân phục. May quá. Nhiều khi tôi cứ nghĩ lẩn thẩn: giá mà những thiện chí mục vụ được thấm nhuần trong sự vâng phục ngay từ đầu, việc làm của người mục tử sẽ để lại những kết quả tốt đẹp hơn và nhất là để lại một tấm gương khó quên trong đời sống tín hữu.
2. Vâng và phục
Tiếng Việt mình đôi lúc nôm na, nhưng đôi lúc cũng sâu sắc lắm. Trường hợp chữ vâng phục là một ví dụ về sự sâu sắc ấy. Trong khi tiếng pháp phải cắt nghĩa dài dòng, tuy cũng tìm được cặp từ ý nhị, thì tiếng Việt chỉ cần một từ kép “vâng phục”. Vâng là vâng theo lệnh theo luật theo quy định: chữ vâng thuộc về bên lý trí nhiều hơn; trong khi phục là phục người ban lệnh hoặc phục người thi hành lệnh ấy: chữ phục lại thuộc về bên tâm tình nhiều hơn. Tuy nhiên nghiêng về bên nào là cả một sự cân nhắc đã trở thành nghệ thuật của cách thế ban lệnh và cách thế chấp hành lệnh ban. Chả thế mà người xưa đã có châm ngôn: qui ne sait pas obéir, ne sait pas commander. Biết vâng lệnh mới biết cách ra lệnh.
Trong khoá bồi dưỡng dành cho các giám mục trẻ mới chịu chức trong vòng năm năm, bộ Truyền giáo cũng có một buồi thuyết trình về đề tài vâng phục này. Bằng tiếng pháp, người ta phân tích cho thấy vâng là obéir effectivement và phục là obéir affectivement. Chỉ vâng thôi mà không phục thường là do lệnh ban khô cứng, người ban lệnh có chút ngả nghiêng và người chấp lệnh còn có điều khuất tất. Một lệnh ban sắt thép thường mau có hiệu quả vãn hồi trật tự, nhưng lại có hậu quả làm tan nát lòng người; trong khi chịu khó tỉ mỉ bọc nhung những chi tiết sắt thép lại, lệnh ban sẽ có hiệu quả kép là vừa vãn hồi trật tự vừa nhẹ nhàng xoa dịu lòng người.
Lý thuyết là thế, còn trong thực tế phải thú nhận là rất khó. Các cha dư kinh nghiệm. Lý và tình là hai phạm trù cùng tồn tại, khi thì đối nghịch loài trừ, khi thì tương tác phong phú. Cứ sức người thật khó phân định. Nhưng như trường hợp Đức Maria, với bóp rợp của Chúa Thánh Thần, đã thưa lên lời Fiat tuyệt vời, mỗi linh mục cũng được mời gọi gắn bó với Chúa Thánh Thần để đảm lĩnh sự vâng phục trong tác vụ đời mình.
Một cha trẻ ở Tp. HCM mới ra trường về làm phụ tá trong một giáo xứ lớn, không biết vì việc gì thường đi vắng cả ngày, cứ sáng làm lễ xong là mất dạng cho đến tối mới trở về. Nghe đâu cha đi học ngoại ngữ để chuẩn bị đi tu nghiệp bên Mỹ. Cha sở lấy làm lạ nên xin xác minh từ Toà giám mục và nhận được câu trả lời là chưa có chủ trương ấy. Cha sở tìm hiểu và biết được cha phụ tá của mình vắng nhà vì một lý do khác: học thiết kế kỹ thuật và mỹ thuật trên vi tính để chuẩn bị cho những cong trình xây dựng tương lai. Cha sở nhẹ nhàng khuyên bảo bằng cách khôi hài phân tích giữa tu trì và tu hành: “tu trì” là có mặt tại xứ còn “tu hành” là đi lang thang cả ngày. Đồng thời ngài cũng xin cha phụ tá thiết kế mẫu mã cho nhà thờ họ lẻ sắp xây. Cha phụ tá nghe ra và cảm thấy mình có ích, nên đã chuyển máy móc về nhà xứ làm việc. Anh em đuề huề. Vâng và phục song đôi, đến nỗi cha phụ tá ấy sau này đi phục vụ tại nơi khác vẫn giữ tình gắn bó với cha sở đầu tiên của mình. Trộm nghĩ trong trường hợp này, cha phụ tá đã biết vâng phục thật tốt, nhưng cha sở cũng là người góp phần không nhỏ vào thái độ vâng phục đẹp này.
