PDA

View Full Version : Người Việt tới Tân Đảo (Nouvelle Calédonie)



Bố Già
03-05-2010, 03:03 PM
Người Việt tới Tân Đảo (Nouvelle Calédonie) (1)
VietCatholic News (21 Apr 2010 20:47)
KỶ NIỆM 40 NĂM NHÀ THỜ KITÔ VUA 1955 - 1995
Nouméa – Nouvelle Calédonie

Lời Phi Lộ

Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Nouméa kỷ niệm 40 năm thành lập họ giáo Kitô Vua, một kỷ-niệm rất hiếm có đối với người công giáo Việt-Nam tại Tân đảo. Hiếm có không phải vì chỉ có thể kỷ-niệm một lần duy nhất nhưng vì muốn cùng với các ông bà “chân đăng” còn lại đây để kỷ-niệm trong niềm vui và nhớ ơn các ông bà “chân đăng”.

(Photo NoumeaNhatho1) Nhân dịp này, tôi ghi lại những gì tôi đã được đọc qua trong các tài liệu, dù rất là giới hạn, những gì tôi đã thường nghe các ông bà “chân đăng”, các anh chị đã có trí khôn thời đó kể lại, những gì tôi đã sống như một nhân chứng. Đây không phải là một tập tài liệu để được nghiên cứu sau này nhưng là đời sống qúa khứ của những người công giáo Việt Nam tại Tân đảo.

Tôi cũng hy-vọng rằng, trong tương lai, những trang giấy này sẽ là những trang sử nhỏ, dù hãy còn thiếu sót rất nhiều, đã được viết ra bằng tiếng mẹ đẻ, dành cho con cháu Việt Nam tại Tân đảo nói riêng và cho lịch-sử người Việt Nam tại hải ngoại nói chung.

40 năm qua đi, ngày nay các ông bà để lại cho con cháu một kho tàng. Nhìn về tương lai, chúng ta để lại cho hậu thế một kho tàng gì ?

Người Việt Nam tới Tân Đảo

Vào khoảng thập niên 1880, đang trong lúc cần người làm việc trong các mỏ kền (nickel) trên đảo Nouvelle Calédonie (Tân Đảo hoặc Tân Thế Giới), người Pháp nghĩ tới những người từ Á Châu như người Trung Hoa, người Nhật, người Nam Dương và người Việt Nam.

Người Trung Hoa là những người đầu tiên tới Tân Đảo để làm việc trong các mỏ kền, rất có thể vào năm 1884. Sau đó tới phiên người Nhật vào đầu năm 1892, rồi tới phiên người Nam Dương vào khoảng năm 1895.

Ngày 12 tháng 3 năm 1891, con tàu mang tên Cheribon, sau một cuộc hành trình vừa lâu vừa khó khăn từ Hải Phòng tiến vào hải cảng Nouméa. Trên tầu là những người Việt Nam đầu tiên. Tất cả là 791 người, trong đó có chừng 50 phụ nữ. Trong số 791 người thì đại đa số là những người tù bị đi lưu đày, chỉ có 41 người là tự nguyện ghi tên đi làm, họ ký giấy làm việc trong một thời gian ấn định theo hợp đồng. Họ là những người “Chân Đăng” đầu tiên với một niềm hy-vọng có một nếp sống mới tốt đẹp hơn, trình độ cao hơn là ở quê nhà.

Tuy nhiên, thực tế thì hoàn toàn khác biệt, sự thật qúa phũ-phàng! “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”! Những người Việt Nam làm việc trong mỏ đều phải mang “số danh bộ” chứ không còn mang tên thật của mình và tất cả bị người Pháp ngược đãi như những kẻ nô lệ của họ. Tân Thế Giới hoặc Đất Hứa của họ đã trở thành nơi họ phải chịu đủ thứ cực hình. Những ông bà “chân đăng” hiện còn sống thường kể cho con cháu nghe những ngược đãi, những cực nhọc nhục nhã mà họ đã phải chịu thời đó để có được những gì ngày hôm nay con cháu họ hưởng. Ngày hôm nay con cháu hưởng không phải chỉ trên khía cạnh vật chất, mà là một kho tàng quí báu nhất của tổ tiên Việt Nam đó là sự can-đảm, kiên-trì, nhẫn-nại và luôn luôn nghĩ tới việc xây dựng tương lai cho con cháu.

Thời gian làm việc theo như hợp đồng là 5 năm. Lương trung bình họ trả cho đàn ông là 12 đồng một tháng và cho đàn bà 9 đồng. Theo như thống-kê thời đó thì số lương 12 đồng cao gấp 30 lần số lương một người có thể kiếm được tại quê nhà!

Tới khoảng năm 1895, luật lệ Pháp thay đổi và người Việt Nam bắt đầu tới Nouméa theo diện tự nguyện chứ không còn là những người tù bị lưu đày. Lương hàng tháng cũng bắt đầu được nâng cao hơn, năm 1900 mỗi người được trả 20 đồng một tháng.

Tới năm 1929, có thể nói đây là thời kỳ mà người Việt Nam sang làm việc đông nhất. Theo thống-kê của chính phủ thì con số người Việt lên tới hơn 6400. Với những biến chuyển của tình hình thế giới, con số người Việt trên đảo Nouvelle Calédonie lên xuống bất thường. Những người Việt trở về Việt Nam sau khi mãn nhiệm kỳ làm việc trong mỏ, số khác thì từ Việt-Nam ghi tên tự nguyện sang Nouméa đi làm.

Rồi tới năm 1942, thời Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ và sự liên lạc với Việt Nam cũng bị cắt đứt. Trong hoàn cảnh này, những gia đình “chân đăng” không thể trở về Việt Nam, đành phải ở lại tìm kế sinh nhai sau khi thời hạn làm việc trong mỏ đã mãn.

Người Việt Nam ta khôn ngoan, biết lợi dụng hoàn cảnh để khỏi lâm vào cảnh túng thiếu. Một thời cơ hiếm có để gây lợi cho số vốn đã tạo được bởi mồ hôi nước mắt bao nhiêu năm qua với những ngược đãi nhục nhã. Rất nhiều người đã bỏ vốn ra làm những món ăn bán cho những người lính Mỹ, những món ăn hấp dẫn như “nem”, chả giò, thịt heo kho đường... bắt đầu được bày bán đó đây. Cũng từ thời gian đó mà rất nhiều người Việt Nam đã làm ăn lên, gây lên được một số vốn để rồi từ đó bắt đầu làm ăn lớn hơn.

Tới năm 1945, tất cả những người Việt Nam “chân đăng” sang Nouméa, đã mãn hợp-đồng làm trong mỏ, chính phủ Pháp cho phép tự do ra lập nghiệp chứ không còn bị kềm kẹp bởi những luật lệ có tính cách kỳ thị chủng tộc như trước.

Sau khi luật pháp được công bố, người Việt Nam bắt đầu đi lập nghiệp đó đây, khắp đảo Nouvelle Calédonie, chỗ nào sống được và thấy có tương lai là người Việt Nam tới lập nghiệp. Một số nhỏ chọn vùng Bắc của đảo: vùng gần mỏ Tiébaghi, Chagrin, Paagoumène..., còn đại đa số là kéo nhau về Nouméa, việc gì làm được và hễ có tiền bỏ túi là người Việt Nam ta không bỏ qua! Thời gian trôi qua, sau Đệ Nhị Thế Chiến, rất nhiều người Việt Nam từ Tân Đảo và từ Vanuatu (Nouvelles Hébrides) yêu cầu chính phủ Pháp trả về Việt Nam. Lời yêu cầu của họ đã được chính phủ Pháp chấp nhận và chuyển họ về Việt Nam.

Tới năm 1954, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam lên nắm chính quyền ở miền Bắc sau khi nước Pháp thua trận Điện Biên Phủ (7-5-1954). Người Việt Nam sống trên đảo hầu hết đều hướng về Việt Nam vì lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam và họ đã bị lợi dụng bởi tình hình chính trị thời đó. Mặt khác, vì nước Pháp thua trận Điện Biên Phủ, nên người Pháp bắt đầu có khuynh hướng bài trừ người Việt Nam. Đa số người Pháp họp lại thành nhiều nhóm chống người Việt Nam và muốn đuổi người Việt Nam ra khỏi Tân Đảo! Trước thái độ thù hằn của người Pháp đối với người Việt Nam và cũng vì một phần nhiều người Việt Nam, sau nhiều năm xa quê hương, muốn trở về quê cha đất mẹ, nơi “chôn nhau cắt rốn” của họ.

Những người Việt Nam muốn trở về quê hương đã tranh đấu, chính phủ Pháp chấp nhận lời yêu cầu của họ.

Ngày 30-12-1960, chuyến tàu đầu tiên chở 550 người, đàn ông, đàn bà và trẻ em về Việt Nam.

Ngày 29-01-1961, chuyến tàu thứ hai chở 550 người về Việt Nam. Cuối tháng 2 năm 1961, chuyến tàu thứ ba rời Nouméa đưa 550 người nữa về Việt Nam.

Ngày 28-7-1963, chuyến tàu thứ bốn chở 66 người từ Nouméa và 490 người từ Vanuatu về Việt Nam.

Ngày 28-09-1963, chuyến tàu thứ năm chở 554; ngày 27-10-1963 chuyến tàu thứ sáu chở 549 người về Việt Nam.

Ngày 26-12-1963, chuyến tàu thứ bảy, tàu Eastern Queen, chở 187 người từ Nouméa và một số khác từ Vanuatu về Việt Nam.

Ngày 26-01-1964, chuyến tàu thứ tám với 545 người và ngày 24-02-1964 chuyến tàu thứ chín và sau đó một tháng là chuyến cuối cùng chở người Việt về Việt Nam. Những người trở về Việt Nam đã đưa lên tàu tất cả tài sản của họ đã gom góp được từ bấy lâu nay, nồi niêu soong chảo, cái gì có thể mang về được là đóng thùng đóng “két” mang đi cho bằng được; thậm chí có nguời còn đưa cả xe hơi, xe thùng (camionnette) về Việt Nam.

Số người Việt Nam tình nguyện ở lại Tân Đảo tất cả là 988 người, kể cả trẻ em, và đại đa số là Công giáo. Họ bắt đầu gây dựng lại cộng đồng người Việt Nam tại Tân Đảo và đã tham gia rất nhiều vào sự phát triển kinh tế của đảo Nouvelle Calédonie.

(còn tiếp)
LM. Phêrô Ngô Quang Qúy

Bố Già
03-05-2010, 03:09 PM
VietCatholic News (23 Apr 2010 14:56)
Cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Tân Đảo Nouvelle Calédonie (2)

Giữa những người Việt Nam làm trong mỏ, số tín hữu công giáo chỉ là thiểu số. Dù ít so với tổng số người Việt Nam bấy giờ, các tín hữu công giáo cũng tụ họp lại để sống đức-tin mà họ đã lãnh nhận được, dù là một đức-tin thô sơ. Nhưng thô-sơ mà bền vững vẫn hơn là phức-tạp, văn-minh mà lỏng-lẻo yếu ớt thì không khác gì một căn nhà được xây trên cát (Mt. 7,27).


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087ChristRoiNoumea.jpg

Lúc đó, chưa có linh mục Việt Nam tại Tân đảo. Theo như các hồ sơ Rửa-tội còn được lưu-trữ tại toà Tổng Giám Mục Nouméa, cách riêng cha Barbault SM, lúc đó là cha xứ ở Koumac và vùng Tiébaghi, cũng như một số các linh mục phục vụ tại vùng lân cận, tới dâng lễ, lo ban các phép bí-tích, nói chung là lo về đời sống thiêng liêng cho các tín hữu công giáo Việt Nam.

Sau này khi các người Việt Nam đã mãn nhiệm kỳ làm tại các mỏ, họ có thể tìm kế sinh nhai cách tự do, họ về Nouméa và vẫn tụ họp lại với nhau để sống đạo. Các tín hữu sống đạo không khác gì một đoàn chiên không chủ chăn.

Vào khoảng giữa năm 1953, cha Giuse Nguyễn Năng Vịnh, được Đức Giám Mục Địa phận Bùi-Chu, Bắc Việt-Nam, gửi qua Port-Vila, Vanuatu, để chăn dắt người công giáo Việt Nam bên đó. Trên đường đi Vanuatu, cha Vịnh phải đi qua Nouméa và phải ở lại một tuần vì nhu cầu phương tiện di chuyển thời đó.

