Chuônggió
13-01-2010, 08:42 AM
1. NHẬP ĐỀ
Như Giáo Hội toàn cầu được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu trên thập giá và phát triển theo từng giai đoạn với những cuộc bách hại, Giáo hội Việt Nam cũng đi lại những quãng đường gian khổ như thế trong lịch sử đời mình. Ôn lại lịch sử đó không phải là chúng ta muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn, những mối bất hoà, nhưng là để giúp nhau nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong mọi biến cố thăng trầm, tạo nên sự cảm thông giữa mọi thành phần dân tộc và xây dựng Giáo hội Việt Nam, theo đường hướng hiệp thông và đối thoại của Công đồng Vatican II đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhiều lần nhắc đến (x. Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 1,6,24-31).
Từ mầu nhiệm Nhập Thể...
Mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể đã dạy cho người tín hữu Việt Nam khám phá ra giá trị của bối cảnh lịch sử trong cuộc đời và sứ mạng của từng người cũng như của Giáo hội Việt Nam. Thật vậy, “nơi Đức Giêsu, người Nazareth, Thiên Chúa đã nhận lấy những yếu tố đặc thù của bản tính nhân loại, kể cả việc thuộc về một dân tộc nhất định và một xứ sở nhất định... Nét đặc thù vật lý của xứ sở và những yếu tố địa lý của miền đất ấy là điều không thể tách rời được với sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người” (ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 5). Trong tinh thần ấy, người tín hữu Việt Nam gắn bó với đất nước và dân tộc của mình.
Đất nước Việt Nam có dáng hình cong chữ S, thuộc khu vực Đông Nam Á, trong vùng khí hậu nhiệt đới. Lãnh thổ dài và hẹp mở rộng về phía Tây. Vùng hẹp nhất là tỉnh Quảng Bình, khoảng 50km, vùng rộng nhất tính từ ngã ba biên giới Việt – Lào – Trung đến Móng Cái, rộng trên 300km. Phía Bắc có các đồng bằng rộng lớn nằm dọc theo lưu vực sông Hồng, sông Lô và sông Chảy. Phía Nam có đồng bằng sông Cửu Long tạo nên vựa lúa lớn nhất cho cả nước. Miền Trung nằm giữa hai miền Bắc Nam, có dãy núi Trường Sơn ở phía Tây chạy dọc theo bờ biển với các con sông ngắn, tạo nên nhiều đồng bằng nhỏ hẹp về phía Đông. Phía Tây Nam là các cao nguyên rộng lớn với độ cao trên 1.000m, có lớp đất bazan màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp như cao su, trà, cà phê, ca cao.
Đất nước thân yêu này là chốn nương thân của nhiều dân tộc với những nền văn hoá khác nhau trong suốt dòng lịch sử: từ những người Việt cổ ở Bắc Bộ với nền văn hoá Sơn Vi cách đây khoảng 23.000 năm trước Công Nguyên (CN), văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn 10.000 năm trước CN, đến nền văn hoá Đông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ với hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn, có trang trí hoa văn, vào khoảng 2.700 năm trước CN. Các dân tộc sống thuận hoà với nhau trong quốc gia Văn Lang của các vua Hùng cho đến khi An Dương Vương Thục Phán lập nước Âu Lạc với thành Cổ Loa vào thế kỷ III (TCN). Trong khi đó, nhiều dân tộc ở Nam Trung bộ, từ Thừa Thiên đến lưu vực sông Đồng Nai, đã xây dựng thành nền văn hoá Sa Huỳnh. Họ có thể là tổ tiên của người Chăm, đã xây dựng thành vương quốc Champa sau này. Nền văn hoá Óc Eo ở miền cực Nam với vương quốc Phù Nam ở các tỉnh Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp (bây giờ) và nền văn hoá của người Khơ Me ở các tỉnh khác của đồng bằng Nam bộ trải rộng khắp vùng châu thổ sông Cửu Long. Tất cả các dân tộc ấy tạo thành cộng đồng người Việt hiện nay với 54 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc Kinh chiếm gần 90% tổng dân số cả nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước, tất cả các dân tộc ấy đã đổ biết bao công sức, mồ hôi, nước mắt trên mảnh đất quê hương để khai hoang, phục hoá, phá rừng làm rẫy, đắp đê chống lũ, ngăn mặn lấn biển… Chúng ta phải thành thật nhìn nhận rằng các dân tộc đều nhân danh giang sơn gấm vóc để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, hay nhân danh dân tộc mình để mở rộng biên cương. Cuối cùng, đất nước, núi sông vẫn còn đó, không phải dành riêng cho ai, nhưng cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên không giọt mồ hôi nào vì yêu thương đồng bào đổ xuống trên mặt đất này lại trở thành vô nghĩa, không giọt máu hồng nào vì chính nghĩa thấm vào lòng đất này lại không có giá trị vô song. Mọi sự đều được biến đổi trong Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Người đã đưa thần tính vô hạn, vĩnh hằng của Thiên Chúa vào trong thế giới vật chất hữu hạn, nhất thời của con người để biến đổi và thăng hoa tất cả trong cuộc Phục Sinh của Người.
... đến Giáo hội Việt Nam trong lòng dân tộc
Tin vào Đức Giêsu Kitô, người dân Việt Nam sẽ nhìn đất nước mình bằng một ánh mắt mới. Người dân Việt hôm nay, dù là người Kinh hay dân tộc thiểu số, sẽ nhìn nhau với ánh mắt đầy tin tưởng và hy vọng, bao dung và nhân ái, vì sự sống bất diệt trong mình được khởi đầu từ chính đất nước này. Thật vậy, những cây lúa, ngọn rau rút tinh hoa từ lòng đất nước đã ngấm bao mồ hôi, xương máu của cả người Việt, người Hoa lẫn người Chăm, người Khơ Me,... trong suốt dòng lịch sử đang nuôi sống tất cả… Do đó, ta có thể nói rằng, tất cả đều cùng chung một huyết thống, đều là anh em ruột thịt của nhau. Sự sống tự nhiên này, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, sẽ biến đổi thành sự sống siêu nhiên.
