PDA

View Full Version : Những phương pháp sơ cứu cần biết.



Gia Nhân
03-03-2010, 05:09 PM
Những phương pháp sơ cứu cần biết.

***-***

Chuột rút

Trong thời tiết mùa hè nóng bức, đạp xe dưới nắng cơ thể mất nhiều nước và điện giải, nguy cơ bị chuột rút lớn.

Đó là sự co rút cơ vô thức gây đau xảy ra trong những bài tập quá nặng trong môi trường nóng. Uống không đủ nước làm tăng nguy cơ chuột rút. Nếu bị như vậy bạn phải làm thế nào?

Sau đây là vài điều sơ cứu khi có tình trạng đó xảy ra:

Nghỉ ngơi: một khi đã xảy ra chuột rút bạn không nên cố chơi tiếp mà phải nghỉ ngơi hoàn toàn.

Uống nước trái cây vắt sạch hoặc nước khoáng để cung cấp đầy đủ nước cho cơ thể

Thực hiện việc căng cơ trong tầm vận động nhẹ nhàng, xoa bóp nhẹ nhàng nhóm cơ bị co rút.

Việc căng cơ được thực hiện bằng cách căng từng nhóm cơ ví dụ chuột rút nhóm cơ vùng bắp chân bạn nên cho gập cổ chân về phía mặt lưng bàn chân từ từ. Tránh các động tác căng cơ đột ngột và quá sức sẽ gây co rút thêm cơ

Nếu không giảm sau 1 giờ nên gọi cấp cứu.





Sơ cứu nạn nhân bị trật khớp

Trật khớp có thể xảy ra ở bất kỳ khớp nào. Nếu nghi ngờ có trật khớp nên gọi ngay cấp cứu. Trong khi chờ đợi chở đi cấp cứu bạn có thể làm những việc sau đây:

- Đừng di chuyển khớp.

- Cố định tư thế mà khớp đang ở vị trí đó ví dụ trật khớp khuỷu, nạn nhân sẽ có tư thế khuỷu gấp. Bạn dùng một miếng vải hay cái áo cố định khuỷu vào thân người. Nói chung trật khớp vùng tay có thể cố định bằng cách cột tay vào thân người, dùng chính thân người làm vật cố định nâng đỡ cho tay.




Trật khớp cơ chân

Nếu là ở chân thì có thể cột hai chân lại với nhau, dùng chân lành làm nẹp cố định cho chân bị tai nạn

- Đừng cố gắng nắn khớp. Bạn có thể làm cho tình hình xấu đi nếu bạn không biết cách nắn.

- Chườm lạnh lên khớp bị trật nhằm tránh sưng phù. Không nhất thiết là phải chườm đá trực tiếp lên da mà nên chườm qua lớp băng hay áo mà bạn đang dùng để cố định chi bị trật khớp.

- Một số khớp bị trật có nguy cơ tổn thương mạch máu cao như khớp gối. Bạn nên hỏi thăm nạn nhân xem có bị lạnh chân, tê hay nhìn thấy chân tím hay không vì đây là những dấu hiệu báo hiệu tình trạng mạch máu có thể bị tổn thương.




Cấp cứu người bị ngất xỉu

Ngất xỉu là sự mất tỉnh táo trong chốc lát do lượng máu chảy đến não tạm thời bị giảm. Không giống như bị sốc, mạch đập rất chậm mặc dù chẳng bao lâu nó sẽ trở lại mức bình thường. Việc hồi phục diễn ra nhanh và hoàn toàn.

Ngất xỉu có thể là phản ứng khi bị đau hay sợ sệt hoặc do tức tối, kiệt sức và đói Tuy nhiên, nó thường xảy ra hơn sau một thời thời gian dài không hoạt động thể chất, đặc biệt là ở nơi nóng bức. Máu chảy xuống phần phía dưới cơ thể làm giảm lượng máu hiện có trong não.

