PDA

View Full Version : Thiền Kitô Giáo



cafeda2009
27-11-2009, 06:41 PM
Thiền Kitô Giáo


Đỗ Trân Duy (http://tgp-tphcm.net/category/t%C3%A1c-gi%E1%BA%A3/%C4%91%E1%BB%97-tr%C3%A2n-duy)

T6, 27/11/2009 - 10:54

http://tgp-tphcm.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/sen2.jpg



Sơ Lược Lịch Sử Thiền

Người Việt biết thiền qua các dòng tu Phật Đại Thừa và Thiền Tông trung Hoa. Vì vậy Kitô hữu Việt thường ái ngại khi nói đến thiền vì tin rằng đó là một sản phẩm Phật giáo. Thực ra thiền bắt nguồn từ nền minh triết Ấn Độ và đã có trước khi Phật Thích Ca ra đời. Vào thế kỷ III thiền được phổ biến qua Seria và Jordan. Thế kỷ X thiền truyền qua Nhật bản, Âu Châu và đại lục Sôviết. Đến thế kỷ XVIII hầu hết các nước trên thế giới đều biết đến thiền. Qua những giao thoa văn hóa, thiền biến thái thành nhiều môn phái. Ngay Thiền Tông Trung Hoa, mà người Việt quen thuộc, cũng chia ra nhiều phái, nào Nam Tông, Bắc Tông, Tào Động, Lâm Tế…Vì vậy không thể đưa ra một dạng cụ thể nào làm mẫu mực khi nói về thiền.

“Thiền” theo nguyên ngữ Phạn (Sanskrit) là “dhyana”. Phật Thích Ca đọc theo âm Pali của ngài là “jhana”. Chữ jhana chuyển qua Tạng ngữ là “dzogchen” và qua Hoa ngữ là “ch’an”. Từ ch’an chuyển qua Nhật ngữ là “zen” và chuyển qua Việt ngữ là “thiền”. Zen được người Tây phương giữ nguyên chữ zen hoặc dịch là meditation. Chữ meditation (chiêm niệm) đã có từ rất lâu trong ngôn ngữ Thiên Chúa giáo phương Tây. Vì vậy để mặc cho nó một nghĩa mới, nhiều nơi người ta dùng chữ Christian meditation (thiền Kitô). Tóm lại từ “dhyana” trở thành “thiền” là một phiên âm sai lạc qua nhiều chặng đường. Thiền tự chính nó không có bóng dáng một tôn giáo nào.

Chiêm niệm bắt đầu từ thời sơ khai của giáo hội và chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Sử có ghi vào thế kỷ III nhiều tu sĩ vào sa mạc để sống đời chiêm niệm. Theo khái niệm chiêm niệm thời cổ, chúng ta hiểu là có gắn bó với thiền. Ngay danh xưng monk (tu sĩ) và monastery (tu viện) đã nói lên thâm ý của các tổ phụ chiêm niệm. Monk và monastery cùng có gốc Hy Lạp “monos” nghĩa là đơn độc. Theo truyền thuyết, đã có nhiều tổ thiền nổi danh như Moses, Poemen, Joseph… Câu nói đầy thiền tính của tổ phụ Moses là: “Hãy về tĩnh tọa trong phòng. Căn phòng sẽ dạy ta mọi sự.” Tuy nhiên những vị tổ này đều sống ẩn tu nên người đời sau không biết nhiều về họ. Một tôn sư được lịch sử nhắc tới là thánh Pantaenus với một cuộc đời đầy huyền thoại. Sử cho biết ngài đã sống ở Ấn Độ và được truyền thụ dhyana. Thánh Pantaenus sau đó truyền dhyana cho đệ tử là thánh Clement. Clement truyền lại cho Origen. Năm 300 thánh Paul lập tu viện ở núi Thebes bên Ai Cập. Thánh Paul là vị ẩn danh nên không để lại vết tích nào. Năm 310 thánh Anthony (250-356) thành lập tu viện trên núi Cairô qui tụ hằng ngàn tu sĩ sống đời chiêm niệm và tu thiền. Atanasius, Giám Mục Alexandria, viết về thánh Anthony như sau: “Ngài đơn độc vào sa mạc ẩn trú trong hốc đá. Cứ 6 tháng ngài đi lấy lương thực một lần. Ngài ở đơn độc như vậy trong nhiều năm để tu luyện cách từ bỏ mình.”


http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/thien1.jpg

Vào thời trung cổ thiền được giới thiệu cho Kitô hữu bởi giáo sĩ Richard (?-1173). Hiện thời, thiền được phổ biến rộng rãi nhờ công của các linh mục dòng Bênêđíc. Hai tổ thiền nổi tiếng là Thomas Merton (1915-1968) và John Main (1926-1982). Cha Merton, nhà thần học lớn của Công Giáo, có công đào sâu ý niệm về thiền. Cha Main có công dậy về luyện thiền. Trước khi đi tu, John Main đã học thiền với một đạo sư Ấn Độ. Sau khi thụ phong linh mục, Main lập ra 2 đại thiền viện một ở Luân Đôn và một ở Gia Nã Đại. Hiện tại vị kế nghiệp cha Main là cha Laurence Freeman (1951-?). Gần đây Kitô hữu Việt hải ngoại cũng biết tới thiền qua sự giới thiệu của cha Chu Công (1918-2004), Tu Viện Trưởng dòng Tra-pít. Cha Chu Công thụ huấn thiền với thiền sư Nhật Bản Joshu Sasaki Roshi. Ngoài ra những đoản văn ghi những vấn đáp thiền được phiên dịch và phổ biết rộng rãi trong giới Công Giáo. Có lẽ để tránh sự nhạy cảm lạc hướng, danh xưng “thiền sư” hay “guru” được dịch là “minh sư” cho có tính trung hòa. Sự đón nhận thiền của các linh mục đã đánh tan mối dè dặt của Kitô hữu về một kỹ thuật tĩnh tâm rất sống động.


Khái Niệm Thiền




http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/thien2.jpg



Bất cứ đời sống tâm linh nào cũng phải đi đến giai đoạn tĩnh tâm thiền định. Đó là nhu cầu tâm hồn hòa nhập vào Đại Ngã. Cha Shannon gọi là trở về sống trong vườn địa đàng, nơi ta không còn cái tiểu ngã là gốc phát sinh những phân chia nhị nguyên giả tạo. Thiền không phải là một hệ thống tư tưởng, hay cảm giác, hoặc một nhận thức tâm lý… Vì vậy ta đừng rơi vào cạm bẫy tìm hiểu thiền qua những giảng giải đầy chữ nghĩa. Thiền là một chứng nghiệm sống không thể giảng giải. Khi ta bị đau vì đứt tay. “Đau” là một thực tại sống, không phải là khái niệm. Nếu phân tích “đau là gì?”, ta phải đóng khung nó vào một khái niệm. Đau trở thành một khách thể để suy tư. Nhưng ta không thể kinh nghiệm đau qua suy tư giảng giải. Sự thật đau là đau. Ta và đau là một. Chủ và khách không có. Trong thiền có câu “Dù nói mãi về đồ ăn cũng không làm ta no bụng”.

Tuy nhiên người ta thường không thể chấp nhận một điều gì đó mà không có tối thiểu một vài khái niệm về nó. Vì vậy người ta đành phải có luận bàn về thiền. Triết gia Descartes nói một câu thâm sâu: “Tôi suy tưởng, vì vậy tôi hiện hữu.” Câu này rất đúng với trí thức, nhưng đối với thiền nó lại hoàn toàn sai. Trong thiền, ta càng suy nghĩ bao nhiêu, ta càng xa chân thân bấy nhiêu. Nếu ta lệ thuộc vào “cái tôi suy tưởng” ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự thức tỉnh. Khi ta nói, “tôi hiện hữu” ta bắt buộc phải đẩy Chúa ra ngoài thành một đối tượng. Nhưng bản thể của Chúa là “Ta Là” (I Am) trong trạng thái “đang là” ở mọi nơi và trong hiện tại.