Những nét khác biệt của mỗi dân tộc trong dòng lịch sử chỉ biểu lộ những giới hạn của vật chất và con người. Chính Đức Giêsu Cứu Thế sẽ quy tụ và biến đổi mọi người để không còn là Kinh hay Hoa, Chăm hay Thượng, “Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Giêsu Kitô” (x. Gl 3,28). Điều này Chúa Thánh Thần đã thực hiện trong ngày Người hiện xuống để quy tụ tất cả những con người thuộc các ngôn ngữ khác nhau làm thành Giáo Hội của Đức Giêsu (x. Cv 2,1-12).
Từ hạt giống Tin Mừng được các thừa sai nước ngoài gieo vãi vào thế kỷ XVI, Giáo Hội Đức Kitô đã sinh những người con ở Việt Nam. Những người con ấy đã lớn lên, đã trưởng thành và rồi lại tiếp tục sinh ra những người con mới cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu Kitô để trở thành Giáo hội Mẹ Việt Nam. Giáo Hội ấy được thể hiện cách cụ thể trên mảnh đất quê hương hôm nay với hơn 80 triệu người dân Việt, trong đó có 5.667.428 tín hữu Công giáo gồm đủ các dân tộc. Giáo hội ở Việt Nam tính đến 31-12-2003 có: 2.518 giáo xứ thuộc 25 giáo phận và tổng giáo phận, với 42 giám mục và tổng giám mục, 2.460 linh mục triều, 467 linh mục dòng, 1.833 nam tu, 11.421 nữ tu, 1.419 chủng sinh và 52.513 giáo lý viên.
“Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước... Quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ...” (HĐGM VN, Thư Chung 1980, số 9). Người tín hữu Việt Nam luôn gắn bó với quê hương, dân tộc và liên kết sâu xa với Giáo hội Mẹ Việt Nam, vì chính người mẹ này đã sinh ra mình trong đức tin và biến đổi mình từ con người thành con Chúa.
Với tâm tình con cái, trong ít trang sau đây, chúng ta cùng ôn lại một vài đoạn đời của Mẹ từ lúc khai sinh, hình thành, cho đến khi phát triển, trưởng thành. Nhiều người đã từng kể lại đời Mẹ, kẻ ít người nhiều, điều đúng điều sai. Nhưng nếu không nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng, đời Mẹ vẫn chỉ là những biến cố rời rạc, những con số vô hồn, những năm tháng tủi nhục vô nghĩa, như nhìn những giọt nước rơi từ đôi mắt của một người xa lạ. Chỉ có những người con gần gũi thân thương mới hiểu được ý nghĩa và cảm nhận được niềm vui hay nỗi khổ từ những giọt nước mắt này. Trong tâm tình ấy, chúng tôi kể lại đời Mẹ, để mọi người cảm thông với chúng tôi và đồng cảm với Mẹ Giáo hội Việt Nam qua các thời kỳ:
- Khai sinh (1533 - 1659)
- Hình thành (1659 - 1802)
- Thử thách (1802 - 1885)
- Phát triển (1885 - 1960)
- Trưởng thành (1960 đến nay)
Chúng tôi chọn cách phân chia các thời kỳ như trên dựa theo mốc thời gian với những biến cố quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn lao của cơ cấu Giáo hội Việt Nam.
2. THỜI KỲ KHAI SINH (1533-1659)
Sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, triều đại Lê kéo dài hơn 350 năm (1428-1788) có lúc thịnh, lúc suy và đầy biến động. Trong thế kỷ XV, xã hội Việt Nam ổn định, nông nghiệp được phục hồi và phát triển, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và Phật giáo trở thành tôn giáo của dân gian. Sang thế kỷ XVI, nhà Lê suy yếu với các ông vua ham mê tửu sắc, triều đình thiếu người tài trí, xã hội bắt đầu hỗn loạn. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê lập ra triều Mạc ở Thăng Long, Hà Nội. Họ Trịnh từ vùng Thanh Hoá, với danh nghĩa phò Lê, gây chiến với họ Mạc và năm 1592, chiếm được Thăng Long, đưa vua Lê trở lại ngai vàng nhưng nắm giữ mọi quyền hành. Nhà Mạc rút lên cố thủ ở Cao Bằng. Chiến tranh Trịnh – Mạc chưa chấm dứt thì các chúa Nguyễn lại nổi lên ở phía Nam sông Gianh (Quảng Bình). Các cuộc chiến tranh liên miên giữa hai nhà Trịnh – Nguyễn kéo dài từ 1662 đến 1772 đã làm cho dân chúng vô cùng khốn khổ, sinh mạng con người bị coi thường, người dân kiệt quệ vì sưu cao thuế nặng để chi phí cho súng đạn, vũ khí. Trong bối cảnh đó, đạo “Thiên Chúa” (Kitô giáo) được các thừa sai nước ngoài giới thiệu cho người dân Việt.
