PDA

View Full Version : NHỊ THẬP TỨ HIẾU



dominico_dung
23-05-2010, 11:21 AM
http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/cor_left_up.pngNHỊ THẬP TỨ HIẾUhttp://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/cor_right_up.png


http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/NhiThapTuHieu.png

http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/hoavan_01.png





Quách Cư Nghiệp



Lý Văn Phức



(Nguồn: sưu tầm Internet và biên tập lại)









Nhị thập tứ hiếu (chữ Hán: http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/NhiThapTuHieu_small.png) là một tác phẩm trong văn học Trung Hoa kể lại sự tích của 24 tấm gương hiếu thảo do Quách Cư Nghiệp (có sách ghi Quách Cư Kinh http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/QuachCuKinh.png, bính âm: Guō Jūjìng) vào thời nhà Nguyên biên soạn.

Ông nổi tiếng là một người con hiếu thảo, và sau khi cha mất ông đã xuất bản quyển này. Hầu hết các người con hiếu thảo là nam giới báo hiếu cho mẹ già. Các câu chuyện được kể lại xảy ra từ thời Thuấn Đế đến đời ông.


¯

Ở Việt Nam, ông Lý Văn Phức (1785-1849), đậu Cử Nhân, làm quan dưới ba triều vua nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là nhà văn chủ trương đạo đức, liền dịch truyện Nhị thập tứ Hiếu của Quách Cự Nghiệp ra quốc văn theo thể thơ song thất lục bát, để dễ truyền bá mà răn dạy người đời là phải có hiếu với cha mẹ.

Nho giáo dạy rất kỹ về Nhơn đạo, lấy chữ Hiếu làm căn bản đạo đức con người (Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu). Người không hiếu với cha mẹ thì nhứt định không có đạo đức, không dùng được.




Lý Văn Phức tự là Lân Chi, hiệu là Khắc Trai, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội, sinh vào năm Ất Tỵ (1785).Ông thi đỗ Cử nhân vào năm 1819, niên hiệu Gia Long thứ 18. Ông trải qua ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức.Trong cuộc đời làm quan, ông bị nhiều lần thăng giáng, và được cử đi công cán nhiều nước ở Viễn đông.
Vào năm 1849, ông bị bệnh mà mất, nhà vua liền cho truy thụ Lễ Bộ Hữu Thị Lang.




Nhị Thập Tứ Hiếu diễn âm



(hai mươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm)





Người tai mắt đứng trong trời đất,





Ai là không cha mẹ sinh thành,





Gương treo đất nghĩa, trời kinh,





ở sao cho xứng chút tình làm con.





Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,





Thì suy ra trăm nết đều nên,





Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,





Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.




http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/cor_left_down.png ...............................................................................................................................http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/cor_right_down.png

dominico_dung
23-05-2010, 11:30 AM
Giới thiệu và Kết luận



Để giới thiệu truyện Nhị Thập Tứ Hiếu, trong phần Khai Mào, Lý Văn Phức đã nói qua về sự hiếu thân là trọng trong đạo làm người. Con người quên công sinh thành của cha mẹ không còn xứng đáng đứng trong trời đất nữa:



Người tai mắt đứng trong trời đất



Ai là không cha mẹ sinh thành,



Gương treo đất nghĩa trời kinh,



Ở sao cho xứng chút tình làm con.



Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết



Thì suy ra trăm nết đều nên,



Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,



Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.



Trong phần Kết luận, tác giả tóm tắt lại những ý chính trong bao nhiêu truyện của các bậc hiếu tử, từ những người đỗ đạt ra làm quan cho đến những hạng thứ dân, không ai có thể vượt qua đạo lý cổ nhân, và không ai quên được Tam cương và Ngũ thường. Cho nên, mọi người đều phải xem chữ hiếu là trọng:



Bấy nhiêu cổ tích cổ nhân về trước.



Cách nghìn xưa như tạc một lòng,



Kể chi kẻ đạt người cùng,



Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân,



Buổi công hạ cảm thân dày đội,



Xa hương quan gần cõi Thánh Hiền,



Trông vào những thẹn bóng đèn,



Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm

dominico_dung
23-05-2010, 11:41 AM
TRUYỆN THỨ I





NGU THUẤN



http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/T01.jpg
Ảnh: http://vnthuquan.net


Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên là Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho.

Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu. Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không phân biệt được người hay kẻ dở, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt).

Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cỗ Tẩu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn trọn gìn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán.

Khi cha bắt đi cày ở đất Lịch Sơn cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người, nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn Cổ Tẩu và người dì ghẻ sai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên. Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.


Vì đoạn này tôi có biết thêm một số chi tiết có thể nói rõ hơn tình cảnh của vua Thuấn. Nhận thấy như vậy nên tuỳ tiện thêm vào chứ không có ý tự chỉnh sửa sách của tiền nhân. Nếu không vừa ý các bạn có thể xoá đi khi chia sẻ với ng ười khác.


Đời vua Thuấn: Phụ ngoan, mẫu dâm, đệ ngạo, Thuấn vi khắc tận hiếu đạo (cha ngoan cố, mẹ dâm đãng song ông Thuấn hết lòng làm tròn đạo Hiếu).


Cha của vua Thuấn rất ngoan cố. Tên của ông ta là Cổ Tẩu (ông già mù), ý nói ông ta có mắt nhưng không tròng, vì không biết đạo lý trắng đen, đúng sai, thẳng cong, thiện ác là gì cả. Ông có con là vua Thuấn, một người con rất hiếu thảo mà không biết nữa. Bà mẹ của vua Thuấn là bà mẹ kế; bà này dâm loạn, nham hiểm chẳng bao giờ nói tới luân lý, chỉ nghĩ đén chuyện vô luân. Ông Thuấn có người em khác mẹ tên là Tượng cũng hết sức ngạo mạn, không cung kính anh mình. Tuy vậy trong gia đình, ông Thuấn hết sức hiếu thảo với cha mẹ, hết sức thương yêu lo lắng cho em. Lúc bấy giờ, ngưòi em của ông Thuấn với bà mẹ kế nghĩ cách làm hại ông, nên một ngày nọ kêu ông vào kho gạo để quét dọn. Chờ đến khi ông vào trong rồi mới tức khắc nổi lưả đốt nhà. Nhà kho bắt lửa bừng cháy dữ dội. Họ thầm nghĩ ông Thuấn chắc sẽ bị lửa đốt chết nhưng chẳng mấy chốc lại thấy ông Thuấn về nhà. Người em liền hỏi nguyên do thì ông Thuấn đáp rằng: "Khi tôi thấy lửa cháy, tôi lượm hai cái bừng cỏ che thân rồi leo lên mái nhà nhảy thoát ra ngoài, cho nên chẳng bị thương cũng không bị thiêu đốt".


Một lần khác, khi ông Thuấn ra giếng lấy nước thì hai người ấy lại nghĩ cách để hại ông. Lúc ông Thuấn leo xuống giếng thì họ đem một tảng đá lớn đến bịt miệng giếng không cho ông lên. Họ tin rằng ông Thuấn lần này sẽ chết (là dồn đến đường cùng vậy). Song dưới giếng lại có một cái động nên ông Thuấn lại nương vào đó mà bò lên (có nơi lại nói ở đó có con hồ li trắng hay tới lui nơi đó và nhờ nó mà ông thoát). Bấy giờ tên Tượng nghĩ rằng ông Thuấn đã chết nên về nhà nói với mẹ chuyện chia gia tài. Y nói: "Dê với bò để cho cha mẹ, lương thực cũng để cho cha mẹ. Tôi không cần những thứđó. Tôi chỉ cần cái ống tiêu, chiếc đàn ngũ huyền cầm, đồ luyện võ và hai bà vợ của ông Thuấn (tức là Nga Hoàng và Nữ Anh cả hai đều là con gái vua Nghiêu được vua đặc biệt hứa gả để phục dịch ông)". Nói xong tên Tượng vào phòng thì thấy ông Thuấn ngồi chễm chệ trên giường. Tượng sợ quá, ông Thuấn liền đến an ủi người em đừng sợ. Lòng người lúc đó xấu xa như vậy, hãm hại ngài nhiều lần mà Vua Thuấn truớc sau như một để rôi cuối cùng cả nhà êm ấm, chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.