Trong những ngày cha Vịnh ở Nouméa, ngài có một buổi họp với những người công giáo Việt-Nam và khi sang tới Port-Vila, ngài viết thư sang cho Đức Cha Bresson để cùng với anh chị em công giáo Việt-Nam tại Nouméa xin Đức Cha thương tình tìm kiếm một linh mục Việt-Nam qua Nouméa phục-vụ cho người công giáo Việt-Nam, (thư viết ngày 01-09-1953 từ Port-Vila).

Đức cha Bresson đã chấp nhận lời thỉnh cầu và Ngài đã xin được một linh mục Việt-Nam qua Nouméa.

Linh mục Giuse Nguyễn Duy Tôn (1955 – 1965)

Linh mục Giuse Maria Nguyễn Duy Tôn được Giám Mục địa phận của ngài tại Việt Nam cử sang chăn dắt người công Giáo Việt Nam tại Tân Đảo. Ngài tới phi trường Tontouta ngày 20 tháng 7 năm 1954 với nghĩa vụ là lo truyền giáo cho những người chưa biết, phục vụ những người đã biết và duy trì những gì đã theo.


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea1.jpg

LM.Giuse Maria Nguyễn Duy Tôn, Linh Mục Việt Nam đầu tiên của cộng đồng công giáo Việt Nam tại Tân Đảo đã thành lập họ đạo Kitô Vua (bên cạnh là Cha Vịnh)

Sau vài ngày nghỉ ngơi, ngài bắt tay vào việc, kêu gọi anh chị em trở lại đời sống công giáo cổ truyền mà ngài thấy đã bắt đầu phai nhạt.

Lúc đó Cha Giuse Tôn và anh chị em công giáo Việt Nam tụ họp tại nhà thờ Chính Toà Thánh Giuse, Nouméa, để dâng lễ và cử hành các bí-tích. Đời sống tôn giáo của người Việt-Nam bắt đầu trở nên sầm uất. Nghĩa Binh Thánh Thể, Thanh Niên Thiếu Nữ Công Giáo, các hội đoàn... được thành lập. Ngài cũng in ra nhiều sách kinh, sách hát bằng tiếng Việt, tiếng La-tinh và tiếng Wallis vì thời đó có nhiều người Wallis tới dự lễ tại nhà thờ Kitô Vua.

Việc đầu tiên của ngài là xây một ngôi nhà thờ cho người công giáo Việt Nam và đương nhiên là xây dựng cả một trung-tâm, gồm nhà xứ để cha xứ có chỗ ở và nhà hội. Ngài đã bàn hỏi với anh chị em công giáo Việt-Nam trong một phiên hội vào đầu thánh 10-1954, rồi ngày 12-10-1954, nhân dịp lễ kính thánh Edouard, thánh bổn mạng của Đức Giám Mục địa phận Nouméa, Đức Cha Edouard Bresson, cha Giuse Tôn cùng anh chị em giáo hữu kéo nhau lên Toà Giám Mục chúc mừng Ngài, đồng thời xin đất xây cất thánh đường cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam. “Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho...” (Mt. 7,7).

Đức Giám mục niềm nở đón nhận lời chúc mừng, cũng như lời thỉnh cầu hợp lý ấy, nên ba ngày sau tức 15-10-1954, Ngài truyền cho cha Clément, chưởng ấn của Địa phận, đưa cha Giuse Tôn đi xem đất nhiều nơi như trường học cũ của người Nam Dương tại Trianon, và ngôi nhà nguyện bỏ không của người Mỹ tại Anse Vata (mảnh đất Receiving bây giờ và hiện có CPS mới).

Ngay từ lúc đó, theo như lời cha Tôn, một câu hỏi cũng đã được đặt ra: đạo công giáo là đạo chung, nhà thờ nào chả được, cứ gì phải nhà thờ Việt-Nam ? Có một nhà thờ cho giáo hữu Việt-Nam, không phải vì đạo Công giáo Việt-Nam khác với đạo Công giáo Pháp, nhưng vì ngôn ngữ diễn tả lại những điều phải tin, những giới răn phải giữ... truyền đi từ nhà thờ người Pháp không thuận tiện cho người Việt Nam, nhất là những người “chân đăng” - lớp người đã nghe và bặp bẹ tiếng Việt-Nam ngay khi còn náu ẩn trong bào thai mẹ - lớp người sang tới Nouméa khi tai đã ù, lưỡi đã cứng, chỉ còn có thể đọc được tiếng “mỏ nhá” thay cho tiếng “moyen”, “xảy ế” (ça y est), “mi-nhông” (camion), “bồng vỏ giát” (bon voyage)...

Hơn nữa, đối với người Việt-Nam Công giáo thời đó, một Chúa Nhật không có Thánh Lễ thì ngày Chúa Nhật đó không có hồn, không có gì gọi là vui vẻ hớn hở sau một tuần làm việc nặng nhọc. Rồi đi dự lễ tại nhà thờ Pháp thì không hấp thụ được gì vì bất đồng ngôn ngữ, không hiểu bài giảng và không hiểu những mục rao lúc cuối lễ! Thực là một sự chán nản cho người Công giáo Việt-Nam, (Jean Vanmai).

Vì ngôn ngữ, vì văn hoá, vì tình đồng bào, vì là Công giáo Việt-Nam nên có một nhà thờ cho người Việt Nam vẫn tốt hơn là cảnh đoàn chiên không chủ chăn.

Trong gần hai tháng tìm đất, mọi người hầu như ngã lòng! Rồi đùng một cái, một ngày kia, cha Tôn được Đức Giám mục mời lên, tỏ ý nhường cho cộng đồng công giáo Việt Nam một khu đất tại đường 2 ème Vallée du Tir, nhưng với điều kiện là phải điều đình với cha Paul Bichon, bấy giờ là cha xứ của xứ Bon Pasteur, người làm chủ đất ấy và chính quyền tỉnh Nouméa. Lý do phải điều đình với hai khía cạnh đó là vì khu đất ấy (tức là khu đất hiện tại của chúng ta bây giờ) chính phủ đã nhường cho nhà thờ Bon Pasteur để xây một thánh đường kính thánh Pierre Chanel, vị Tử đạo đầu tiên tại Thái Bình Dương, thuộc Dòng Mariste (Đức Mẹ Maria).

Sau một thời gian quây quần bên nhau tại nhà thờ Chính Toà Nouméa để sống đạo, cha Tôn và toàn cộng đồng công giáo Việt-Nam chuyển về “nhờ” nhà thờ Bon Pasteur vì có rất nhiều người công giáo Việt-Nam làm việc tại lò nấu Nikel, và một số đông người ở Vallée du Tir. Nhà thờ Bon Pasteur lúc đó tọa lạc trên mảnh đất gần trường học Marie Jeanne Vouchey bây giờ. Từ thời điểm đó, ý định xây nhà thờ cho người Việt Nam tại Vallée du Tir nẩy mầm.

Cuộc gặp gỡ giữa ba cha: cha Clément, cha Tôn và cha Bichon, cũng không có gì gọi là cản trở lớn nhưng lại rất hóc búa về phía chính quyền, vì chính quyền Pháp hướng về phần đời nhiều hơn là phần đạo. Sau những ngày đi lại bàn bạc với chính quyền tại Nouméa, thì ngày 02-12-1954, chính quyền Nouméa chấp nhận.

Thế là bước đầu, và cũng có thể nói bước khó khăn nhất đã trải qua.

Cha Giuse Tôn đã áp dụng cách triệt để câu ca-dao:

“Làm nhà phải cất liền tay,

Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha”.

Và việc xây cất nhà thờ được bắt đầu ngay kẻo nguội! Ngày 19-12-1954, người ta bỡ ngỡ khi nhìn thấy người Việt lũ lượt tiến về phía đường 2 ème Vallée du Tir. Trên một mảnh đất, người ta thấy kẻ đào người xới, kẻ vác người khuân, chen lẫn tiếng hát vang trời của các em nhỏ, không phải là đào một mỏ gì gì đó mà là ai nấy đang vui vẻ hớn hở bắt tay vào việc xây nhà thờ.

Tưởng cũng nên nói qua về miếng đất hiện tại của họ giáo Kitô Vua chúng ta. Miếng đất này trước kia là một nghĩa trang. Hiện giờ, bên vệ đường, phía bên phải tượng thánh Giuse, gần sát tường của hội trường, còn một vài di-tích của nghĩa trang cũ. Vì xưa kia là một nghĩa trang nên đất thường hay bị lún theo thời gian, do đó chúng ta thấy bức tường của nhà thờ hiện tại đang bị nứt.


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea2.jpg

Khu nhà xứ Tân Việt Kitô Vua, 2ème Vallée du Tir, Nouméa, khởi công xây cất ngày 19-12-1954


Cuộc xây cất nhà thờ do cha Giuse Tôn khởi xướng được tiến hành mau lẹ và đều hòa. Và ngày 10-04-1955 Đức Giám Mục Địa Phận về làm phép.


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea3.jpg

Nhà thờ được hoàn thành và Đức Giám Mục về làm phép ngày 10-4-1955


Tuy nhiên cũng có một sự bất mãn nảy ra nơi các cha Dòng Mariste vì nhà thờ dành cho người công giáo Việt Nam qúa gần nhà thờ Bon Pasteur, Vallée du Tir. Cha Lemaire Bề Trên Tỉnh Dòng Mariste có mặt trong buổi lễ làm phép nhà thờ nói: “Tôi mà đến sớm, nhất định không có ngày hôm nay...”. Rồi tờ báo La Raison chỉ trích: “Từ nay phải gọi đường 2 ème Vallée du Tir là 2 ème vallée des églises”.

Nhà thờ bắt đầu mở cửa, thì nhà xứ và hội trường cũng bắt đầu khởi công. Hai ngôi nhà này cũng bắt đầu mở cửa vào cuối tháng 12 năm 1955. Lúc đó, nhà thờ chỉ được dựng lên bằng gỗ vì điều kiện: nhà thờ này được duy trì bảo tồn cho tới khi nào bị hư hỏng hoàn toàn và người Việt Nam sẽ không còn phép xây nhà thờ nào khác thay cho nhà thờ gỗ này. Đồng thời, hội trường lúc đó cũng được dựng lên bằng gỗ, duy chỉ có nhà xứ là được xây bằng xi-măng vững chắc như chúng ta thấy ngày hôm nay.


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea4.jpg

Cha Giuse Nguyễn Duy Tôn và các em nghĩa binh của họ giáo Kitô Vua

Trung tâm Công Giáo Việt Nam coi như là đã tạm có một nền móng vững chắc với ba ngôi nhà quan trọng nhất: nhà thờ, nhà xứ và nhà hội. Tuy nhiên, đối với sự hăng say của cha Tôn trong việc mở mang Nước Trời và rao giảng Tin Mừng, trung tâm còn thiếu một yếu tố quan trọng khác, đó là khía cạnh trí-dục để phát triển văn-hoá Việt Nam.

Ngày 20-03-1956, cha Tôn đệ đơn lên chính phủ xin mở trường học nhưng bị bác bỏ.

Cha Tôn không nản chí, ngài cố gắng tìm cách duy trì tiếng Việt Nam. Ngày 04-06-1956, ngài lại xin ra một nguyệt-san bằng tiếng Việt, dưới nhan đề: “Đường Hạnh Phúc”, nhưng cũng bị từ chối!


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea5.jpg

Họ giáo Kitô Vua với tháng Hoa Đức Mẹ hàng năm


Quyết không nản chí, ngài tự viết ra những trang huấn luyện không tên, khi thì đề cập tới vấn đề này, lúc thì đề cập tới vấn đề kia... Ngài làm như vậy với mục đích là để nâng cao văn-hóa và phong-hoá trong cộng đồng người Việt Nam. Toàn nội-dung của những trang đó ra sao thì không được rõ nhưng ngài “mới ra được 5 số, thì bị bọn người nặng đầu óc báo rượu lậu xuyên tạc và tố giác, ngài đành phải bỏ!”

Năm 1958, một phái đoàn Việt Nam về Saigon dự lễ Quốc-khánh. Phái đoàn được chính phủ Saigon tiếp đón nồng hậu và phái đoàn cũng nhân dịp đó xin giúp mở trường học Việt ngữ bên Nouméa. Mọi người đều mong đợi ngày khai trương trường học Việt ngữ, nhưng có lẽ vì hoàn cảnh với nhiều éo-le, dự-án mở trường học Việt ngữ không thành công.

Cha Tôn không thể đứng dậm chân tại chỗ mãi được. Ngài bèn quay qua khía cạnh rất quan trọng khác. Đó là thể dục hầu tạo nên những cơ hội giải trí cho thể xác được lành mạnh, từ đó tâm hồn mới được thoải mái, nếp sống đạo mới vui tươi hơn, trung tâm sẽ sầm-uất hơn...