Tại sao trí thức không thể giúp ta ý thức? Ta hãy nhận diện sự diễn tiến của trí thức. Trí thức xác định mỗi vật phải có một vị trí riêng trong không gian và thời gian. Nhờ có khoảng không gian biệt lập này, mà con người có chỗ đứng để nhìn ngắm và suy tưởng về vạn vật. Khi ta nhìn ngắm bông hoa, ta phải đứng ở vị trí của ta và bông hoa phải đứng ở vị trí đối lập với ta. Ta là ta. Bông hoa là bông hoa. Như vậy luôn luôn có hai thế đứng: chủ và khách. Sự biện biệt này là cách đánh lừa rất sâu sắc của trí thức. Nó sẽ dẫn ta tới những lối bí khó gỡ. Trong đời sống tâm linh, để có thể gọi là “ý thức”, ta với đối tượng phải hòa làm một. Muốn “chứng nghiệm” tâm phải thanh tịnh để không có một ý nào của tri thức lọt vào. Nếu ta phải nương vào khái niệm để biết, ta sẽ luẩn quẩn lạc lối trong khái niệm mà không bao giờ có kinh nghiệm về thực tại. Một cách cụ thể khi thiền ta hãy ngồi im lặng coi như thân xác đã chết dù tâm trí vẫn tỉnh. Ta bỏ lại đàng sau tất cả những gì liên quan đến đời sống trần thế, kể cả thân xác chính ta. Có như vậy ta mới tái sinh vào một thế giới cao đẳng hơn. Khi đó ta đạt thức tỉnh sự hiện hữu “đang là” của Thiên Chúa.


http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/thien3.jpg

Theo Đạo học Đông Phương, tâm là một bản thể tĩnh lặng. Tâm như bầu trời là một khoảng trống mênh mông, không màu sắc, không tiếng động, không quá khứ, không tương lai. Trong khi đó tư tưởng như những đám mây vần vũ, luôn luôn di chuyển, thay hình đổi dạng, và che khuất bầu trời. Người chứa đầy tư tưởng trong trí óc cũng như bầu trời bị mây phủ dầy đặc. Như vậy tâm vốn an tịnh, mọi rắc rối đều bởi trí óc mà ra. Chúng là tiến trình của những chuỗi tư tưởng đến rồi đi. Do đó tư tưởng chỉ là cái nhất thời. Chúng không phải là ta, nhưng là những kẻ bên ngoài tới rồi đi như những vị khách. Ta đón nhận chúng, khách tốt lẫn khách xấu, nhưng không thay đổi vị thế chủ nhà của mình. Có nghĩa là trí biến dịch nhưng ta vẫn tồn tại ở đây với tâm thanh khiết và đơn thuần. Vén mây để nhìn vào bầu trời, đặc ngữ thiền gọi là “quán tâm” (nhìn vào nội tâm). Nhìn ra sự thanh khiết của bầu trời (tâm) gọi là “ngộ” (trực giác biết không qua trí thức). Muốn nhìn vào bên trong tâm, đơn giản chỉ là ngồi im lặng gạt bỏ mọi tạp niệm, tức ngồi thiền. Thiền là đẩy những đám mây mù đặc để bầu trời (tâm) yên tĩnh hiện ra.


Một số nhà tư tưởng Công Giáo giải thích thiền là dạng cầu nguyện tập trung (centering prayer). Cầu nguyện tập trung là đặt tất cả ý thức sự hiện hữu của mình an trú trong thời điểm hiện tại với Chúa. Cha Chu Công nói: “Ta không tìm bình an, không tìm giác ngộ, không tìm gì cho mình… Chúa là tất cả của giờ cầu nguyện.” Cha Merton cho rằng: cầu nguyện không phải chỉ là đứng trước Thiên Chúa để nói một điều gì, nhưng còn là để “kinh nghiệm niềm vui cuộc sống trong sự hiện diện của Ngài”.

Thiền là ngồi “cầu nguyện” nhưng không đọc kinh, không suy ngẫm, không chiêm niệm, và không tư tưởng. Ta không có ý cầu nguyện bất cứ điều gì, dù là cầu nguyện với Thiên Chúa. Ta cũng không hy vọng bất cứ điều gì xảy ra, dù là hy vọng vào Thiên Chúa. Ta đóng lại mọi giác quan, mọi xúc cảm, mọi suy nghĩ, mọi lo lắng, mọi ràng buộc, để chìm vào cõi im lặng của hư vô. Khi Thiên Chúa sinh ra con người, Thiên Chúa thở hơi vào xác phàm của con người. Xác phàm trở thành mạng sống vì hơi thở của Thiên Chúa là Thần Khí ban sự sống. Vậy trong thiền, ta chỉ nên ngồi im lặng mà hít thở. Ta hòa tan hữu thể với Thần Khí ban sự sống. Thiền không phải là việc làm của trí thông minh, nhưng là thời gian của đức tin và lòng khiêm nhường. Tất cả mọi ý thức của ta tập trung hoàn toàn trong ý thức “đang im lặng trong niềm tin”. Các thần học gia gọi phương thế giữ mình trong im lặng là sự an trú trong tình yêu của Thiên Chúa.

Yếu quyết của thiền là giải phóng mọi ràng buộc để mình là chính mình. Giải phóng là buông xả mọi xiềng xích. Nếu ta không buông xả, ta vẫn còn vướng mắc trong một khuôn mẫu chật hẹp nào đó. Mọi khuôn mẫu đều bị giới hạn trong vòng kiểm soát của trí óc. Chưa buông xả, ta chưa đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Hãy hủy bỏ mọi tư tưởng. Hãy hoàn toàn tĩnh lặng để tâm hồn chìm sâu vào hư vô, nơi Thiên Chúa hiện diện.

Thiền Kitô


http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/thien4.jpg

Nói cụ thể thiền Kitô chính là dạng thiền của Đông Phương phối hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Kitô giáo trong thế kỷ III. Linh hồn Kitô hữu phải gặp Chúa của mình. Nhưng “Ai là người sẽ đứng trước mặt Chúa. Ấy là người tay không nhúng tội và trái tim trong sạch” (TV 24:3-4). Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và trong sạch. Chính Chúa đã phán: “Hãy im lặng để biết Ta là Thiên Chúa” (TV 46:10). Thiền là chiêm niệm trong im lặng, là cách cầu nguyện với kinh vô thanh. Merton đưa ra khái niệm về thiền như sau. Vì Thiên Chúa là ánh sáng quá chói chang khiến trí óc và mắt con người chỉ thấy tối tăm. Vì vậy để gặp Người ta phải đi vào bóng tối. Vì Thiên Chúa không thể hiểu qua âm thanh, nên để gặp Người ta phải đi vào cõi im lặng. Vì Thiên Chúa không thể mường tượng trong trí óc, nên muốn gặp Người chúng ta phải đi vào cõi trống không. Tuy nhiên ta vẫn thức tỉnh để trực giác “biết” rằng ta đang hòa vào Thiên Chúa trong hiện tại vĩnh hằng. Đó là bí quyết thiền.


Yếu tính của tĩnh lặng là gì? Tĩnh lặng nằm bên ngoài thế giới vật lý và những định luật của vũ trụ. Nó hoàn toàn chỉ là sự trống vắng rất đơn sơ giản dị. Giản dị đến mức không có gì để nói. Thiền là sống với tín lý “tinh thần nghèo khó” vì khi đó chúng ta không bám víu vào bất cứ giá trị nào của trần thế. Chúng ta thoát khỏi mọi hình thức vị kỷ. Trong tĩnh lặng, lời nói mất hiệu lực, ý niệm không còn ý nghĩa. Ta không còn sợ hãi. Ta không còn khả năng “động”. Ta hoàn toàn an tĩnh. Trong trạng thái tuyệt đối tĩnh lặng vượt khỏi biên giới ngôn ngữ, tư tưởng, và ý niệm, ta hoàn toàn khuất phục Thánh Linh. Ta lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa trong sự phó mặc. Rồi “bản thể đích thực” của ta sẽ tự sống dậy. Ta sẽ thấy bản thể thật của mình cũng là bản thể của Thiên Chúa. Lúc ấy tâm linh ta sống trong sự hiện hữu vĩnh hằng của Thiên Chúa. Đó chính là sự cầu nguyện tuyệt hảo vì khi đó ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Ta thức tỉnh để kinh nghiệm sự hiện hữu của Thiên Chúa và ta hòa nhập trong Người.
Chủ yếu của thiền là chứng nghiệm cá nhân. Tuy nhiên khi thiền ta đừng mong muốn hay cầu nguyện điều gì. Quyền lực của thiền không phải ở lý luận trí thức nhưng ở sự hoàn toàn qui thuận Thiên Chúa. Thomas Merton nhắn nhủ ta rằng: Không phải chúng ta là người lựa chọn sự thức tỉnh cho mình, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng lựa chọn đánh thức chúng ta.”

