Gia Nhân
21-12-2009, 01:46 PM
THÁNH PHANXICÔ GẶP GỠ NGƯỜI PHONG
Tại sao con đường đi theo Chúa của bạn cứ còn có những khúc mắc, bạn cảm thấy giữa bạn và Chúa dường như vẫn còn có những vùng bóng tối? Để soi sáng cho vấn đề này, hôm nay chúng ta đọc lại một bản Di Chúc mà bạn đã biết, nhiều hay ít.
*
Bản Di Chúc này là một tài sản chung của tất cả chúng ta, mà lại đã có cách đây gần tám thế kỷ rồi.
Bản Di Chúc này lại không như các di chúc của chúng ta, cân nhắc lợi hại, kỹ lưỡng viết trên giấy, có dấu triện, chữ ký bảo đảm, rồi giao cho thừa phát lại lưu trữ, để sau khi chúng ta chết, ông ấy đọc cho một cử tọa gồm những người có liên hệ với chúng ta; những người này sẽ xúc động khi thấy chúng ta lưu ý tới họ như thế.
Bản Di Chúc này không di nhượng, không trối lại những lãnh thổ bao la bát ngát, những gia tài kếch xù hoặc những bất động sản sang trọng.
Bản Di Chúc này chia sẻ lại kinh nghiệm về một “con đường”, về một “hành trình”.
Thật ra, con người nhỏ bé đã viết ra Bản Di Chúc này, nếu ông đã đi theo nẻo đường mà người cha với tài kinh doanh đã vạch ra cho, thì ông đã có thể trối lại cho các kẻ thừa tự một số vốn đáng kể để buôn bán và một đoàn thân chủ giàu có. Hoặc nếu ông đã dấn thân vào binh nghiệp (mà ông đã bỏ dở rất sớm), thì ông đã có thể để lại cho quê hương, cho gia đình ông, những miền đất mới, những chức tước vinh quang, những chiến công hiển hách… và kha khá tiền bạc. Hoặc nếu ông đã vâng theo tiếng gọi của Nàng Thơ đã nhiều phen làm rung động trái tim nghệ sĩ dạt dào tình yêu của ông, thì ông đã có thể làm giàu cho nền văn chương của tổ quốc ông bằng một nền thi văn xán lạn (mà chúng ta chỉ mới thấy những nét chấm phá!).
Không! Con người nhỏ bé đã đọc cho người bạn đường viết ra Bản Di Chúc ấy, một ngày kia đã nhận ra rằng ông có thể trối lại nhiều hơn và cho số kẻ thừa kế đông đảo hơn, ông có thể để lại những của cải đáng quí hơn, cho số con cái đông hơn số mà một người phụ nữ có thể để lại cho ông, cho hàng ngàn những người đàn ông và đàn bà ấy trong vòng hơn bảy thế kỷ đã đi theo ông, trong đó có bạn, và có tôi nữa.
Con người ấy, vâng, chính là Phanxicô Assisi. Nhưng đâu là cái ngày đặc biệt, khi mà ngài bắt đầu thu tích cho các thế kỷ đến sau cái kho báu mà chúng ta sẽ không múc cạn được? Đâu là cái ngày đặc biệt, khi đã thu đạt được chiến thắng đầu tiên, ngài bung sức phá cửa vào Nước Trời? Đâu là cái ngày đặc biệt, khi mà không chỉ bằng lời nói, mà bằng một nụ hôn, ngài đã bắt đầu viết trong đời áng thơ đẹp nhất (sau áng thơ Phúc Âm)?
Ngày ấy, ngày có tính quyết định đến nỗi khi viết Di Chúc, Phanxicô đã đề câp tới nó đầu tiên: “Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần trông thấy người phung, tôi lấy làm ghê tởm lắm. Nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ. Khi xa cách họ, điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác. Ít lâu sau đó, tôi đứng dậy và ra khỏi thế gian” (DC, cc. 1-3).
