PDA

View Full Version : Chìa khóa thành công: IQ hay EQ, AQ, PQ, SQ, CQ ?



caretocom
30-12-2009, 05:22 PM
NĂNG LỰC TIỀM ẨN

Lời dẫn

IQ là một sinh viên giỏi và thông minh. Cậu luôn có điểm số cao ở hầu hết
các môn học và là người đứng đầu trong các kỳ thi. Tuy vậy tính của IQ tự
cao, khó gần. Khi ra trường IQ được nhiều công ty mời chào nhưng kết quả
của các cuộc phỏng vấn lại không khả quan. Đã bảy năm kể từ khi ra trường,
IQ vẫn chưa làm được những gì cậu mong muốn.

Trái với IQ, thời còn đi học EQ không phải là sinh viên giỏi, gia đình đông
anh em và rất nghèo. Tuy nhiên với tính cách hòa đồng, tốt bụng hay quan
tâm giúp đỡ người khác, cậu rất được bạn bè quý mến và tin yêu. Khi ra
trường, EQ không có nhiều lời mời phỏng vấn như IQ nhưng kết quả cậu cũng
đã tìm được một công việc yêu thích. Hiện tại, với vị trí trưởng phòng,
được ban lãnh đạo công ty tin cậy, đồng nghiệp và khách hàng quý mến, EQ
đang có một tương lai sáng sủa.

Trong cuộc sống chúng ta gặp không ít những câu chuyện như vậy. Tại sao
người ít thông minh lại thành công hơn người giỏi hơn mình? Có phải do họ
may mắn, làm việc chăm chỉ, hay họ có những năng lực đặc biệt? Hãy đi tìm
câu hỏi cho chính mình ?


Chỉ số thông minh ( IQ ) và thông minh cảm xúc ( EQ )?

Bạn tự hào về chỉ số IQ (Intelligence Quotient - chỉ số thông minh) của
mình. Nó thể hiện trí thông minh "thô" của bạn, nhưng nhiều chuyên gia cho
rằng, nó chỉ là một yếu tố nhỏ tạo nên thành công.

Bắt đầu hình thành từ năm 1912, khái niệm IQ đã "thống trị" khá lâu trong
quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn đến thành công của con người.

IQ theo quan niệm phổ thông, thường được mặc định song hành với khả năng tư
duy. Tuy nhiên, sau này, nhà tâm lý học Howard Garner đã mở rộng khái niệm
IQ, khi chứng minh sự tồn tại của 8 dạng thức thông minh khác nhau và các
yếu tố này đều ảnh hưởng đến thành công của một người.

Trí thông minh (Intelligence) được đo bằng hệ số IQ - Intelligence
Quotient. IQ đo lường khả năng trí lực, năng lực học hỏi, khả năng hiểu và
xử lý tình huống, năng lực suy nghĩ logic, phản biện, sự nhạy bén trong suy
nghĩ… Trí thông minh có thể được đo tổng quát trong mọi lĩnh vực, và được
đo theo từng lĩnh vực cụ thể.

Tuy nhiên càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người
ta thường nói: "Với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề
bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ
cao nhất.


Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở
ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional
Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ). EQ đo lường năng lực, khả năng
hay kỹ năng của một người trong cảm nhận, đánh giá, và quản lý cảm xúc của
bản thân, của người khác hay của một nhóm người.

Trong một thời gian dài người ta dùng chỉ số IQ để tìm kiếm người tài vì
tin rằng người có IQ cao sẽ có xác suất thành công cao hơn người khác. Tuy
vậy một số nghiên cứu khoa học lại cho thấy chỉ 25% số người thành công là
có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Nghĩa là chỉ số IQ không giải thích được
sự thành công vượt trội của 75% số người còn lại. Kết quả nghiên cứu đã
loại yếu tố về năng lực chuyên môn. Cuối cùng những người nghiên cứu khẳng
định rằng chỉ số EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công trong cuộc sống
và công việc của mỗi chúng ta.



Năng lực cảm xúc trong môi trường làm việc ?