Kỹ Thuật Thiền


http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/thien5.jpg

Như trên đã nói thiền có rất nhiều dạng, nên không thể lấy một dạng nào làm tiêu chuẩn mẫu. Ở đây, để có thể đàm luận một cách cụ thể, tôi xin mượn phép thiền của cha John Main. Bí quyết của thiền là ngồi im lặng, nhưng người ta nghiệm ra, không dễ gì mà giữ im lặng trong trạng thái hoàn toàn có ý thức. Trí óc con người rất giao động. Nó luôn luôn tuôn ra những hình ảnh và tư tưởng lộn xộn. Đàng khác nó cũng rất bén nhạy với tư tưởng và hình ảnh quyến dụ từ bên ngoài. Nó như chiếc lông chim nhẹ, chỉ cần một làn gió thoảng đủ khiến nó bay đi. Vì vậy, cái cốt yếu phải biết trong thiền là kỹ thuật giữ thinh lặng. Các tổ phụ Kitô thiền dậy rằng để giữ thinh lặng, chúng ta phải ngồi giữ lưng thẳng, hơi thở điều hòa, mắt nhắm lim dim, miệng tụng mantra (một câu kinh ngắn), rồi chìm vào hư vô. Cần nói rõ mantra không phải là lời cầu nguyện. Nó chỉ là câu niệm âm thanh để giúp trí óc không chạy vẩn vơ. John Main đã dùng nhóm từ “maranathan” làm câu niệm cho phép thiền của ngài. Sau một thời gian công phu luyên tập, ta đạt tới trang thái hoàn toàn tĩnh lặng, đặc ngữ thiền gọi là nhập định, khi ấy ta không cần tới mantra nữa. Tuy nhiên không ai biết khi nào ta đạt trình độ này. Nó tự nhiên đến mà không báo trước. Nếu ta mong nó đến, ta đã đi sai đường. Tất cả những gì ta cần phải làm là “Ngồi xuống, giữ thẳng lưng, tụng mantra.” Ngoài ra không kỳ vọng bất cứ một điều gì.


Thêm nữa không phải lúc nào thiền cũng được. Thiền chỉ nên có mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng từ 20 đến 30 phút vào những giờ giấc nhất định. Vì vấn đề kỹ thuật được nhấn mạnh, nên người ta có khuynh hướng tục hóa nghi thức này. Cuối cùng nó có thể trở thành một loại công phu “Yoga” luyện tập thể chất. Điều này không phải là sai, vì lối “ngồi im lặng” hóa giải được sự căng thẳng của thể xác và làm thư giãn tinh thần. Nhưng nếu ta không ý thức đó là dạng cầu nguyện, nó chẳng mang lại một tiến bộ tâm linh nào cho ta cả.


http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/sen1.jpg

Vào mỗi buổi sáng và buổi tối, ta hãy tìm một chỗ thanh vắng để thiền. Ta hãy ngồi với tư thế thanh thản, điều quan trọng là phải giữ sống lưng thẳng đứng. Có rất nhiều cách ngồi. Ngồi theo thế tòa sen (kiết già) hai bàn chân bắt chéo đạt lên đùi. Ngồi theo thế bán kiết già, xếp chân nhưng không bắt chéo đặt trên đùi. Ngồi trên ghế. Nếu ngồi trên ghế, tốt hơn đừng dựa lưng vào thành ghế. Tóm lại ngồi cách nào cũng được miễn ta thấy thoải mái. Thế ngồi thẳng lưng đứng tạo sinh lực giúp ta vượt giới hạn của thân và trí để có trạng thái buông xả.


Trước khi thiền ta nên để tâm hồn hoàn toàn buông xả. Kế đó ta tụng câu “Ma-ra-na-tha”. Bốn âm thanh này phát ra đều đặn trong suốt buổi thiền. Ma-ra-na-tha có nghĩa là “lạy Chúa xin hãy đến”. Đây là tiếng Aramiac, ngôn ngữ của Đức Giêsu dùng khi xưa. Cha Main luôn luôn nhắc nhở “Hãy chỉ tụng lời, đừng nghỉ đến nghĩa”. Tụng đơn sơ và thanh khiết như con trẻ.

John main tìm ra phương pháp này qua phương pháp tĩnh tâm của thánh John Cassian (360-435) ở thế kỷ IV. Thánh Cassian cùng bạn là thánh Germanus đi vào sa mạc Ai Cập học đạo với tổ phụ Isaac. Ngài Isaac tiết lộ rằng tất cả những gì ông biết đếu bắt nguồn từ tụng một câu kinh ngắn. Sau đó Isaac dạy cho Cassian lời nguyện với bí quyết: khi tụng kinh hãy buông mình theo hướng Chúa dẫn mình đi. Đừng trói buộc Chúa vào bất cứ một tư tưởng nào.

John Main tâm sự, “Câu mantra của tôi là maranatha. Câu này là lời kinh tối cổ của giáo hội Kitô. Thánh Phaolô kết thư gửi cho tín hữu Côrintô bằng câu ấy. Thánh Gioan kết thúc sách Khải Huyền cũng bằng câu ấy. Maranatha đầy đủ ý nghĩa lại không phải là ngôn ngữ của chúng ta. Vì vậy khi đọc, câu này không gợi ra một hình ảnh hay một tư tưởng nào khuyết khích trí ta suy nghĩ. Tất cả chỉ có âm thanh đều đặn theo nhịp điệu hòa hợp với hơi thở.”



http://daminhvn.net/tulieubaiviet/hinhanh/minhhoa/nhathomaianh_dalat.jpg



Mục đích của thiền là giúp chúng ta cởi bỏ những gì thuộc thế giới ảo ảnh, vén tấm màn che dấu để năng lực sống của Thiên Chúa truyền vào chúng ta. Hữu thể của ta đã nối kết với Thượng Đế ở một nơi ngoài tầm của ngôn ngữ, của lý trí và của những thực thể. Thiền không phải là làm một việc gì. Không phải là tu luyện để trở thành một nhân vật khác. Thiền là trở thành chính mình: sinh ra bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian “tu thân” chúng ta mới hiểu ích lợi của thiền. Như kho tàng dấu trong ruộng, bản tính đạo đức ẩn khuất từ từ khai triển và mở ra. Chẳng hạn ta tự nhiên có lòng bác ái, điều mà ta đã cố gắng lập đức từ lâu mà không sao thể hiện được. Sự diễn biến xảy ra rất tự nhiên trong khi ta không biết tại sao. Chính Thiên Chúa đã thanh lọc tâm hồn ta trong những lần ta đến an trú trong Người. Vào mỗi buổi sáng, sau khi chìm trong thiền định, sự thanh tịnh tồn tại bao phủ tâm hồn ta suốt cả ngày. Mọi việc tầm thường ta làm trong ngày đều có ý nghĩa hơn, vì ta có cảm nhận Thiên Chúa đứng đàng sau mọi việc.

Đỗ Trân Duy
___________
Tài liệu tham khảo
John Main, O.S.B. 1999. “Christian Meditation: the Gethsemani Talks”. Medio Media, Tucson, Arizona.
Joseph Chu Công, O.C.S.O. 1999. “The Contemplative Experience: Erotic Love and Spiritual Union”. The Crossroad Publishing Company, New York, New York.
Thomas Merton, O.S.B. 1960. “Spiritual Direction and Meditation”. The Order of St. Benedict, Inc. Collegeville, Minnesota.



Nguồn: daminhvn.net

cafeda2009
27-11-2009, 06:58 PM
Yoga - Thiền Trên Thế Giới Và Với Kitô Giáo Ngày Nay

Hoàng Sỹ Qúy SJ (http://tgp-tphcm.net/taxonomy/term/605)

T3, 22/09/2009 - 16:47





http://tgp-tphcm.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/toanbong15/Yoga1400.jpg




Từ nửa thế kỷ nay, Yoga và Thiền được phổ biến rộng khắp bên Âu Mỹ và bắt đầu xâm nhập Việt Nam rồi. Vâng, tại chính Việt Nam chúng ta, sách Yoga được dịch, in bán ngày càng nhiều, đồng thời những khóa Thiền hay Yoga được tổ chức đó đây[1], và lác đác có những nhóm hay cá nhân tu sỹ Công giáo đến thọ giáo ở Trúc Lâm Thiền Viện Đà Lạt.


