PDA

View Full Version : XỬ TRÍ SƠ CỨU ĐÚNG CÁCH MỘT SỐ TẠI NẠN NGUY HIỂM



Gia Nhân
11-03-2010, 10:05 PM
XỬ TRÍ SƠ CỨU ĐÚNG CÁCH MỘT SỐ TẠI NẠN NGUY HIỂM:

Ngạt nước - Hóc đường thở

Tác giả : BS. BẠCH VĂN CAM (Trưởng khối Hồi sức cấp cứu - BV. Nhi Đồng I)

http://www.ykhoanet.com/xahoi/images/289-13.jpg A. NGẠT NƯỚC

Ngạt nước là tình trạng nạn nhân bị ngạt do hít phải nước khi chìm trong nước, tuy nhiên có một số người bị ngạt do sự co thắt thanh quản.
Ngạt nước thường xảy ra ở 2 nhóm tuổi: Tuổi thiếu niên do tính thích mạo hiểm và tuổi mới biết đi do tính tò mò, hiếu kỳ mà không có sự giám sát của người lớn.
Nguyên nhân gây ngạt nước

Ngạt nước xảy ra do các tai nạn như:
- Trẻ nhỏ bị chìm trong các vật chứa nước như giếng nước, thùng nước, chậu nước, bồn tắm, bể cá...
- Trẻ không biết bơi bị rơi xuống ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Người biết bơi nhưng do bị kiệt sức, vọp bẻ, động kinh...
Sơ cứu đúng cách người bị ngạt nước

Sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn. Cần lưu ý là một người đã ngưng thở chỉ sống thêm được khoảng 5 phút, do vậy phải hành động thật nhanh và bằng mọi cách tiến hành hà hơi thổi ngạt ngay cho nạn nhân. Tốt nhất là phải cấp cứu thổi ngạt ngay khi vừa đưa đầu người bị nạn lên khỏi mặt nước, trước khi đưa vào bờ.
Cách sơ cứu đúng như sau:
- Nhanh chóng đưa người bị nạn ra khỏi mặt nước bằng cách đưa cánh tay, cây sào dài cho nạn nhân nắm, ném phao hoặc vớt người bị nạn lên.
- Đặt người bị nạn nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí.
- Nếu người bị nạn bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở hay không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực.
Nếu lồng ngực không di động tức là người bị nạn đã ngưng thở, đầu tiên hãy thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau khi thổi ngạt, người bị nạn vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như tim của nạn nhân đã ngưng đập (riêng nhân viên y tế xác định tình trạng ngưng tim của nạn nhân bằng cách bắt mạch cánh tay, mạch cổ hoặc mạch bẹn xem có đập không, nếu không bắt được mạch tức là tim đã ngưng đập), cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay.
Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi hoặc người lớn). Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế, cho đến khi người bị nạn tự thở lại được hoặc chắc chắn rằng người đó đã chết, việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.
Nếu lồng ngực còn di động tức người bị nạn còn tự thở được, hãy đặt nạn nhân ở tư thế an toàn, nghĩa là cho nằm nghiêng một bên để nếu người đó có nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi gây viêm phổi.
Những điều không nên làm trong sơ cứu người bị ngạt nước

Phần lớn người bị nạn tử vong hoặc bị di chứng não do thiếu oxy vì không được sơ cứu hay sơ cứu không đúng cách trước khi đưa đến cơ sở y tế. Do đó, cần tránh những cách xử trí không đúng sau đây:
- “Xốc nước”: Động tác dốc ngược để xốc nước là không cần thiết và không nên thực hiện vì thông thường nước vào phổi rất ít, chứ không phải vào đầy phổi như người ta thường nghĩ. Lượng nước rất ít này sẽ được tống xuất ra ngoài khi người bị nạn tự thở lại. Ngoài ra, việc xốc nước còn làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt và làm tăng nguy cơ hít sặc nước vào phổi.
- Không thực hiện việc thổi ngạt và ấn tim cho người bị nạn đang ngưng thở, ngưng tim tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trong lúc vận chuyển tới cơ sở y tế, hoặc có thực hiện nhưng không đúng cách như: dang 2 tay nạn nhân sang 2 bên rồi ép vào ngực để ấn tim mà không thổi ngạt, động tác sơ cứu này không nên thực hiện vì không hiệu quả.
Việc chậm trễ trong cấp cứu thổi ngạt - ấn tim làm cho não và các cơ quan bị thiếu oxy kéo dài, có thể gây chết tế bào não, dẫn đến tử vong hoặc di chứng não nặng nề.
- Hơ lửa hoặc “lăn lu” người bị nạn (để nạn nhân nằm vắt ngang qua lu rồi đốt lửa phía trong lu) vì nghĩ rằng sẽ giúp làm ấm người bị nạn, nhưng thực ra cách này sẽ làm nặng thêm tình trạng của nạn nhân vì họ có thể bị phỏng, và quan trọng nhất là làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt.
Phòng ngừa ngạt nước

- Không để trẻ nhỏ ở nhà một mình. Đậy kín các vật chứa nước như giếng nước, bồn tắm, thùng nước, chậu nước...
- Không cho trẻ chơi một mình gần ao, hồ, kênh, rạch, sông...
- Không cho bệnh nhân động kinh bơi.
- Dạy trẻ học bơi ngay từ khi còn bé, dặn dò trẻ không được bơi ở những nơi có dòng nước chảy nhanh và mạnh.