*
Cũng như trong bối cảnh Kinh Thánh (Lc 17,11-19; x. Lv 13,45-46), vào thời Trung Cổ cũng thế, những người phong cùi là những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Do mùi hôi thối và do lây nhiễm, người phong bị cách ly khỏi xã hội. Có những luật lệ nghiêm khắc cấm họ quan hệ với phần thế giới còn lại. Tuy nhiên, họ cũng là đối tượng của sự chăm sóc ân cần. Khắp nơi mọc lên các nhà thương để cho họ có nơi trú ngụ và được săn sóc. Tại Assisi, cũng có một nhà thương, tại đó người phong được trú ngụ và chữa trị như trong một cộng đoàn tu kín. Trong những cuộc dạo chơi, Phanxicô thường đi qua nhà thương đó. Chỉ nguyên thấy khu nhà đó, chàng đã cảm thấy ghê tởm (x. G. Joergensen, San Francesco d’Assisi [Torino 1952] 100-101; O. Englebert, Vita di San Francesco d’Assisi [Milano 1978] 20-30).
Là người con của thời đại, Phanxicô cảm thấy hết sức nhờm tởm người phong cùi (tôi lấy làm ghê tởm lắm = cảm thấy cay đắng). Quả là ngài có một tình yêu dịu dàng và trung thành đối với những người nghèo, nhưng ngài không thể nhìn xem những người phong cùi. Là con người chỉ nhìn thấy cái đẹp, ngài không thể nhìn những con người ấy: Những người phong mà da thịt đang tàn rữa rơi rụng; những con người không còn mũi, tai, ngón tay; những con người như những tử thi còn sống, phải hoàn toàn bất lực mà chứng kiến chứng bệnh hiểm nghèo tàn phá thân thể mình; những con người không thể nắm lấy bàn tay người lành mạnh để tỏ lòng yêu mến; những con người đi tới đâu thì tạo cảnh trống vắng đến đó. Làm sao yêu thương những con người đó được? Còn cách xa họ hơn hai dặm, ngài đã đưa tay bịt mũi (1 Cel 17). Phải là chính Chúa, Đấng đã ban cho ngài ơn bắt đầu sống đời đền tội, nắm lấy tay ngài để đưa ngài đến giữa người phong và giúp ngài tỏ ra thương xót họ như chính Chúa đã tỏ ra thương xót ngài: “Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ”.
*
Chúa Kitô tiếp tục huấn luyện Phanxicô: hôm ấy, khi ngài còn cỡi ngựa nhanh nhẹn, ngài vẫn chưa hiểu. Phanxicô yêu Chúa trong Tin Mừng và Phanxicô đọc Tin Mừng cách thành khẩn; Phanxicô yêu Chúa trong bí tích Thánh Thể và đón tiếp sốt sắng; Phanxicô yêu Chúa trong cha mẹ và các vị đã đáp lại tận tình; Phanxicô yêu Chúa trong bạn bè, và họ đã tôn ngài làm ông hoàng giới trẻ; Phanxicô yêu Chúa trong thiên nhiên, và thiên nhiên làm cho ngài vui thích; Phanxicô yêu Chúa trong những người nghèo, mà ngài đã chạy theo. Nhưng rõ ràng Phanxicô chưa yêu Chúa trong thân xác Chúa: không chỉ trong bí tích Thánh Thể, tấm bánh thơm mùi lúa miến và nhận vào rồi thì khoan khoái thưởng thức bên trong tâm hồn; không chỉ nơi những người ở chung quanh, với những thân xác lành lặn, thân hình kiều diễm, nhìn vào biết ngay Chúa là Đấng Tạo hóa. Nhưng còn trong cái thân xác kia, của những người phong, thân xác làm cho ngài nôn nao, làm cho mắt ngài sầm tối lại… Khổ một nỗi là Chúa lại thích cái thân xác đó, vì nhờ đó Người thấy rõ, Người chắc chắn về tình yêu của người ta đối với Chúa khi họ giúp đỡ người phong, chắc chắn họ yêu Chúa chứ không yêu chính mình. Trong thân xác người phong, Chúa tiếp tục cuộc Thương Khó, trong đó Người đặt hết tình yêu.