Cách nhận biết:
Người bệnh tự nhiên thấy choáng váng, hoa mắt, chóng mặt, ù tai... rồi ngã lăn ra; có khi toát mồ hôi, da nhợt nhạt, chân tay lạnh mạch đập chậm.. Tuần hoàn và hô hấp ngừng hoặc rất yếu, huyết áp hạ, đồng tử giãn.
Những điều nên làm :
Tăng lượng máu chảy đến não.
Trấn an khi bệnh nhân tỉnh lại và làm bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, thoải mái.
Đặt bệnh nhân nằm xuống, nâng và đỡ chân bệnh nhân lên.
Bảo đảm cho bệnh nhân thở nhiều không khí trong lành; nếu cần thiết thì hãy mở cửa sổ ra.Sau khi đặt bệnh nhân nằm và nới lỏng quần áo, cần xoa bóp, kích thích lên cơ thể như giật tóc mai, tát vào má, đắp khăn ướt lên mặt, xoa bóp bằng cồn long não, cho ngửi amoniac, giấm...
Tìm xem bệnh nhân có còn bị thương tích nào do bị ngã gây ra không và điều trị cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không hồi tỉnh lại nhanh, hãy kiểm tra nhịp thở và mạch đập của bệnh nhân. Nếu bệnh nhẩn bắt đầu cảm thấy muốn ngất xỉu trở lại, hãy đặt đầu bệnh nhân giữa hai đầu gối họ và bảo họ hít sâu vào. Đồng thời gọi hân viên y tế để tiêm thuốc trợ tim. Nếu có điều kiện, cần châm cứu các huyệt nhân trung, thập tuyền. Trong trường hợp ngất nặng, ngoài cách xử trí như trên còn phải làm hô hấp nhân tạo hoặc thổi ngạt, ấn tim ngoài lồng ngực.

Một số bài thuốc Nam có thể đem lại hiệu quả trong việc chữa ngất:

- Gây hắt hơi: Quả bồ kết nướng giòn, tán mịn, thổi nhẹ vào 2 lỗ mũi; hoặc đốt bồ kết, thổi khói vào 2 lỗ mũi. Cũng có thể dùng lông gà ngoáy kích thích niêm mạc trong mũi để gây hắt hơi.

- Nếu chân tay lạnh, dùng gừng tươi 12 g, tỏi 4 g giã nhỏ, cho thêm 20 ml nước sôi, vắt lấy nước, lọc trong, sau đó cho thêm 5 ml rượu trắng, khuấy đều cho uống.




CHẾT ĐUỐI

Trong chết đuối, bệnh nhân bị ngạt cấp do nước tràn vào phế nang gây nên 2 rối loạn quan trọng: phù phổi cấp và thiếu oxy.

Xử trí
nhanh tại chỗ khi mới vớt ở nước lên: vác xốc nạn nhân lên vai, để bụng tỳ đúng vào vai, đầu dốc ngược xuống lưng người vác, chạy tại chỗ khoảng 20-30 bước cho nước ở dạ dày, phổi, đường khí đạo thoát ra, đồng thời cũng có tác dụng như làm hô hấp nhân tạo. Sau đó để nạn nhân nằm đầu thấp, móc sạch đờm rãi, thức ăn, dị vật... thật khẩn trương.

Nguyên tắc:
- Phải giữ thông đường thở

- Kiên nhẫn hồi sinh nạn nhân

- Nếu nạn nhân còn thở và tim còn đập nhưng bất tỉnh: cho thở oxy, thuốc trợ tim mạch, dùng khăn chà xát cho nóng người, tiêm kháng sinh đề phòng viêm phổi.

- Nếu ngừng thở nhưng tim còn đập:

Thổi ngạt
Ðặt nội khí quản và thở oxy bằng máy hô hấp hỗ trợ bảo đảm trên 10 lít/phút với nhịp đều khoảng 16-20 lần. Chú ý hút đờm rãi. Dùng thuốc trợ tim mạch và kháng sinh như trên.

- Nếu ngừng thở và ngừng tim: xem Ngừng tuần hoàn hô hấp

- Tiêm thẳng vào tim 1 ống Ouabain 1/4mg

Khi nạn nhân tỉnh: tiêm thuốc trợ tim, giãn phế quản

Giữ thăng bằng nước và điện giải. Chú ý theo dõi tăng gánh và phù phổi cấp. Nếu có toan chuyển hóa cho THAM hoặc dung dịch Bicarbonat.Cho kháng sinh phòng viêm phổi.