Giai đoạn dò dẫm đầu tiên
Từ cuối thế kỷ XVI, nhất là từ thế kỷ XVII, quan hệ ngoại thương của nước ta với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bản ở phương Đông phát triển. Các chúa Trịnh, Nguyễn muốn giao hảo với người nước ngoài để bán hàng hoá trong nước và nhất là để mua được nhiều súng đạn, tàu chiến. Trong khi đó, Giáo Hội Công giáo toàn cầu lại phát động công cuộc truyền giáo và gửi các nhà thừa sai đi khắp nơi, nhất là đến Ấn Độ và Trung Quốc như Thánh Phanxicô Xaviê (1541), cha Matteo Ricci. Nhiều vị thừa sai đi theo các đoàn tàu buôn đến truyền giáo tại các miền Á Châu và Viễn Đông, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những bước dò dẫm sơ khởi và không đạt được kết quả đáng kể.
Trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức từ năm 1856, quyển 33, phần chính biên, tờ 5-6, khi nói đến chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa (hay đạo Giatô, phiên âm từ Giêsu của chữ Hán), vào năm 1663 dưới triều vua Lê Huyền Tông, đã chú thích như sau: “Gia-tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân I-nê-khu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thuỷ chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô tả đạo truyền giáo”. Dịch nghĩa: “Đạo Gia-tô, theo bút ký của tư nhân, tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên I-Nê-Khu, lén đến truyền đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ” (thuộc tỉnh Nam Định, giáo phận Bùi Chu hiện nay. Vì thế, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 như khởi đầu cho đạo tại Việt Nam.
Năm 1550, linh mục Gaspar da Santa Cruz, O.P., đến giảng đạo tại Hà Tiên. Năm 1558, đời vua Lê Thế Tông, hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là Alonso da Costa và Gonsalves đến giảng đạo ở vùng Vạn Lại, thủ đô của Nam Triều. Tiếp theo là các linh mục dòng Đa Minh người Bồ Đào Nha khác như: Luís da Fonseca, Grégoire de la Motte đến truyền giáo ở Đàng Trong (1580) và bị vua Chiêm Thành hãm hại tại Quảng Nam. Năm 1583, các linh mục dòng Đa Minh từ Philippines đã đến truyền giáo như Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montilla tại An Quảng (Quảng Yên), Đàng Ngoài. Năm 1591 tại Thanh Hoá, linh mục Pedro Ordođez de Cevallos, người Tây Ban Nha, bị bão, đã đến An Trường, kinh đô nhà Lê lúc bấy giờ và rửa tội cho công chúa Mai Hoa (Maria Flora) cùng khoảng 100 người khác. Công chúa là chị của vua Lê Thế Tông. Hiện nay, ở làng Vạn Lại vẫn còn nền nhà thờ và giếng Giatô của công chúa (x. C. A. Poncet, La Princesse Marie, trong Bulletin des Amis du Vieux Hué, tháng 12-1941, tr. 351-358, Lê Triều Thượng Cổ truyền giáo, tr. 111).
Giai đoạn mở đạo chính thức
Tuy nhiên, những cố gắng của các nhà truyền giáo trên mới chỉ là những bước chân dọ dẫm chuẩn bị cho giai đoạn khai phá chính thức. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615-1665 với các vị thừa sai dòng Tên, ở cả hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền. Nhờ kinh nghiệm hội nhập văn hoá của linh mục Matteo Ricci (1582) ở Trung Quốc và Valignano ở Nhật Bản, các thừa sai quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục dân Việt và giảng đạo bằng tiếng Việt.
Công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong bắt đầu năm 1615 với linh mục (lm.) Francesco Buzomi, lm. Diego Carvalho và các trợ sĩ ở Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo là các lm. Francisco de Pina, Cristoforo Borri, nhất là Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ).
Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tráng đón tiếp giáo sĩ Giuliano Baldinotti, người Ý, nhưng việc truyền giảng Tin Mừng chỉ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp sau khi hai cha Pedro Marques (Bồ Đào Nha) và Đắc Lộ (người Pháp) cập bến Cửa Bạng, Thanh Hoá, ngày 19-3-1627. Các thừa sai biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện thơ văn bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ với sự trợ giúp của các thầy giảng có học thức như cụ Gioakim, sư cụ chùa Phao, sư cụ Manuel, cụ Nghè Giuse… Đáng kể nhất là các thừa sai Gaspar d’Amaral, António Barbosa, Girolamo Majorica (người Ý), đặc biệt là cha Đắc Lộ với tác phẩm chữ Quốc ngữ đầu tiên ấn hành ở Roma năm 1651: Phép Giảng Tám Ngày và Từ điển Việt-Bồ-La.
Trong giai đoạn này, chúng ta lưu ý đến sự phát triển của cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Kho tàng văn chương Hán Nôm Công giáo rất lớn. Chỉ riêng giáo sĩ Girolamo Majorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo. Hiện nay chỉ còn lại 15 cuốn, gồm 4.200 trang lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng trung bình có 30-34 chữ Nôm, tổng cộng là 1.400.000 chữ (x. Lm. Nguyễn Hưng, Sơ thảo Thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam, lưu hành nội bộ, 2000, tr. 23).
Còn chữ Quốc ngữ chúng ta đang dùng là chữ viết ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái La Tinh. Đây là thứ chữ được các linh mục dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như João Ruis, Gaspar Luis, Cristoforo Borri, Gaspar d’ Amaral, Alexandre de Rhodes với sự cộng tác âm thầm của nhiều người Việt như Igesico Văn Tín, Bento Thiện, đã sáng tạo ra trong những năm 1620-1659 (x. Đỗ Quang Chính, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972).