Sân vận động thánh Giuse

Vì khu đất nhà xứ qúa nhỏ, các em không có chỗ chơi. Trong các trẻ em đến nhà thờ đọc kinh chiều, có nhiều đứa ngứa chân qúa, vớ lấy qủa bóng đá ngang đá dọc và hậu qủa là tường nhà thờ bị thủng lỗ, kính cửa nhà thờ bị vỡ! Đương nhiên các anh hùng tí hon ngứa chân đó bị quở phạt, và đôi khi, dù không xin, còn được hưởng vài cái bợp tai nảy đom đóm!

Trước cảnh đó, cha Tôn phải suy nghĩ và cố tìm ra một giải pháp. Bên cạnh nhà thờ có một mảnh đất nhỏ, tạm chơi bóng chuyền được. Nhưng bóng chuyền thì chỉ có thể chơi được một số người, còn những trẻ lún-phún thì vẫn thất nghiệp!

Sau một thời gian suy nghĩ, cha Tôn bèn liên lạc với cha Paul Bichon, cha xứ của nhà thờ Bon Pasteur, để điều đình xin cho các em có thể chơi trên miếng đất nhỏ nằm ngay dưới nhà thờ Kitô Vua. Cha Paul Bichon chấp thuận và chính cha Bichon đi vào sở nikel xin giúp đỡ người Việt một tay để miếng đất đó trở thành sân chơi cho trẻ em.

Thế là các trẻ lún-phún đã có chỗ chơi, bây giờ đến lượt đội túc cầu của họ giáo! Lo cho các nhóm nhí xong thì phải lo cho các anh chị dài tay dài cẳng hơn. Họ mang trong người một khí huyết hăng-nồng, nhựa sống tràn-ngập, nếu không có chỗ cho họ khuây khoả, giải trí, thì rất có hại cho đời sống đạo-đức và tinh-thần của họ.

Và Chúa đã an bài cho cộng đồng công giáo Việt Nam. Ngày 6-6-1962, cha Tôn được hai ông bà ngoan đạo kia đến mách cho ngài là có một miếng đất khá lớn tại Dumbéa và có thể mua và biến mảnh đất đó thành sân vận động, có chỗ giải trí cho mọi người dù hơi xa đối với Nouméa. Sau mấy tháng suy nghĩ, qua ba phiên họp và bàn cãi tới bàn cãi lui. Sau cùng, một giải quyết được chấp nhận: một người trong công đồng Công Giáo Việt Nam đứng tên mua để biến nó thành “sân vận động” theo như dự án. Miếng đất lớn 2 hectares 12 ares, ngay cạnh suối Dumbea. Các thủ tục giấy tờ xong đâu vào đó là vào tháng 10 năm 1962.

Ngày 1-1-1963, tất cả cộng đồng công giáo Việt Nam vào “sân vân động” mổ bò ăn mừng, dù hãy còn là rừng xanh.

Sau ngày ăn mừng, mọi người đều bắt tay vào việc để có “sân vận động”. Cha Tôn, trước khi đi dưỡng bệnh tại Úc, đã cố gắng kêu gọi mọi người hăng say bắt tay vào việc dù ai đó có đến phá hoặc gièm-pha. Mọi người, nam phụ lão ấu, đều hăng say làm việc tùy theo khả năng của mỗi người, kẻ thì trồng chuối, kẻ thì lo làm hàng rào, kẻ thì lo phát cỏ, vun cây... Người công giáo Việt-Nam nói riêng và cộng đồng Việt-Nam nói chung, vì cũng có nhiều anh chị em không công giáo cũng phụ giúp làm việc chung vì tình thân hữu, đã đổ ra bao nhiêu là mồ hôi nước mắt, công lao để gây dựng lên “sân vận động”.

Ngày 1-5-1963, ngày kính thánh Giuse Thợ và cũng là ngày Quốc-tế Lao-động, “Sân vận động” được khai-trương rất là linh đình, được bắt đầu bởi hai ban: “khánh tiết” (lo việc trang hoàng lễ nghi...) và ban “ám sát” (giết gà mổ lợn và lo về thực phẩm). Thánh lễ trọng thể đã được dâng lần đầu tiên tại “sân vận động” và đã chọn thánh Giuse làm quan thầy, vì vậy chúng ta mới có tên là sân vận động thánh Giuse. Sau thánh lễ là ăn uống vui chơi khai trương sân vận động.

Vì mang tên Giuse, nên cha Tôn và mọi người nghĩ là cần phải có tượng thánh Giuse tại sân vận động. Một quyết định đã được đưa ra: xây một đài và trên đó đặt tượng thánh Giuse để muôn thủa đây là di-tích của người Việt-Nam tại Tân Đảo với bao nhiêu là khó nhọc đã phải gánh vác. Ngày 18-05-1963 là ngày khởi công xây đài thánh Giuse. Những ai đã tham dự việc xây đài thì còn nhớ những thùng nước, những hòn đá bự nệ-khệ bưng từ dòng suối Dumbéa lên tới bờ là 10 mét, rồi tới chỗ xây đài là 120 mét !!! Đài được xây cao và có tượng thánh Giuse bằng đồng cao 1m40 uy nghi trên đài.

Đài được xây lên rất là vững chắc để in dấu người Việt-Nam trên xứ này, với hy-vọng lưu danh muôn thủa: “Cọp chết để da, ta chết để tiếng”. Trong giữa đài có một chai thủy tinh và trong chai đó cha Tôn có viết lại bằng tiếng Pháp những biến cố lịch sử của người Việt Nam tại Tân đảo.


http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea6.jpg

Sân Vận Động Thánh Giuse, Dumbéa, ban văn-nghệ mừng ngày khánh thành


Sân vận động và đài thánh Giuse được chính thức khánh thành ngày 1-5-1964. Thực là một đại lễ cho người Việt Nam công giáo nói riêng và cho tất cả người Việt Nam tại Tân đảo nói chung. Đức Cha Pierre Martin tới dâng lễ, khánh thành sân vận động và làm phép đài thánh Giuse.

Theo như lời cha Tôn viết lại, “Sân vận động Giuse” và đồ đạc tại đó thuộc về quyền sở hữu của Việt kiều Công giáo, nhưng dùng để làm nơi giải trí, gặp gỡ giữa Nam Bắc... là của chung mọi người. Thực vậy, riêng với người Việt-Nam công giáo, sân vận động suối Dumbéa còn là nơi bày tỏ Đức tin, nếu chúng ta nhìn lại cái tên bất hủ: “Sân vận động thánh Giuse”, với pho tượng bằng đồng uy nghi trên đài. Hằng năm, cứ đến ngày 19-3- và ngày 1-5, giáo dân xứ Tân Việt Kitô Vua tụ họp tại đó để mừng kính Thánh Cả Giuse.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea6a.jpgKhánh thành Sân Vận Động Thánh Giuse

Nhưng than ôi, ngày mổ bò ăn mừng ngày 1-1-1963 cũng là ngày mở đầu cho một biến cố đau thương đang đợi mọi người vì lòng bất trung của con người. Cũng vì lòng bất trung của loài người mà Chúa Giêsu đã phải chết nhục nhã trên thập gía. Trong Thánh Kinh, từ trang đầu tới trang cuối, Thiên Chúa luôn luôn nhắc nhở loài người hai chữ trung-thành. Trung-thành trong khoảng khắc thì hầu như ai cũng có thể chứng minh ý chí của họ nhưng trung-thành trường-kỳ mới là quan trọng và khó khăn. Tại sao ? Thưa: vì phải trải qua nhiều thử thách và sự thử thách lớn nhất lại chính là lòng hay thay đổi của con người !

Thời gian qua đi, và bất thình lình, một ngày kia, “Sân vận động Giuse” đã bị bán và người bán (cũng là chủ đất trên giấy tờ hồi mua đất) đã bán cho một nhóm đạo rối (Missions Adventistes de France). Đất đã bán đi thì tất cả những gì trên mảnh đất đó không còn thuộc về mình nữa. Mồ hôi nước mắt của người Việt Nam đã đổ ra trên mảnh đất đó cũng coi như là bị bán đứng. Di tích của người Việt Nam mà cha Tôn nghĩ là có thể tồn tại được nay cũng không còn huống hồ là đài và tượng thánh Giuse.

Vì than tiếc và vì nghĩ lại di tích của qúa khứ, ban Chấp Hành Giáo xứ Kitô Vua, năm 1987, đã phải mua lại tượng thánh Giuse dù tượng thánh Giuse là của mình và phải làm giấy tờ notaire đàng hoàng.

Ngày 06-7-1987, ngày đau đớn cho cộng đồng công giáo Việt Nam tại Nouméa.

Sáng ngày 6-7-1987, cha Quý, ban Chấp Hành Giáo Xứ và một số giáo dân vào sân vận động Giuse với các máy móc và xe cần cẩu để rỡ đài và đưa tượng thánh Giuse về nhà thờ Kitô Vua. Sau khi đưa tượng thánh Giuse xuống thì tìm thấy cái chai thủy tinh trắng mà cha Tôn đã chôn trong đài với một gói giấy trắng nhỏ nằm trong cái chai và đã được đập ra trước mặt mọi người, cha Quý mở gói giấy nhỏ đó ra thì vỏn vẹn chỉ có hai trang giấy cha Tôn viết qua lại đời sống của ngài trên Tân đảo, qua về lịch sử người Việt Nam công giáo tại Nouméa và công cuộc gây dựng lên sân vận động Giuse, cũng như việc xây đài.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea9.jpgCần cẩu đang đưa tượng thánh Giuse xuống để đưa về họ giáo Kitô Vua.

Ngày 5-5-1963, đài thánh Giuse được xây lên. Sau 24 năm, tức ngày 6-7-1987 đài thánh Giuse bị phá vỡ trong nước mắt ! Tượng thánh Giuse đã không còn chỗ đứng, phải tìm một nơi nào đó cho xứng đáng. Sau cùng, ban Chấp Hành đã xây lại đài và đặt tượng thánh Giuse trên đài hiện giờ tại ngay sân của nhà thờ họ giáo Kitô Vua. Đài mới và tượng thánh Giuse được đức Tổng Giám Mục Michel Calvet làm phép ngày 1-5-1988.

Sau một thời kỳ cha Giuse Nguyễn Duy Tôn dưỡng bịnh tại Paita (Sanatorium và tại trung tâm thánh Têrêsa, nhà các thầy Dòng Maristes), tháng 11 năm 1967, cha Giuse Nguyễn Duy Tôn về Việt Nam dưỡng bịnh và qua đời tại Saigon, cuối tháng 5 năm 1975.

Cha Giuse Nguyễn Duy Tôn đã để lại trong tâm hồn người công giáo Việt Nam tại Tân đảo một hình ảnh: người thợ không biết mệt xây dựng lên họ giáo Kitô Vua tại Tân đảo và cũng nhờ ngài mà một số người Việt Nam tại Nouméa hiểu “thiên đàng trần thế” là gì. Những ai đã lớn lên và sống đạo “thời cha Tôn” thì không bao giờ quên công ơn ngài.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea11.jpgCác em nghĩa binh đi rước với cha Giuse Tôn quanh nhà thờ

Trong thời gian phục vụ cho người công giáo Việt Nam tại tân đảo, cha Giuse Nguyễn Duy Tôn đã thành công hai khía cạnh « Đức Dục » và « Thể Dục », như người ta thường nói: sinh ra ở đời phải phát triển ba khía cạnh: đức dục, trí dục và thể dục.

Về đức dục, ngài đã gây dựng lên họ giáo Kitô Vua mà năm nay chúng ta kỷ niệm 40 năm. Cha Giuse Tôn đã họa theo lời của Đức Giám mục Fénélon (Pháp): “Người thiếu đức dục tức là người thiếu tư cách làm người”.

Do đó, làm người phải có đức. Người không có đức coi thường tư cách làm người nơi mình, đồng thời cũng coi nhẹ tư cách làm người của kẻ khác.

Về thể dục thì ngài đã tạo nên được sân vận động Giuse. Tuy thể dục không quan hệ cho tư cách làm người, nhưng chính thể dục đã nâng đỡ và đề cao tư cách làm người. Thiếu thể dục nâng đỡ, đời sống tinh thần vật chất con người sẽ bị suy giảm, nếu không phải là sụp đổ. “Một linh hồn lành mạnh trong một thân thể cường tráng” là một câu Phúc-âm của đời sống và sự tiến bộ của con người.