Cầm máu vết thương

Khi bị vết thương chảy máu, cần:

- Nâng cao phần bị thương lên

- Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngừng chảy,

- Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều máu:

* Cứ ấn chặt vào vết thương
* Giữ cho phần bị thương giơ cao lên, càng cao càng tốt
* Buộc ga rô tay hoặc chân càng gần chỗ vết thương càng tốt. Xiết chặt vừa đủ làm máu cầm lại. Buộc ga rô bằng một cái khǎn gấp lại hoặc dây lưng rộng, đừng bao giờ dùng một dây thừng mảnh, dây thép...
* Chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế.
Khi bị vết thương chảy máu, cần:

- Nâng cao phần bị thương lên

- Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngừng chảy,

- Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều máu:

* Cứ ấn chặt vào vết thương
* Giữ cho phần bị thương giơ cao lên, càng cao càng tốt
* Buộc ga rô tay hoặc chân càng gần chỗ vết thương càng tốt. Xiết chặt vừa đủ làm máu cầm lại. Buộc ga rô bằng một cái khǎn gấp lại hoặc dây lưng rộng, đừng bao giờ dùng một dây thừng mảnh, dây thép...
* Chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế.

Chú ý:
* Chỉ buộc ga rô ở chân hoặc tay nếu máu chảy nhiều và ấn chặt trực tiếp vào vết thương mà máu không thể cầm được,
* Cứ 30' lại nới lỏng dây ga rô một lát để xem còn cần buộc ga rô nữa hay không và để cho máu lưu thông.
* Nếu máu chảy nhiều hoặc bị thương nặng, để cao chân và đầu thấp để đề phòng sốc.




Cấp cứu tai nạn do sét đánh

Khi gặp trường hợp bị sét đánh, nếu nạn nhân vẫn tỉnh thì chỉ cần ủ ấm, cho uống 20 ml rượu và nước chè đường nóng; sau đó đưa đến cơ sở y tế gần nhất để tiêm dưới da cafein 0,25 g và long não 0,2 g với mục đích trợ tim, trợ lực.

Sét là những dòng điện rất mạnh ở khí quyển. Khi bị sét đánh, nạn nhân có thể chết ngay do ngừng tim, ngừng thở, hoặc bị lịm đi một thời gian, rồi nhức đầu, buồn ngủ, rối loạn nhịp tim và nhịp thở, chảy máu nội tạng... Nạn nhân bị bỏng tại chỗ, diện tích không rộng nhưng thường rất sâu độ sâu thường lớn và có hình ngoằn ngoèo.

Người bị sét đánh nếu mê man bất tỉnh nhưng còn thở, tim còn đập thì phải được kích thích bằng cách lay, gọi, giật tóc, vã nước vào mặt... Sau đó, phải tiêm dưới da cafein 0,25 g và long não 0,2 g.

Nếu nạn nhân ngừng tim, ngừng thở thì phải tiến hành ngay phương pháp thổi ngạt và bóp tim ngoài lồng ngực, làm kiên nhẫn, liên tục trong 2-3 giờ.

Trong mọi trường hợp đều phải băng vô khuẩn vết bỏng, khi nạn nhân hồi phục thì chuyển đến cơ sở y tế để điều trị tiếp.

Để đề phòng bị sét đánh, khi trời mưa có sét, không nên đứng ở điểm cao (như đỉnh đồi), không trú mưa ở dưới gốc cây to. Đối với nhà ở cao tầng, khi thiết kế xây dựng phải có cột thu lôi.




BỎNG

Tác nhân gây bỏng có nhiều loại:
- Bỏng do nhiệt thường gặp nhất, chia thành 2 nhóm: do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy...) và do nhiệt ướt (nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nước nóng...)

- Bỏng do dòng điện chia thành 2 nhóm: do luồng điện có hiệu điện thế thông dụng (<1000V) và do luồng điện có hiệu điện thế cao (>1000V). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có hiệu điện thế cao.

- Bỏng do hóa chất gồm các chất oxy hóa, chất khử oxy, chất gặm mòn, chất gây độc cho bào tương, chất làm khô, chất làm rộp da... Trong thực tế lâm sàng chia thành 2 nhóm: nhóm acid và nhóm chất kiềm. Bỏng do vôi tôi nóng là loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do chất kiềm.