Trong khi chỉ số thông minh ít khi thay đổi theo thời gian, thì chỉ số
thông minh cảm xúc có thể được “học” và thay đổi vào bất cứ giai đoạn hay
môi trường nào. Để thành công trong môi trường làm việc, ông Daniel Goleman
- người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về EQ hiện nay đã đề xuất chúng
ta phải có những năng lực xúc cảm cá nhân gồm: năng lực tự nhận biết bản
thân, năng lực tự điều chỉnh, năng lực tạo động lực; và những năng lực
thông minh xúc cảm xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người khác và năng lực
giao tiếp xã hội..

Năng lực tự nhận biết cảm xúc bản thân giúp chúng ta hiểu rõ cảm xúc hiện
tại của mình và giúp chúng ta nhận biết vai trò quan trọng của cảm xúc đối
với kết quả công việc của mình. Biết tự đánh giá bản thân còn giúp chúng ta
hiểu điểm mạnh, điểm yếu của mình, giúp chúng ta can đảm thể hiện những suy
nghĩ chưa được chấp nhận, và dám một mình theo đuổi cái đúng. Trong khi đó,
năng lực tự điều chỉnh giúp chúng ta kềm giữ mọi cảm xúc bốc đồng của bản
thân, giữ được sự bình tĩnh, lạc quan ngay cả trong những thử thách khó
khăn nhất.

Đối với những người có năng lực tạo động lực, họ thường xem kết quả của
công việc là thước đo cuối cùng cho sự thành bại. Chính vì thế họ luôn cố
gắng phát triển bản thân và mong muốn vượt qua hay ít nhất đạt được những
tiêu chuẩn hoàn hảo. Những cá nhân này luôn tìm thấy mục tiêu của bản thân
trong mục tiêu của tập thể. Họ luôn chú ý đến giá trị, mục tiêu của tổ chức
trước khi ra quyết định.

Bên cạnh một số năng lực kể trên, có những người còn có khả năng thấu cảm
người khác. Họ có thể cảm nhận, dự đoán được cảm xúc và hoàn cảnh của người
khác, có khả năng bày tỏ sự quan tâm của mình một cách chủ động đối với
người khác. Hoặc cũng có người có năng lực phát triển người khác. Họ có
năng lực cảm nhận được nhu cầu phát triển bản thân của người khác, sẵn sàng
kèm cặp, hỗ trợ cho những người đó phát triển.

Nói đến năng lực giao tiếp xã hội của một người, chúng ta có thể kể đến
năng lực truyền đạt thông tin, năng lực quản lý xung đột, năng lực lãnh đạo
hay năng lực tạo sự thay đổi, năng lực hợp tác với người khác…

Người có năng lực quản lý sự xung đột có khả năng “xử lý” những tình huống
căng thẳng một cách êm đẹp. Họ có khả năng thương thuyết và giải quyết
những mối bất hòa, đưa ra giải pháp để hai bên cùng thắng. Trong khi đó
người có năng lực lãnh đạo sẽ tạo cảm hứng cho mọi người làm việc, làm cho
họ tin và hướng theo một tầm nhìn, một mục tiêu chung. Dù ở vị trí nào họ
cũng sẵn sàng tiến lên để nhận lãnh trách nhiệm, họ tạo ảnh hưởng lên người
khác bằng chính những hành động của mình. Còn người có năng lực hợp tác
luôn tạo ra một môi trường làm việc vì mục đích chung, trong đó mọi người
đều có cơ hội để phát triển.


EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được.Việc
giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa
trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập
với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có
những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.

Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ
thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc
cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý
thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt
động xã hội.

Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ. Những người thành
đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.

Ngoài ra, người ta còn dùng các chỉ số khác để đánh giá khả năng thành công
của con người, đó là các chỉ số: AQ, PQ, SQ và CQ..



Chỉ số vượt khó – AQ?

Năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz lần đầu tiên đưa ra 1 khái
niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách "Adversity Quotient:
Turning Obstacles into Opportunities" (AQ: Xoay chuyển trở ngại thành cơ
hội). Trong đó, ông định nghĩa, AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và
xoay sở của một người trước các thay đổi, áp lực và các tình huống khó
khăn. Tại sao một số người trở nên xuất chúng, rất thành công, trong khi
những người khác lại nản lòng, thất bại cho dù họ có thừa thông minh hoặc
tư cách tốt? Điểm khác nhau giữa họ chính là sự chênh lệch về AQ - khả năng
đương đầu và đương đầu có hiệu quả trước bất hạnh và nghịch cảnh.