Do đó, không thể không tìm hiểu những kỹ thuật tu luyện rất đông phương ấy, xem ở ngọn của chúng hiện nay trên thế giới ra sao, đồng thời ở gốc là Ấn Độ và Phật giáo, bản chất và hướng nhắm của chúng là gì, có thế mới biết ứng dụng thế nào cho phù hợp với đức tin và sống đạo KTG được.

Thiền và Yoga trên thế giới xưa


Ngay từ thế kỷ III trước công nguyên, từ nước Ấn nhiều đoàn truyền (Phật) giáo đã được hoàng đế Asoka (AÌoka)[2] phái đi về hướng Tây đến Ba Tư…, về hướng Đông đến Đông Á và Đông Nam Á. Riêng ở Việt Nam thì miền Bắc tiếp nhận Đại thừa từ Trung Quốc tới, miền Nam đón Tiểu thừa từ Thái Lan, Myanmar… truyền sang. Cũng tại Việt Nam, người Chăm được Ấn hóa (cùng với nhiều nước Đông Nam Á khác) từ rất sớm cũng theo Ấn giáo và Phật giáo (riêng người Chăm Châu Đốc sau này ngả theo đạo Hồi). Chính qua Phật giáo, nhất là Thiền tông, mà việc tham thiền trở thành quen thuộc đối với chúng ta. Chỉ có Yoga (tôi có ý nói Hatha-yoga (Haưha-yoga) là món ăn còn tương đối mới lạ, dù Yoga rất gần gũi với Thiền, như sẽ nói sau này.


Ở Trung Quốc xưa, không thấy ai nhắc đến Yoga, nhưng xem ra Yoga và Tantra đã ngầm ảnh hưởng rất mạnh đến y học và luyện công qua lý thuyết về huyệt (chakra hay luân xa) và lực đạo (nadi). Riêng việc luyện nội lực của một hai phái Đạo giáo : đưa tinh lực từ dưới dọc theo xương sống đi lên về phía huyệt bách hội, thì đó là cách làm quen thuộc của ai tu theo Sakti-giáo (Tantra) ở Bắc Ấn hay Phật giáo mật tông (tantrika) ở Tây Tạng xưa. Vâng, cứ đọc sách Thái nhất kim hoa tông chỉ của Đạo giáo (nói về cách tu luyện kiểu ấy), người không biết có thể tưởng đó là một kinh thư của Tantra (Mật giáo) Ấn Độ. Việc luyện nội lực và luyện phép (cũng là của Yoga) rồi sẽ được khai thác triệt để trong các truyện tiên (luyện phép) và truyện chưởng với người khởi xướng là Kim Dung. Kim Dung cũng đả động đến “thiên lý nhĩ” (nghe xa ngàn dặm), trong khi các truyện như Phong thần thì nói nhiều đến các phép khác như “đằng vân giá vũ” đã được vẽ trong đồ họa cổ về yogin (người tu Yoga).


Về phía Tây, Thiền và Yoga cũng được truyền sang Trung Đông và Đông Âu khá sớm. Dấu vết nay còn tìm thấy trong lời cầu Định an (Hêsukhia) bên Giáo hội đông phương. Đây là lời kinh Xin Chúa thương xót (kurie eleison), lời kinh ấy có thể ngồi mà đọc, vừa đọc vừa tập trung vào rốn mà dùng ý đưa lên trái tim.[3] Và đây là phưong pháp Yoga nói đến trong Chú giải-Yoga III.1.Bẵng đi một thời gian, nay Thiền và Yoga tái xuất hiện gần đây, với một bề thế khác hẳn, bắt đầu từ Âu-Mỹ.

Thiền và Yoga bên Âu Mỹ gần đây


Yoga, và trước hết là Thiền, được Âu châu tái khám phá kể từ thế kỷ XVII qua giới nhà tu KTG. Số là những người như Di Nobili (1577-1656), rồi Monchanin và Henri Le Saux (thế kỷ XIX-XX) đã sang Tây trúc phổ đạo và phổ đạo bằng con đường hội nhập văn hóa. Họ hội nhập bằng cách tu theo kiểu các tu sỹ bỏ đời (samnyasin) bà-la-môn. Mà tu như thế thì cần cả sự hợp tác của thân thể nữa. Và đây là các tọa thế (âsana) và việc điều tiết hơi thở (prânâ-yâma).


Nhờ những nhà tiên phong này, KTG trời Âu mới hiểu được cái lợi của Thiền và Yoga. Thế là nhũng người can đảm nhất bèn mời đón các guru (sư phụ Ấn) và thiền sư Phật giáo sang dạy. Cùng lúc ấy, thấy có thị trường xuất khẩu, nhiều bậc tôn sư khác cũng tự động sang mở các khóa thiền, mở luôn thiền viện hay tu viện nữa. Trong số phải kể trước tiên đến các tu viện của tân Ấn giáo Ramakrisna Mission ở Pháp, Anh, Hoa kỳ…, trong đó người ta vừa thuyết pháp, vừa mở cửa cho những ai muốn vào tu tập một thời gian.


Từ Đông Á, một số thiền sư cũng sang thuyết pháp, dạy thiền và lập chùa. Trong số những vị được Âu Mỹ mến mộ, phải kể đến hòa thượng Thích Thanh Từ của Trúc lâm thiền viện Đà Lạt. Sau khi đã thụ giáo với các guru hay thiền sư rồi, một số tu sỹ Công giáo bắt đầu biến chế thiền để đưa thiền vào chiêm niệm chính thức KTG, trong số đó phải kể đến Thomas Merton, John Main, James Finley.

Riêng Yoga -tôi có ý nói Hatha-yoga quen thuộc- thì phổ biến nhanh và được tiếp đón nồng nhiệt như một môn thể thao (và chữa bệnh theo kiểu vật lý trị liệu) kể từ giữa thế kỷ XX. Tại Paris trong thập niên 60, hình như chỉ có những khóa Yoga do Trung tâm văn hóa Ấn Độ tổ chức, mà tôi có đến tập mấy tháng. Thế mà nay đã xuất hiện hàng chục lớp Yoga khác nhau, và có cả một Liên đoàn Yoga Pháp quốc được pháp luật công nhận.


Thật ra, các lớp Yoga, với nhiều cấp khác nhau, được mở trong khắp các thành phố lớn Âu Mỹ, và những thành phố như New York, thì các studio yoga được lập rất rất nhiều, các studio ấy được chính phủ công nhận và những người dạy trong đó được những tổ chức như Yoga Alliance, Yoga Education Instiutute cấp chứng chỉ hành nghề thày dạy Yoga. Điều ấy chứng tỏ rất đông người thích Yoga, học Yoga, luyện Yoga hằng ngày, chuyên gia bơi lội thì để cơ bắp dẻo dai, người khác để có sức khỏe bền và thân thể tráng kiện.


Thế nhưng nếu chỉ nhắm sức khỏe suông, thì ý nghĩa tôn giáo của Yoga bị quên lãng. Cũng như nếu chỉ luyện thiền để tránh stress mà không tuân giữ các quy tắc sống kèm theo, thì ích lợi sẽ rất hạn chế. Ngoài ra, có tu sỹ ngồi thiền mà lại quán (suy niệm) theo kiểu Tây, thì rút cuộc thiền chỉ là cái áo khoác không kém không hơn.


Chính vì thế, trước khi dấn thân vào những kỹ thuật ấy, cần tìm hiểu đúng bản chất của chúng cùng với cả mớ những đòi hỏi kèm theo, nhờ đó xem cái gì phù hợp để khai triển, cái gì chưa phù hợp để biến chế, làm sao cho tất cả thích ứng được với niềm tin và đường lối Phúc âm của chúng ta. Nhưng trước hết, hãy xem thực sự Thiền và Yoga đang được ứng dụng trên thế giới như thế nào đã.


