PDA

View Full Version : Nhân kỷ niệm 21 năm linh mục (1989-2010)



JB.Lưu Hùng Vương
13-05-2010, 07:33 AM
(Nhân kỷ niệm 21 năm linh mục (1989-2010), nhất là một năm Giám Mục của Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản (12.5.2009-12.5.2010), thân ái gởi đến các người bạn thuở xưa ở Mằng Lăng (Quyết,Tánh, Tường, Bản, Đệ) một vài kỷ niệm thân thương theo mãi trong cuộc đời)

---


Một thoáng chiều nay về chốn cũ

Mà xem ta nhớ chuyện ngày qua…



Ta nhớ Mằng Lăng ngày tháng ấy,

Mùa Đông lạnh gió cắt nứt da.[1]

Sách vở bút nghiên đành xếp xó,

Tương lai giờ hun hút mờ xa !



Ta nhớ mùa Đông đi băm ruộng,

Lạnh tê mình thêm nổi đỉa đeo.[2]

Chắc phải quay lưng trở về phố thị !

Lời anh em “thôi gắng lên nào !”



Ta nhớ những đêm dài Đồng Cháy,

Nằm nghe kể nữ hiệp Hoàng Dung.[3]

Mơ được hóa thân chàng Quách Tỉnh,

Mà rong chơi thỏa chí tang bồng !



Ta nhớ những lần con nước lụt,

Bềnh bồng tấm lưới với thuyền câu.

Thầy có nhớ không bờ bến cũ ?

Để hôm nay trò mãi cứ ưu sầu !



Ta nhớ hoài tô canh rau muống,

Vài củ khoai, trái ổi, trái thơm…

Của bác Trạng, Bà Hai, anh Bảy Mỹ…[4]

Sao mà ngon, thân ái quá chừng !



Ta nhớ con đường mùa đông trơn trượt,

Người thay bò è cổ đẩy về kho.

Từng giọt mồ hôi theo từng hạt lúa,

Rơi trên đường như để ươm mơ !



Ta nhớ đường lên La Hai, Kỳ Lộ,

Cong mình trên ngựa sắt thênh thang.[5]

Bên núi, bên sông, cây rừng xanh thẳm,

Gọi ta đi là thác lũ, chim ngàn.

Ta nhớ hoàng hôn An Xuân tím ngắt,[6]

Réo gọi nhau tìm hy vọng mong manh.

Trong đất chết ta gieo mầm sự sống,

Trời hoang mang bổng thấy yên lành.



Ta nhớ ngày tân hôn thằng Thiết…[7]

Chục lít rượu đường giống chuyện Ca-Na,

Đãi anh em nghìn chung vẫn ít,

Nên bây giờ thiên lý không xa.



Ta nhớ chú Bảy Dương câu cá,[8]

Xin chỉ một con mừng thánh Giuse.

Trên chiếc chiếu quây quần dưới đất,

Ấm làm sao tình nghĩa bạn bè !



Ta nhớ thuở bình minh sương lạnh,

Lửa lò đường chưa kịp sáng lên.

Tiếng hét la bờ kia dậy sóng,

Bắt được rồi “tên phản động vang rền”[9]



Ta nhớ anh em giờ biền biệt,

Tánh với Tường[10] cộng khổ đồng cam.

Đã đi qua thiên đường yên nghỉ,

Đừng quên nhau duyên nợ đá vàng.



Ta nhớ Ngân Sơn mùa nước lũ,

Đưa khách sang sông chuyến đò ngang.

May mắn gần bờ con sỏng úp,[11]

“Ướt còn cháy mất” chuyện ngang tàng.



Ta nhớ trứng gà ông cụ Nhớ,[12]

Đi bộ từ Phú Nhuận xa xôi.

Những ếch vàng của ông Nên Củng,

Quà tặng người nghèo ôi quí biết bao !



Ta nhớ những đêm Hè Hội Tín,

Giữa mùa trăng kể chuyện “Xạ Điêu”.