Phanxicô chỉ mới bắt đầu đời sống đền tọi, chỉ mới bắt đầu tìm Chúa, chứ chưa thực sự hoán cải, chưa quay hẳn về với Chúa. Ngài còn thích ngó Chúa một bên chứ vẫn còn sợ nhìn Chúa trực diện, chỉ mới yêu Chúa một chút, chứ chưa yêu trọn vẹn. Và ngày hôm đó, Chúa nắm lấy dây cương ngựa của Phanxicô. Hôm ấy, đang cho ngựa đi lỏng bước ở một khúc quanh gần Assisi, thình lình Phanxicô gặp một người cùi. Phải chăng có tiếng mõ? Hay là ngước lên thì thấy người ấy trước mắt liền? Phản ứng tự nhiên của Phanxicô là gò cương quay ngựa lại để chạy trốn. Nhưng rồi ngài gây áp lực với chính mình, ngài nhớ lại quyết định sống đời hoàn hảo và hiểu rằng ngài phải thắng được mình trước nếu muốn trở thành chiến sĩ của Đức Kitô. Ngài liền nhảy xuống ngựa, tiến lại gần và hôn người cùi (1 Cel 17; Đại Truyện 1,5). Ngài còn bố thí cho người xấu số ấy, rồi lên ngựa tiếp tục đi. Hôn người cùi và đi phục vụ những người cùi, đó chính là tỏ lòng thương xót họ.
Phanxicô đã áp dụng giáo huấn của Tin Mừng về người Samari (Lc 10,37) vào cuộc gặp gỡ người phong. Khi đến gặp người ấy và tỏ lòng thương xót người ấy, Phanxicô đã tìm ra cách cụ thể mà tỏ ra là người thân cận của con người bị loại ra bên lề xã hội đó, con người mà lâu nay ngài vẫn nhờm tởm. Ý thức mình là người có nhiều may mắn, Phanxicô tỏ lòng thương xót người xấu số ấy. Trong Bản Di Chúc, “lòng thương xót” mà Phanxicô nói đến và Chúa đã tỏ ra, hệ tại hai ân huệ: ơn hoán cải và ơn gọi. Quả thật Chúa đã cho Phanxicô được sống đời đền tội (hoán cải) và đã gọi ngài theo “lối sống của Đức Kitô” (ơn gọi) theo gương các tông đồ (lối sống của các tông đồ).
Trong tiến trình “hoán cải – ơn gọi”, Chúa đã ban cho Phanxicô một tâm trí mới, một con tim mới và một lương tâm mới. Đã được đổi mới bên trong tâm hồn, Phanxicô đã có khả năng hành động theo hướng mới, nghĩa là dành cho người thân cận cùng một kiểu cách đối xử như Thiên Chúa đã dành cho ngài. Khi nhắc lại cuộc gặp gỡ đó, Phanxicô khám phá ra một dấu chỉ cụ thể của cuộc hoán cải của ngài: “Điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác”.
Khi nhắc lại thái độ của Phanxicô đối với người phong cùi, anh Tôma Xêlanô cũng nhắc đến cả lênh Chúa truyền cho Phanxicô: “Kể từ nay, con hãy bỏ đi những thú vui thế gian và trống rỗng để nhận lấy những thú vui thiêng liêng, con hãy yêu thích các sự đắng cay hơn ngọt ngào (Cn 27,7) và khinh chê chính mình, nếu con muốn biết Ta” cùng với câu trả lời của Phanxicô: ngài xuống ngựa và chạy đến hôn người phong. Người phong đã chìa tay ra để xin bố thí, thì giờ đây nhạn được cả tiền bạc lẫn một cái hôn… Lòng tràn ngập niềm vui và kinh ngạc, ít lâu sau, ngài muốn lặp lại cử chỉ đó: ngài đến nhà thương và, sau khi đã cho mỗi bệnh nhân ít tiền bạc, ngài hôn tay và miệng họ”. Và anh Tôma kết luận: “Như thế, ngài đã yêu thích các sự đắng cay hơn ngọt ngào (Cn 27,7)” (2 Cel 9).
Cặp đối nghĩa “đắng cay – ngọt ngào” được lấy từ sách Châm ngôn, ở chỗ áp dụng cho các niềm vui vật chất, tức là cho thức ăn:
“Người no, tảng mật cũng coi thường,
kẻ đói thấy đắng cay cũng ngọt” (Cn 27,7).