Riêng về khía cạnh trí dục, thì cha Giuse Tôn không thành công vì ngài có xin phép mở trường học nhưng chính phủ không cho phép vì hoàn cảnh thời đó. Mặt khác, ngài cũng không thành công nhiều về vấn đề tạo dựng đoàn kết giữa những người công giáo Việt Nam trong một công đồng.

Các vị Chủ tịch Hội Đồng Mục-Vụ thời cha Giuse Nguyễn Duy Tôn:

Ông Chu văn Ngọc

Ông Lai văn Châu

Ông Tống mạnh Quang

Ông Lã đình Hảo

Ông Phạm văn Thục

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea12.jpg
Một nhóm anh em trong ban Thanh Niên Công Giáo Kitô Vua


Linh mục Dominicô Đinh Công Uẩn (1966 – 1975)

Năm 1966, cha Đinh Công Uẩn từ Saigon sang Nouméa thay thế cha Giuse Nguyễn Duy Tôn phục vụ cộng đồng công giáo Việt Nam. Đời sống đạo của cộng đồng vẫn tiếp tục với các hội đoàn đã được thành lập thời cha Giuse Tôn.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea14.jpgCha Dominicô Uẩn đang đọc Lời Chúa trong nhà thờ Kitô Vua

Cơ sở đã có sẵn nhưng bảo trì là một sự cần thiết. Năm 1967, nhà hội bị mục nát. Thấy cần phải tiếp tục duy-trì, cha Giuse Uẩn đã kêu gọi các tín hữu để cùng nhau sửa chữa lại nhà hội để có nơi hội-họp, nơi ăn tiệc, có chỗ tổ chức văn nghệ khang trang hơn. Sau những cuộc bàn tính, cha Uẩn và Ban Chấp Hành đã quyết định xây lại nhà hội mà chúng ta hiện có bây giờ, ngoại trừ sân khấu vừa mới được sửa chữa lại để mừng kỷ niệm 40 năm thành lập họ giáo Kitô Vua.

Cha Giuse Đinh Công Uẩn sống giữa các tín hữu và phục vụ cộng đồng Kitô Vua cho tới thánh 9 năm 1975 thì ngài hết nhiệm kỳ và ngài rời Nouméa.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea15.jpgCa đoàn tí-hon thời cha Dominicô Đinh Công Uẩn

Sau khi cha Đôminicô Uẩn rời Nouméa, cộng đồng công giáo Việt Nam Kitô Vua không có linh mục Việt Nam hướng dẫn. May thay, lúc đó có một số linh mục thuộc Hội Thừa Sai Ba-lê (MEP) vừa mới bị chính quyền cộng sản Việt Nam trục xuất ra khỏi Việt-Nam, tới Nouméa. Lợi dụng dịp này, Đức Tổng Giám Mục Eugène Klein cử cha Denys Cuenot (Hội thừa sai MEP) tới giúp đỡ cộng đồng công giáo Việt Nam vì ngài nói được tiếng Việt Nam.

Các vị Chủ tịch Hội Đồng Mục-Vụ thời cha Dominicô Đinh Công Uẩn:

Ông Phạm văn Đề (1965-1967)

Ông Tạ văn Cạnh (1967-1970)

Ông Nguyễn văn Dần (1970-1973)

Ông Phạm văn Tóan (1973-1975)

Linh mục Lucas Phạm Quốc Sử (1976 – 1984)

Vào đầu năm 1976, cha Lucas Phạm Quốc Sử từ Rôma tới Nouméa và được Đức Tổng Giám Mục Eugène Klein đặt làm linh mục quản nhiệm của cộng đồng công giáo Việt-Nam.

Với sự hiện của một linh-mục Việt-Nam, các tín hữu thấy phấn khởi hơn vì cùng ngôn ngữ, cùng chủng tộc nên dễ hiểu nhau hơn.

Đến với người công giáo Việt Nam tại Nouméa, cha Lucas Sử lo tiếp tục giúp các em học giáo lý và cố gắng mở lớp dậy tiếng Việt. Tiếp vào với các lớp học giáo lý, ngài tổ chức những lễ cho các em Rước Lễ lần đầu và bí-tích Thêm Sức có Đức Tổng Giám Mục Nouméa về. Đời sống cộng đồng cũng rất sầm-uất.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea16.jpgLM.Lucas Phạm Quốc Sử từ Rôma tới với cộng đồng Công Giáo Việt Nam.

Nhà thờ họ giáo Kitô Vua lúc đó đã bắt đầu xiêu vẹo, nước mưa chẳng nể vì, cứ tự nhiên chảy vào như là chỗ không người ! Cha Lucas Sử đã nghĩ ngay đến việc tu-sửa lại nhà thờ.

Sửa chữa lại hay xây lại nhà thờ ? Theo như Địa Phận đã ấn định thì khi nào nhà thờ Kitô Vua của người Công giáo Việt Nam đổ nát sẽ không có nhà thờ nào khác được xây lên !

Thế nhưng các tín hữu và cha quản nhiệm Lucas Sử đã thuyết phục được Đức Tổng Giám Mục Địa-phận và nhà thờ cũ phá đi, nhà thờ mới được xây lên.

Nhà thờ mới được xây lên ngay vào chỗ nhà thờ cũ nhưng rộng hơn và Đức Cha Klein, Tổng Giám Mục Địa phận về đặt viên đá đầu tiên. Mọi người vui vẻ góp công góp của, bắt tay vào việc xây nhà thờ.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea19.jpgNhà thờ Kitô Vua được xây lại, Đức Tổng Giám Mục Nouméa Eugène KLEIN làm phép và đặt viên đá đầu tiên

Ngày vui đã đến, ngày 22-4-1978, ngôi nhà thờ mới của người công giáo Việt-Nam được khánh thành trọng thể. Thế là từ đó, người công giáo Việt Nam có một nhà thờ vững chắc chứ không còn là tạm thời như trước.

Ngày 22-4-1978, ngày khánh thành nhà thờ mới

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea20.jpgTrong những năm đầu, Cha Lucas Sử còn tổ chức những đại lễ Rước Lễ lần đầu và bí-tích Thêm Sức nhưng vì các xứ đạo tại Nouméa muốn tụ họp tất cả các em về xứ chính của các em để học giáo lý và chịu các phép bí-tích, hơn nữa các em đều thông thạo Pháp ngữ, thậm chí nói tiếng Pháp còn thạo hơn tiếng mẹ đẻ. Điều này cũng có phần “lỗ vốn” cho cộng đồng công giáo Việt-Nam vì như vậy đời sống cộng đồng bớt sầm-uất và loan báo cho một tương lai bấp bênh.

Khoảng tháng 8 năm 1984 thì cha quản nhiệm Lucas Phạm Quốc Sử rời Nouméa. Nhà thờ Việt Nam không còn linh mục làm lễ cho giáo dân. Các cha người Pháp thay phiên nhau tới làm lễ; trên bàn thờ cha đọc tiếng Pháp, ở dưới giáo dân thưa bằng tiếng Việt. Mọi tổ chức trong cộng đồng thì do Hội Đồng Mục Vụ gánh vác.

Các vị Chủ tịch Hội Đồng Mục-Vụ từ thời cha Lucas Phạm Quốc Sử cho tới ngày nay:

Ông Phạm văn Hòa (1975-1981)

Ông Nguyễn văn Dần (1981-1984)

Ông Phạm văn Hòa (1984-1985)

Ông Nguyễn văn Phiến (1985-1987)

Ông Vũ đình Ất (1988.. ... )

Trong thời gian này, một vài thầy Dòng De La Salle được phép Bề Trên Dòng tới giúp đỡ họ giáo Kitô Vua. Dòng De La Salle cũng đã góp công rất nhiều cho sự sống còn của họ giáo Kitô Vua.

Tình thế cứ kéo dài như vậy cho tới đầu tháng 8 năm 1985 thì cứ chiều Chúa Nhật và các ngày lễ trọng thì LM. Phêrô Ngô Quang Qúy về dâng lễ cho cộng đồng.

Tới đầu năm 1987, Đức Tổng Giám Mục Michel Calvet cử cha Pierre Jeanningros (MEP) về phục vụ cho cộng đồng công giáo Việt Nam. Cha Pierre Jeanningros biết nói tiếng Việt vì trước kia ngài phục vụ tại Việt Nam lâu năm. Ngài sang Tân đảo để phục vụ cho Địa-phận. Tới lúc ngài thấy cần phải về hưu vì cao niên thì chính là lúc cộng đồng công giáo Việt Nam cần một linh mục để hướng dẫn cộng đồng.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea21.jpgCha Pierre Jeaningros về phục-vụ cộng đồng Kitô Vua

Đời sống đạo của cộng đồng được tiếp tục với cha Pierre Jeanningros và ngài phục vụ cho cộng đồng 3 năm.

Ngày 14-5-1991, vì tuổi già và vì sức khoẻ, ngài xin rời cộng đồng và về hưu dưỡng tại Pháp, với gia đình của ngài.

Cha Pierre Jeanningros ra đi, cha Qúy từ Paita lại trở về dâng lễ cho cộng đồng vào các ngày Chúa-nhật và lễ trọng. Trước đó một thời gian, cha Giuse Ngô Duy Linh từ Hoa-kỳ sang thăm thân nhân tại Nouméa, thấy hoàn cảnh thiếu linh mục Việt Nam hướng dẫn cộng đồng, ngài đã suy nghĩ tìm cách giúp họ giáo Kitô Vua.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea22.jpgLM.Giuse Ngô Duy Linh

Ngày 1-6-1991, cha Giuse Ngô Duy Linh, dù rất nhiều việc vì ngài là một nhạc sĩ nổi tiếng của Giáo Hội việt Nam, đã quyết định sang Nouméa phục vụ cho cộng đồng công Giáo Việt Nam.

Ngày 20-7-1992, cha Giuse Linh rời Nouméa trở về Hoa-kỳ sau một năm sống giữa người Việt Nam tại Nouméa. Trong thời gian ngài phục vụ cho họ giáo Kitô Vua, ngài đã nỗ-lực, với hết khả năng của ngài, làm cho đời sống tinh thần của các tín hữu sống động hơn. Các ngày lễ Chúa-nhật, giáo dân đi lễ đông hơn, đời sống bắt đầu sầm uất hơn mặc dù không thể so sánh với qúa khứ vì các vị “chân đăng” đã từ từ ra đi về với Chúa.

Cha Giuse Linh ra đi, họ giáo Kitô Vua lại vắng bóng linh mục Việt Nam. Cha Qúy cứ lật đật từ Paita chạy tới lui với người Việt Nam. Trong lúc đó thì Đức Ông Philippe Trần Văn Hoài, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt làm chủ tịch văn phòng Phối Kết Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam Hải Ngoại từ Rôma sang thăm cộng đồng công giáo Kitô Vua. Mọi người đều xin Đức Ông giúp tìm cho một linh mục Việt Nam tới với họ giáo Kitô Vua.

Một điểm quan trọng là nếu không có sự hiện của một linh mục Việt Nam tại họ giáo Kitô Vua, nhà thờ Việt Nam còn tồn tại được bao lâu nữa? Cùng với vị chủ chăn, các tín hữu cố gắng duy-trì nhà thờ họ giáo. Hơn nữa, nhà thờ Kitô Vua là di-tích lịch-sử đức-tin đầu tiên của người công giáo Việt Nam tại Tân đảo. Nếu nhà thờ Kitô Vua này không còn đứng vững thì cộng đồng công giáo Việt-Nam cũng dễ bị tan-rã và dễ trở thành mồi cho sói rừng! Do đó, mọi tín hữu công giáo Việt Nam, dù sinh trưởng tại Nouméa hoặc mới tới, đều phải có bổn phận gìn-giữ ngôi nhà thờ Kitô Vua.

Sau một thời gian ngắn, Đức Ông Philippe Trần Văn Hoài viết thư giới thiệu cha Stanislas Phạm Quí Hoà mà Đức Ông gặp trong trại tỵ-nạn ở Palawan, Philippines.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea23.jpgLM Stanislas Phạm Qúi Hòa

Sau khi làm tất cả các thủ-tục thường-trú, cha Stanislas Phạm Quí Hoà tới Nouméa ngày 20-1-1993 và từ đó ngài sống giữa cộng đồng và phục vụ cho cộng đồng công giáo Việt Nam cho tới ngày hôm nay.