Nhờ các “Thầy Giảng” và “Câu Trùm” là những tông đồ giáo dân nhiệt thành, việc truyền giáo đã đạt được những kết quả ngoài sức tưởng tượng. Sau 37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài (25 linh mục và 5 trợ sĩ) và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong (39 linh mục và 1 trợ sĩ), các thừa sai dòng Tên đã rửa tội khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở Đàng Trong và 80.000 ở Đàng Ngoài; x. Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm, 1945–1995, Công giáo và Dân Tộc XB, 1996, tr. 86). Việc rao giảng Tin Mừng được vua chúa Việt Nam quy định rõ ràng trong một số nơi chốn với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín hữu gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo và có nơi đã phải đổ cả máu đào để làm chứng đức tin như thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng Nam ngày 26-7-1644.
3. THỜI KỲ HÌNH THÀNH (1659-1802)
Sau khi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645, cha Đắc Lộ về châu Âu tường trình cánh đồng truyền giáo chín vàng ở Việt Nam để kêu gọi có thêm thừa sai và giám mục sang Việt Nam. Ngày 9-9-1659, Đức Thánh Cha Alexander VII, qua Sắc chỉ Super Cathedram, quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận và chọn hai vị thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) làm Đại diện Tông toà. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, gồm cả phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp do Đức cha Pierre Lambert de la Motte cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc, bao gồm cả Lào và 5 tỉnh miền Nam Trung Quốc do Đức cha François Pallu coi sóc.
Đức cha Pallu đã nhiều lần muốn tới Đàng Ngoài để nhận nhiệm sở, nhưng bị cản trở nên đành nhờ Đức cha Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt cha François Deydier Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Đến năm 1679, Toà Thánh bổ nhiệm Đức cha Pallu làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc). Ngày 27-1-1684, Đức cha lên đường nhận nhiệm sở và 9 tháng sau, ngài qua đời tại đó. Năm 1669, Đức cha Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên). Đầu năm 1670, ngài truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (tỉnh Hà Tây, giáo phận Hà Nội).
Năm 1679, giáo phận Đàng Ngoài được chia thành hai: Tây và Đông, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới. Tây Đàng Ngoài do Đức cha Jacques de Bourges Gia, MEP (1679-1714) coi sóc. Đông Đàng Ngoài được trao cho Đức cha François Deydier Phan (MEP). Trong suốt hơn một thế kỷ, các giám mục Đại diện Tông toà kế tiếp nhau (7 vị ở Đàng Trong, 7 vị ở Tây Đàng Ngoài, 9 vị ở Đông Đàng Ngoài). Tất cả đã làm việc hết sức mình, trải qua nhiều gian khổ, để xây dựng Giáo Hội trong địa phương được giao phó cho mình. Chúng ta ghi nhận một số khó khăn chính của thời kỳ này.
Khó khăn trước hết là sự bất hoà giữa các thừa sai dòng Tên và các giám mục Đại diện Tông toà thuộc Hội Thừa sai Paris cũng như giữa các thừa sai thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Khó khăn thứ hai là tính cách bất hợp pháp của Công giáo do các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa. Nhiều vị thừa sai nước ngoài cũng như linh mục Việt Nam đã bị giết hại dưới thời các chúa Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm ở ngoài Bắc, cũng như thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn ở miền Trung. Hàng chục ngàn giáo dân đã bị giết chết chỉ vì muốn bảo vệ đức tin của mình. Trước tình cảnh đó, các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới, khiến cho sau này người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực (x. Nguyễn Văn Kiệm, Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, UBKHXH, Viện KHXH và Ban Tôn giáo của Chính phủ, 1988, tr. 29-42).
Sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh ở Thăng Long ngày 30-1-1789 và mất năm 1792, con là Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Mọi việc triều đình do các quan lại chuyên quyền nắm giữ, tướng tá thì ganh ghét xâu xé lẫn nhau, trong khi thế lực của chúa Nguyễn Phúc Ánh ngày một mạnh ở Gia Định. Ông là người biết tổ chức, chỉnh đốn lại xã hội về mọi lĩnh vực, không xâm phạm đến tín ngưỡng của dân chúng nên ông được người dân Nam bộ tin tưởng.
Đức cha Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông toà Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, lúc đó đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Ngài đã đưa hoàng tử Nguyễn Phước Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh. Ước nguyện của các vị thừa sai và của Đức cha Bá Đa Lộc là chỉ muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng, vừa có lợi cho Giáo Hội, vừa tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam. Đức cha đã nuôi dạy hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Năm 13 tuổi, hoàng tử được phong làm Nguyên Soái Quận Công, theo cha đi chinh chiến, lập nhiều chiến công. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến vua Gia Long rất bực tức. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con nuôi là hoàng tử Đảm sau này. Chính Đức cha cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế (x. Trần Đình Sơn, Vua Gia Long với quyết định chọn người kế vị, tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 81B, tháng 11-2000, tr. 26-27.34). Ước mơ của các thừa sai về một ông vua theo đạo Công giáo và cho người Công giáo được hoàn toàn tự do hành đạo như vua Constantinus ở đế quốc Roma vào năm 313 hoàn toàn tan biến với cái chết của Đức cha Bá Đa Lộc (9-10-1799) và của hoàng tử Cảnh (1801).
Tuy nhiên, dù chịu nhiều thử thách và bách hại vì đức tin, số tín hữu ở cả 3 giáo phận vẫn tăng lên không ngừng. Vào năm 1802, Giáo hội Việt Nam đã thành hình cơ cấâu tổ chức gồm 3 giáo phận với 121 linh mục Việt Nam, khoảng 320.000 tín hữu.
- Đàng Trong: 1 giám mục, 5 thừa sai, 15 linh mục, 60.000 giáo dân.
- Tây Đàng Ngoài: 1 giám mục, 5 thừa sai, 65 linh mục và 120.000 giáo dân.
- Đông Đàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 linh mục và 140.000 giáo dân (x. Eugène L. Louvet, Les Missions Catholiques au XIXè siècle, tr 207).