Nguyên bản:


Đội đội canh điền tượng,



Phân Phân vân thảo cầm,



Phụ Nghiêu đăng báo vị,



Hiếu cảm động thiên tâm

Có nghĩa là:


Hàng đàn voi về cày ruộng,



Hàng bầy chim đến nhặt cỏ,



Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,



Hiếu thảo động lòng trời.


Diễn Quốc Âm:


Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,



Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,



Tuổi xanh khuất bóng từ vi



Cha là Cổ Tẫu người thì ương ương,



Mẹ ghẻ tính càng khe khắt,



Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa,



Một mình thuận cả vừa ba,



Trên chiều cha mẹ dưới hòa cùng em.



Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,



Dẫu tử sinh không chút biến dời,



Xót tình khóc tối kêu mai



Xui lòng ghen chét hóa vui dần dần,



Trời cao thẳm mấy lần cũng đến



Vật vô tri cũng mến lọ người.



Mấy phen non lịch pha phôi,



Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày.



Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,



Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi



Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,


Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.

dominico_dung
24-05-2010, 10:13 PM
TRUYỆN THỨ II








VĂN ĐẾ



http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/T02.jpg
Ảnh: http://vnthuquan.net (http://vnthuquan.net/)


Tên thật là Hằng, con người vợ thứ của Hán Cao Tổ Lưu Bang em cùng cha khác mẹ với vua Huệ Đế. Vì người vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen dữ tợn và sợ con của người vợ thứ sau này dành ngôi, nên không muốn cho Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều.

Theo lời đề nghị của đình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng chức Đại Vương ở đất Đại. Hằng tính tình hiếu thuận được triều thần nhà Hán cũng như thần dân đều mến phục. Sau khi anh là vua Huệ Đế mất, không con nối nghiệp, các quan liền ra đất Đại rước Hằng về lên ngôi, tức là Hán Văn Đế. Khi làm vua rồi, mẹ là Bạc Hậu lại đau yếu trong suốt ba năm liền, Văn Đế, ngoài những buổi chầu, vẫn mặc đại phục của vị Vương đế và đứng hầu mẹ, biếng ăn bỏ ngũ, đêm thức canh chừng bệnh mẹ. Thường ngự y dâng thuốc lên, Văn Đế đở lấy rồi nếm trước sợ có thuốc độc.

Các quan trong triều cũng như ngoài dân chúng biết Văn Đế là người hiếu tử đều bắt chước theo. Nhờ đó, người trong nước đều giữ lòng hiếu thảo hòa mục và thiên hạ thái bình thạnh trị không khác gì ở thời Tam Đại thuở trước (Tam Đại gồm có các đời vua nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu).


Nguyên bản:


Nhân hiếu lâm thiên hạ,



Nguy nguy quân bách Vương,



Hán đình sự hiền mẫu,



Thang dược tất tiến thường.

Có nghĩa là:


Lấy đạo nhân hiếu dạy thiên hạ,



Công đức cao hơn trăm vua khác,



Phụng dưỡng mẹ nơi công đình nhà Hán,



Thuốc thang tự tay nếm trước.


Diễn Quốc Âm:


Kìa Văn Đế vua hiền Hán Đại,



Vâng ấn phong ngoài cõi phiên Vương,



Quên mình chức cả quyền sang,



Phụng thờ Bạc Hậu lẽ thường chẳng sai,



Đến khi nối ngôi trời trị nước,



Vẫn lòng này săn sắc như xưa.



Mẹ khi ngại gió kinh mưa.



Ba năm hầu hạ thường như một ngày.



Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ.



Áo luôn mình dám sổ đai lưng.



Thuốc thang mắt xét tay nâng.



Có tường trong miệng mới dâng dưới màn.



Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,



Thói thuần lương hóa cả lê nguyên,



Hai mươi năm lẽ kiền khôn.



Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang.



Ấy hai vị đế Vương đời trước,



Chữ hiếu dành đá tạc vàng in,



Còn ra sĩ thứ, đấng hiền.



Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.

dominico_dung
28-05-2010, 11:58 PM
TRUYỆN THỨ III








TĂNG TỬ



http://i213.photobucket.com/albums/cc294/arilandung/my_decorate/T03.jpg
Ảnh: http://vnthuquan.net (http://vnthuquan.net/)



Tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ở ấp Vũ Thành thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò giỏi nhất của Khổng Tử.