- Bỏng do các bức xạ: tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Rơnghen, tia laser, hạt cơ bản b , g .

Lâm sàng:
- Viêm da cấp do bỏng (viêm vô khuẩn cấp): bỏng độ I.

- Bỏng biểu bì: bỏng độ II

- Bỏng trung bì thường gọi là bỏng trung gian, bỏng độ II sâu, bỏng độ III, bỏng độ IIIA, bỏng độ III nông.

- Bỏng toàn bộ lớp da còn gọi là bỏng độ III, IIIB, III sâu, bỏng độ IV). Hoại tử ướt, hoại tử khô.

- Bỏng sâu các lớp dưới da còn gọi là bỏng độ III, III sâu, độ IV sâu dưới lớp cân, độ IV, độ V, độ VI, độ VII.

Có nhiều cách tính diện tích bỏng, trong thực tế lâm sàng, để dễ nhớ, dễ tính, thường kết hợp các cách sau:

- Phương pháp con số 9: đầu mặt cổ 9%, 1 chi trên 9%, ngực bụng 18%, lưng 18%, 1 chi dưới 18%, bộ phận sinh dục và tầng sinh môn 1%.

- Phương pháp dùng bàn tay ướm (bàn tay người bị bỏng): tương ứng với 1% hoặc 1,25% diện tích cơ thể người đó.

- Phương pháp tính theo con số 1, 3, 6, 9, 18: diện tích khoảng 1%: gan bàn tay (hoặc mu), cổ, gáy, tầng sinh môn - sinh dục ngoài; diện tích khoảng 3%: bàn chân, da mặt, da đầu, cẳng tay, cánh tay, mông (một); diện tích khoảng 6%: cẳng chân, 2 mông; diện tích khoảng 9%: đùi, chi trên; diện tích khoảng 18%: chi dưới, lưng - mông, ngực - bụng.

Xử trí:
- Khi bị bỏng, cần tìm mọi cách để sớm loại trừ tác nhân gây bỏng (dập lửa, cắt cầu dao điện...). Ngay sau khi bị bỏng, ngâm vùng ngay vào nước lạnh (16-20oC hoặc dưới vòi nước chảy từ 20-30'. Nếu chậm ngâm lạnh, sẽ ít tác dụng. Nếu bỏng do hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa. Băng ép vừa phải các vết thương bỏng để hạn chế phù nề, thoát dịch huyết tương. Cho uống nước chè nóng, nước đường, Oresol..., thuốc giảm đau. ủ ấm nếu trời rét. Vận chuyển nhẹ nhàng, tránh va chạm gây thêm đau.

- Ðối với bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt: rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn và gửi đến chuyên khoa mắt.

- Cần chẩn đoán sớm diện bỏng và độ sâu của bỏng để xử trí phù hợp. Có thể dùng chỉ số Frank để tiên lượng bỏng: cứ 1% diện bỏng nông là 1 đơn vị, 1% diện bỏng sâu là 3 đơn vị. Khi chỉ số Frank từ 30-70 là sốc nhẹ, từ 70-100: sốc vừa, trên 110: sốc nặng và rất nặng. Ðối với trẻ em và người già dù diện bỏng không lớn (<10% diện tích cơ thể), vẫn có thể xuất hiện các rối loạn bệnh lý của bệnh bỏng. Với phụ nữ có thai cần theo dõi thai nhi, khám sản khoa và chuyển ngay đến chuyên khoa bỏng.

- Ðiều trị sốc bỏng ở bệnh viện cơ sở cần tiến hành ở buồng hồi sức cấp cứu. Phục hồi kịp thời và đủ khối lượng máu lưu hành hữu hiệu bằng cách truyền dịch theo đường tĩnh mạch (dịch keo, dịch điện giải, huyết thanh ngọt đẳng trương). Có thể dùng cách tính: dịch mặn đẳng trương 1ml x kg thể trọng x diện bỏng %; dịch keo 1ml x kg thể trọng x thể trọng x diện bỏng % và cộng với 2000ml dịch glucose 5%.