Như Giáo Hội toàn cầu được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu trên thập giá và phát triển theo từng giai đoạn với những cuộc bách hại, Giáo hội Việt Nam cũng đi lại những quãng đường gian khổ như thế trong lịch sử đời mình. Ôn lại lịch sử đó không phải là chúng ta muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn, những mối bất hoà, nhưng là để giúp nhau nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong mọi biến cố thăng trầm, tạo nên sự cảm thông giữa mọi thành phần dân tộc và xây dựng Giáo hội Việt Nam, theo đường hướng hiệp thông và đối thoại của Công đồng Vatican II đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhiều lần nhắc đến (x. Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 1,6,24-31).
Từ mầu nhiệm Nhập Thể...
Mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể đã dạy cho người tín hữu Việt Nam khám phá ra giá trị của bối cảnh lịch sử trong cuộc đời và sứ mạng của từng người cũng như của Giáo hội Việt Nam. Thật vậy, “nơi Đức Giêsu, người Nazareth, Thiên Chúa đã nhận lấy những yếu tố đặc thù của bản tính nhân loại, kể cả việc thuộc về một dân tộc nhất định và một xứ sở nhất định... Nét đặc thù vật lý của xứ sở và những yếu tố địa lý của miền đất ấy là điều không thể tách rời được với sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người” (ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 5). Trong tinh thần ấy, người tín hữu Việt Nam gắn bó với đất nước và dân tộc của mình.
Đất nước Việt Nam có dáng hình cong chữ S, thuộc khu vực Đông Nam Á, trong vùng khí hậu nhiệt đới. Lãnh thổ dài và hẹp mở rộng về phía Tây. Vùng hẹp nhất là tỉnh Quảng Bình, khoảng 50km, vùng rộng nhất tính từ ngã ba biên giới Việt – Lào – Trung đến Móng Cái, rộng trên 300km. Phía Bắc có các đồng bằng rộng lớn nằm dọc theo lưu vực sông Hồng, sông Lô và sông Chảy. Phía Nam có đồng bằng sông Cửu Long tạo nên vựa lúa lớn nhất cho cả nước. Miền Trung nằm giữa hai miền Bắc Nam, có dãy núi Trường Sơn ở phía Tây chạy dọc theo bờ biển với các con sông ngắn, tạo nên nhiều đồng bằng nhỏ hẹp về phía Đông. Phía Tây Nam là các cao nguyên rộng lớn với độ cao trên 1.000m, có lớp đất bazan màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp như cao su, trà, cà phê, ca cao.
Đất nước thân yêu này là chốn nương thân của nhiều dân tộc với những nền văn hoá khác nhau trong suốt dòng lịch sử: từ những người Việt cổ ở Bắc Bộ với nền văn hoá Sơn Vi cách đây khoảng 23.000 năm trước Công Nguyên (CN), văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn 10.000 năm trước CN, đến nền văn hoá Đông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ với hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn, có trang trí hoa văn, vào khoảng 2.700 năm trước CN. Các dân tộc sống thuận hoà với nhau trong quốc gia Văn Lang của các vua Hùng cho đến khi An Dương Vương Thục Phán lập nước Âu Lạc với thành Cổ Loa vào thế kỷ III (TCN). Trong khi đó, nhiều dân tộc ở Nam Trung bộ, từ Thừa Thiên đến lưu vực sông Đồng Nai, đã xây dựng thành nền văn hoá Sa Huỳnh. Họ có thể là tổ tiên của người Chăm, đã xây dựng thành vương quốc Champa sau này. Nền văn hoá Óc Eo ở miền cực Nam với vương quốc Phù Nam ở các tỉnh Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp (bây giờ) và nền văn hoá của người Khơ Me ở các tỉnh khác của đồng bằng Nam bộ trải rộng khắp vùng châu thổ sông Cửu Long. Tất cả các dân tộc ấy tạo thành cộng đồng người Việt hiện nay với 54 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc Kinh chiếm gần 90% tổng dân số cả nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước, tất cả các dân tộc ấy đã đổ biết bao công sức, mồ hôi, nước mắt trên mảnh đất quê hương để khai hoang, phục hoá, phá rừng làm rẫy, đắp đê chống lũ, ngăn mặn lấn biển… Chúng ta phải thành thật nhìn nhận rằng các dân tộc đều nhân danh giang sơn gấm vóc để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, hay nhân danh dân tộc mình để mở rộng biên cương. Cuối cùng, đất nước, núi sông vẫn còn đó, không phải dành riêng cho ai, nhưng cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên không giọt mồ hôi nào vì yêu thương đồng bào đổ xuống trên mặt đất này lại trở thành vô nghĩa, không giọt máu hồng nào vì chính nghĩa thấm vào lòng đất này lại không có giá trị vô song. Mọi sự đều được biến đổi trong Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Người đã đưa thần tính vô hạn, vĩnh hằng của Thiên Chúa vào trong thế giới vật chất hữu hạn, nhất thời của con người để biến đổi và thăng hoa tất cả trong cuộc Phục Sinh của Người.
... đến Giáo hội Việt Nam trong lòng dân tộc
Tin vào Đức Giêsu Kitô, người dân Việt Nam sẽ nhìn đất nước mình bằng một ánh mắt mới. Người dân Việt hôm nay, dù là người Kinh hay dân tộc thiểu số, sẽ nhìn nhau với ánh mắt đầy tin tưởng và hy vọng, bao dung và nhân ái, vì sự sống bất diệt trong mình được khởi đầu từ chính đất nước này. Thật vậy, những cây lúa, ngọn rau rút tinh hoa từ lòng đất nước đã ngấm bao mồ hôi, xương máu của cả người Việt, người Hoa lẫn người Chăm, người Khơ Me,... trong suốt dòng lịch sử đang nuôi sống tất cả… Do đó, ta có thể nói rằng, tất cả đều cùng chung một huyết thống, đều là anh em ruột thịt của nhau. Sự sống tự nhiên này, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, sẽ biến đổi thành sự sống siêu nhiên.