Trong cuốn sách xuất bản sau đó, Adversity Quotient @ Work, bàn kỹ hơn về
vấn đề tương tự, ông giải thích cụ thể hơn cách thức áp dụng khái niệm AQ,
để có thể mang lại lợi ích.

Paul Sloltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình từ những nhà tâm lý
học đi trước, như Abraham Maslow, tác giả của tháp Maslow nổi tiếng; từ
Martin Seligman, tác giả của sách "Học lạc quan", và Stephen R. Covey, tác
giả của "7 thói quen của người thành đạt".

Nhiều nhà tâm lý đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết AQ này. Điều này góp
phần khẳng định, việc lượng hóa những phẩm chất tâm lý bậc cao là một điều
có thề làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ) và cảm xúc (EQ).

Paul Sloltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ xúc động và dễ buông
xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi, những người có AQ cao
sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo trong tương lai.

Ông phân định ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó
khăn, thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper và Climber.

1. Quitter: Là những người dễ buông xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ dàng
từ bỏ việc theo đuổi 1 công việc, 1 dự định và cao hơn là 1 mục đích sống.
Và, kết quả là thường giữa đường đứt gánh, và nhận thất bại, hoặc kết quả
không như ý.

2. Camper: Là những người chịu khó, làm việc chăm chỉ, có ý thức phấn
đấu rèn luyện bản thân, và sẽ làm nhiều thứ để đạt tới 1 mức độ nhất định
nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân
để thấy như vậy là đủ.

3. Climber: Là những người có sự kiên định và hoài bão lớn. Họ luôn học
hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để đạt tới những mức độ tốt nhất có
thể trong khả năng. Họ cũng thường là tuýp người không chấp nhận 1 tình thế
sẵn có, và tìm cách xoay sở để cải thiện nó tốt hơn.

Theo đó, ông coi chỉ số đo khả năng vượt qua những điều kiện khó khăn là
yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên sự thành công cho con người.

Theo Paul Sloltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sự sáng tạo,
năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người.Nó cũng
chính là một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống:

1. Đối diện khó khăn
2. Xoay chuyển cục diện
3. Vượt lên nghịch cảnh
4. Tìm được lối ra

Theo quan niệm của nhiều người, IQ và EQ là những khái niệm "fix", có nghĩa
là phần nhiều thuộc về "thiên phú", khó có khả năng thay đổi. Trong khi đó,
AQ là đại lượng có thể được rèn luyện để "cải thiện, nâng cấp".



Chỉ số say mê - PQ?

Bạn tự hào là người có chỉ số thông minh IQ cao. Nhưng theo các nhà khoa
học, nếu có chỉ số đam mê PQ (Passion Quotient) thấp, bạn sẽ khó mà thành
công. Sự đam mê là ngọn lửa thổi bùng lên lòng nhiệt huyết, khiến mỗi chúng
ta không ngừng khám phá những tiềm năng vô tận ẩn sâu trong mỗi con người.

PQ là chỉ số chỉ sự say mê của mỗi người dành cho việc anh ta làm, gọi tắt
là chỉ số say mê (PQ).

Có người đã ví von rằng: “Chỉ số IQ giống như một đoạn mạch ADN rất vững
chắc và rất khó để cải thiện. Còn chỉ số PQ là chất lửa trong mỗi con
người, chúng ta hoàn toàn có thể điều chỉnh được ngọn lửa đó.”

Chỉ số PQ của con người không thể đo lường một cách chính xác. PQ không thể
hiển thị dưới dạng con số hay thống kê như IQ, nó chỉ mang tính ước đoán,
hàm ý và tượng trưng.


Người có chỉ số PQ cao là một tài sản quý

Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp
với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như
phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng
những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan,
tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là: yêu thích công việc mình
làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan,
thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản
chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về
công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng
tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua
với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của
mình.

Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm
giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều
người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang
lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính
chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực.

Trong công việc, những nhân viên làm việc với lòng say mê cao là những
người được các sếp quý trọng. Ngọn lửa say mê đến từ định hướng đúng trong
công việc, chọn nghề phù hợp với năng lực và sở trường, vào trí thông minh
của mỗi người. Những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của
một cơ quan, tổ chức. Những phẩm chất thường thấy ở họ là:

- Yêu thích công việc mình làm.

- Luôn toàn tâm toàn ý hoàn thành công việc đạt chất lượng cao.

- Thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ
nản chí.

- Họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ
về công việc ngay cả trong lúc nghỉ ngơi, nên họ thường tìm ra được những
giải pháp độc đáo và sáng tạo.

- Họ luôn luôn nghĩ đến việc sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với
thời gian.

Virender Kapoor, tác giả quyển sách "The Greatest Secret of Success: Your
Passion Quotient" (Bí mật lớn nhất của thành công: chỉ số say mê) cho rằng
"Chất lửa trong con người, hay chính là chỉ số say mê, đã đóng góp rất
nhiều cho những thành tựu kỳ diệu của nhà khoa học thiên tài Albert
Einstein hơn cả chỉ số IQ của ông."



SQ - Thông minh xã hội?

Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận
thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử
của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái
niệm gọi là Thông minh xã hội (Social Intelligence, xác định bằng chỉ số
thông minh xã hội Social Quotient SQ).

Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức
độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng
người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước
mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể...

Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenekđưa
ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa
khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá
nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội.


Chỉ số thông minh sáng tạo – CQ?

Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn
mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một
khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá,
những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện. Có những người cho
rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính
nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái
niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo
(Creative Intelligence - CQ). Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo
mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một
kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân
loại.

Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông
nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách
đơn giản: "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để
làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính
bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn
toàn có thể "rèn luyện" được. Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả
của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé
sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ
nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không
chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng
tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên 'Tư duy
sáng tạo" nhằm mục đích này.


Lời kết

Đọc những điều vừa kể chắc hẳn bạn sẽ nghĩ rằng, những năng lực trên tuy
nghe hết sức bình thường nhưng lại là những phẩm chất lý tưởng của mỗi cá
nhân trong môi trường làm việc, đó là những phẩm chất mà chúng ta mong muốn
có cho bản thân mình..cũng là chìa khóa mở cánh cửa thành công cho mọi
người.

Dù ở độ tuổi nào, mỗi người đều có tiềm năng để phát triển những năng lực
trên. Đừng quá ỷ lại vào trí thông minh, trình độ chuyên môn mà nên tập
trung nhiều hơn đến việc phát triển chỉ số EQ, phát triển năng lực cảm xúc
của bản thân trong môi trường làm việc. Cũng như Chỉ số vượt khó ( AQ), Chỉ
số say mê ( PQ), Thông minh xã hội ( SQ), Chỉ số thông minh sáng tạo ( CQ).
Từ từ chúng ta sẽ nhận biết, quản lý bản thân tốt hơn, hiểu biết và giao
tiếp với người khác hiệu quả hơn, và chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành công
hơn trong công việc và cuộc sống !

caretocom sưu tầm.

sake
30-12-2009, 09:00 PM
Bài Com sưu tầm hay ghê. Kê thường chỉ nghe nói đến chỉ số IQ thui, các chỉ số khác ít biết tới...hì hì.
Thưởng Com nè:Tanghoa:

caretocom
30-12-2009, 11:27 PM
Cảm ơn Sake đã khen tặng :)

Nội dung bài này cùng với bài Kỹ năng mềm https://thanhcavietnam.net/forum/showthread.php?t=14723 sẽ giúp cho ACE có cái nhìn....mềm hơn về cuộc sống đấy :3:

Cảm ơn Sake và mọi người đã đọc bài:53:

Angelus
30-12-2009, 11:35 PM
Phổ biến đi xin việc hiện giờ nghiêng về EQ nhiều...