Ý nghĩa dường như đã rõ: ai đã ăn đủ mức cần thiết (người no) thì coi thường cả mật ong, nghĩa là món ăn tinh tế nhất; ngược lại, đối với cái bao tử rỗng (người đói), như bao tử của đứa con hoang đàng (x. Lc 15,16), thì cả thứ đắng cay cũng trở thành ngọt ngào. Áp dụng điều này vào cạp đối nghĩa về niềm vui thiêng liêng, Phanxicô xác định “thứ đắng cay” là tình trạng trống rỗng về tình yêu trước khi hoán cải, đó là đặc điểm của cuộc sống trước khi hoán cải; chính tình trạng này đã thúc đẩy ngài chạy trốn người phong cùi; còn “món ngọt ngào” là tình yêu ngài trao tặng người anh em phong cùi sau khi hoán cải: “Khi xa cách họ, điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác”.
Khi tỏ lòng thương xót, Phanxicô đã vượt thắng sự ghê tởm tự nhiên (sự cay đắng) ngài cảm thấy đối với người phong cùi: ngài đi đến với anh, hôn anh và phục vụ anh (x. Luật không sắc dụ 9,2). Với tình yêu thương xót của ngài, Phanxicô đã lấp đầy chỗ trống tình yêu trong tương quan xã hội với những người phong cùi. Được Lời Chúa giáo huấn, Phanxicô nhìn thấy và yêu thương nơi người phong chính Đức Kitô, Đấng đã được Kinh Thánh nói: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải” (Tv 22,7) và Đấng đã coi là làm cho Người tất cả những gì người ta làm cho kẻ nhỏ nhất trong các anh em Người (Mt 18,5; 25,40). Chân lý này được nêu lên trong bài tường thuật của anh Tôma Xêlanô (2 Cel 9): Khi đã tặng một gói tiền và hôn tay anh phong, Phanxicô lại lên ngựa, ngài nhìn bên này bên kia, nhưng không còn thấy anh phong đâu nữa: ngài hiểu là chính Đức Kitô đã hiện ra với ngài. Khi phục vụ người phong, Phanxicô đã hiện tại hóa hoàng kim quy tắc của đời sống Kitô hữu: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta” (Mt 7,12; Lc 6,31; x. Tb 4,15). Đây là một nguyên tắc Phanxicô muốn nhấn mạnh, vì ngài đã ghi lại năm lần trong Di Cảo (Thư gửi các tín hữu, c. 43; Thư gửi một anh Phục vụ, c. 17; Luật không sắc dụ 4,4; 6,2; 10,1).
*
Hôm nay, Chúa ban ơn bắt đầu sống đời đền tội cho bạn. Bạn có thể nghĩ rằng, như nhiều anh chị em Kitô hữu, bạn chỉ cần bớt ăn uống, bớt chút tiền bạc, hy sinh một chút tiện nghi là đã đủ bảo đảm ơn cứu độ.
Không! Để bắt đầu sống đời đền tội, phải ôm hôn người phong cùi như Phanxicô. Chắc chắn vào thời đại này, ở đây, bạn sẽ không gặp những con người với thân thể tàn rữa, nhưng có những người phong cùi loại khác: những con người chẳng làm hại gì bạn, nhưng bạn ghê tởm, bạn chán ghét, bạn cứ tránh né để khỏi phải yêu thương. Bây giờ bạn biết rằng chỉ có một cách thức duy nhất để gặp được Đức Kitô và nhìn Người trực diện để thực sự yêu mến Người: chấp nhận “người cùi” của riêng bạn.
Bao lâu bạn chưa xuống khỏi tháp ngà kiêu hãnh, bao lâu bạn không chấp nhận từ bỏ nền công lý quá cứng rắn để sống bác ái quân bình hơn, bao lâu bạn không chấp nhận yêu Chúa trong những người làm cho bạn khó chịu, thì bạn vẫn chưa bắt đầu sống đời đền tội, bạn vẫn chưa nếm cảm được sự dịu ngọt mà tình yêu Chúa chuyển thông cho bạn. Xuyên qua ơn Chúa ban là “sống đời đền tội”, Phanxicô hiểu rằng có một tiếng gọi yêu thương phát xuất từ người phong cùi, từ kẻ bị loại ra bên lề và cần tất cả mọi sự, kẻ mà ngài không thể và không được tránh né nếu muốn trở thành “người thân cận” với anh ta. Ước gì bạn cũng nhận ra như thế.