Một biến cố quan trọng tại họ giáo Kitô Vua là Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nhân dịp Tổng Giáo Phận Nouméa kỷ niệm 150 năm Thánh Lễ đầu tiên được cử hành trên Tân đảo, từ Roma tới thăm cộng đồng công giáo Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên cộng đồng công giáo Việt Nam tại Nouméa đón tiếp một vị Giám Mục Việt Nam. Ngài tới và tạo nên một niềm vui cho mọi người. Với đức-tin, với niềm hy-vọng của ngài, ngài đã hâm nóng tình yêu thương giữa người với người, hâm nóng đức-tin giữa các tín hữu với Thiên Chúa.

http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea24.jpgĐTGM. Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận tới Nouméa ngày 18-5-1994

Năm nay, 1995, họ giáo Kitô Vua kỷ niệm 40 năm được thành lập. Họ giáo Kitô Vua đã trải qua bao nhiêu là thăng-trầm, bao nhiêu là khó khăn từ bên ngoài đưa tới, hoặc ngay từ giữa cộng đoàn nẩy sinh ! Trước những thử thách lớn lao, nhất là trong gần mười năm qua, toàn Ban Hội Đồng Mục Vụ đã hết sức nỗ lực lèo-lái tình thế để cộng đồng luôn đứng vững và nếp sống đạo được tiếp tục.

Thiên Chúa đã soi-sáng và nâng đỡ các tín hữu, ngôi nhà thờ vẫn còn đó, mọi người vui vẻ gặp nhau tại nhà thờ để cùng nhau dâng lễ.

Bây giờ một câu hỏi được đặt ra: “Phải làm gì để tiếp tục gìn giữ ngôi nhà thờ Kitô Vua của chúng ta?” Ai cũng có thể trả lời cách nhanh chóng: “Tự ta, bằng mọi cách, cố gắng giữ lấy”, nhưng thực-thi câu trả lời của mình mới thấy là khó.

“Một cây làm chẳng lên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

Một vài người cố gắng thì kết qủa sẽ không được tốt đẹp, nhưng nhiều người cùng cố gắng thì nhà thờ Kitô Vua của người công giáo Việt-Nam sẽ còn tồn tại lâu dài hơn, thế hệ mai sau sẽ hoan nghênh những nỗ-lực, hy-sinh của tổ tiên.

Lạy Chúa, xin hãy luôn nâng đỡ chúng con trong tình thương của Chúa. Xin kết hợp chúng con nên một để duy trì kho báu mà Chúa đã dành riêng cho người Việt chúng con.

LM Phêrô Ngô Quang Qúy



Tài liệu tham khảo:

* Le Mémorial Calédonien, Vol. 6. PP.159-190

* Lão Làng (1974), JM. Nguyễn Duy Tôn, trang 84

* Sân Vận Động Thánh Giuse (1963), JM.Nguyễn Duy Tôn

* Tài liệu trong chai thủy tinh đã được chôn trong đài thánh Giuse tại Sân Vận Động

* Hồ-sơ tại Tòa Tổng Giám Mục Nouméa gồm các thư từ và sổ Rửa-tội

* Những lời thuật lại của các ông bà “chân đăng”

* Centenaire de la présence viêtnamienne en Nouvelle Calédonie 1891-1991, Jean Vanmai, Ctrdp

* Bulletin “Aí Hữu Việt Nam”, Nouvelle Calédonie, Centenaire 1891-1991.

* Les Vietnamiens en Nouvelle Calédonie. Aí Hữu Việt Nam, Spécial Souvenir, 4-10-1986.

Lm. Phêrô Ngô Quang Qúy

Bố Già
03-05-2010, 03:11 PM
http://vietcatholic.net/pics/1068d6ca16e3b087Noumea13.jpg

LM.Giuse Maria Nguyễn Duy Tôn và LM.Dominicô Đinh công Uẩn

Cộng Đồng CGVN Kitô Vua tại Nouméa (Nouvelle Caledonia) mừng Kim Thánh (1955-2005) (3)
VietCatholic News (24 Apr 2010 19:23)
Dù rất nhỏ bé, ngọn cỏ, hạt cát, hạt bụi cũng còn biết tạ ơn và tán tụng danh Chúa cho sự hiện hữu của mình chìm đắm trong cảnh mênh mông của vũ trụ, loài người lại càng không thể quên mình là ai.

http://vietcatholic.net/pics/50namghion.jpgNăm 1995, Cộng Đồng Công Giáo Kitô Vua tại Nouméa đã hân hoan kỷ niệm 40 năm tuổi dưới sự lãnh đạo tinh thần của Linh Mục quản nhiệm Stanislas Phạm Qúy Hòa.

Năm nay, 2005, Cộng Đồng Công Giáo Kitô Vua trong niềm hân hoan, với tâm tình cảm tạ, mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Cộng Đồng. Cảm tạ ơn Chúa đã ban cho người Việt Nam chúng ta, dù ở Nouvelle Calédonie hoặc ở Vanuatu, vô số hồng ân. Mặt khác chúng ta cũng ghi ơn những vị tiền nhân đã đi trước mở đường cho chúng ta ngày hôm nay.

Xem hình ảnh (http://vietcatholic.net/albums/50namNoumea/)

Trong 10 năm qua, mọi tín hữu trong Cộng Đồng đều nỗ lực hăng say phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội để Cộng Đồng Kitô Vua được đoàn kết và vượt sóng lướt theo con thuyền Giáo Hội hoàn vũ để đúng với tinh thần Phúc Âm: « Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp lại để cầu nguyện, ta sẽ ở giữa những người ấy » (Mt 18,20) và theo như ca dao Việt Nam:

« Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. »

Nhìn lại 10 năm đã trôi đi, Cộng Đồng Kitô Vua cũng có một vài sự thay đổi.

http://vietcatholic.net/pics/LMNgoquangQuy.jpgCha Stanislas Phạm Qúy Hòa đến với Cộng Đồng ngày 20 - 01- 1993, lãnh trách nhiệm trông coi Cộng Đồng. Tới tháng 8 năm 2001, vì sức khoẻ và cao niên, cha đã xin ĐTGM Michel CALVET về hưu. Đức Cha CALVET đã thu xếp để cha Stanislas Phạm Qúy Hòa có được chỗ ở trong MA MAISON và ngày nay cha đang hưu dưỡng tại đây.

Từ tháng 9 năm 2001, Cộng Đồng Kitô Vua không có linh mục quản nhiệm, Ban Hội Đồng Mục Vụ phải mời các cha tới dâng lễ cho Cộng Đồng, dù bằng Pháp ngữ, để ngôi giáo đường Kitô Vua luôn có những tiếng hát du dương, có những lời kinh chân thành dâng lên Thiên Chúa. Tuy yếu ớt vì hoàn cảnh nhưng Cộng Đồng vẫn sống động.

Trong thời gian này, có một số cha khách từ Úc, Âu Châu, Hoa Kỳ sang thăm và giúp Cộng Đồng sống Đức Tin, nhất là các ngày lễ Phục Sinh và Giáng Sinh. Các cha khách đến thăm và giúp Cộng Đồng trong 10 năm qua:

Giuse Trần Minh Thái SSS, Raphael Võ Đức Thiện, Martin Mai Văn Sang, Gioan Trần Kim Thời, Paul Chu văn Chi, Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Giuse Nguyễn Đức Khoan, ĐÔ Phêrô Nguyễn Thanh Long, Anthony Hà Thanh Sơn, Peter Phạm Văn Ái SJ, Peter Hoàng Mạnh Hùng OP, Peter Hà Thanh Hải, ĐÔ F. Xavier Cao Minh Dung, cha Daminh Ngô quang Tuyên.

Tháng 6 năm 2003, Đức Tổng Giám Mục bài sai Cha Phêrô Ngô Quang Qúy, Chưởng Ấn của Tổng Giáo phận và là cha xứ Giáo xứ Eglise du Vœu, làm linh mục quản nhiệm trông coi Cộng Đồng Kitô Vua. Từ đó Cộng Đồng lại có được một linh mục Việt Nam cho tới ngày nay.

Một biến cố rất quan trọng trong 10 năm qua, đó là cuộc rước tượng Thánh Du Đức Mẹ La Vang. Tháng Ba năm 2003, Cha Paul Chu Văn Chi từ Sydney rước tượng Đức Mẹ La Vang sang Nouméa. Đức Mẹ La Vang sang thăm Cộng Đồng Kitô Vua là một niềm an-ủi rất lớn đối những người con Việt Nam sống tại Nouvelle Calédonie. Đức Mẹ La Vang đã ở lại với Cộng Đồng một tuần lễ, sau đó Mẹ trở về Sydney để tiếp tục chuyến công du của Mẹ.

Tới tháng 8 năm 2003, ông Chủ tịch Nguyễn văn Hảo đã có sáng kiến đặt một tượng Đức Mẹ La Vang trong ngôi giáo đường Kitô Vua. Ngày làm phép tượng được tổ chức rất long trọng và vui tươi dưới sự chủ-tọa của Đức Tổng Giám Mục Michel CALVET. Tượng Đức Mẹ La Vang được đặt thay cho tượng Đức Mẹ Lộ Đức mà hiện giờ chúng ta thấy trong nhà thờ.

Tưởng cũng cần ghi lại những kỷ vật thánh trong ngôi giáo đường Kitô Vua mà chúng ta nên biết về nguồn gốc và tác gỉa:

Cây thánh gía Chúa chịu khổ nạn, trên cung thánh, là do các thầy Dòng Lasan vẽ và dâng cúng. Cũng chính các thầy thiết kế và làm thành Nhà Chầu đặt Mình Thánh Chúa đượm mầu sắc Á Đông theo tinh thần hội nhập văn hóa.

Nhà Chầu phép Thánh Thể

Bàn thờ xương các Thánh Tử đạo Việt Nam do Linh mục Dominicô Ngô Quang Tuyên tặng và được cha Qúy mang về từ Việt Nam năm 1997. Trong bàn thờ có hộp xương của 5 thánh tử đạo Việt Nam và 3 thánh tử đạo Trung Quốc:

http://vietcatholic.net/pics/nhatamkitocua.jpgCác thánh tử đạo Việt Nam:
Jean Théophane Venard, Mep
Pierre François Neron, Mep
Phanxicô Phan văn Trung, giáo dân
Phaolô Lê văn Lộc, linh mục
Agnès Lê thị Thành, giáo dân

Các thánh tử đạo Trung Quốc :
Jean Pierre eel, Mep
J. Baptiste Lo, giáo dânc
Agathe Lin, giáo dân

Hộp xương thánh do cha Qúy xin được từ các cha Hội Thừa Sai Ba-Lê (MEP) vào tháng 7 năm 1995.

http://vietcatholic.net/pics/xuongthanhKitovua.jpgBên ngoài nhà thờ, ngoài tượng thánh Giuse và đài Đức Mẹ, chúng ta thấy có một qủa chuông được treo trong góc tường nhà thờ, phía trên cửa vào buồng áo. Qủa chuông này anh chị Thinh dâng cúng.

Để sửa soạn mừng đại lễ, ban bảo trì, dưới sự lãnh đạo của anh Hoàng văn Phúc, ngôi giáo đường Kitô Vua, nhà xứ và khuân viên, nhất là hội trường đã được sửa chữa và canh tân cho hợp thời trang hầu có thể đáp ứng những nhu cầu cần thiết của Cộng Đồng. Một khía cạnh quan trọng khác, đó là từ nhiều năm qua, nhiều người Công Giáo Việt Nam từ Vanuatu sang Nouméa lập nghiệp và đã trở thành những người con của Cộng Đồng Kitô Vua. Sự tham dự và lòng nhiệt tâm của họ đã mang lại cho Cộng Đồng một bầu không khí sống động hơn vì đoàn tín-hữu đông hơn.

Ban bảo-trì đã được sự hậu thuẫn rất lớn phát xuất từ mọi khía cạnh và tầng lớp. Tất cả mọi người đều hăng say đóng góp để có thêm ngân-qũy. Cha Qúy và ban tổ chức đã huy-động phong-trào bán phở mỗi Chúa nhật đầu tháng và cứ hai tuần, sau thánh lễ, có bán thực phẩm do lòng hảo tâm của nhiều ông bà anh chị em, dưới sự điều khiển của ban ẩm thực. Phở ngon, thực phẩm vừa miệng và đặc sắc quốc hồn quốc túy đã mang lại niềm vui, tinh thần cộng đồng được khăng khít hơn với những nụ cười, ánh mắt tràn đầy khích lệ, cảm thông và thân hữu hơn; và ngân qũy Cộng Đồng cũng khá hơn để đủ tài chánh chi phí cho việc sửa chữa trung tâm Kitô Vua.