Thiền và Yoga bắt đầu xâm nhập mạnh vào Phương Tây từ giữa thế kỷ XX, lúc mà giới trẻ học thức ở đó vùng lên trong các phong trào phản biện (contestation), chống lại xu hướng duy lý và những khuôn sống cứng nhắc xưa cũ, cũng như sự ngự trị của những xu hướng tân đại khác, như duy vật chất, duy kinh tế và duy hưởng thụ. Trước tiên, đó là đám hippy bên Mỹ muốn một cuộc sống phóng khoáng, không gò bó nhưng hưng phấn. Đó là đám sinh viên bất mãn thích đập phá bên Âu Châu, bắt đầu từ Paris năm 1968. Họ đập phá vì họ mong muốn một cái gì mới hẳn, nhưng lại không xác định được là gì. Riêng những nhà trí thức thì muốn phá bỏ những nền tảng cũ của văn minh tân đại, và đây là triết học duy lý khởi sụ với Descartes nó khai sinh cho khoa học và giúp phát triển nhanh công nghiệp và kinh tế Tây phương. Chống triết học duy lý nữa, một đằng thì có triết lý hiện sinh nó đề cao con người cụ thể, ở đây và lúc này (dasein), chỉ con người ấy mới có vấn đề như áo cơm, nhà ở để bận tâm (souci), chứ không phải con người trừu tượng. Đằng khác, có thuyết Mác xít nó lấy hạ tầng Nghiệm tác (Praxis) làm cơ sở, chứ không đặt cơ sở từ cao ở lý thuyết nữa. Vâng, Praxis, đó là hành động cách mạng : cứ lao mình vào cách mạng xã hội, thì rồi người ta sẽ phát hiện đúng lẽ ;phải và công lý nằm ở đâu.


Lúc Tây phương không còn tin vào thế mạnh của mình nữa, cũng là lúc những con rồng và cọp Châu Á bừng thức, hiểu rằng mình cũng có những cái hay để xuất khẩu sang Âu Mỹ: cái hay ấy không nằm ở súng ống và máy móc, nhưng ở cái nó giúp con người tìm ra chân hạnh phúc của mình, và đây là minh triết (wisdom) và các kỹ thuật tu luyện đông phương. Quả thề, giàu có và quyền lực làm gì, khi mà người ta luôn bức xúc, âu lo, nhàm chán, đến nỗi phải chạy trốn bản thân (tức khỏi nội tâm) bằng cách lao mình vào hoạt động và các cuộc truy hoan, kể cả rượu và ma túy nữa! Cái mà thiền và minh triết Á đông có thể mang lại cho họ, đó là sự an lạc “mà thế gian không cho được” (Gio.14.27).


Sự an lạc này, phải tìm ở chính mình, tức ở nội tâm, chứ không phải từ những gì tích góp từ bên ngoài. Cho nên phẳi vét rỗng khỏi mọi ham muốn, bằng lòng (santosa) với những gì đơn giản thôi (Yoga), và đây cũng là “Tri túc giả phú” của Đạo đức kinh Lão tử. Minh triết phương đông còn chỉ cho thấy rằng thân xác không phải chỉ là phương thế để thụ hưởng, để rồi đi tu không thụ hưởng nữa thì buông bỏ nó đi. Vâng, để tìm an lạc bên trong, thậm chí để thoát khỏi thân xác như Yoga chủ trương, thì thân xác cũng đóng một vai trò quan trọng : và đây là những tọa thế (âsana, do AS có nghĩa là ngồi) và sự điều hòa hơi thở (prânâ-yâma) chúng khiến tâm an định, nhờ đó có thể định thần.


Bắt đầu hiểu ra đâu mới là giá trị thật của nhửng món hàng đông phương ấy, các cô cậu hippy không còn thích Yoga vì cái dáng vẻ rừng rú là lạ của nó nữa, và người ta nghiêm túc đi vào Yoga vì một cuộc sống tốt đẹp hơn (wellness), cũng như đi vào Thiền để tránh những cơn stress mà sự âu lo trong cuộc sống làm phát sinh quá dễ.


Như thế, bắt đầu được coi như một cái “mốt” là lạ, nay Yoga đã có một chỗ đứng vững vàng trong xã hội Âu Mỹ. Các lớp, trường dạy Yoga mọc lên như nấm; dạy Yoga trở thành một nghề nghiệp, và người làm thầy được cấp chứng chỉ do những tổ chức như Liên đoàn (Fédération) Yoga, Liên minh (Alliance) Yoga, Viện (Institut) Yoga…có uy tín và được pháp luật công nhận. Chả hạn như bên Pháp năm 1967, các liên đoàn huấn luyện Yoga (fédérations d’enseignement du Yoga) được chính thức nhìn nhận như những hiệp hội (associations) theo qui định của đạo luật 1901.[4]


Dẫu sao chăng nữa, từ một phương trời xa xăm được nhổ sang trồng nơi đất lạ, Yoga và Thiền không thể không biến dạng rất nhiều. Do đó, để áp dụng chúng một cách hiệu quả hơn, nên tìm lại tận gốc nguồn của chúng, Yoga thì bên Ấn Độ, Thiền thì trong các thiền viện ở Á Châu.

Yoga là gì ở nền tảng của nó


Yoga là một danh từ xuất phát từ động từ Yuj, Yunakti, Yuyoga…, có nghĩa là Buộc (buộc ách vào cổ bò), là Nối với, Đạt tới, Kết hợp. Nên xem ra nó do cùng một nguồn với những chữ có gốc Ấn-Âu như Jungere tiếng la tinh, Joindre tiếng Pháp, To join tiếng Anh. Cụ thể, Yoga biểu thị Con đường (để đạt tới), và đây là đường (hay phương cách) tu luyện. Nói cách khác, Yoga là Đạo.



Còn tiếng Yoga quen thuộc đối với người thường, nhất là người nước ngoài, thì đó là Hatha-yoga hay Yoga mãnh-vận, phải gồng mình lên mới làm nổi. Hatha-yoga có một trong những mục tiêu là luyện cho có một sức khoẻ lành mạnh và dẻo dai. Dẫu sao chăng nữa, mục đích tối hậu của mọi thứ Yoga, kể cả Hatha-yoga hay Kundalini-yoga, đều là tôn giáo : và đây là giải thoát Tinh thần (Purusa) khỏi xiềng xích của vật chất (prakriti) nói chung, đồng thời hiệp nhất hồn với Chúa (Isvara) nếu đây là Yoga chính thống.


Chính vì có nhiều loại Yoga nhưng chúng lại có những điểm tương tự, nên vào đầu công nguyên, Patanjali đã tập hợp những con đường tu luyện quen thuộc nhất thời ấy vào cuốn sách Yoga kinh điển gọi là Kinh Yoga (Yoga-sutra). Thế nhưng vì Kinh Yoga quá vắn tắt nên khó hiểu, Vyâsa phải viết tập Chú giải (Yoga-Bhâsya) vào thế kỷ IV; rồi vào thế kỷ IX Vâcaspati Misra lại viết cuốn Tattva-vaisâradi giải thích rộng hơn chính bản Bhâsya này; và càng bàn giải rộng hơn rất nhiều có bản Phụ chú của Vijnânabhiksu gọi là Yoga-vârttika viết trong thế kỷ XVI.


Trong bài này, để diễn giải vắn tắt nhưng có cơ sở về Yoga, chúng tôi sử dụng vừa Yoga-sutra với ký hiệu YS., vữa bản Yoga-Bhâsya với ký hiệu YBh., và bản Phụ chú với ký hiệu YV..


Trên lý thuyết, Yoga được coi như kỹ thuật giúp thực hiện mục tiêu mà học thuyết nhị nguyên của Sâmkhya đề ra. Theo học thuyết này thì nơi chúng ta có hai thực thể đối đầu nhau, và đây là Tinh thần Purusa bị phong tỏa bởi Vật chất Prakriti (Pra-kriti có nghĩa là cái còn nguyên sơ, chưa làm thành gì cả, nên có gì giống như Materia prima của triết học thánh Tôma, do đó chúng tôi xin phép dịch là Bản nhiên, Thuần nhiên). Chính vì thế, mỗi người phải tìm cách giải phóng Tinh thần, và đây gọi là Cô lập, Kaivalya (cô lập Tinh thần, tách nó ra khỏi mối liên hệ với Bản nhiên). Yoga cùng chủ trương nhị nguyên và cùng nhắm mục tiêu Kaivalya như thế. Chỉ trong cấu trúc tâm lý, để biểu thị tâm trí, họ lại dùng tiếng Citta thay vì tiếng Mahat (Đại) hay Buddhi của Sâmkhya,. Thêm vào đấy, nếu Sâmkhya chủ trương vô thần, thì họ lại đề cao Đức Chúa thiêng liêng (Isvâra) và dạy phải sùng mộ Ngài, đặt hết tin tưởng vào Ngài để Ngài giải thoát ta bằng ơn tuệ giác. Đồng thời, tuy không nói đến con đường Thiền (Dhyâna-yoga) của Phật giáo, nhưng trong số những điều kiện luân lý, họ lại đưa Từ-Bi-Hỉ-Xả của Phật môn vô (YS.I.33).