FX Long,ofm
Nguồn:
http://www.tamlinhvaodoi.net/linhdao/ps01.htm (http://www.tamlinhvaodoi.net/linhdao/ps01.htm)
Tại sao con đường đi theo Chúa của bạn cứ còn có những khúc mắc, bạn cảm thấy giữa bạn và Chúa dường như vẫn còn có những vùng bóng tối? Để soi sáng cho vấn đề này, hôm nay chúng ta đọc lại một bản Di Chúc mà bạn đã biết, nhiều hay ít.
*
Bản Di Chúc này là một tài sản chung của tất cả chúng ta, mà lại đã có cách đây gần tám thế kỷ rồi.
Bản Di Chúc này lại không như các di chúc của chúng ta, cân nhắc lợi hại, kỹ lưỡng viết trên giấy, có dấu triện, chữ ký bảo đảm, rồi giao cho thừa phát lại lưu trữ, để sau khi chúng ta chết, ông ấy đọc cho một cử tọa gồm những người có liên hệ với chúng ta; những người này sẽ xúc động khi thấy chúng ta lưu ý tới họ như thế.
Bản Di Chúc này không di nhượng, không trối lại những lãnh thổ bao la bát ngát, những gia tài kếch xù hoặc những bất động sản sang trọng.
Bản Di Chúc này chia sẻ lại kinh nghiệm về một “con đường”, về một “hành trình”.
Thật ra, con người nhỏ bé đã viết ra Bản Di Chúc này, nếu ông đã đi theo nẻo đường mà người cha với tài kinh doanh đã vạch ra cho, thì ông đã có thể trối lại cho các kẻ thừa tự một số vốn đáng kể để buôn bán và một đoàn thân chủ giàu có. Hoặc nếu ông đã dấn thân vào binh nghiệp (mà ông đã bỏ dở rất sớm), thì ông đã có thể để lại cho quê hương, cho gia đình ông, những miền đất mới, những chức tước vinh quang, những chiến công hiển hách… và kha khá tiền bạc. Hoặc nếu ông đã vâng theo tiếng gọi của Nàng Thơ đã nhiều phen làm rung động trái tim nghệ sĩ dạt dào tình yêu của ông, thì ông đã có thể làm giàu cho nền văn chương của tổ quốc ông bằng một nền thi văn xán lạn (mà chúng ta chỉ mới thấy những nét chấm phá!).
Không! Con người nhỏ bé đã đọc cho người bạn đường viết ra Bản Di Chúc ấy, một ngày kia đã nhận ra rằng ông có thể trối lại nhiều hơn và cho số kẻ thừa kế đông đảo hơn, ông có thể để lại những của cải đáng quí hơn, cho số con cái đông hơn số mà một người phụ nữ có thể để lại cho ông, cho hàng ngàn những người đàn ông và đàn bà ấy trong vòng hơn bảy thế kỷ đã đi theo ông, trong đó có bạn, và có tôi nữa.
Con người ấy, vâng, chính là Phanxicô Assisi. Nhưng đâu là cái ngày đặc biệt, khi mà ngài bắt đầu thu tích cho các thế kỷ đến sau cái kho báu mà chúng ta sẽ không múc cạn được? Đâu là cái ngày đặc biệt, khi đã thu đạt được chiến thắng đầu tiên, ngài bung sức phá cửa vào Nước Trời? Đâu là cái ngày đặc biệt, khi mà không chỉ bằng lời nói, mà bằng một nụ hôn, ngài đã bắt đầu viết trong đời áng thơ đẹp nhất (sau áng thơ Phúc Âm)?
Ngày ấy, ngày có tính quyết định đến nỗi khi viết Di Chúc, Phanxicô đã đề câp tới nó đầu tiên: “Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần trông thấy người phung, tôi lấy làm ghê tởm lắm. Nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ. Khi xa cách họ, điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác. Ít lâu sau đó, tôi đứng dậy và ra khỏi thế gian” (DC, cc. 1-3).
