PDA

View Full Version : GIÁO HỘI VIỆT NAM TRONG TÌNH HIỆP THÔNG



Chuônggió
13-01-2010, 08:37 AM
GIÁO HỘI VIỆT NAM
TRONG TÌNH HIỆP THÔNG

NHẬP ĐỀ
Vì là phương tiện cứu độ cho toàn thể nhân loại (GH 1), Giáo Hội có bổn phận phải giữ mối liên hệ với tất cả, tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của ơn gọi Thiên Chúa dành cho mỗi người. Giáo Hội muốn ngỏ lời “với tất cả mọi người, Công đồng Vatican II ước ao trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và hoạt động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay” (MV 2a).
Cũng trong tinh thần đối thoại đó, Giáo hội Việt Nam luôn thúc giục tất cả các tín hữu góp phần của mình trong cuộc đối thoại đại kết với các Giáo hội Kitô giáo anh em như: các Giáo hội Cải Cách, Hội thánh Tin Lành Việt Nam, Cơ Đốc Phục Lâm… đối thoại liên tôn với các tôn giáo có mặt lâu đời ở Việt Nam như: Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo… và đối thoại với cả những người không tôn giáo. Vì thế, trong phạm vi bài này, chúng tôi xin được phép giới thiệu một vài nét cơ bản của các giáo hội và tôn giáo đó, sau khi nói sơ qua những đường hướng về cuộc đối thoại hiệp thông này cho anh chị em tín hữu Công giáo.


A. SỰ HỢP NHẤT CÁC KITÔ HỮU
Nhiệm vụ chung của Kitô giáo là xây dựng cho được sự hợp nhất. Trong số 821, sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo đã tóm tắt những điểm chính yếu cần thực hiện để tiến hành hữu hiệu công cuộc xây dựng ấy, như sau:
“Để đáp lại lời Thánh Thần kêu gọi xây dựng hợp nhất cho thích đáng, cần phải có:- Một nỗ lực canh tân thường xuyên trong Giáo Hội nhắm tới việc sống ơn gọi của mình cho trung thành hơn. Nỗ lực canh tân ấy chính là động lực đẩy mạnh đà tiến hướng tới sự hợp nhất (x. HN 6);- Một cuộc thay lòng đổi dạ “để sống Phúc Âm bằng một cuộc sống tinh tuyền hơn mãi” (HN 7), vì thái độ bất trung của các thành viên đối với hồng ân của Chúa Kitô, chính là nguyên nhân gây ra chia rẽ;- Việc cầu nguyện chung, bởi vì cuộc thay lòng đổi dạ và cuộc sống thánh thiện, cùng với việc cầu nguyện chung và riêng cho sự hợp nhất các Kitô hữu, phải được coi là linh hồn của toàn bộ phong trào đại kết, và thật đáng được gọi là “công cuộc đại kết thiêng liêng” (HN 8);- Thái độ hiểu biết lẫn nhau trong tình huynh đệ (x. HN 9);- Việc đào tạo tinh thần đại kết cho các tín hữu và nhất là cho các linh mục (x. HN 10);- Việc đối thoại giữa các nhà thần học và gặp gỡ nhau giữa các giáo hội và các cộng đoàn khác nhau (x. HN 4,9,11);- Việc hợp tác giữa các Kitô hữu về những lĩnh vực khác nhau trong nỗ lực phục vụ con người (x. HN 12).
Con đường hợp nhất không phải là “con đường trở về” với Giáo hội Roma, mà là con đường, trong đó tất cả đều đồng hành hướng về sự hợp nhất mà Đức Kitô đã mong muốn.


B. ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN
Sự kiện bi đát là đa số nhân loại không biết đến hoặc không tin vào Đức Kitô.
“Với sứ mệnh đem sứ điệp Phúc Âm soi chiếu cả thế giới và quy tụ trong một Chúa Thánh Thần, tất cả mọi người thuộc bất cứ quốc gia, chủng tộc hay văn hoá nào, Giáo Hội xuất hiện như dấu chứng của tình huynh đệ, là mối tình có khả năng tạo điều kiện cần thiết và củng cố cho việc đối thoại chân thành” (MV 92a).
Ngôn từ căn bản là đối thoại. Nếu ngày xưa, thái độ đối với dân ngoại là nghi ngờ, đối lập, cạnh tranh, thì ngày nay là cởi mở, đón nhận, đàm luận. Vatican II đảm nhận sứ mệnh do Đức Kitô uỷ thác, nhưng trong bối cảnh của một thế giới mới:
“Trong thời đại chúng ta, nhân loại ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn; các mối liên hệ giữa các dân tộc cũng gia tăng, thế nên Giáo Hội càng đặc biệt chú tâm hơn đến việc tìm xem mình phải giữ quan hệ như thế nào với các tôn giáo ngoài Kitô giáo” (TD 1).
Nhìn theo nhãn quan thần học, ta sẽ thấy rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ qua đường lối tập thể xã hội (x. GH 9a), và dùng những trung gian sẵn có - thường là các tôn giáo - vì thế, Giáo Hội nhận thấy rõ là các tôn giáo giữ một vai trò quả thật tích cực trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vậy, với chủ trương đối thoại, không những Giáo Hội nói lên ước muốn liên hệ với các cá nhân, mà còn với cả những tập thể và tôn giáo nữa.
Trong Thông điệp Ecclesiam suam, Đức Phaolô VI đã trình bày chi tiết về phương thức đối thoại. Nói chung, đối thoại đòi hỏi phải biết:
a. Kính trọng và chấp nhận người đối thoại, coi họ là trung thực và có thiện chí; đăït mình trên cùng bình diện với họ;
b. Thành thật muốn tìm hiểu về tư tưởng, tín ngưỡng, tập tục, giá trị… của người đối thoại;c. Sẵn sàng lắng nghe những lý lẽ, vấn nạn, khó khăn, luận chứng bác bỏ của phía bên kia;
d. Thành thật phê bình lập trường của phía bên kia và ôn hoà trình bày lập trường của mình;
e. Xem xét mọi sự: tư tưởng và những động cơ, sự kiện lịch sử và những hậu quả trong đời sống tôn giáo của mình và của phía đối thoại.
Trong cuộc đối thoại, cũng nên lưu ý đến điểm này: chân lý là một chuyện, còn cách quan niệm về chân lý lại là một chuyện khác. Chân lý tuyệt đối là mầu nhiệm, là chính Thiên Chúa; và không ai thấu hiểu toàn diện được Thiên Chúa. Vậy, các phía đối thoại cần phải ý thức rõ mình là những lữ khách đang cố bước tới cho gần hơn với chân lý toàn vẹn.
Có nhiều cách đối thoại khác nhau: đối thoại trí thức hoặc thần học, tức là trong lĩnh vực chuyên môn; đối thoại giữa cuộc sống, và đối thoại qua kinh nghiệm liên tôn. Lý tưởng là có thể tham dự vào cả ba dạng đối thoại. Đối với đa số các Kitô hữu, nhất là tại châu Á, đang sống chung với tín đồ các tôn giáo khác, đối thoại, trước hết là sống đạo cho xứng với danh nghĩa Kitô để làm chứng cho đức tin của mình, tiếp đó là hợp tác vào những công tác phục vụ công ích, và đơn sơ chia sẻ niềm hy vọng của mình như Thánh Phê­rô đã từng khuyên nhủ (x. 1 Pr 3,15-16). Cùng cầu nguyện chung với nhau và chia sẻ kinh nghiệm một cách sâu đậm cũng giúp cho đôi bên hiểu nhau hơn về phương diện đích thật tôn giáo.
Lập trường chính thức của Giáo hội Công giáo là trung thành hoàn toàn với những gì Tân Ước cho biết về: Đấng trung gian duy nhất (x. Cv 4,12; 1 Tm 2,5), Đấng Nhập thể và Cứu chuộc “chỉ một lần” duy nhất (x. Dt 9,26-28) và thiên tính của Đức Kitô (x. Ga 20,28). Giáo Hội công nhận là các tôn giáo có giá trị thật sự về mặt cứu độ; nhưng nguồn ơn cứu độ là chính Chúa Kitô, và được chuyển thông - một cách nhiệm mầu như thế nào thì chỉ có Thiên Chúa mới biết- nhờ Giáo Hội là bí tích cứu độ phổ quát. Những giá trị mà các tôn giáo chứa đựng được coi như “hạt giống của Ngôi Lời”, bởi vì Thần Khí của Đức Kitô hằng hoạt động qua nghi thức và giáo lý của các tôn giáo ấy, khiến cho mọi người có thể mở lòng để đón nhận ơn cứu độ. Tuy nhiên, nhiều điều trong các tôn giáo ấy cũng cần phải được thanh tẩy cho phùø hợp với ý Thiên Chúa, như được mạc khải trong Thánh Kinh.