Nói cho đúng ra, tuy kinh thư Yoga tập trung vào Vương-đạo (Râja-yoga) vốn lấy con đường tri thức (Jnâna) cùng với tôn sùng (Bhakti) làm căn bản, nhưng cũng kể thêm làm thí dụ một số các Yoga khác. Thế rồi, tuy không nêu đích danh Hatha-yoga, những tập sách ấy cũng nói đến việc điều tức và kể ra một số các tọa thế của Hatha-yoga.


Kinh Yoga chia thành bốn tập (và các sách Chú giải hay Phụ chú…cũng chia theo như thế) : tập 1 bàn về Đại định (Samâdhi), tập 2 bàn về tu hạnh (đạo đức) và các chuẩn bị khác, tập 3 nói về Nhập định (tức Tập trung tâm trí), và tập 4 nói về việc Giải thoát gọi là Cô lập.


Tất cả những phương thức sử dụng được Kinh Yoga gồm vô trong Bát chi (Asta-anga) : (1) Giới (yama), (2) Giữ (ni-yama), Thế (tọa thế, âsana), (4) Điều tức (Prânâyâma), (5) Thoái giác (pratyâhara), (6) Định thần (Dhyâna), (7) Quán (Dhârana), (8) Đại định (samâdhi). Năm chi đầu là phương thế gián tiếp và cố gắng bên ngoài, trong khi ba chi cuối là con đường chính nó thuộc cố gắng bên trong.


Thuộc năm chi đầu, liên quan đến đức hạnh, có Giới, Thoái giác và Giữ.


Giới, đó là Ngũ giới quen thuộc mà hết thảy mọi người Ấn đều tuân thủ, kể cả Phật tử, cố nhiên. Giới đầu tiên là Giới sát, A-himsâ, mà thế giới quen dịch là Bất bạo động, không những nó cấm giết, mà còn tránh nuôi hận thù; không những cấm giết người, mà cấm giết động vật nói chung.


Mahâtma Gandhi đã kết hợp Ahimsâ với luật yêu kẻ thù của Phúc âm (mà ông rất thích) để sáng tạo nên một đường lối đấu tranh có ảnh hưởng lớn trên thế giới vào giữa thế kỷ XX, và đây là Đấu tranh bất bạo động. Trung thành với đường lối này, trong khi giành độc lập cho quê hương, ông vẫn coi viên toàn quyền Ấn Độ người Anh là bạn hữu, rồi đến khi bị ám sát do hô hào Hồi (giáo)-Ấn(giáo) hòa hợp với nhau, bắt chước Chúa Giêsu, ông đã xin tha cho kẻ giết mình.


Bốn giới tiếp theo là cấm vọng ngôn (nói dối), cấm trộm cắp, cấm dâm dục, cấm tích lũy (aparigraha, do tham tiền và hà tiện) mà Phật giáo đổi lại là Giới tửu.


Ngũ giới nhắm hành vi bên ngoài, còn Thoái giác hướng về sự giữ gìn bên trong, và đây là tránh không để lục căn (indriya hay giác năng+ý thức) tiếp xúc với đối tượng của chúng là lục trần (thanh, sắc, xúc thức…+ý niệm), nhờ đó khỏi phân tâm, vấn vương, có thế mới định thần nổi (YV.2.54). Nếu Giới nói về những gì phải tránh, thì Giữ lại hướng về những gì tích cực. Và đây là Ngũ hạnh : trong sạch (sauca), bằng lòng (santosa), khổ hạnh (tapas), học hỏi (thánh kinh) và sùng mộ Chúa (YS.II,32).


Trong sạch nhắm cả bên ngoài lẫn bên trong, vì tuy bên trong mới cần, nhưng sự thanh khiết ở cơ thể lại dễ ảnh hưởng đến tâm hồn chúng ta. Do đó mà sách Ca tụng Chúa (Bhagavadd-gitâ) dạy ăn những thứ dương thanh (sattva) như rau quả, sữa thay vì thức ăn âm tà (tamas) như mắm thối và thức ăn kích động (rajas) như rượu thịt. Còn bằng lòng, thì đây là “Tri túc giả phú” của Đạo đức kinh, thế nào cũng xong, cũng đủ, không thèm muốn gì cả, và cuộc sống thanh đạm ấy làm phát sinh niềm an lạc thường hằng bên trong. Còn khổ hạnh sẽ tăng cường sức chịu đựng đối với dù nóng lạnh hay đói khát, đồng thời củng cố sự kiên định, tự chủ nó giúp tu thân và đi vào tu luyện (Yoga Bh. và V.). Riêng việc sùng mộ Chúa đi đôi với hành động vô cầu (làm vì bổn phận, chứ không vì lợi lộc chi hết) sẽ khiến Chúa ban ơn tuệ giác hòng giải thoát hành giả.


Những vần đề trên thuộc chuẩn bị xa nó bao quát hết cuộc sống. Còn chuẩn bị gần thì đi liền với tập trung. Chuẩn bị gần nằm ở tọa thế và điều hòa hơi thở.


Kinh Yoga (II.46) chỉ nói đến cách ngồi thẳng vững (sthira) và thoải mái, buông xả (sukha), còn bản chú giải của Vyâsa thì kể ra hằng chục tọa thế có tác dụng như trên, mà đứng đầu là tọa thế Hoa sen (padma). Những cách ngồi như thế, thường phải cố gắng và luyện tập lâu mới thành.[5] Nhưng khi ngồi dễ dàng rồi, thì sẽ thấy đây là cách ngồi giúp tập trung rất tốt. Có guru còn giải thích bằng mục tiêu tập trung nhân điện, không để thoát ra ngoài tí nào. Có điều để ngồi vững và thoải mái như thế, thì sống lưng phải thật ngay, đầu hơi cúi để cần cổ theo cùng một đường thẳng đứng với xương sống.[6]
Ngồi vững xong, phải điều hòa hơi thở. Trong đời sống thường, ta dễ quên thở và thở ra không hết, hít vào không đủ sâu, khiến phổi thành như cái ao tù, khí trong đó dơ bẩn, khiến máu và cơ thể cũng đục theo luôn. Để thở sâu như vậy, Yoga cung cấp hằng chục cách thở khác nhau. Nhưng nếu chỉ nhắm định thần, thì chỉ cần một hai cách đơn giản; cũng như để làm trong sạch khí huyết thì thở sâu vài chục lần cũng đủ rồi. Kế đó, phải thở thật êm, nhẹ lại khiến tim cũng đập êm nhẹ luôn và tâm không biến động nữa, có thế mới tập trung được (II.53).


Những cách vận tức đặc biệt, theo YV., còn sinh ra những phép thần thông (siddhi) như bay (YV.II.51) và thính nhãn, nhĩ, xúc, thấu thị YV.III.36) . Thật ra, thì hiện tượng thân thể nhẹ và nổi lên trong không khí (lévitation), thì trong huyền học KTG cũng gặp, và ngày nay đôi khi cũng còn gặp nơi các Yogi. Thật ra, các bức tranh cổ cũng vẽ họ bay như thế. Theo tôi, rất có thể hiện tượng “khinh thân” (lévitation) là cơ sở mà các truyện thần tiên Trung Quốc dựa vào để thổi phồng thành phép đằng vân giá vũ. Cũng như hiện tượng thính nhãn, nhĩ được Kim Dung khai thác trong Thiên long bát bộ hay Lục mạch thần kiếm thành Thiên lý nhãn và Thiên lý nhĩ luôn. Ngoài ra, một số yogi siêu quần có thể điều tức đến giai đoạn bốn là ngưng thở hoàn toàn, ngưng cả giờ, ngày, thậm chí một năm luôn (YV.II.51-52), và người ta có thể chôn ông dưới đất, để sau khi đào lên và chà sát một lúc là (ông) tỉnh lại.