*
Cũng như trong bối cảnh Kinh Thánh (Lc 17,11-19; x. Lv 13,45-46), vào thời Trung Cổ cũng thế, những người phong cùi là những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Do mùi hôi thối và do lây nhiễm, người phong bị cách ly khỏi xã hội. Có những luật lệ nghiêm khắc cấm họ quan hệ với phần thế giới còn lại. Tuy nhiên, họ cũng là đối tượng của sự chăm sóc ân cần. Khắp nơi mọc lên các nhà thương để cho họ có nơi trú ngụ và được săn sóc. Tại Assisi, cũng có một nhà thương, tại đó người phong được trú ngụ và chữa trị như trong một cộng đoàn tu kín. Trong những cuộc dạo chơi, Phanxicô thường đi qua nhà thương đó. Chỉ nguyên thấy khu nhà đó, chàng đã cảm thấy ghê tởm (x. G. Joergensen, San Francesco d’Assisi [Torino 1952] 100-101; O. Englebert, Vita di San Francesco d’Assisi [Milano 1978] 20-30).
Là người con của thời đại, Phanxicô cảm thấy hết sức nhờm tởm người phong cùi (tôi lấy làm ghê tởm lắm = cảm thấy cay đắng). Quả là ngài có một tình yêu dịu dàng và trung thành đối với những người nghèo, nhưng ngài không thể nhìn xem những người phong cùi. Là con người chỉ nhìn thấy cái đẹp, ngài không thể nhìn những con người ấy: Những người phong mà da thịt đang tàn rữa rơi rụng; những con người không còn mũi, tai, ngón tay; những con người như những tử thi còn sống, phải hoàn toàn bất lực mà chứng kiến chứng bệnh hiểm nghèo tàn phá thân thể mình; những con người không thể nắm lấy bàn tay người lành mạnh để tỏ lòng yêu mến; những con người đi tới đâu thì tạo cảnh trống vắng đến đó. Làm sao yêu thương những con người đó được? Còn cách xa họ hơn hai dặm, ngài đã đưa tay bịt mũi (1 Cel 17). Phải là chính Chúa, Đấng đã ban cho ngài ơn bắt đầu sống đời đền tội, nắm lấy tay ngài để đưa ngài đến giữa người phong và giúp ngài tỏ ra thương xót họ như chính Chúa đã tỏ ra thương xót ngài: “Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ”.
*
Chúa Kitô tiếp tục huấn luyện Phanxicô: hôm ấy, khi ngài còn cỡi ngựa nhanh nhẹn, ngài vẫn chưa hiểu. Phanxicô yêu Chúa trong Tin Mừng và Phanxicô đọc Tin Mừng cách thành khẩn; Phanxicô yêu Chúa trong bí tích Thánh Thể và đón tiếp sốt sắng; Phanxicô yêu Chúa trong cha mẹ và các vị đã đáp lại tận tình; Phanxicô yêu Chúa trong bạn bè, và họ đã tôn ngài làm ông hoàng giới trẻ; Phanxicô yêu Chúa trong thiên nhiên, và thiên nhiên làm cho ngài vui thích; Phanxicô yêu Chúa trong những người nghèo, mà ngài đã chạy theo. Nhưng rõ ràng Phanxicô chưa yêu Chúa trong thân xác Chúa: không chỉ trong bí tích Thánh Thể, tấm bánh thơm mùi lúa miến và nhận vào rồi thì khoan khoái thưởng thức bên trong tâm hồn; không chỉ nơi những người ở chung quanh, với những thân xác lành lặn, thân hình kiều diễm, nhìn vào biết ngay Chúa là Đấng Tạo hóa. Nhưng còn trong cái thân xác kia, của những người phong, thân xác làm cho ngài nôn nao, làm cho mắt ngài sầm tối lại… Khổ một nỗi là Chúa lại thích cái thân xác đó, vì nhờ đó Người thấy rõ, Người chắc chắn về tình yêu của người ta đối với Chúa khi họ giúp đỡ người phong, chắc chắn họ yêu Chúa chứ không yêu chính mình. Trong thân xác người phong, Chúa tiếp tục cuộc Thương Khó, trong đó Người đặt hết tình yêu.