Cách tính thuận lợi cho ứng dụng lâm sàng: trong 24 giờ đầu lượng dich truyền chữa sốc bỏng không quá 10% thể trọng. Liều truyền trong 8 giờ đầu từ 1/2-1/3 liều, 16 giờ sau: 1/3-1/2 liều. Trong ngày thứ 2 và thứ 3 (nếu còn sốc), lượng dịch truyền chữa sốc bỏng không quá 5% thể trọng bệnh nhân (cho mỗi ngày).

- Nếu vô niệu, dùng thuốc lợi niệu lasix, manitol, nếu bị toan chuyển hóa, dùng dung dịch kiềm natri bicarbonat.

Sau khi thoát sốc, điều trị toàn thân, chống nhiễm độc bỏng cấp, dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn tại vết bỏng và toàn thân, nâng cao sức chống đỡ của cơ thể bằng truyền máu, dùng kháng sinh, nuôi dưỡng, dự phòng và điều trị các biến chứng.

- Tại vết bỏng: bỏng nông: dùng thuốc tạo màng (cao vỏ xoan trà, lá sim, sến, tràm, củ nâu...) sau khi làm vô khuẩn. Nếu bỏng sâu, từ tuần thứ 2 dùng thuốc rụng hoại tử, dung dịch kháng khuẩn, khi có mô hạt mổ ghép da các loại, dùng thêm băng sinh học, da nhân tạo nếu bỏng sâu, diện rộng. Với bỏng sâu, diện không lớn mà trạng thái cơ thể bệnh nhân tốt, có thể mổ cắt bỏ hoại tử và ghép da sớm ở các cơ sở chuyên khoa.

- Với các di chứng bỏng (sẹo xấu, sẹo dính, sẹo lồi, sẹo co kéo, loét lâu liền...) cần được điều trị sớm bằng phẫu thuật tạo hình để phục hồi chức năng và thẩm mỹ. Các sẹo bỏng nứt nẻ, loét nhiễm khuẩn kéo dài cần được mổ ghép da để tránh bị ung thư da trên nền sẹo bỏng.





Cách xử trí khi bị bỏng lửa và nước sôi

Bỏng nước sôi và bỏng lửa là một tai họa thường gặp. Khi bị bỏng diện rộng, nếu không được xử trí đúng thì nhiễm trùng vết bỏng sẽ là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Bỏng càng rộng và độ bỏng càng cao thì mức độ bệnh càng nặng.

- Người bệnh cần ngay lập tức nhúng phần cơ thể bị bỏng (thậm chí cả người) vào nước lạnh (chậu nước, bể nước sạch, vòi nước đang chảy...).

- Khẩn trương đưa đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí tiếp.

- Nếu là bỏng do nước sôi, không được cởi bỏ quần áo vì có thể dẫn tới việc lột da vùng bị bỏng và làm mức độ bỏng nặng thêm do bị thấm nhiệt qua lớp quần áo, tất... và dễ gây nhiễm trùng vết bỏng.

- Không bôi nước mắm, vôi, kem đánh răng... lên vết bỏng vì có thể làm nhiễm trùng.

- Không tự lột bỏ da trên vùng bị bỏng do có thể gây nhiễm trùng tại chỗ dẫn tới nhiễm trùng toàn thân.




RẮN CẮN

Các loại rắn hổ mang, rắn ráo... (loại Colubridae) có độc tố thần kinh. Chỗ rắn cắn không đau lắm nhưng chân tê bại, mệt mỏi cao độ, buồn ngủ, muốn ngất, nấc, nôn, tối loạn cơ tròn... Mạch yếu, huyết áp hạ, khó thở, hôn mê rồi tử vong sau 6 giờ.

Rắn lục (loại Vipéridae) có độc tố gây xuất huyết. Toàn chi bị rắn cắn đau dữ dội, da đỏ bầm, có những đám xuất huyết, chỗ bị rắn cắn phù (sau dễ bị hoại tử). Sau 30' đến 1h: nôn, ỉa lỏng, mạch nhanh nhỏ, huyết hạ, ngất.

Nếu bị rắn cắn sau 15-30' mà vết cắn không đau, không phù, chi bị cắn không tê bại thì không phải rắn độc cắn.

Xử trí:
- Ðặt garo trên chỗ rắn cắn: không thắt quá chặt, không để garô lâu quá 30'.