C. ĐỐI THOẠI VỚI NHỮNG ANH EM VÔ THẦN
ĐTC Phaolô VI đã nói trong Thông điệp Ecclesiam suam: “Chúng tôi biết chung quanh Giáo Hội có nhiều, thậm chí rất nhiều người không theo một tôn giáo nào; chúng tôi biết nhiều người tự xưng mình vô thần bằng rất nhiều cách. Và chúng tôi biết có những người công bố rõ ràng thái độ đối nghịch ấy của mình”.
Vậy vô thần là gì? Đó là lập trường cho rằng ngoài con người và vũ trụ ra, không có một Thực thể hay một Hữu thể tuyệt đối (thần thiêng) nào. Thánh Kinh dùng từ vô thần chỉ có một lần (x. Ep 2,12), nhưng với ý nghĩa khác hẳn, để chỉ về người không biết hay không chấp nhận Đức Giavê và Luật của Người, hoặc là sống theo lối vô luân bất công. Tuy nhiên, Giáo Hội không dùng từ vô thần với ý nghĩa tiêu cực đó. Ngày nay, chủ trương vô thần là một hiện tượng phổ biến của quần chúng, bên Đông cũng như bên Tây, giữa lớp trẻ cũng như lớp già, giữa giới trí thức lẫn giới bình dân. Những biến đổi vĩ đại của nhân loại trong thế kỷ này đã thanh lọc lối sống đạo của nhiều người, nhưng cũng đã khiến nhiều người đánh mất niềm tin siêu nhiên và bỏ hẳn ý niệm về Thiên Chúa với các thực tại siêu việt. Thật ra, quá trình “thế tục hoá” kéo dài khá lâu tại châu Âu, đã phá vỡ mối dây hợp nhất của xã hội và Kitô giáo. Các cuộc chiến tôn giáo đã khiến người ta phải đi tìm một mối dây hợp nhất khác, và tổ chức xã hội theo những nguyên tắc không tôn giáo. Kết quả là thế giới (văn hoá, chính trị, kinh tế...) phát triển mà không hề quy chiếu gì đến tôn giáo, đến Thiên Chúa. Hơn nữa, những giá trị vốn là của Kitô giáo (như nhân quyền, nhân vị, tự do…) lại được nhiều người dùng để giải phóng mình khỏi một Giáo Hội mà họ cho là quá khích, bảo thủ và coi như kẻ thù. Tình trạng ngày nay lại còn bi đát hơn nữa, vì trong một vài nước đa số người vô thần không còn biết gì đến tôn giáo, bởi họ sinh ra trong những gia đình vô thần, học với thầy dạy vô thần, sống trong bầu khí vô thần… và “dư luận” cho đó là chuyện thường, là hữu lý; còn tin vào Thiên Chúa mới bị coi là bất thường, vô lý, bị lên án là mê tín, phản khoa học. Đã từ lâu Giáo Hội chú ý đến hiện tượng vô thần. Nhiều giáo hoàng đã đề cập tới, chẳng hạn như: Đức Piô XI (Di­vi­ni Redemptoris), Piô XII (Ad Apo­sto­lorum Prin­cipis), Gio­an XXIII (Mater et Magi­stra), Phaolô VI (Eccle­siam suam), Gioan Phaolô II (Sapientia Christiana)… và đặc biệt là Công đồng Va­ti­can II (MV Gaudium et Spes, số 19-21).
Công đồng ngỏ lời trước hết với các tín hữu, để kêu mời họ cố gắng san bằng những trở ngại do chính họ gây nên, bằng cách sống đạo cho sáng suốt và xứng đáng (MV 21). Công đồng cũng kêu mời người vô thần lấy thái độ vô tư mà nhận định một cách khách quan những dấu chỉ Thiên Chúa đã ghi khắc ở trong vũ trụ, trong lịch sử và nơi tâm trí con người. Cũng cần phải ý thức rằng “nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa, và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu, phẩm giá con người sẽ bị tổn thương trầm trọng, như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi cũng như đau khổ vẫn không giải đáp được; vì thế, con người thường bị dồn vào ngõ cụt tuyệt vọng” (MV 21c).
Không chỉ vì yêu mến Thiên Chúa, mà còn vì yêu thương người vô thần, nên Giáo Hội không những chẳng kết án, mà còn muốn giúp đỡ họ như bà mẹ chăm sóc tất cả mọi người con yêu quý của mình. Giáo Hội luôn sẵn sàng đối thoại với người vô thần.FELIPPE GÓMEZ, S.J.