Phanxicô chỉ mới bắt đầu đời sống đền tọi, chỉ mới bắt đầu tìm Chúa, chứ chưa thực sự hoán cải, chưa quay hẳn về với Chúa. Ngài còn thích ngó Chúa một bên chứ vẫn còn sợ nhìn Chúa trực diện, chỉ mới yêu Chúa một chút, chứ chưa yêu trọn vẹn. Và ngày hôm đó, Chúa nắm lấy dây cương ngựa của Phanxicô. Hôm ấy, đang cho ngựa đi lỏng bước ở một khúc quanh gần Assisi, thình lình Phanxicô gặp một người cùi. Phải chăng có tiếng mõ? Hay là ngước lên thì thấy người ấy trước mắt liền? Phản ứng tự nhiên của Phanxicô là gò cương quay ngựa lại để chạy trốn. Nhưng rồi ngài gây áp lực với chính mình, ngài nhớ lại quyết định sống đời hoàn hảo và hiểu rằng ngài phải thắng được mình trước nếu muốn trở thành chiến sĩ của Đức Kitô. Ngài liền nhảy xuống ngựa, tiến lại gần và hôn người cùi (1 Cel 17; Đại Truyện 1,5). Ngài còn bố thí cho người xấu số ấy, rồi lên ngựa tiếp tục đi. Hôn người cùi và đi phục vụ những người cùi, đó chính là tỏ lòng thương xót họ.
Phanxicô đã áp dụng giáo huấn của Tin Mừng về người Samari (Lc 10,37) vào cuộc gặp gỡ người phong. Khi đến gặp người ấy và tỏ lòng thương xót người ấy, Phanxicô đã tìm ra cách cụ thể mà tỏ ra là người thân cận của con người bị loại ra bên lề xã hội đó, con người mà lâu nay ngài vẫn nhờm tởm. Ý thức mình là người có nhiều may mắn, Phanxicô tỏ lòng thương xót người xấu số ấy. Trong Bản Di Chúc, “lòng thương xót” mà Phanxicô nói đến và Chúa đã tỏ ra, hệ tại hai ân huệ: ơn hoán cải và ơn gọi. Quả thật Chúa đã cho Phanxicô được sống đời đền tội (hoán cải) và đã gọi ngài theo “lối sống của Đức Kitô” (ơn gọi) theo gương các tông đồ (lối sống của các tông đồ).
Trong tiến trình “hoán cải – ơn gọi”, Chúa đã ban cho Phanxicô một tâm trí mới, một con tim mới và một lương tâm mới. Đã được đổi mới bên trong tâm hồn, Phanxicô đã có khả năng hành động theo hướng mới, nghĩa là dành cho người thân cận cùng một kiểu cách đối xử như Thiên Chúa đã dành cho ngài. Khi nhắc lại cuộc gặp gỡ đó, Phanxicô khám phá ra một dấu chỉ cụ thể của cuộc hoán cải của ngài: “Điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác”.
Khi nhắc lại thái độ của Phanxicô đối với người phong cùi, anh Tôma Xêlanô cũng nhắc đến cả lênh Chúa truyền cho Phanxicô: “Kể từ nay, con hãy bỏ đi những thú vui thế gian và trống rỗng để nhận lấy những thú vui thiêng liêng, con hãy yêu thích các sự đắng cay hơn ngọt ngào (Cn 27,7) và khinh chê chính mình, nếu con muốn biết Ta” cùng với câu trả lời của Phanxicô: ngài xuống ngựa và chạy đến hôn người phong. Người phong đã chìa tay ra để xin bố thí, thì giờ đây nhạn được cả tiền bạc lẫn một cái hôn… Lòng tràn ngập niềm vui và kinh ngạc, ít lâu sau, ngài muốn lặp lại cử chỉ đó: ngài đến nhà thương và, sau khi đã cho mỗi bệnh nhân ít tiền bạc, ngài hôn tay và miệng họ”. Và anh Tôma kết luận: “Như thế, ngài đã yêu thích các sự đắng cay hơn ngọt ngào (Cn 27,7)” (2 Cel 9).
Cặp đối nghĩa “đắng cay – ngọt ngào” được lấy từ sách Châm ngôn, ở chỗ áp dụng cho các niềm vui vật chất, tức là cho thức ăn:
“Người no, tảng mật cũng coi thường,
kẻ đói thấy đắng cay cũng ngọt” (Cn 27,7).