Về Nguồn …

Chương trình kỷ niệm 50 năm của Cộng Đồng Kitô Vua, Nouméa, đã được linh mục quản nhiệm Phêrô Ngô Quang Qúy công bố khai mạc từ tháng 10 năm 2004. Một chương trình giúp mọi người hồi tưởng lại những ơn Chúa đã ban trong qúa khứ để ngày nay cám tạ ơn Chúa, đồng thời cũng nhắc nhở cho thế hệ trẻ có trách nhiệm duy trì kho tàng Đức-tin qúy báu của người Việt Nam tại Tân Đảo.

Khởi đầu năm Kim Khánh là cuộc « hành hương về nguồn » tại Port-Vila, Vanuatu từ ngày mùng 8 tới ngày 11 tháng 10 năm 2004. Tại sao lại có cuộc « hành hương về nguồn »? Mục đích cuộc hành hương là để ghi ơn cha Giuse Nguyễn Năng Vịnh.

http://vietcatholic.net/pics/50chatonchavinh.jpgCha Giuse Nguyễn Năng Vịnh đã được Đức Giám Mục Địa Phận Bùi Chu, Bắc Việt Nam, gửi qua Vanuatu (Nouvelles Hébrides) để chăn dắt người Công Giáo Việt Nam. Trên đường đi Vanuatu, cha Vịnh phải đi qua Nouméa và phải ở lại một tuần vì nhu cầu phương tiện di chuyển thời đó. Trong những ngày cha Vịnh ở Nouméa, ngài có một buổi họp với người công giáo Việt Nam sinh sống tại Nouméa; vì không có linh mục coi sóc người công giáo tại đó nên cha hứa là khi qua Port-Vila, cha sẽ viết thư cho Đức Giám Mục của Nouméa để xin tìm một linh mục Việt Nam. Thư viết ngày 01-09-1953 từ Port-Vila. Đức cha Bresson (Nouméa) đã chấp nhận lời thỉnh cầu và cha Vịnh đã xin được một linh mục Việt Nam qua Nouméa. Sau đó cha Giuse Nguyễn Duy Tôn đã trở thành linh mục quản nhiệm đầu tiên và cũng là người gây dựng lên Cộng Đồng Công Giáo Kitô Vua tại Nouméa.

Hành hương « Về Nguồn » 8 -11 tháng 10, 2004

Phái đoàn viếng mộ cha cố Giuse Vịnh
Viếng mộ những người Việt Nam, Port-Vila
Thánh lễ tạ ơn trong giáo đường «Thiên Môn » (Xem phần hình ảnh)

Cuộc hành hương về nguồn được tổ chức để nói lên sự gắn bó giữa hai cộng đồng công giáo Việt Nam ở trên những hòn đảo nhỏ bé nằm giữa lòng biển vùng Nam Thái Bình Dương và chỉ là những chấm đen lớn bằng đầu kim trên bản đồ thế giới ! Hai Cộng Đồng này có một mối giây ràng buộc nhờ những công lao của các vị chủ chăn tiên khởi.

Tiếp theo đó, cuộc hành hương thứ hai là đi thăm viếng các ngôi mộ của người Việt Nam tại Thio ngày 20-12-2004. Tại nhà thờ Thio, nơi mà các ông bà Chân Đăng đã đóng góp trong việc xây cất, cha Qúy, cha Hùng, cha Jean Kermarrec (cha xứ) và phái đoàn đã dâng thánh lễ tạ ơn, cầu nguyện cho những người Việt Nam đã qua đời được chôn cất tại nghĩa trang Thio.

Bước quan trọng thứ ba là cuộc hành hương Tiébaghi ngày 23 và 24 tháng 4 năm 2005. Dưới sự hướng dẫn của linh mục quản nhiệm, một phái đoàn gần 60 người tham dự nao nức lên xe bus thuê của công-ty Arc-en-ciel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Tiebaghi, một trong những địa điểm quan trọng chứa nhiều di-tích lịch-sử của những người “Chân đăng”.

Trên đường đi, phái đoàn đã dừng lại nơi nghĩa trang Voh để viếng mộ nhiều người Việt Nam đang nằm nghỉ vĩnh viễn. Voh cũng là một địa điểm mà nhiều con cháu Việt Nam đã được sinh ra, được lãnh bí-tích Rửa tội tại nhà thờ xứ Koumac hoặc Koné.

Trong cuộc hành trình tiến về Tiébaghi, phái đoàn đã dừng chân tại làng Kaala Gomen thăm bà cụ Lập, năm nay đã 90 tuổi. Bà cụ Lập là người “chân đăng” duy nhất còn sống trong vùng hẻo lánh, giữa các sắc tộc không cùng ngôn ngữ. Ngoài ra, còn ông Thao, nay cũng đã cao niên và hiện đang sinh sống với gia đình tại Koné.

Khi phái đoàn đặt chân lên mỏ Tiébaghi, lúc đó đã về chiều, trên đỉnh ngọn núi cao, từng cơn gío thổi lạnh người, nhìn lại những di-tích của làng người Việt Nam ngày xưa, những ngôi nhà nay đã đổ nát, thực là một cảnh tiêu-điều. Một vài người trong phái đoàn đã xúc động bật tiếng khóc khi thấy cảnh tang thương đau khổ, hy sinh, nhục nhã các ông bà cha mẹ “chân đăng” đã trải qua. Họ bị coi như những tù nhân viễn xứ. Cuộc hành hương Tiébaghi đượm tình huynh đệ trong thánh lễ tại ngôi nhà nguyện đã được tân trang bởi một hội địa phương: “bảo vệ những di tích lịch sử”.

Có thể nói đây là một trong hai ngôi nhà nguyện đầu tiên người Công Giáo Việt Nam cất lên trên đảo Nouvelle Calédonie. Ngôi nhà nguyện thứ hai tại mỏ Chagrin (Koumac), nơi cũng có đông người “chân đăng” trước kia làm trong mỏ. Một số người đã qua đời và được mai táng tại đó. Ngày nay ngôi nhà nguyện này không còn nữa, chỉ còn lại nền nhà nguyện và một phần cây thánh gía bằng gỗ còn đứng hướng về trời cao nhắc nhở cho các tín hữu phải luôn luôn hướng về Thiên Chúa, đừng bao giờ thất vọng và cũng đừng bao giờ để cho vật-chất lôi kéo vào đời sống sa-đọa, quên hồng ân Chúa đã ban.

Ba cuộc “hành hương về nguồn” đã để lại trong tim những người tham dự một kỷ niệm sâu-xa. Dù đứng trước những hy-sinh đau-khổ, nhục-nhã của các ông bà cha mẹ ngày xưa, mọi người đều cảm thấy hãnh diện với chí-khí can-trường, chịu-đựng, nhẫn-nại, Đức-tin vững mạnh để ngày nay các con cháu có được một kho tàng vô gía trước mặt những người khác màu da và văn hóa.

Ngoài ba cuộc hành hương theo chương trình được ấn định, Cộng Đồng cũng tham dự những cuộc hành hương khác do Địa Phận Nouméa tổ chức. Đó là những cuộc hành hương ở Téné, Bourail, La Conception và Tomo kính thánh Thêrêsa Hài Đồng Giêsu.

Ngày 20 tháng 11 năm 2005, ngày rất trọng đại cho Cộng Đồng Kitô Vua tại Nouméa. Để mừng lễ Kim-khánh, ban văn nghệ, sau một năm kiên-nhẫn và hy-sinh tập dượt với các em nhỏ, đã tổ chức một đêm văn nghệ ngày19-11-2005. Một đêm thật là vui tươi, những tràng pháo tay, những tiếng cười vang trời. Nào có ai ngờ rằng “cây nhà lá vườn” mà lại ngọt lịm như thế ! Đêm văn nghệ đã làm cho bầu không khí lễ Kim-khánh được sôi động hơn. Từng từng lớp lớp tới tham dự đêm văn nghệ. Nhờ ơn Chúa, mọi sự đều thành công và tốt đẹp với những tài năng của giới trẻ.

Cao điểm của lễ Kim khánh là thánh lễ đại trào vào vào sáng ngày 20-11-2005. Đức Tổng Giám Mục Michel CALVET chủ toạ thánh lễ và có các Giám Mục, Đức Ông, các cha khách tới tham dự và đồng tế. Đặc biệt có Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được mời sang tham dự lễ Kim khánh của Cộng Đồng Kitô Vua.

Nửa thế kỷ cho Cộng Đồng Kitô Vua tại Nouméa nói lên tinh thần trách nhiệm của các ông bà cha mẹ công giáo Việt Nam. Họ đã đóng góp vào công cuộc truyền-giáo của Giáo Hội. Họ đã cố gắng sống trung thành với bí-tích Rửa Tội, với ơn gọi họ đã lãnh nhận từ bàn tay nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta phải hãnh diện là con cháu của các thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúng ta phải hãnh diện với các ông bà cha mẹ mà một số ngày nay còn ở giữa chúng ta cùng hân hoan mừng Kim Khánh.

Lạy Chúa Kitô, Vua vũ trụ, tràn đầy tình yêu, xin tiếp tục ban ơn và dìu giắt Cộng Đồng Công Giáo chúng con. Xin ban cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa để trở thành những chứng nhân oai-hùng, can-đảm, là ánh sáng của niềm hy-vọng và bình an như lời nguyện cầu của thánh Phanxicô:

“Lạy Chúa từ nhân,
xin cho con biết mến yêu
và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa,
xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,
đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi nghi nan,
đem trông cậy vào nơi thất vọng,
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con:
tìm an ủi người hơn được người ủi an.
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết.
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhhận lãnh.
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống môn đời.
Ôi thần linh thánh ái, xin mở rộng lòng con
xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
ơn an lành.

Phụ lục:

Sau đây là các ban Hội Đồng Mục Vụ từ 10 năm qua:.

Ban Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ: 1994-1997
Chủ-tịch: Ô. Vincent Vũ đình Ất
Phó Chủ-tịch: Ô. Hoàng văn Phúc
Thư ký: Bà Hoàng thị Nhuần, épouse Guillon
Thủ qũy: Bà Madeleine Marie Paul Vutan, épouse Govan
Thành viên: Ông Nguyễn đức Nguyên
Ô. Dominique Nguyễn văn Hảo
Cô Nguyễn thị Thành Nga
Ô. Alphonse Nguyễn
Bà Marie Thérèse Travant
Ô. Joseph Govan
Ô. Jean Tadine (Hoan)
Anh Maurice Maviet

Ban Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ: 1997-2000
Chủ-tịch: Ô. Vincent Vũ đình Ất
Phó Chủ-tịch: Ô. Dominique Phạm văn Hảo
Thư ký: Chị Đỗ thị Xuân Thu
Thư ký phụ tá: Cô Dương thị Thu Hiền
Thủ Qũy: Ô. Pierre Tavan (Đại)
Thành viên: Ô. Joseph Phạm văn Chuyên
Bà Marie Thérèse DO, épouse Travant
Ô. Alphonse Nguyễn
Cô Nathalie Vũ (Tiến)
Ô. Jean Tadine (Hoan)
Chị Marianne Tevant
Ô. Joseph Govan
Bà Lucie Vũ épouse Guillon

Ban Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ: 2000-2003
Chủ-tịch: Ô. Dominique Phạm Văn Hảo
Phó chủ-tịch: Ô. Hoan Jean Tadine
Thư ký: Chị Nathalie Vũ (Tiến), épouse Trần
Thủ qũy: Ô. Pierre Tavan (Đại)
Thành viên: Ô. Vincent Vũ đình Ất
Cố vấn: bà Chu
Anh Philippe Trần
Ông Henri Bích
Chị Dương thị Thu Hiền, épouse Trần
Ô. Phạm văn Chuyên
Bà Lucie Vũ, épouse Guillon
Ông Cần
Ông Thọ
Chị Maria Trần thị Tuyết, épouse Guillon
Chị Caroline Đỗ Hằng Nga
Cô Marine Dương (Hòa)

Ban Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ: 2003-2006
Chủ-Tịch: Mr. Dominique Nguyễn văn Hảo
Phó chủ-tịch: bà Madeleine Hoàng thị Nhuần, épouse Guillon
Thư Ký: Ông Louis Vantine
Thủ-qũy: Ông Pierre Ngô văn Hạnh
Thành viên: Ô. Henri Bích, Ô. Thomas Nguyên
Bà Cham Vantine, Chị Thérèse Guillon
Chị Marie Noelle Govan,
Ô. Claude De Sonneville
Bà Anna Govan, Ô. Nguyễn phúc Thinh
Ô. Hoàng văn Phúc, Ô. Richard Dinan
Bà Trần thị Liên, Ô. Claude Trần

Đôi lời tâm sự của Cha Quản Nhiệm. ..