Có điều những thành tựu lạ (siddhi) này, hãy để chúng tự nhiên đến và tự nhiên đi, chứ nều ham thích mà bận tâm vào thì chúng sẽ cản trở hành giả tiến tới đại định và giải thoát (YV.III.37).



Liền sau khi ngồi hoa sen và thở êm nhẹ lại rồi, hành giả hãy tập trung hay quán (dhârana). Đối tượng của tập trung là một điểm (YS.III.1) trên người hay bên ngoài. Điểm trên người có thể là rốn, hoa sen-trái tim, sống mũi, giữa hai con mắt…(YBh.III.1). Đức Phật cũng dạy tập trung vào hơi thở ra, vô. Tập trung như thế là cốt để tâm trí khỏi rối lên như chợ trời, với cả ngàn vạn những ý tưởng và ảnh tượng chen lấn nhau. Làm sao để chỉ có một dòng chảy, một sợi chỉ xuyên suốt (quán). Khi tâm định dược rồi, cũng có thể đưa một câu chú (mantra) vào mà niệm, dùng một hình tượng Đức Chúa hay Brahman để quán tưởng.


Hễ định được vô một điểm… hơi lâu, thì đó là thiền (dhyâna). Sẽ có đại định khi một cái gì đó (?) tự hiển sáng lên trong khi đối tượng (dòng quán tưởng?) không còn nữa (YBh. và YV. III.2-3). Định được như thế sẽ sinh ra sự an lạc gọi là hạnh (ânanda) nó phát triển thành định an thiêng liêng tinh thuần. Trong khi ấy, ranh giới giữa Ngã với cái Thể bao la siêu việt cũng mờ biến đi (III.2-3).


Thật ra, thì hướng nhắm gần của Yoga là thoát ra khỏi dòng biến dịch bên ngoài và sự biến động (tư tưởng) bên trong. Nhưng đây chỉ là điều kiện cho cái kinh nghiệm khác thường là Đại định ấy. Đại định bắt đầu còn ít nhiều niệm lý (samprajnâta) làm sườn. Và nếu đây là kinh nghiệm về Brahman hay Đức Chúa, thì Ngài còn xuất hiện với hình tượng như của một người, và đây là chỗ thô của Bản nhiên. Hình tượng thô ấy có thể chuyển thành phiêu hốt, mờ ảo, và đây chỗ tinh vi (suksma) của prakriti, đi đôi với tính dương thanh (sattva) của tam cách (tri-guna).


Đại định hữu niệm sẽ chuyển thành siêu niệm (a-samprajnâta) lúc chỉ còn kinh nghiệm (kinh nghiệm về Chúa chả hạn) mà không kèm theo ý niệm hay hình tượng nào. Chắc đây có gì giống với huyền kiến tuệ trí (vision intellectuelle) mà thánh Tiên sa Avila nói đến. Dù sao, ở cấp siêu niệm này, samâdhi vẫn còn phân thành hai cấp, cấp dưới với ít nhiều mầm mống (bija) do dư vị dương trần còn sót, do đó hành giả chưa thoát khỏi luân hồi; còn ở cấp trên thì mọi vương nhiễm đã sạch hẳn, và đây là Đại định siêu niệm không mầm mống, khiến xác hễ đi hết trớn sống của nó, thì Tinh thần được giải phóng hoàn toàn ngay.
Về mặt ý thức, thì kinh nghiệm trong đại định là trực giác, mà đối tượng không phải cái gì trừu tượng, tổng quát nữa, nhưng cụ thể và thiêng liêng, trong khi đối tượng và chủ thể thành một với nhau. Theo tôi hiểu, thì đây là một kinh nghiệm chủ thể quan (nơi chủ thể hay subject, chứ không phải subjective theo nghĩa thường hiểu). Ngã và Chúa thành một với nhau có thể được hiểu như một sự hợp nhất huyền nhiệm. Mà thực ra, Yoga chủ trương hữu thần, nên cũng chủ trương vẫn còn phân biệt Chúa-hồn sau tình trạng giải thoát. Ngay cả nhiều triết gia Vedânta, như Ramânuja và Badhva cũng nghĩ như vậy. Cũng về ý thức nữa, trong đại định, vào một lúc nào đó, sự hiểu biết (huyền nhiệm) có thể phụt lên như tia chớp (sphuta), và đây là Mây-dharma (Dharma-megha) nó khiến Chân lý hiển sáng toàn cảnh. Chúng ta nên nhớ, theo các nhà huyền nhiệm học Công giáo như Tiên sa Avila và Inhã Loyola, đôi khi trong huyền nghiệm cũng xảy ra hiện tượng giống thế, khiến cho hành giả đột nhiên hiểu tất cả, cái mà cả đời học hỏi cũng không đạt được. Cố nhiên đây không phải là kiến thức khoa học, mà một thứ ánh sáng (đức tin) siêu nhiên nó đọi vào mọi hiểu biết sẵn có của hành giả để chúng biến hình trong một sắc thái (ý nghĩa) hoàn toàn mới.


Nếu trong KTG, ở cấp cuối của huyền nghiệm là hôn nhân thiêng liêng, chiêm không còn tách khỏi cuộc sống bình thường nữa (hành giả vẫn hoạt động, mà vẫn cảm nghiệm sâu xa sự có mặt của Thiên Chúa), thì ở cấp cuối của huyền học Yoga hay Thiền, trạng thái cũng được diễn tả gần như vậy. Và đây là bức đồ họa thứ mười trong Thập ngưu đồ Phật giáo Trung hoa, có tên là “Thõng tay vào chợ”.
Sở dĩ chúng tôi so sánh được huyền nghiệm Công giáo với huyền nghiệm Phật giáo và Yoga, vì sau công đồng Vatican II, nhất là sau Thượng hội đồng giám mục Châu Á năm 1998, chúng ta đã hiểu ra rằng Chúa Thánh Thần có thể hoạt động “cách nào đó” trong các tôn giáo lớn để cứu vớt “những người lòng ngay” ở đó. Mà nếu họ được cứu, dù cách nào đó”, họ cũng sống trong ân sủng Chúa Kytô, để rồi tu luyện lên cao, họ có thể được ơn huyền nghiệm Thiên Chúa (nơi và qua Chúa Kytô), dù khó khăn hơn và khiếm khuyết hơn chúng ta nhiều.

Thiền: hướng đi và kỹ thuật


Thiền là một trong những đường tu Phật giáo[7], nên có thể coi Thiền là một loại hình Yoga, nhất là khi các đức Từ-bi-hỉ-xả của Phật giáo cũng được mang vô Yoga-sutra (I.33). Giống như Râja-yoga, Thiền-đạo không sử dụng các thế nhiêu khê của Yoga mãnh vận, mà chỉ ngồi Hoa sen hoặc bán kiết (siddhâsana). Về vận tức cũng thế, thiền sư chỉ vận tức kiểu đơn giản, và vận tức mấy phút thôi để thanh lọc cơ thể trước khi điều hòa hơi thở cho êm nhẹ giúp dễ tập trung.


Còn khi quán, có thể lấy (hình tượng) Đức Phật làm đối tượng tập trung, nhưng về sau, phải vượt trên mọi niệm tưởng để đi vào vô thanh vô sắc, hầu đạt sự hừng sáng sâu cao của Chân lý, nhờ đó giác ngộ. Xem ra, hơn mọi con đường khác, Phật giáo nhấn vào tính vô thường, tính Không của tất cả, dù của thực tại bên ngoài, dù của cái tâm bên trong.

Ứng dụng Thiền và Yoga trong Kitô Giáo (KTG)


Yoga được trình bày đầy đủ là trong những tập kinh thư nói trên, chứ không phải thứ Yoga bề ngoài viết cho người Âu Mỹ đọc. Trong loại sách này, ít nhất niềm tin tôn giáo đặc thù của Yoga không được đề cập tới. Do đó, không có gì ngăn trở người Công giáo luyện Yoga. Vâng, người ta chỉ trình bày các thế và ích lợi của mỗi thế, kể cả ích lợi về mặt trị liệu và phòng bệnh. Như thế, Yoga như một thứ thể dục chỉ giúp ta có một sức khoẻ lành mạnh và dẻo dai. Cũng có sách Yoga nói thêm về cách ăn uống và cách sống của người luyện Yoga, một cách đơn giản thôi, chứ không cầu kỳ như trong kinh thư. Dẫu sao, ăn uống dương thanh, có chừng mực và sống tiết chế được như thế, thì chẳng những sức khỏe tốt, mà đức hạnh cũng tăng tiến luôn.