Những nét khác biệt của mỗi dân tộc trong dòng lịch sử chỉ biểu lộ những giới hạn của vật chất và con người. Chính Đức Giêsu Cứu Thế sẽ quy tụ và biến đổi mọi người để không còn là Kinh hay Hoa, Chăm hay Thượng, “Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Giêsu Kitô” (x. Gl 3,28). Điều này Chúa Thánh Thần đã thực hiện trong ngày Người hiện xuống để quy tụ tất cả những con người thuộc các ngôn ngữ khác nhau làm thành Giáo Hội của Đức Giêsu (x. Cv 2,1-12).
Từ hạt giống Tin Mừng được các thừa sai nước ngoài gieo vãi vào thế kỷ XVI, Giáo Hội Đức Kitô đã sinh những người con ở Việt Nam. Những người con ấy đã lớn lên, đã trưởng thành và rồi lại tiếp tục sinh ra những người con mới cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu Kitô để trở thành Giáo hội Mẹ Việt Nam. Giáo Hội ấy được thể hiện cách cụ thể trên mảnh đất quê hương hôm nay với hơn 80 triệu người dân Việt, trong đó có 5.667.428 tín hữu Công giáo gồm đủ các dân tộc. Giáo hội ở Việt Nam tính đến 31-12-2003 có: 2.518 giáo xứ thuộc 25 giáo phận và tổng giáo phận, với 42 giám mục và tổng giám mục, 2.460 linh mục triều, 467 linh mục dòng, 1.833 nam tu, 11.421 nữ tu, 1.419 chủng sinh và 52.513 giáo lý viên.
“Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước... Quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ...” (HĐGM VN, Thư Chung 1980, số 9). Người tín hữu Việt Nam luôn gắn bó với quê hương, dân tộc và liên kết sâu xa với Giáo hội Mẹ Việt Nam, vì chính người mẹ này đã sinh ra mình trong đức tin và biến đổi mình từ con người thành con Chúa.
Với tâm tình con cái, trong ít trang sau đây, chúng ta cùng ôn lại một vài đoạn đời của Mẹ từ lúc khai sinh, hình thành, cho đến khi phát triển, trưởng thành. Nhiều người đã từng kể lại đời Mẹ, kẻ ít người nhiều, điều đúng điều sai. Nhưng nếu không nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng, đời Mẹ vẫn chỉ là những biến cố rời rạc, những con số vô hồn, những năm tháng tủi nhục vô nghĩa, như nhìn những giọt nước rơi từ đôi mắt của một người xa lạ. Chỉ có những người con gần gũi thân thương mới hiểu được ý nghĩa và cảm nhận được niềm vui hay nỗi khổ từ những giọt nước mắt này. Trong tâm tình ấy, chúng tôi kể lại đời Mẹ, để mọi người cảm thông với chúng tôi và đồng cảm với Mẹ Giáo hội Việt Nam qua các thời kỳ:
- Khai sinh (1533 - 1659)
- Hình thành (1659 - 1802)
- Thử thách (1802 - 1885)
- Phát triển (1885 - 1960)
- Trưởng thành (1960 đến nay)
Chúng tôi chọn cách phân chia các thời kỳ như trên dựa theo mốc thời gian với những biến cố quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn lao của cơ cấu Giáo hội Việt Nam.
2. THỜI KỲ KHAI SINH (1533-1659)
Sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, triều đại Lê kéo dài hơn 350 năm (1428-1788) có lúc thịnh, lúc suy và đầy biến động. Trong thế kỷ XV, xã hội Việt Nam ổn định, nông nghiệp được phục hồi và phát triển, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và Phật giáo trở thành tôn giáo của dân gian. Sang thế kỷ XVI, nhà Lê suy yếu với các ông vua ham mê tửu sắc, triều đình thiếu người tài trí, xã hội bắt đầu hỗn loạn. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê lập ra triều Mạc ở Thăng Long, Hà Nội. Họ Trịnh từ vùng Thanh Hoá, với danh nghĩa phò Lê, gây chiến với họ Mạc và năm 1592, chiếm được Thăng Long, đưa vua Lê trở lại ngai vàng nhưng nắm giữ mọi quyền hành. Nhà Mạc rút lên cố thủ ở Cao Bằng. Chiến tranh Trịnh – Mạc chưa chấm dứt thì các chúa Nguyễn lại nổi lên ở phía Nam sông Gianh (Quảng Bình). Các cuộc chiến tranh liên miên giữa hai nhà Trịnh – Nguyễn kéo dài từ 1662 đến 1772 đã làm cho dân chúng vô cùng khốn khổ, sinh mạng con người bị coi thường, người dân kiệt quệ vì sưu cao thuế nặng để chi phí cho súng đạn, vũ khí. Trong bối cảnh đó, đạo “Thiên Chúa” (Kitô giáo) được các thừa sai nước ngoài giới thiệu cho người dân Việt.