Còn một khía cạnh khác liên quan đến sự vâng phục mà không nói sẽ không tránh khỏi thiếu sót, mà nói đến lại không tránh hết va chạm, đó là những nhân vật trung gian giữa Đấng bản quyền và các linh mục. Dĩ nhiên, kiểu nói của thánh Phêrô “phải vâng lời Chúa hơn vâng lời người ta” luôn luôn có giá trị, nhưng Chúa thì đâu có mặt đối mặt nữa mà thường chỉ ban lệnh qua những vị đại diện làm trung gian, nên nhiều khi lệnh ban cũng không tránh khỏi bị khúc xạ. Rất nhiều trường hợp bị nhiễu sóng để lại dư vị chua chát, như có lần nào trong một bài báo, một linh mục đã thốt lên: “tôi không sợ Phêrô, nhưng lại sợ những thư ký của Phêrô”. Có thể diễn ý: không sợ Đức Giáo Hoàng, nhưng sợ các thánh bộ; không sợ giám mục, nhưng sợ cha bí thư phòng bộ; không sợ cha sở mà sợ ông trùm; không sợ cha phụ tá mà sợ mấy huynh trưởng thiếu nhi.
Nói cho cùng, chỉ có Chúa Giêsu mới được diện đối diện nhận lệnh từ Chúa Cha thôi, mà nào có nhẹ nhàng gì, phải vâng phục với mồ hôi loáng máu, chứ kỳ dư nơi loài người trần thế, bất luận trong cương vị nào cũng đều nhận lệnh qua trung gian của người đại diện. Đức Maria nhận thực mình là nữ tỳ Chúa, nhưng lại nhận lệnh Chúa qua trung gian của sứ thần, nên đã khiêm nhường thốt lên “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Đó là đường đi của lệnh ban và cũng là đường nét hào hùng của vâng phục.
Một cha sở nọ mới lâm trọng bệnh được giám mục bảo nên đi nghỉ hưu. Cha không vui đưa ra nhiều lý do trì hoãn trong đó có lý do lớn là công trình xây dựng còn dang dở. N hưng bệnh tật có nể nang ai, cha lại đột quỵ, và lần này giám mục nhờ cha quả hạt tác động đến để có được kết quả mong muốn, kẻo làm thiệt hại đến đời sống thiêng liêng của dân Chúa. Khổ nỗi cha quản hạt nhà mình lại sốt sắng quá, nhân dịp cha sở ấy nhập viện, ngài xử lý công việc tận tình với một tờ sớ liệt kê được 47 chủ nợ lớn bé của cha sở ấy đang bức xúc muốn nhận lại tiền. Thế là áp lực bệnh tật tái phát cộng thêm áp lực nợ nần được công khai hoá, cha sở kia phải chấp nhận giải pháp rút lui. Cũng là vâng lời bề trên đấy, nhưng xem ra không vui trọn vẹn, nếu không muốn nói là thiếu vắng một lòng kính phục. Vị trung gian kia cũng làm tròn sứ mạng đấy, nhưng giá mà có cách xử lý uyển chuyển hơn, có lẽ yếu tố kịch tính sẽ dịu bớt hơn. Tất nhiên, bệnh tật phải lo chữa chạy và nợ nần phải lo liệu trả, nhưng xem ra trong tình huống cụ thể này, phải có ơn Chúa Thánh Thần nữa mới giải quyết thấu tình đạt lý được.
3. Vài lãnh vực đang cần đến sự vâng phục
Những dẫn chứng cụ thể về sự vâng phục trong đời sống linh mục có thể chỉ là những trường hợp cá biệt, không khái quát hết hiện trạng kèm theo những trăn trở mà có thể chỉ người trong cuộoc tại hiện trường mới biết hết, hay người trải rồi, thấm mệt rồi mới thấy thấm thía. Như một kinh nghiệm. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Nhưng trong công việc mục vụ chung của giáo phận, cũng có một vài lãnh vực linh mục cần nêu cao sự vâng phục để vừa dễ dàng cho việc điều hành chung vừa nêu gương sáng cho giáo dân.
Trước hết là lãnh vực phụng vụ. Thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo chỉ có một, nên đâu cũng như đâu, đều dựa theo Sách lễ Rôma, không khác đi được. Vì thế mới gọi là Lễ Quy. Điều này các linh mục ai cũng biết rõ, ngay từ khi cử hành Thánh Lễ đầu đời. Nhưng không biết có phải vì linh hồn thiêng liêng sáng láng qúa, nên cứ thích sáng chế ra những chi tiết diễn ý đi ra ngoài quy định chung của Giáo Hội. Những chi tiết ấy có thể làm vừa lòng một số giáo dân, nhưng phần đông giáo hữu còn lại chẳng vui lòng gì. Đây là lãnh vực để lại nhiều điều ong tiếng ve khiến giám mục phải đau đầu.