Trong bọn trẻ em ngày xưa đó,

Binh, Phú giờ đây linh mục triều.[13]

Ta nhớ lời kinh chung mỗi tối,[14]

“Yêu mến như Thầy Giảng Anrê Phú Yên…”

Ta sẽ mang kinh về nguồn cội,

Để đọc cùng nhau chốn thiên đình.



Ta nhớ làm sao ta nhớ hết,

Kho chuyện đời trai trẻ miên man.

Để khi nao đường đi mõi mệt,

Trở về nghe lại một cung đàn.



Giuse Trương Đình Hiền



-------------------------------------------------------------------

[1] Anh em về Mằng Lăng vào ngày 17.12.1975. Năm đó mùa Đông rất lạnh.

[2] Hồi đó Thầy Bản, tức ĐC Cha Vinh Sơn GM Ban Mê Thuột hôm nay, rất sợ đỉa, nhờ anh em động viên nên quen dần.

[3] Thời gian làm ruộng ở Đồng Cháy, đêm đêm ngủ chung trên nền nhà thờ Đồng Cháy, kể nhau nghe chuyện kiếm hiệp “Anh hùng xạ điêu”

[4] Tên một số gia đình giáo dân thường giúp đỡ các thầy. Nhờ sự ân cần thương mến đó đã nang đỡ tinh thần ơn gọi.

[5] Hồi đó, các thầy có máy và che ép mía, đã đưa lê tận Kỳ Lộ, La Hai để ép mía mướn. Mỗi lần đi về đều chỉ bằng phương tiện xe đạp.

[6] Thầy Bản từng tham gia đi công tác phá rừng làm rẫy ở An Xuân với thanh niên. Thời gian đó vùng nầy khí độc, ban đêm thường có người bị trúng gió. Mỗi lần như thế, các bạn trẻ kêu cứu cùng thầy Bản…

[7] Một giáo lý viên ở Mằng Lăng. Hiện nay có một người con là chủng sinh ở CV Sao Biển Nha Trang.

[8] Một giáo dân Tân Tòng gốc Bắc 54 ở Mằng Lăng rất quí mến các thầy. Mỗi lần Bổn mạng Giuse, xin câu được 1 con cá lóc và lúc nào cũng câu được như ý.

[9] Đó là buổi sáng mùa làm mía ở Đồng Cháy, chứng kiến biến cố Công An huyện Tuy An và xã An Thạch bắt ông Thủ ở bờ bên kia sông Đồng Cháy. Ông nầy sau đó đã bị bắn chết.

[10] Thầy Tánh xuất tu năm 1977. Sau đó bỏ đi biệt tích và nay đã chết. Thầy Tường về nhà vượt biên và mất tích.

[11] Lần đó có phái đoàn gx Đông Mỹ ra mừng Bổn mạng F.X cha Văn. Vì nước lụt, chiều các thầy đưa khách về qua sông Ngân Sơn. Thầy Bản chở anh rễ, anh Công, và bị chìm sỏng khi qua tới bờ bên kia.

[12] Ông cụ Nhớ thường đi bộ từ Phú Nhuận về ML dự lễ CN. Mỗi lần mang theo ít trứng gà cho cha Văn và các Thầy. Ông Củng Nên sống bằng nghề câu ếch, nghèo rớt mùng tơi, nhưng vẫn không quên “bố thí” ếch cho cha và các thầy.

[13] Cha Binh hiện nay là cha sở Đa Lộc, cha Phú là cha sở Hóc Gáo.

[14] Sau giờ kinh tối, anh em đọc chung lời kinh dâng kính Á Thánh Anrê Phú Yên, từ rước khi ngài được phong Á Thánh. Đây là kinh nguyện đó : “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết yêu mến Chúa một cách khiêm nhường như Thầy Giảng Anrê Phú Yên, lấy tình yêu đáp trả tình yêu, đem mạng sống đáp đền mạng sống mà trung thành với Chúa đến cùng. Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con xin đặt các việc tông đồ của chúng con dưới sự bảo trợ của thầy Anrê. Xin hãy tỏ vinh quang của Ngài mà chúc lành cho công việc chúng con đang làm được thành tựu như Chúa để Chúa được vinh danh hơn. Amen.” Nguồn www.ghphuyen.net (http://www.ghphuyen.net)