Giai đoạn dò dẫm đầu tiên
Từ cuối thế kỷ XVI, nhất là từ thế kỷ XVII, quan hệ ngoại thương của nước ta với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bản ở phương Đông phát triển. Các chúa Trịnh, Nguyễn muốn giao hảo với người nước ngoài để bán hàng hoá trong nước và nhất là để mua được nhiều súng đạn, tàu chiến. Trong khi đó, Giáo Hội Công giáo toàn cầu lại phát động công cuộc truyền giáo và gửi các nhà thừa sai đi khắp nơi, nhất là đến Ấn Độ và Trung Quốc như Thánh Phanxicô Xaviê (1541), cha Matteo Ricci. Nhiều vị thừa sai đi theo các đoàn tàu buôn đến truyền giáo tại các miền Á Châu và Viễn Đông, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những bước dò dẫm sơ khởi và không đạt được kết quả đáng kể.
Trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức từ năm 1856, quyển 33, phần chính biên, tờ 5-6, khi nói đến chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa (hay đạo Giatô, phiên âm từ Giêsu của chữ Hán), vào năm 1663 dưới triều vua Lê Huyền Tông, đã chú thích như sau: “Gia-tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân I-nê-khu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thuỷ chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô tả đạo truyền giáo”. Dịch nghĩa: “Đạo Gia-tô, theo bút ký của tư nhân, tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên I-Nê-Khu, lén đến truyền đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ” (thuộc tỉnh Nam Định, giáo phận Bùi Chu hiện nay. Vì thế, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 như khởi đầu cho đạo tại Việt Nam.
Năm 1550, linh mục Gaspar da Santa Cruz, O.P., đến giảng đạo tại Hà Tiên. Năm 1558, đời vua Lê Thế Tông, hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là Alonso da Costa và Gonsalves đến giảng đạo ở vùng Vạn Lại, thủ đô của Nam Triều. Tiếp theo là các linh mục dòng Đa Minh người Bồ Đào Nha khác như: Luís da Fonseca, Grégoire de la Motte đến truyền giáo ở Đàng Trong (1580) và bị vua Chiêm Thành hãm hại tại Quảng Nam. Năm 1583, các linh mục dòng Đa Minh từ Philippines đã đến truyền giáo như Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montilla tại An Quảng (Quảng Yên), Đàng Ngoài. Năm 1591 tại Thanh Hoá, linh mục Pedro Ordođez de Cevallos, người Tây Ban Nha, bị bão, đã đến An Trường, kinh đô nhà Lê lúc bấy giờ và rửa tội cho công chúa Mai Hoa (Maria Flora) cùng khoảng 100 người khác. Công chúa là chị của vua Lê Thế Tông. Hiện nay, ở làng Vạn Lại vẫn còn nền nhà thờ và giếng Giatô của công chúa (x. C. A. Poncet, La Princesse Marie, trong Bulletin des Amis du Vieux Hué, tháng 12-1941, tr. 351-358, Lê Triều Thượng Cổ truyền giáo, tr. 111).
Giai đoạn mở đạo chính thức
Tuy nhiên, những cố gắng của các nhà truyền giáo trên mới chỉ là những bước chân dọ dẫm chuẩn bị cho giai đoạn khai phá chính thức. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615-1665 với các vị thừa sai dòng Tên, ở cả hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền. Nhờ kinh nghiệm hội nhập văn hoá của linh mục Matteo Ricci (1582) ở Trung Quốc và Valignano ở Nhật Bản, các thừa sai quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục dân Việt và giảng đạo bằng tiếng Việt.
Công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong bắt đầu năm 1615 với linh mục (lm.) Francesco Buzomi, lm. Diego Carvalho và các trợ sĩ ở Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo là các lm. Francisco de Pina, Cristoforo Borri, nhất là Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ).
Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tráng đón tiếp giáo sĩ Giuliano Baldinotti, người Ý, nhưng việc truyền giảng Tin Mừng chỉ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp sau khi hai cha Pedro Marques (Bồ Đào Nha) và Đắc Lộ (người Pháp) cập bến Cửa Bạng, Thanh Hoá, ngày 19-3-1627. Các thừa sai biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện thơ văn bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ với sự trợ giúp của các thầy giảng có học thức như cụ Gioakim, sư cụ chùa Phao, sư cụ Manuel, cụ Nghè Giuse… Đáng kể nhất là các thừa sai Gaspar d’Amaral, António Barbosa, Girolamo Majorica (người Ý), đặc biệt là cha Đắc Lộ với tác phẩm chữ Quốc ngữ đầu tiên ấn hành ở Roma năm 1651: Phép Giảng Tám Ngày và Từ điển Việt-Bồ-La.
Trong giai đoạn này, chúng ta lưu ý đến sự phát triển của cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Kho tàng văn chương Hán Nôm Công giáo rất lớn. Chỉ riêng giáo sĩ Girolamo Majorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo. Hiện nay chỉ còn lại 15 cuốn, gồm 4.200 trang lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng trung bình có 30-34 chữ Nôm, tổng cộng là 1.400.000 chữ (x. Lm. Nguyễn Hưng, Sơ thảo Thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam, lưu hành nội bộ, 2000, tr. 23).
Còn chữ Quốc ngữ chúng ta đang dùng là chữ viết ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái La Tinh. Đây là thứ chữ được các linh mục dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như João Ruis, Gaspar Luis, Cristoforo Borri, Gaspar d’ Amaral, Alexandre de Rhodes với sự cộng tác âm thầm của nhiều người Việt như Igesico Văn Tín, Bento Thiện, đã sáng tạo ra trong những năm 1620-1659 (x. Đỗ Quang Chính, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, 1620-1659, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972).