Chẳng hạn như một linh mục thích nói nhiều trong Thánh lễ, nói đầu lễ và bài giảng thì chẳng phải kêu ca làm gì; nhưng nói giữa lễ đan xen trong phần kinh nguyện Thánh Thể, như cứ nghĩ gì nói nấy mà chẳng quan tâm đến sự tập trung tôn thờ cao độ của cộng đoàn. Tay lúc nào cũng khư khư giữ cái micro sans fil kê sát miệng, thấy mà ngán.
Chẳng hạn như một linh mục khác thuộc thời @, hi-tec đi đâu cũng kè kè cái điện thoại di động, thậm chí khi lên bàn thờ, cha chẳng những không khoá máy, mà lại còn để ngay bên chén lễ. Có lần đang lễ có cuộc gọi đến và máy reo một đoạn tình ca, cha bốc máy trả lời tỉnh queo trước mặt cộng đoàn, thấy mà ngại. Mong rằng vì tình hiệp thông vâng phục Giáo Hội, xin chớ để linh mục chúng ta sa chước cám dễ dễ dãi này.
Ngoài ra là lãnh vực sổ sách giáo xứ. Hết rồi cái thời khó khăn “tay trái làm không cho tay phải biết”, bây giờ việc sổ sách giáo xứ đã dễ dàng và vì thế cũng cần được hệ thống hoá và ghi chép minh bạch hơn, từ sổ lễ cá nhân đến sổ sách bí tích Rửa tội, Thêm sức và Hôn phối. Giáo luật đã quy định và Giáo phận đã hướng dẫn. Ngày xưa các giám mục mỗi lần đi kinh lý đều được trình xem những sổ sách này. Ngày nay có khác. Hình như giám mục chỉ còn ký sổ bí tích Thêm sức thôi. Nhưng trong những lần ký hiếm hoi ấy, thấy nhiều nơi xem ra còn luộm thuộm lắm. Bản thân tôi có lần được xin ký khống ở cuối trang, còn chi tiết cha sở sẽ điền vào sau, vì ngài chưa làm kịp. Thấy mà buồn cười. Đây chỉ là trường hợp vô cùng ngoại lệ. Mong rằng linh mục đoàn giáo phận sẽ thể hiện sự vâng phục một cách cụ thể qua việc sổ sách này.
Và cuối cùng là lãnh vực thuyên chuyển, một lãnh vực khá nhạy cảm, cũng là lãnh vực thử thách sự vâng phục của linh mục sát sườn nhất. Có nhiều linh mục thánh thiện luôn sống tinh thần ứng trực, được giám mục gợi ý đi đâu cũng chấp hành mau mắn. Giống như Đức Maria trong Phúc Âm thưa tiếng Fiat vậy. Được như thế chắc chắn giám mục hài lòng lắm và nhịp sống giáo phận cũng suông sẻ, tuy nhiên cũng có một hai linh mục khi nhận được lệnh thuyên chuyển chẳng những đã không vâng lệnh bề trên lại còn vận động đó đây xin giữ mình lại, khiến việc điều hành giáo phận cứ rối tung lên. Giống như quân cờ domino bị kẹt lại làm tắc nghẽn mọi thế chuyển dịch. Thuyên chuyển giáo xứ là một sinh hoạt bình thường, không thuyên chuyển mới là bất thường. Thành thử, mỗi linh mục khi được gọi, hãy đáp lời xin vâng với cả tâm tình hào hùng của người lên đường truyền giáo.
Tóm lại, lời thứ hai của Đức Maria là lời phản ảnh một tâm hồn nghèo khó, một trái tim đơn sơ và là điểm đến của một thái độ sẵn sàng và ứng trực. Lời Fiat ấy đã biến đổi Đức Maria từ người nữ tỳ sang Mẹ Thiên Chúa. Xin cho lời Fiat ấy trở nên khuôn mẫu cho mọi linh mục, trong tư duy cũng như trong thực hành, để như ý nguyện của bài hát “Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng”, đời sống linh mục sẽ được biến đổi nên mới hơn.
Người ta kể: một hãng xe hơi đã cử người đến hỏi Đức Giáo Hoàng xem phải mất gì để được nêu tên hãng xe mình trong thánh lễ, như tên Fiat trong kinh Lạy Cha. Đức Giáo Hoàng không trả lời. Ngài nghĩ: phải mất mạng. Như Chúa Giêsu đã phải chết để trọn lời “Fiat voluntas tua”, như Đức Maria đã hiến mình để thưa lời Fiat, và như mỗi linh mục chúng ta hôm nay đang còn phải nỗ lực hiến dâng đời mình để học sống lời Fiat của Đức Maria.
+GM. Vũ Duy Thống
Nguồn:
vietcatholic.org