- Rạch nhẹ da ở vết rắn cắn, hút máu bằng ống giác..., rửa vết thương bằng dung dịch KMnO4 1%.

- Tiêm huyết thanh kháng nọc rắn đặc hiệu hoặc toàn năng (ống 5-10ml): 1 ống xung quanh chỗ rắn cắn, 1 ống dưới da ở đùi bị rắn cắn. Trường hợp nạn nhân đến muộn, tình trạng thật nguy kịch không thể trì hoãn được, có thể tiêm tĩnh mạch thất chậm 1 ống (thử phản ứng trước nếu xét thời gian cho phép).

Nếu không có huyết thanh kháng nọc rắn:

- Tiêm dưới da xung quanh vết rắn cắn dung dịch KMnO4 1% (vô trùng) 10ml.

- Truyền tĩnh mạch dung dịch NaCl 9%o: 1500-2000ml.

- Tiêm huyết thanh kháng uốn ván SAT 1500 đơn vị dưới da và anatoxin 2ml cũng tiêm dưới da, ở vị trí khác và bằng một bơm tiêm khác.

- Kháng sinh: penicillin, streptomycin...

- Trợ tim mạch: long não, coramin, uống nước chè nóng.

- Chống sốc và dị ứng: Depersolon 30mg x 1-2 ống tiêm tĩnh mạch.

- Nếu có tan huyết: truyền máu, vitamin C, Ca gluconat tiêm tĩnh mạch.

- Nếu ngạt: thở oxy, hô hấp hỗ trợ.

Nọc Colubridae giải phóng nhiều histamin trong cơ thể, phải chống dị ứng: tiêm pipolphen, promethazin...

- Nếu nạn nhân đau nhiều: cho thuốc giảm đau nhưng không dùng các loại opi vì có thể ức chế trung tâm hô hấp.

Xử trí ngay khi bị rắn độc cắn

Vài phút sau khi bị rắn độc cắn, vết thương đau nhức, sưng tấy, bầm tím; sau đó phù nề và chảy máu dưới da. Tình trạng này lan ra xung quanh vết cắn; nạn nhân bị nổi hạch khu vực.

Vài giờ sau, nạn nhân cảm thấy bồn chồn, mạch nhanh và không đều, khó thở, đồng tử co nhỏ, vã mồ hôi lạnh, nôn ra mật và máu, tê bại chân tay, mê man, có thể tử vong rất nhanh.

Khi bị rắn độc cắn, phải tiến hành cấp cứu ngay bằng cách buộc ga-rô tĩnh mạch phía trên vết cắn khoảng 3-4 cm. Chú ý ga-rô sao cho ngăn được máu tĩnh mạch chảy về tim nhưng không cản trở lưu thông máu động mạch, tức là vẫn bắt mạch được ở đoạn chi phía dưới. Nạn nhân cần được ủ ấm toàn thân, chườm lạnh chi bị rắn cắn, cho uống nhiều nước chè đường hoặc nước chanh, nước râu ngô. Cần nhanh chóng chuyển nạn nhân đến bệnh viện để được xử trí.

Có thể áp dụng một trong các bài thuốc y học cổ truyền sau để cấp cứu bước đầu:

- Nhai một nhúm nhỏ thuốc lào (khoảng 4-5 điếu), nuốt nước, lấy bã đắp vào vết rắn cắn. Trường hợp nạn nhân đã mê man, dùng 5-10 g thuốc lào hòa với nước rồi vắt lấy nước đổ từng thìa vào miệng.

- Lấy 1-2 rễ đu đủ đực, 2 lá trầu không và 1 thìa to giấm thanh. Cho tất cả vào miệng nhai kỹ, nuốt nước, bã đắp vào vết cắn.

- Lấy 2 lá trầu không, 2 g tỏi, 2 g gừng, 2 g vỏ quế và 1 g phèn chua nhai kỹ, nuốt nước, bã đắp vào vết cắn.

- Lấy lá sắn dây, lá rau ngót, lá phèn đen (mỗi thứ một nắm nhỏ) nhai kỹ, nuốt nước, bã đắp vào vết cắn. Có thể thay 3 loại lá trên bằng lá bồ cu vẽ.


Nguồn: http://forum.c4evn.org (http://forum.c4evn.org)