Chỉ nên lưu ý rằng: luyện Yoga thì các động tác phải chậm, nghịch lại với thể thao Tây phuơng vốn nghiêng về nhanh, mạnh và dồn dập, do đó hại cho cả nội tạng lẫn thần kinh. Lại nữa, nếu giữ được tâm thanh lặng theo tinh thần Yoga, thì đây là cách giảm stress (bấn tâm) và làm phát sinh niềm an lạc thanh tao.


Với ai muốn tu thân, tốt nhất hãy vào thiền. Thiền đạo giữ hết cả Bát chi của Yoga, nhưng chú trọng nhất đến nội tâm. Vì thiền hướng về Vô, cả Thiền lẫn Yoga đều cố đạt vô niệm tưởng, thế mà KTG lại là Đạo nhập thể và huyền tích, có cả trong lần ngoài, cả hình thức lẫn siêu hình thức, nên trước khi đi vào vô sắc tướng và trực giác theo thiền môn, hãy suy niệm về Phúc âm một thời gian cho thấm sâu đã. Thiền sau đó sẽ đến giúp ta có được những cảm nhận Phúc âm một cách đơn giản hơn, kế đó rời bỏ niệm tưởng cũng là phần nào đi vào đêm tối (nuits obscures) để chuẩn bị cho một thứ tri thức và tình cảm khác hẳn trong huyền nghiệm.


Và bây giờ, để bắt đầu tham thiền, chúng ta hãy làm như sau:
Trước hết, tập ngồi hoa sen, hay ít là bán kiết. Hoa sen thì ngửa bàn chân phải gác lên đùi trái, ngửa bàn chân trái gác lên đùi phải. Bán kiết chỉ gác một bàn chân thôi. Gác chân như thế hơi đau đấy, mà phải luyện sao hết đau thì tập trung mới dễ. Thường thì phụ nữ và trẻ em luyện rất nhanh, chứ không như đám mày râu. Có điều khi tập trung, các ông, nhất là khi có tuổi rồi, lại dễ tập trung hơn. Để dễ ngồi, có thể ngồi trên một cái gối nhỏ. Có guru khuyên nên ngồi trên tấm len hay da thú để nhân điện khỏi thoát ra ngoài. Vì cói cũng giữ nhiệt và truyền điện, nên hẳn cũng có tác dụng ấy. Có điều ngồi trên chiếu cói thì đau.


Ngồi, phải liệu sao cho xương sống thẳng đứng. Để được thế, hãy tỳ hết trọng lượng trên một mình xương cùng thôi, do đó phải ưỡn người lên, đồng thời hơi cúi đầu tí ti cho xương cần cổ cũng trên đường thẳng đứng ấy. Để dễ tập ngồi thẳng, có thể tựa thật sát lưng vào tường. Khi ngồi thẳng đã quen, thì xoay lưng lại (tức diện bích) như quen làm ở chùa, để khỏi phân tâm lúc tập trung. Sau khi ngồi xong, nên khẽ rùng mình một cái để các cơ bắp không cần đến chùng lỏng hết ra. Còn hai bàn tay khi ấy thì hoặc úp trên hai đầu gối, hoặc ngửa trên hai đầu gối nhưng với ngón trỏ và ngón cái bấm vào nhau (để nhân điện khỏi thoát ra, như có người nói), hoặc lồng lên nhau để ngửa dưới rốn. Ngồi xong, đến lượt vận tức, rồi điều tức. Vận tức thì phải thở sâu, thở gắng. Vận tức kiểu thiền môn thì đơn giản thôi : hít 1 thì, nín 1 hay 2 thì, thở (ra) 1 thì, nín tiếp 1 hay 2 thì . Khi nín sau hít, có thể phình bụng ra. Khi nín sau thở ra, có thể thót bụng tới tận xương lồng ngực để ép khí ra hết.[8]


Khi hơi thở đã nhẹ êm lại rồi, hành giả có thể tập trung. Hãy tập trung vào sống mũi giữa hai con mắt, tập trung vào hơi thở vô ra, tập trung vào giữa (hoa sen-)trái tim, tập trung vô ngọn đèn nhỏ síu sát mặt đất, để xa 1m50 là vừa,v.v… Sau khi tâm trí tạm định được rồi, có thể chuyển sự tập trung sang một câu niệm thiêng liêng, mantra. Mantra nên đơn giản, dễ đọc, đọc như trôi đi rất trơn. Có người như John Main chọn câu Maranatha (Xin Chúa hãy đến). Theo tôi, cũng có thể chọn câu niệm truyền thống của Giáo hội Phương Đông là Chúa ôi (hít vô) thương xót (thở ra) (Kurie eleison), hay dài hơn : Giêsu Con Thiên Chúa xin thương tôi là kẻ có tội . Hoặc câu của James Finley (trong Christian meditation) : (Ta) Chúa yêu con (hít vô), Con yêu Chúa (thở ra)… Có người cho rằng chỉ cần âm thanh là đủ, không cần ý nghĩa của câu niệm. Theo tôi, nếu âm thanh cũng đủ, thì đâu cần chọn câu này thay vì câu kia nữa. Có điều câu niệm là câu quen thuộc, quen cả ý nghĩa luôn, nên nếu đọc lên đều đều, thì ý nghĩa tôn giáo của nó vẫn phảng phất, và thế là đủ cho tâm hồn ta chìm vô cõi thiêng liêng, ngày càng vô thanh vô sắc. Cũng theo cùng một hướng vô thanh sắc và thoát tục như thế, hành giả có thể quán về Nước chảy mây trôi để cảm nghiệm tính bể dâu của tất cả, cùng lúc với sự Vĩnh hằng. Hoặc quán tưởng Thiên Chúa như một luồng sáng ấm áp và bao la đang trùm xuống trên tôi, trên chúng tôi (hay Thiên Chúa đang nói với tôi từ những sự vật bao quanh tôi, nhất là hoa lá), và tôi sẽ cảm thấy mình nhỏ bé đi và buông mình trong tay Cha xót thương, che chở…Vâng, để quán hay niệm trên hướng thiền thì tất cả phải đơn giản như thế, đồng thời căng hướng về vô thanh vô sắc hơn là niệm lý rõ ràng. Do đó, như trên kia đã nói, trước khi vào thiền, phải suy niệm nhiều về Phúc âm, hòng nhiễm lấy tinh thần Phúc âm một cách sâu xa trước đã. Để khi đi vào siêu niệm lý và trực nghiệm cụ thể như thế, thì trực giác này cũng xuôi theo đúng dòng chảy Tin mừng. Ngoài ra, trong thời gian chuyển sang tham thiền, người ta vẫn có thể lúc thì tham thiền khi lại trở về với suy niệm.


Ngoài lúc tham thiền (hay luyện Yoga), cần phải sống tinh thần thiền, cũng là tinh thần Yoga luôn. Nghĩa là trong công việc hãy luôn luôn bình tĩnh, và để lòng luôn an tịnh như thế, phải năng nhớ thở và kiểm soát hơi thở sao cho êm nhẹ, điều hòa. Còn ăn uống thì chọn những gì dương thanh, sống thì sống thanh thoát trong những tâm tình Từ(thương yêu) - bi(thương xót) - hỉ(vui) - xả(thoát tục). Vâng, hãy vui sống, nhân hậu, không tham sân và bằng lòng với những gì hiện có…


Nếu ai đó muốn luyện thiền ở chùa để có bầu khí, thì đây là điều rất tốt. Nhưng hãy chọn một chùa thiền tông thì hơn, vì trong thiền tông, người ta không quan tâm nhiều đến giáo lý. Dĩ nhiên là trong tiếp xúc hàng ngày, hành giả Công giáo không thể không gặp thứ ngôn ngữ và cách ứng xử của Phật môn, do đó ít nhiều chịu ảnh hưởng. Vậy, trước khi đến sống chùa, nên học giáo lý cho sâu, sống đạo cho vững, và khi ở chùa, đừng quên năng cầu nguyện.




Nguồn:danchuausa.net