Kính thưa qúy ông bà và anh chị em,

Tôi đặt chân lên đảo Nouvelle Calédonie năm 1975, một hòn đảo nhỏ nằm giữa vùng biển Nam Thái Bình Dương mà hồi niên thiếu tôi thường được nghe cha mẹ nhắc tới, với tên « Tân Thế Giới ». Một tên gọi đặc biệt và qúa xa lạ vì đây cả là một thế giới « mới » đối với tôi.

Từ 30 năm nay, tôi tự coi mình như đã trở nên một thành phần của Cộng Đồng Công Giáo Kitô Vua, vì đây cũng là nơi mà tôi dự thánh lễ đầu tiên tại Nouméa. Từ đó, tôi bắt đầu gom góp và ấp ủ những kỷ niệm của đời sống Cộng Đồng.

Năm nay Cộng Đồng hân hoan mừng Kim Khánh, lòng tôi phấn khởi vui mừng tạ ơn Chúa. Vui mừng hơn khi thấy ban Hội Đồng Mục Vụ và mọi người hăng say, hy-sinh trong mọi khía cạnh để cùng nhau tán tụng danh Chúa như Mẹ Maria xưa kia đã thốt lên: « Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. » (Lc 1,47)

Lễ Kim Khánh mang lại cho tất cả mọi người chúng ta một niềm vui sâu-xa, để chúng ta ghi ơn các vị tiền nhân và để khuyến-khích các thế hệ mai sau luôn luôn tiếp tục gìn giữ kho tàng qúy báu này.

Đây cũng là lý do tôi biên soạn những trang giấy này để kỷ niệm 50 năm thành lập Cộng Đồng Kitô Vua, đồng thời để lưu lại những biến cố quan trọng với một niềm hy-vọng là các thế hệ mai sau sẽ luôn luôn cố gắng làm sánh danh Chúa.

Lạy Đức Mẹ La Vang, xin cầu cho chúng con.

LM. Phêrô Ngô Quang Qúy, Quản nhiệm

Hành Hương Về Nguồn Port-Vila 8-11 tháng 10. 2004

Đi, ta đi rộn ràng hăng say… đi … ta đi về miền Đất Hứa … Có Chúa cùng ta sánh bước lo chi … niềm vui có Chúa cùng ta về Cố Hương.

http://vietcatholic.net/pics/50thammochavinh.jpgTạ ơn Chúa Giêsu vô vàn yêu dấu. Chúa đã cùng đồng hành với cha Ngô Quang Qúy và anh chị em chúng con trên bước đường Hành Hương Về Nguồn, Port-Vila, Vanuatu từ ngày mùng 8 tới ngày 11 tháng 10, 2004

Lúc 1.30 PM ngày 8.10.04, chúng tôi một số hẹn nhau đến địa điểm nhà xứ của cha Qúy để cùng nhau ra sân bay… Và rồi tất cả anh chị em có mặt ở sân bay Nouméa lúc 3.00 PM để nhận vé máy bay do chị Madalena Nhuần đặt mua. Từ đầu khởi sự gặp nhau ở phi trường đông đủ, tôi thấy một số anh chị em còn ngỡ ngàng e ngại vì không quen… Nhưng khi đó tôi nghĩ là ai cũng mang trong lòng một niềm vui là đi Hành hương… Tất cả giáo dân 1 người ở Mỹ, 2 người ở Úc, 17 người ở Nouméa và 1 cha… đầu tầu !

Máy bay cất cánh đúng 4.30 PM và đến phi trường Port-Vila, Vanuatu, lúc 5.30 PM. Chúng tôi một số đi xe bus và một số đã đặt mướn xe tại phi trường. Chúng tôi lại hẹn nhau ở khách sạn Le Lagon để nhận phòng. Cha Qúy và ban tổ chức nói sơ qua về chương trình trong mấy ngày hành hương.

Lúc 8 PM, chúng tôi hẹn nhau tại nhà thờ Thiên Môn ( Đức Mẹ là Cửa Thiên Đàng). Trong nhóm các anh chị tham dự, một số đã có 40 năm, 25 năm, 20 năm chưa về thăm lại nơi mình được sinh ra, được rửa tội, sinh hoạt nghĩa binh (Thiếu Nhi TT) và ca đoàn của thời cha cố Giuse Nguyễn Năng Vịnh, nên khi vừa tới nhà thờ, đứng trước khuân viên, tôi đã thấy nhiều anh chị bồi hồi xúc động. Họ đã đưa tay rờ xem coi những dấu tích của ngày xưa một thời đã sinh hoạt trong ngôi nhà thờ nhỏ bé này. Vì đã tới giờ lễ của nhóm hành hương nên rồi ai cũng để tâm dâng thánh lễ tạ ơn đầu tiên trong ngày trở về thăm cố hương… Lạy Chúa, chúng con về từ bốn phương trời. Lạy Chúa chúng con về từ khắp thôn làng (Mỹ, Úc, Nouméa)… Thật là bồi hồi xúc động khi cha Qúy nói qua về ý nghĩa chúng ta đi hành hương để đến nơi đã một thời, các anh chị có mặt trong nhóm đã sinh hoạt, đồng thời để tỏ lòng biết ơn cha cố Giuse Nguyễn Năng Vịnh đã dìu dắt hướng dẫn đàn con chiên của Chúa tha hương cầu thực cách đây trên 50 năm.

Qua lời chia sẻ của cha Ngô Quang Qúy trong thánh lễ, thì trước đó đã có một linh mục người Pháp về Việt Nam để học tiếng Việt với mục đích là để phục vụ người Việt Nam tại New Hebrides (Vanuatu). Nhưng vị linh mục này đã sớm về Nhà Chúa. Tiếp đó, cha Giuse Nguyễn Năng Vịnh được Đức Giám Mục Địa Phận Bùi Chu, Bắc Việt Nam, gửi qua Vanuatu để chăn dắt người Công Giáo Việt Nam. Trên đường đi Vanuatu, cha Vịnh phải đi qua Nouméa và phải ở lại một tuần vì nhu cầu phương tiện di chuyển thời đó. Trong những ngày cha Vịnh ở Nouméa, ngài có một buổi họp với người công giáo Việt Nam sinh sống tại Nouméa; vì không có linh mục coi sóc người công giáo tại đó nên cha hứa là khi qua Port-Vila, cha sẽ viết thư cho Đức Giám Mục của Nouméa để xin tìm một linh mục Việt Nam. Thư viết ngày 01-09-1953 từ Port-Vila. Đức cha Bresson (Nouméa) đã chấp nhận lời thỉnh cầu và cha Vịnh đã xin được một linh mục Việt Nam qua Nouméa.

Cha Qúy muốn nói lên sự gắn bó giữa hai cộng đồng công giáo Việt Nam ở trên những hòn đảo nhỏ bé, và có một mối giây ràng buộc nhờ những công lao của các vị chủ chăn tiên khởi.

Ngôi giáo đường Thiên Môn được thắp sáng, mọi người tiếp tục đọc kinh và tiếng hát sốt sắng đã làm sống dậy những gì khép kín trong thời gian. Trên đĩa thánh, xin dâng lên Chúa tất cả những giọt nước mắt trở lại cố hương, đời sương gío, gian khổ, nguồn sức sống úa theo thời gian; xin kết thành của lễ dâng đêm nay để tạ ơn vì những hồng ân Chúa dẫn đưa theo thời gian, và rồi thánh lễ kết thúc lúc 9 giờ 15 tối.

Ngày 9-10-04, chúng tôi lại hẹn nhau lúc 10 giờ sáng tại giáo đường Thiên Môn. Vì là buổi sáng nên chúng tôi có thể đi coi chung quanh giáo đường. Khi đứng trước tượng đài Đức Mẹ do anh chị Khanh xây lên năm 1995 trước khi qua Pháp sinh sống, Đức Mẹ đứng đó tiêu điều qúa, gío bụi làm cho tượng Mẹ phai mờ, tôi đi quan sát và đứng lại cầu nguyện, rồi từ từ phái đoàn đứng lại. Tôi nghe có những tiếng sụt sùi khóc, và rồi tôi cũng khóc… Tôi xúc động vì những vị chủ chăn tiên khởi đã chọn những nơi hoang dã để truyền giáo và dìu dắt những ông bà Việt Nam khi xưa, nay đã qua 50 năm mà nơi đây vẫn còn hoang dã (theo ý nghĩ của tôi).

Sau đó chúng tôi tới chào Đức Giám Mục Giáo phận Port-Vila và chân thành mời Đức cha dâng lễ với chúng tôi ngày Chúa nhật, Đức cha đã vui vẻ nhận lời. Tại tòa Giám Mục, Đức cha đã nhắn nhủ và tỏ ra rất vui lòng với sự hiện diện của nhóm hành hương chúng tôi. Ngài nói chúng tôi đã tới và qua lời kinh tiếng hát làm cho ngôi giáo đường ấm cúng lên, sống động lại và để nêu gương Đức tin mà các ông bà đã để lại, bây giờ tới phiên chúng tôi truyền lại cho thế hệ trẻ.

Sau đó chúng tôi được tự do đi phố và có một số anh chị em trở về ngôi nhà mình đã được sinh ra. Đứng trước những căn nhà nay đã thuộc về người da đen (người bản xứ), các anh chị đã khóc vì những giọt mồ hôi nước mắt khổ cực của cha mẹ tạo dựng vì thời cuộc (đảo quốc Vanuatu được độc lập năm 1980), đất đai nhà cửa bị lấy mất ( nếu muốn rõ về thời thế, xin hỏi các anh chị sinh trưởng tại Vanuatu), rồi các anh chị qua sinh sống tại Nouméa. Cám ơn các anh chị đi chung đã kể cho em nghe những câu chuyện thời thế.

6 giờ chiều, chúng tôi lại tụ họp ở nhà thờ để cùng dâng lễ. Có một số anh chị sinh sống tại Port-Vila cũng tới tham dự thánh lễ. Cha Qúy có in một số sách nói về Cha Vịnh và cộng đồng Thiên Môn (tài liệu do cha Quảng gửi). Cha cũng làm một số sách Thánh Thư và Phúc Âm, cùng một số bài hát của bốn thánh lễ Hành Hương, cùng một giây đeo cổ cho phái đoàn, nhìn rất sống động. Vì ngày hôm nay các anh chị ở Port-Vila tới dự lễ, cha Qúy đề nghị tặng mỗi người một bộ như những người đi hành hương. Trong thánh lễ rất sốt sắng, chúng con xin dâng lên Mẹ Maria « Đức Bà là Cửa thiên Đàng », tháng Mân Côi, xin dâng Mẹ những lời kinh sốt mến tạ ơn của nhóm hành hương chúng con.

http://vietcatholic.net/pics/50mochavinh.jpgNgày 10-10-04, chúng tôi thăm mộ cha cố Giuse Vịnh. Hẹn nhau 10 giờ sáng thì khởi hành, nhưng có lẽ trời cũng cảm động vì lòng ai cũng mang một niềm ghi ơn cha cố Giuse. (Có những anh chị được cha dậy tiếng Việt nên nay nói tiếng Việt Nam rất khá). Dù trời mưa to, mưa cả ngày, chúng tôi đi mua dù che mưa, cùng hăng say đi trong mưa. Đứng trước mộ cha cố, tôi thấy các anh chị đã tỏ được cái hiếu đối với người cha, ngày nay qua cuộc sống gian khổ vui buồn, một đời người sinh trưởng nơi xứ người các anh chị thích và ao ước nói cho sõi tiếng Việt Nam và biết nguồn gốc của mình. Như chị Madalena Nhuần đã đọc lên lời thay cho nhóm để cám ơn cha cố Giuse Vịnh đã dẫn dắt dậy dỗ… Cha đã để lại một kho tàng Đức tin nơi xứ người… Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời… Rồi chúng tôi cũng đi thăm những nơi an nghỉ cuối cùng của các ông bà đi làm đồn điền cho người Pháp ngày xưa trong gian lao và nước mắt.

Sau đó, ban tổ chức đi lo việc chung nên chúng tôi được tự do. Chúng tôi rủ nhau đi coi chung quanh lối xóm của người da đen nghèo qúa. Sau ngày Độc Lập, các trẻ em cứ chân không mà đi trong mưa, họ sống trong rừng rú. Có đi rồi mới thấy hoang dã thật !