D. GIÁO HỘI VIỆT NAM VỚI VIỆC THỜ KÍNH TỔ TIÊN
Để giúp các tín hữu Việt Nam có tinh thần hiệp thông với các tôn giáo khác và với cả các anh em không tôn giáo, Hội đồng Giám mục (miền Nam) Việt Nam đã ra thông cáo ngày 14-6-1965 về việc thờ cúng tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Ngày 14-11-1974, các giám mục đã khai triển thêm những điểm cụ thể về vấn đề này. Từ năm 1974 đến nay, chắc chắn tinh thần cởi mở của các bản thông cáo dưới đây còn tiến xa hơn nữa theo tinh thần của những văn kiện gần đây của Toà Thánh, và những hoạt động liên tôn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, các thông điệp của ngài như: Redemptor hominis (1979), Redem-ptoris missio (1991), Veritatis splendor (1993), Ut unum sint (1995), Fides et ratio (1998) và Ecclesia in Asia (1999).
THÔNG CÁO CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ VIỆC TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN VÀ CÁC BẬC ANH HÙNG LIỆT SĨ
“Ngày 20-10-1964, Toà Thánh, qua Bộ Truyền giáo, đã chấp thuận đề nghị của các Giám mục Việt Nam xin áp dụng Huấn thị Plane compertum est, về việc tôn kính tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ cho giáo dân Việt Nam. Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong việc áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
I. Giáo hội Công giáo đối với nền văn hoá và truyền thống các dân tộc
1. Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thật của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội tâm của mỗi cá nhân, nhưng nó có âm vang đến toàn diện cuộc đời và trong mọi lĩnh vực sinh hoạt của con người.2. Mặt khác, từ nguyên thuỷ cho đến ngày nay, Giáo hội Công giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không huỷ bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Có lẽ cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thật. Cũng vì vậy, Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hoá của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hoá những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sáp nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ Mầu Nhiệm hoặc để tôn vinh các bậc thánh nhân hay các vị tử vì đạo.3. Đối với các tôn giáo khác, Giáo hội Công giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên, Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một Đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác. Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô “là Đường đi, là Chân Lý và là Nguồn Sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hoà với muôn vật. Tuy nhiên, Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác, tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo toàn vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hoá, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này.
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo hoàng và trong Công đồng Vatican II, đã giải thích lý do quyết định của Toà Thánh, khi cho áp dụng Huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các giám mục họp hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 13 và 14-6-1965 đã cho công bố thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane Compertum est
1. Nhiều hành vi, cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo hội Công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho chúng được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tuỳ theo trường hợp. Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng, là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo hình, ảnh, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ giỗ…) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2. Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh, có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy. Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công giáo (như bất cứ nghi lễ nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong Giáo luật, khoản 1.258 (Bộ Giáo luật năm 1917).
3. Đối với những việc mà rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công giáo, nên được thi hành và tham gia. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Toà Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài Công giáo. Các vị phụ trách Công giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khoá huấn luyện”.Sacerdos Linh Mục nguyệt san, số 43, tháng 7-1965, tr. 489-492
HỘI NGHỊ NHA TRANG
Ngày 14-11-1974, bảy giám mục Việt Nam (Tgm. Philipphê Nguyễn Kim Điền, Gm. Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Gm. Phaolô Huỳnh Đông Các, Gm. Giuse Trần Văn Thiện, Gm. Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, Gm. Phêrô Maria Nguyễn Huy Mai) chủ toạ khoá Hội thảo về Phúc Âm hoá ở Nha Trang, đã xác định cụ thể hơn về vấn đề thờ cúng tổ tiên trong 6 điểm. Chúng tôi xin trích nguyên văn sau đây:
1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện gì mê tín dị đoan như hồn bạch…
2. Việc đốt hương, nhang, đèn, nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ gia tiên và trước giường thờ tổ tiên là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín như đốt vàng mã… và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà như dâng hoa trái, hương đèn…
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên” vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà.
5. Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng tôn kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng quen gọi là “phúc thần” tại đình làng để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có điều gì hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính có liên quan đến tín ngưỡng, và chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa”.



http://nhathocaolanh.com