B. HÓC ĐƯỜNG THỞ

Hóc đường thở (dị vật đường thở) là từ để gọi một vật lạ rơi vào đường thở. Tai nạn thường xảy ra ở người cao tuổi suy kiệt, hôn mê, người lớn cười giỡn trong khi ăn hoặc ở trẻ em lúc bú bình hoặc cho ăn không đúng cách.
Nguyên nhân gây hóc đường thở

- Do sặc sữa, cháo, cơm.
- Do hít vào đường thở các vật nhỏ như hột đậu phộng, mãng cầu, sa-bô-chê...
Làm sao nhận biết một người đang bị hóc đường thở?

Khi một người đang khỏe mạnh, đột nhiên xuất hiện hội chứng xâm nhập gồm các dấu hiệu sau: ho sặc sụa, tím tái, khó thở.
Cần lưu ý là trẻ bị ngạt có thể tử vong trong vòng vài phút nếu không được sơ cứu và cấp cứu kịp thời. Do đó, người chăm sóc khi thấy trẻ đột ngột khó thở cần phải nghĩ ngay là trẻ bị ngạt do hóc đường thở, dù trước đó có nhìn thấy trẻ ngậm thứ gì trong miệng hay không.
Sơ cứu người bị hóc đường thở

- Nếu nạn nhân còn hồng hào, không khó thở: Nên đặt ở tư thế ngồi thở, giữ yên và đưa đến cơ sở y tế để khám và gắp dị vật ra.
- Nếu người bị nạn tím tái, không thở, không khóc hoặc khóc yếu. Nhanh chóng gọi cấp cứu và tiến hành các thủ thuật sau để giúp tống xuất dị vật ra khỏi đường thở.
Đối với trẻ dưới 2 tuổi: Dùng phương pháp vỗ lưng ấn ngực.
- Đặt trẻ nằm sấp, đầu thấp trên cánh tay trái, giữ chặt đầu và cổ trẻ bằng bàn tay trái.
- Dùng gót bàn tay phải vỗ 5 cái thật mạnh vào lưng trẻ ở khoảng giữa 2 bả vai.
- Sau đó lật ngửa trẻ sang phải, nếu thấy trẻ vẫn còn khó thở, dùng 2 ngón tay trái ấn mạnh 5 cái ở vùng nửa dưới xương ức hoặc dưới đường nối 2 vú một khoát ngón tay.
- Nếu dị vật vẫn chưa rơi ra ngoài, hãy lật người trẻ lại và tiếp tục vỗ lưng. Luân phiên vỗ lưng và ấn ngực (khoảng 5-6 lần) cho tới khi dị vật được tống ra khỏi đường thở.
Đối với trẻ lớn và người lớn: Dùng thủ thuật Heimlich
Trẻ còn tỉnh:
- Đứng sau lưng trẻ, vòng 2 tay ôm lấy thắt lưng trẻ.
- Nắm chặt bàn tay làm thành một quả đấm đặt ở vùng thượng vị, ngay dưới chóp xương ức, phía trên rốn.
- Ấn 5 cái dứt khoát theo hướng từ trước ra sau và từ dưới lên trên, mạnh và nhanh.
- Có thể lặp lại 6-10 lần ấn bụng cho tới khi dị vật được tống ra khỏi đường thở.
Trẻ hôn mê:
- Để trẻ nằm ngửa, quỳ xuống, dạng 2 chân cạnh đùi người bị nạn.
- Đặt gót lòng bàn tay lên vùng thượng vị dưới chóp xương ức, đặt tiếp bàn tay kia chồng lên bàn tay thứ nhất. Ấn 5 cái dứt khoát, mạnh và nhanh vào bụng theo hướng từ dưới lên trên.
- Có thể lặp lại 6-10 lần ấn bụng cho tới khi dị vật được tống ra khỏi đường thở.
Chú ý
Nếu người bị nạn ngưng thở, phải bắt đầu bằng thổi ngạt 2 cái chậm rồi xen kẽ thổi ngạt với thủ thuật Heimlich hay vỗ lưng ấn ngực, cho tới khi bệnh nhân thở lại được.
- Sau khi lấy được dị vật, vẫn nên đưa người bị nạn đến cơ sở y tế để kiểm tra.
Những điều không nên làm trong sơ cứu người bị hóc đường thở

- Không can thiệp nếu nạn nhân vẫn còn hồng hào, có thể ho, thở hay khóc được.
- Không cố móc lấy vật lạ ra nếu không nhìn thấy, vì có nhiều khả năng làm cho dị vật rơi vào đường thở sâu hơn.
Phòng ngừa hóc đường thở

- Không để các vật nhỏ như khuy áo, đồng xu, hạt trái cây, hạt đậu... nơi trẻ chơi và ngủ.
- Không cho trẻ nhỏ ăn đậu phộng, kẹo cứng hoặc thức ăn có xương.
- Luôn theo dõi khi cho trẻ ăn. Cắt hoặc xé thức ăn thành những miếng nhỏ.
- Không cười giỡn trong khi ăn.