Tăng Tử được liệt vào hàng tứ phối, nghĩa là trong số bốn người, cùng được phối hưởng với Khổng Tử.

Ông thờ cha mẹ rất hiếu thảo, bữa ăn nào cũng cố gắng tìm đũ rượu thịt cho cha mẹ dùng. Khi cha mẹ dùng bữa xong, còn thừa món ăn nào, ông hỏi cha mẹ cho ai thì ông vâng mà cho người ấy.

Một hôm ông vắng nhà để vào rừng kiếm củi, có người khách đến chơi, mẹ ông muốn cho ông về ngay, nhưng không biết phải làm cách nào, liền cắn vào đầu ngón tay để động lòng con mình. Quả nhiên ở trong rừng ông cảm cảm thấy trong lòng quặn đau, vội vã gánh củi về nhà.

Nguyên bản:


Mẫu chỉ tài phương khiết,



Nhỉ tâm thống bất căm,



Phụ tân qui vị vãn,



Cốt nhục chí tình thâm.

Có nghĩa là:


Mẹ vừa cắn ngón tay,



Con quặn đau trong dạ,



Vội vàng đội cũi về,



Cốt nhục tình linh cảm.


Diễn Quốc Âm:


Đời Chu Mạt có thầy Tăng Tử,



Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,



Bữa thường rượu thịt ngon lành,



Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời,



Nhà bần bạc thường vui hái củi,



Quảng mù xanh thui thủi non xâu.



Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,



Nhân khi khách đến trông mau con về.



Rối trong dạ nhân khi cùng túng.



Cắn ngón tay cho động lòng con.



Trông non bỗng chốc bồn chồn.



Quặn đau khúc ruột bước dồn gót chân.



Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi.



Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn.



Cho hay từ hiếu, tương quan.


Non Đồng khi lỡ, khôn hàn tiếng chuông.

traitimyeuminhem
31-05-2010, 04:12 PM
mọi người có thể đọc hết tác phẩm tại đây : http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n4n3nvn31n343tq83a3q3m3237n1n

đọc sách thánh hiền để trở nên thánh hiền
tu tâm dưỡng tánh tai qua nạn khỏi
bốn chữ trung hiếu nghĩa tình
luôn giữ vẹn không rời xa ta !!

dominico_dung
19-08-2010, 11:49 PM
* Từ nguồn dẫn trên cùng một vài tư liệu khác có trên Internet, chúng tôi đã soạn lại cho dễ đọc trên, dễ in ấn.... mà không post tiếp lên diễn đàn.

* Quý vị có thể chép về máy để sử dụng cho thuận tiện:


+ File .doc (MS-Word): DOWLOAD (https://thanhcavietnam.info/dominico_dung/Dung/TacPhamVanHoc/NhiThapTuHieu/NhiThapTuHieu_BanCo.doc)

+ File .pdf : DOWLOAD (https://thanhcavietnam.info/dominico_dung/Dung/TacPhamVanHoc/NhiThapTuHieu/NhiThapTuHieu_BanCo.pdf)


Mến chúc quý vị có thật nhiều thư thái với tác phẩm này!

hoahairau
21-03-2011, 06:28 AM
Download toàn bộ phim này về xem: 3VCD
http://lh6.ggpht.com/_8HqbiBXnKyk/TO1vC8N5JPI/AAAAAAAABBc/2aPNO04Ef1E/mediafire-logo%5B3%5D%5B9%5D%5B5%5D.jpg?imgmax=800
Liên kết: folder http://www.mediafire.com/?xjktbv5x253f3
frame: 352x288 (chuẩn VCD)
____ film do @phuong44dltt phát hành!

hoặc dạng Avi:
http://wwwstatic.megaupload.com/images/logo.gif
frame 720x480 chuẩn SVCD
Download 2 splitted files
Nhi Thap Tu Hieu.avi.001
http://www.megaupload.com/?d=X1MS6WRL
Nhi Thap Tu Hieu.avi.002
http://www.megaupload.com/?d=JGSWX54G