Nhờ các “Thầy Giảng” và “Câu Trùm” là những tông đồ giáo dân nhiệt thành, việc truyền giáo đã đạt được những kết quả ngoài sức tưởng tượng. Sau 37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài (25 linh mục và 5 trợ sĩ) và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong (39 linh mục và 1 trợ sĩ), các thừa sai dòng Tên đã rửa tội khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở Đàng Trong và 80.000 ở Đàng Ngoài; x. Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm, 1945–1995, Công giáo và Dân Tộc XB, 1996, tr. 86). Việc rao giảng Tin Mừng được vua chúa Việt Nam quy định rõ ràng trong một số nơi chốn với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín hữu gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo và có nơi đã phải đổ cả máu đào để làm chứng đức tin như thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng Nam ngày 26-7-1644.
3. THỜI KỲ HÌNH THÀNH (1659-1802)
Sau khi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645, cha Đắc Lộ về châu Âu tường trình cánh đồng truyền giáo chín vàng ở Việt Nam để kêu gọi có thêm thừa sai và giám mục sang Việt Nam. Ngày 9-9-1659, Đức Thánh Cha Alexander VII, qua Sắc chỉ Super Cathedram, quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận và chọn hai vị thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) làm Đại diện Tông toà. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, gồm cả phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp do Đức cha Pierre Lambert de la Motte cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc, bao gồm cả Lào và 5 tỉnh miền Nam Trung Quốc do Đức cha François Pallu coi sóc.
Đức cha Pallu đã nhiều lần muốn tới Đàng Ngoài để nhận nhiệm sở, nhưng bị cản trở nên đành nhờ Đức cha Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt cha François Deydier Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Đến năm 1679, Toà Thánh bổ nhiệm Đức cha Pallu làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc). Ngày 27-1-1684, Đức cha lên đường nhận nhiệm sở và 9 tháng sau, ngài qua đời tại đó. Năm 1669, Đức cha Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên). Đầu năm 1670, ngài truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (tỉnh Hà Tây, giáo phận Hà Nội).
Năm 1679, giáo phận Đàng Ngoài được chia thành hai: Tây và Đông, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới. Tây Đàng Ngoài do Đức cha Jacques de Bourges Gia, MEP (1679-1714) coi sóc. Đông Đàng Ngoài được trao cho Đức cha François Deydier Phan (MEP). Trong suốt hơn một thế kỷ, các giám mục Đại diện Tông toà kế tiếp nhau (7 vị ở Đàng Trong, 7 vị ở Tây Đàng Ngoài, 9 vị ở Đông Đàng Ngoài). Tất cả đã làm việc hết sức mình, trải qua nhiều gian khổ, để xây dựng Giáo Hội trong địa phương được giao phó cho mình. Chúng ta ghi nhận một số khó khăn chính của thời kỳ này.
Khó khăn trước hết là sự bất hoà giữa các thừa sai dòng Tên và các giám mục Đại diện Tông toà thuộc Hội Thừa sai Paris cũng như giữa các thừa sai thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Khó khăn thứ hai là tính cách bất hợp pháp của Công giáo do các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa. Nhiều vị thừa sai nước ngoài cũng như linh mục Việt Nam đã bị giết hại dưới thời các chúa Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm ở ngoài Bắc, cũng như thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn ở miền Trung. Hàng chục ngàn giáo dân đã bị giết chết chỉ vì muốn bảo vệ đức tin của mình. Trước tình cảnh đó, các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới, khiến cho sau này người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực (x. Nguyễn Văn Kiệm, Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, UBKHXH, Viện KHXH và Ban Tôn giáo của Chính phủ, 1988, tr. 29-42).
Sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh ở Thăng Long ngày 30-1-1789 và mất năm 1792, con là Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Mọi việc triều đình do các quan lại chuyên quyền nắm giữ, tướng tá thì ganh ghét xâu xé lẫn nhau, trong khi thế lực của chúa Nguyễn Phúc Ánh ngày một mạnh ở Gia Định. Ông là người biết tổ chức, chỉnh đốn lại xã hội về mọi lĩnh vực, không xâm phạm đến tín ngưỡng của dân chúng nên ông được người dân Nam bộ tin tưởng.
Đức cha Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông toà Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, lúc đó đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Ngài đã đưa hoàng tử Nguyễn Phước Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh. Ước nguyện của các vị thừa sai và của Đức cha Bá Đa Lộc là chỉ muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng, vừa có lợi cho Giáo Hội, vừa tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam. Đức cha đã nuôi dạy hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Năm 13 tuổi, hoàng tử được phong làm Nguyên Soái Quận Công, theo cha đi chinh chiến, lập nhiều chiến công. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến vua Gia Long rất bực tức. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con nuôi là hoàng tử Đảm sau này. Chính Đức cha cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế (x. Trần Đình Sơn, Vua Gia Long với quyết định chọn người kế vị, tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 81B, tháng 11-2000, tr. 26-27.34). Ước mơ của các thừa sai về một ông vua theo đạo Công giáo và cho người Công giáo được hoàn toàn tự do hành đạo như vua Constantinus ở đế quốc Roma vào năm 313 hoàn toàn tan biến với cái chết của Đức cha Bá Đa Lộc (9-10-1799) và của hoàng tử Cảnh (1801).
Tuy nhiên, dù chịu nhiều thử thách và bách hại vì đức tin, số tín hữu ở cả 3 giáo phận vẫn tăng lên không ngừng. Vào năm 1802, Giáo hội Việt Nam đã thành hình cơ cấâu tổ chức gồm 3 giáo phận với 121 linh mục Việt Nam, khoảng 320.000 tín hữu.
- Đàng Trong: 1 giám mục, 5 thừa sai, 15 linh mục, 60.000 giáo dân.
- Tây Đàng Ngoài: 1 giám mục, 5 thừa sai, 65 linh mục và 120.000 giáo dân.
- Đông Đàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 linh mục và 140.000 giáo dân (x. Eugène L. Louvet, Les Missions Catholiques au XIXè siècle, tr 207).