Là ngày Chúa Nhật, các chị nào mang theo áo dài thì mặc áo dài. Trước giờ lễ, Đức Giám Mục Địa phận cho người ra báo cho cha Qúy biết là Đức Cha không thể đến được, vì đêm qua em trai ruột của Đức Cha qua đời (ở bên đó chỉ lo chôn cất trong một ngày). Thánh lễ đúng 6 giờ chiều, các anh chị ở Port-Vila tới tham dự cũng mặc áo dài và đeo dấu hiệu như đi hành hương… Chúng con về nơi đây dâng ngàn tiếng ca để tạ ơn Chúa… qua bao tháng năm mong chờ, được cùng nhau bên Chúa thỏa lòng như chúng con ước mơ…

Thánh lễ hôm nay đặc biệt cầu cho cha cố Giuse Vịnh, cho các ông bà đi trước, cha Qúy nói qua về thời gian sinh hoạt của cha Vịnh. Được lãnh nhận Lời Chúa, cuộc đời cha đi làm chứng tá của Chúa trên trần gian, cha xin được sống nghèo khó, cuộc đời bao nguy biến, đời hạnh phúc của cha là để lại cho con cháu một kho tàng Đức Tin. Sau thánh lễ, chúng tôi chụp hình lưu niệm chung với tất cả những anh chị em có mặt. Sau đó chúng tôi đi ăn tối và thông qua chương trình ngày hôm sau.

Ngày 11-10-04, sáng 10 giờ, cha Qúy và chúng tôi lên chia buồn với Đức Cha và tham dự nghi lễ rước quan tài vào nhà thờ chánh tòa. Tiếc rằng chúng tôi không thể tham dự thánh lễ vì thời gian qúa eo hẹp, và theo chương trình chúng tôi phải đi thăm các cụ bà Việt Nam còn sống tại Port-Vila. Một bà đã vào viện dưỡng lão tại Nouméa, bà Trữ thì không còn nhớ gì, ngồi xe lăn, có người trông coi, bà Tích và bà Sinh đi vắng khi chúng tôi tới thăm. Bao giờ có niềm vui thì thời gian qua mau ! Rồi tới giờ lễ tạ ơn ngày cuối của cuộc hành hương. Chúng tôi trả phòng lại và kéo hành lý gửi ở nhà kho của khách sạn.

3 giờ chiều, cha Qúy dâng thánh lễ tạ ơn. Trong lòng ai cũng mang một niềm vui thỏa mãn, những ao ước mong chờ. Từ những e ngại bỡ ngỡ ngày đầu ở phi trường Nouméa, sau ba ngày sống trong hồng ân Chúa Giêsu, trong tình người cười cười… nói nói… vui nhộn của nhóm trêu nhau… chờ nhau … tất cả đều bỏ sau lưng những công việc làm ăn vất vả để bình an sống bên nhau trong ba ngày. Anh chị em trong nhóm đều nhìn ra và cảm nghiệm thấu tâm hồn mình vì ơn Chúa qúa dạt dào.

Chúng con xin dâng lên Nữ Vương tấm lòng nhỏ bé, được thật tình mến Chúa yêu người, cho đời chúng con trở nên trót đời của lễ, chờ ngày về hưởng phúc quê trời …

Sau thánh lễ, có mấy người ở Port-Vila tới ôm chúng tôi trong hai hàng nước mắt vì ba ngày qua ngôi giáo đường Thiên Môn đã sống động trong lời kinh tiếng hát. Họ rất khao khát có những thánh lễ như thế để họ tham dự nhưng rất hiếm tại Port-Vila, Vanuatu.

Lúc 5 giờ chiều, chúng tôi được chở ra phi trường vì giờ bay là 6 giờ 30. Các anh chị ở Port-Vila đã ra phi trường đưa tiễn. Họ đã tặng cho mỗi người một vòng hoa hoặc vòng hạt với vỏ ốc để đeo trên cổ như một vật kỷ niệm theo phong tục địa phương sau một chuyến hành hương.

Một mẩu chuyện vui: đó là sau chuyến hành hương, trên đường trở về Nouméa, ai cũng lên 5 kilô … thịt… Đó là 5 kilô thịt bò được quan thuế cho phép mua đem vào Nouméa từ Vanuatu, vì thịt vừa tươi, vừa ngon và vừa rẻ, nên không ai đành lòng bỏ sót !

Xin chân thành cám ơn các anh chị ở Port-vila đã chỉ dẫn những nơi mà nhóm hành hương đi qua, và những cử chỉ ân cần các anh chị lo lắng. Chúng tôi cầu xin Chúa trả công bội hậu cho các anh chị và xin Chúa thêm sức cùng nghị lực cho tất cả anh chị em trong công việc chung.

Riêng mẹ con con, xin cám ơn cha Qúy đã cho biết ý nghĩa và ngày giờ hành hương để hai mẹ con cùng đi tham dự.

Em cũng xin cám ơn tất cả các anh chị ( trong tình Chúa, cùng một Đức tin nên gọi và coi nhau như anh chị em, cho dù tuổi ai cũng lớn vai cô chú bác) đã cùng em chia sẻ kinh nghiệm cuộc sống, trong thời gian hành hương. Xin giữ những niềm vui, xúc động, tình thân và những hồng ân Chúa ban cho trong ba ngày Hành Hương Về Nguồn để chúng ta tiếp tục hăng say phục vụ tha nhân.

Chúa thương con người, Chúa kết liên con người, bình an của Chúa mãi mãi trong tâm hồn. Xin kính tặng cha Ngô Quang Qúy vá bác Thếch cùng tất cả anh chị em trong nhóm Hành Hương Về Nguồn.

Mai Thêu, Úc Châu (Báo Dân Chúa Úc Châu, tháng 11- 2004)

Hành hương Tiebaghi...

Để chuẩn bị mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Họ Giáo Kitô Vua, một kỷ niệm rất hiếm có đối với người Công Giáo Việt Nam tại Tân Đảo, New Caledonia. Cha quản nhiệm Phêrô Ngô Quang Qúy đã đứng ra cùng B.C.H xứ Kitô Vua tổ chức 3 chuyến “hành hương về nguồn” đi thăm đến những nơi các ông bà Chân Đăng ngày xưa đã làm việc, hồi đầu thế kỷ 20.

http://vietcatholic.net/pics/50HHKoumac.jpgChuyến thứ nhất, hành hương Port Vila, Vanuatu. Chuyến thứ hai tại Thio và chuyến thứ ba tại Tiebaghi. Tất cả 3 cuộc hành hương đều tốt đẹp, để ghi ơn đến các Cha Cố và các ông bà Chân Đăng đi trước. Họ Giáo Kitô Vua đang chuẩn bị long trọng mừng lễ Kitô Vua 50 năm tại nhà thờ Kitô Vua của cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Noumea vào tháng 11- 2005 nầy

Xin qúi vị thêm lời cầu nguyện cho Cha quản nhiệm và B.C.H để tất cả đều lo chu toàn công việc làm rạng danh Chúa Kitô là Vua. Cho dù người trần gian cách xa, thì lời Chúa chính là nguồn con tin cậy mean; dù thời gian có bao nhiêu thay đổi, con vẫn tin nơi lòng Chúa không bao giờ đổi thay.

Sáng thứ bảy 23.4.05, 65 người tụ họp tại nhà thờ Kitô Vua để lên đường đi hành hương Tiebaghi. Trước khi đi, Cha Qúy mời tất cả nguời đi cùng vào nhà thờ đọc 3 kinh dâng lên Đức Bà gìn giữ chuyến hành hương. Xe khởi hành lúc 6 giờ sáng, trong lòng ai cũng nao nức để đi xem nơi chốn các ông bà Chân Đăng làm mỏ kền ngày xưa. (1 xe buýt 60 chổ ngồi và 2 xe hơi).

8 giờ sáng, xe dừng tại Bourail, cách Nouméa hơn 150 KM, để nghỉ ngơi ăn sáng. Sau đó, xe khởi hành tới thăm viếng nghĩa địa Voh, trong vòng 30 phút tới 1 tiếng. Có vài người đã sinh tại Voh, họ cũng trở về để thắp nén nhang cho người thân đã yên nghỉ ngàn thu nơi đất khách. Trong chuyến hành hương đã có 2 người của đài truyền hình Noumea đi theo cả ngày để quay phim làm tài liệu.

Trên đường đi Cha Qúy đã nhớ ra là còn một người Chân Đăng còn sinh sống tại Voh, sau khi dò hỏi và nhớ lại, xe buýt đã dừng trước cửa nhà bà cụ Lập. Thật là xúc động, nói không ra lời ! Bà vừa thấy Cha Qúy vào hỏi thăm bằng tiếng Việt, bà đã ôm chầm Cha Qúy và khóc. Thế là cả nhóm kéo nhau xuống xe. Bà mời cả nhóm vào phòng khách. Câu nói vuột ra khỏi miệng bà là “Giêsu Maria, lạy Chúa tôi” rồi bà bật khóc, xúc động qúa bà nói không nên lời. Thấy đươc ai tới gần, bà đều ôm trong nức nghẹn. Chúng tôi cất lên hát “ Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn, Mẹ từ bi xin phá những nỗi u buồn…” và rồi như như được xoa dịu, bà hỏi chúng tôi từ đâu tới ? đi đâu mà đông thế? Bà năm nay đã 90 tuổi Chân Đăng ngày xưa, bà ở Voh đã 70 năm qua, chưa một lần trở về thăm Việt Nam.

Tôi không thể hình dung ra được, nếu tôi không nhìn thấy, vì vài ngôi nhà nằm giữa một qủa núi trùng trùng điệp điệp như thế mà họ vẫn sinh sống được trong mấy thập niên qua.

Trưa 1giờ 30, xe tới Koumac chúng tôi cùng chia sẻ thức ăn đem theo. Khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi lên đường đi Tiebaghi. Trên đường đi, chúng tôi ghé thăm nghĩa địa của những người chết vì bị sụp mỏ Kền thời đó, hoặc vì bệnh tật. Lúc 5 giờ chiều, xe chạy lên núi, tới mỏ Tiebaghi nằm trên đỉnh núi, xe dừng lại, chúng tôi đi bộ để xuống thung lũng tại làng Việt Nam ngày xưa, nay chỉ còn là tàn tích. Ngôi nhà thờ đã được chính phủ cho tu sửa nên nhìn còn mới. Đi để nhìn thấy…. thấm thía…. Thương cảm cho các ông bà Chân Đăng ngày xưa, cả một sự hy sinh, khổ cực. Coi như là tù viễn xứ để gầy dựng cho con cháu ngày nay. Và 5 giờ 10, cha Qúy dâng Thánh Lễ Tạ ơn bằng tiếng Việt đầu tiên trong ngôi nhà thờ của các ông bà Chân Đăng xây dựng. “Giữ gìn con Chúa ơi, vì Chúa là chốn con tựa nương tháng năm. Trong cánh tay Người hồn con vui sống.” Qủa thật là có Đức tin, ông bà mình mới can đảm sống xa quê hương như thế. Những di tích đã cho chúng ta thấy được lòng can đảm của ông bà ngày xưa qua cách sống Đạo và… ngày nay của con cháu.

Đêm thứ bảy, một số người ngủ trong khách sạn gần đó và một số theo Cha quản nhiệm ngủ tại nhà thờ Koumac. Cha Qúy tổ chức một tối đốt nến cầu nguyện chung trong năm Thánh Thể và đặc biệt cầu nguyện cho Đức Tân Giáo Hoàng

Sáng chủ nhật 24.4.05, lúc 6 giờ sáng ai cũng thức dậy thoải mái ăn sáng. Cha Qúy đã đại diện cám ơn cha Xứ đã cho nhóm trọ một ngày đêm, cùng 2 ông bà trông coi trong vùng núi đó, đã hướng dẫn nhóm mau chóng. Sau đó xe khởi hành đi coi mỏ Chagrin, Cha Qúy muốn về sớm để kịp dâng Lễ chiều tại nhà thờ Kitô Vua như thường lệ, nên xe chỉ chạy vòng cho xem cảnh trên các mỏ Kền xưa.

Trưa đó xe ghé vào sân nhà thơ Bourail. Mọi người xuống xe và cùng nhau ăn bánh mì giải lao 45 phút. Sau đó là xe chạy thẳng về tới Noumea lúc 4 giờ 30.

Xin dâng lời cảm tạ, Hồng ân Thiên Chúa bao la, Chúa đã đưa cánh tay ra dìu dắt đoàn Chiên Chúa trên bước đường lữ thứ trần gian. Qua bao thử thách gian nan, ngày nay chúng con được đón nhận bao nhiêu Hồng Ân Chúa trên Tân Đảo.

Xin cảm ơn Cha quản nhiệm và Ban chấp hành cùng tất cả ông bà, anh chị em trong niềm vui hành hương về nguồn. Xin cầu nguyện cho nhau.

Spring Đào Anh (Báo Dân Chúa Úc Châu, tháng 6- 2005)
LM. Phêrô Ngô Quang Qúy