Ý nghĩa dường như đã rõ: ai đã ăn đủ mức cần thiết (người no) thì coi thường cả mật ong, nghĩa là món ăn tinh tế nhất; ngược lại, đối với cái bao tử rỗng (người đói), như bao tử của đứa con hoang đàng (x. Lc 15,16), thì cả thứ đắng cay cũng trở thành ngọt ngào. Áp dụng điều này vào cạp đối nghĩa về niềm vui thiêng liêng, Phanxicô xác định “thứ đắng cay” là tình trạng trống rỗng về tình yêu trước khi hoán cải, đó là đặc điểm của cuộc sống trước khi hoán cải; chính tình trạng này đã thúc đẩy ngài chạy trốn người phong cùi; còn “món ngọt ngào” là tình yêu ngài trao tặng người anh em phong cùi sau khi hoán cải: “Khi xa cách họ, điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác”.
Khi tỏ lòng thương xót, Phanxicô đã vượt thắng sự ghê tởm tự nhiên (sự cay đắng) ngài cảm thấy đối với người phong cùi: ngài đi đến với anh, hôn anh và phục vụ anh (x. Luật không sắc dụ 9,2). Với tình yêu thương xót của ngài, Phanxicô đã lấp đầy chỗ trống tình yêu trong tương quan xã hội với những người phong cùi. Được Lời Chúa giáo huấn, Phanxicô nhìn thấy và yêu thương nơi người phong chính Đức Kitô, Đấng đã được Kinh Thánh nói: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải” (Tv 22,7) và Đấng đã coi là làm cho Người tất cả những gì người ta làm cho kẻ nhỏ nhất trong các anh em Người (Mt 18,5; 25,40). Chân lý này được nêu lên trong bài tường thuật của anh Tôma Xêlanô (2 Cel 9): Khi đã tặng một gói tiền và hôn tay anh phong, Phanxicô lại lên ngựa, ngài nhìn bên này bên kia, nhưng không còn thấy anh phong đâu nữa: ngài hiểu là chính Đức Kitô đã hiện ra với ngài. Khi phục vụ người phong, Phanxicô đã hiện tại hóa hoàng kim quy tắc của đời sống Kitô hữu: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta” (Mt 7,12; Lc 6,31; x. Tb 4,15). Đây là một nguyên tắc Phanxicô muốn nhấn mạnh, vì ngài đã ghi lại năm lần trong Di Cảo (Thư gửi các tín hữu, c. 43; Thư gửi một anh Phục vụ, c. 17; Luật không sắc dụ 4,4; 6,2; 10,1).
*
Hôm nay, Chúa ban ơn bắt đầu sống đời đền tội cho bạn. Bạn có thể nghĩ rằng, như nhiều anh chị em Kitô hữu, bạn chỉ cần bớt ăn uống, bớt chút tiền bạc, hy sinh một chút tiện nghi là đã đủ bảo đảm ơn cứu độ.
Không! Để bắt đầu sống đời đền tội, phải ôm hôn người phong cùi như Phanxicô. Chắc chắn vào thời đại này, ở đây, bạn sẽ không gặp những con người với thân thể tàn rữa, nhưng có những người phong cùi loại khác: những con người chẳng làm hại gì bạn, nhưng bạn ghê tởm, bạn chán ghét, bạn cứ tránh né để khỏi phải yêu thương. Bây giờ bạn biết rằng chỉ có một cách thức duy nhất để gặp được Đức Kitô và nhìn Người trực diện để thực sự yêu mến Người: chấp nhận “người cùi” của riêng bạn.
Bao lâu bạn chưa xuống khỏi tháp ngà kiêu hãnh, bao lâu bạn không chấp nhận từ bỏ nền công lý quá cứng rắn để sống bác ái quân bình hơn, bao lâu bạn không chấp nhận yêu Chúa trong những người làm cho bạn khó chịu, thì bạn vẫn chưa bắt đầu sống đời đền tội, bạn vẫn chưa nếm cảm được sự dịu ngọt mà tình yêu Chúa chuyển thông cho bạn. Xuyên qua ơn Chúa ban là “sống đời đền tội”, Phanxicô hiểu rằng có một tiếng gọi yêu thương phát xuất từ người phong cùi, từ kẻ bị loại ra bên lề và cần tất cả mọi sự, kẻ mà ngài không thể và không được tránh né nếu muốn trở thành “người thân cận” với anh ta. Ước gì bạn cũng nhận ra như thế.
FX Long,ofm
Nguồn:
http://www.tamlinhvaodoi.net/linhdao/ps01.htm (http://www.tamlinhvaodoi.net/linhdao/ps01.htm)