PDA

View Full Version : Nhớ về Bác Tài



halleluyah
30-05-2010, 10:43 PM
VRNs (26.05.2010) - Nhân dịp giỗ lần thứ 5 cha Antôn Vương Đình Tài (27/05/2005), linh mục thừa sai DCCT từng phục vụ người Dân tộc Jrai (tỉnh Gia Lai) nhiều năm, một giáo dân tại Paris gửi đến cho chúng tôi bài viết dưới đây và một chứng từ của cha Tài. Xin mời quý vị cùng đọc. Ngày mai chúng tôi sẽ đăng bài chứng từ của cha Antôn Vương Đình Tài.





Trong số những người quen biết và cùng làm việc với Bác, ngoài những anh em trong Dòng, tôi là người có duyên nợ gắn bó và gần gũi với Bác nhiều hơn cả. Gần gũi trong cả hai nghĩa, cùng sống gần nhau và hiểu nhau. Nhưng ngày Bác từ bỏ cõi đời ra đi, tôi không có mặt trong đoàn người ràn rụa nước mắt trong tim và trên khóe mắt tiễn đưa Bác đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tuy thế tôi đã khóc và nhớ đến Bác từ xa. Trong thâm sâu tình cảm, tâm hồn tôi đã hòa cùng tiếng cồng chiêng và tiếng khóc hát nỉ non của những người phụ nữ Jrai bên quan tài Bác. Ngày ấy cộng đồng Công giáo Jrai trên Tây nguyên đã mất đi một người cha, một Linh mục đã dành trọn đời mình làm chứng cho Tin mừng Cứu độ, linh mục Antôn Vương Đình Tài.



Trong những ngày đầu tiên đến Tây Nguyên tạm trú tại nhà số 52 đường Hùng Vương thị xã Pleiku, khi «lần mò» đến làm quen với người Jrai ở những làng lân cận, họ đã gọi vị Linh mục trẻ Dòng Chúa Cứu Thế 32 tuổi đời là ‘Ơi’, một danh xưng quý trọng và thân thương trong ngôn ngữ Jrai. ‘Ơi’ vừa có nghĩa là ông bà (Ơi yă) vừa có nghĩa là «ngài» (Ơi Pơtao, Ơi Tu). Từ ngày ấy danh xưng Ơi đã gắn liền với cuộc đời của vị Linh mục và theo ngài cho đến cuối đời. Danh xưng này với vị Linh mục trẻ như một dấu vết thề nguyền, như chiếc nhẫn hôn phối trong việc tự nguyện dấn thân loan báo Tin mừng cho cộng đồng người Jrai. Ơi Tài đã trung thành với hôn thê của mình cho đến hơi thở cuối cùng bằng tình yêu thương dành cho họ. Người Kinh quen gọi bằng Bác Tài.


http://www.chuacuuthe.com/wp-content/uploads/2010/05/Picture2.jpg

Bốn thừa sai tiên khởi DCCT đến phục vụ cộng đồng người Jrai (1969): lm. Antôn Vương Đình Tài, thầy Leonard Quân, lm. Phêrô Nguyễn Đức Mầu và lm. Giuse Trần Sĩ Tín


Tản mạn những mẩu chuyện nhỏ chung quanh cuộc sống của Bác với người Jrai


Câu chuyện «giấy Liên xô»

Trong những năm 1985, đời sống kinh tế dân Việt nam rất khó khăn trong chế độ bao cấp. Buổi sáng để uống được một ly cà phê người ta phải xếp hàng, để có vải may áo quần, mua gạo, dầu thắp cũng phải xếp hàng. Ngày ấy Bác sống tại làng Plei Chuet trong căn nhà nhỏ tối đen thiếu ánh sáng lợp bằng tôn loang lổ nhiều chỗ lủng. Bác gọi anh Yuan, một thanh niên Jrai đến nhờ ra phố mua hai cuộn giấy dầu dùng lợp mái nhà, người ta thường gọi là giấy Liên xô. Khoảng vài giờ sau, tôi đang nấu cơm trong bếp bỗng nghe Bác nói rất to tiếng. Tôi tò mò lên xem, trước mắt tôi là anh Yuan tội nghiệp đang cúi đầu đứng im bất động, bên cạnh là một chồng giấy báo Liên xô. Đứng bên góc nhà, Bác lắc đầu thất vọng nói với Yuan: «Lần sau nếu con không hiểu điều gì phải hỏi rõ nhé». Sau khi anh Yuan ra về Bác nói nhỏ với tôi: «Con thấy đấy, sống với người Jrai không phải dễ, nhiều khi tức đến chết được nhưng phải cố gắng. Con xem, Bác nhờ mua giấy dầu lợp lại mái nhà, anh ta đi mua báo về cho Bác đọc».

Câu chuyện giấy dầu sau đó không còn ai nhớ nữa, nhưng trong những ngày cuối đời của Bác, anh Yuan hằng ngày đến thăm và bóp tay chân cho Bác đỡ mỏi, hay đúng hơn là chia sẻ cơn đau của Bác. Anh cũng là thợ cắt tóc trung thành của Bác trong nhiều năm. Ngoài câu chuyện với anh Yuan ra, còn rất nhiều chuyện Bác phải «cố gắng» để sống cùng anh em Jrai, để hướng dẫn dạy dỗ họ tìm về với Thiên Chúa. Những cố gắng của Bác nếu không được tác động bằng tình yêu thương chân thành và chứa chan thì khó có thể bình tâm như thế với một cộng đoàn khác ngôn ngữ, khác văn hóa và lối sống. Tình yêu thương của Bác đối với anh em Jrai phải chăng là phương tiện nhanh nhất và hữu hiệu nhất, là bài giảng hùng hồn nhất để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa với con người? Tình yêu ấy đã được đáp trả. Vào những tháng ngày cuối đời, ban đêm nhiều anh em Jrai «lén» mò đến nơi Bác ở. Lén vì có «lệnh» cấm không được làm phiền Bác. Nhưng lệnh ấy đâu biết rằng với người Jrai, khi người họ yêu mến bị đau bệnh nặng, theo phong tục là đến thăm và ngủ với người ấy. Cấm không được đến là một cực hình, là một nỗi đau với họ.

http://www.chuacuuthe.com/wp-content/uploads/2010/05/Picture1.jpg
Nhà thờ Plei Chuet được xây dựng sau khi cha Tài về với Chúa



Chiếc xe Honda mới

Trong thời bao cấp ai có được chiếc xe Honda để đi là người khá giả. Không biết ai đó đã tặng Bác một chiếc xe Honda nữ 50 phân khối để đi các làng. Hôm ấy là ngày Chúa Nhật, Bác hẹn với cộng đoàn làng Plei Jut sẽ đến dâng thánh lễ trong làng. Bác cũng hẹn với tôi sẽ gặp nhau tại đó. Làng Plei Jut cách nơi Bác ở khoảng 15km, để vào làng chỉ có hai con đường đất bazan, một băng qua đồi thông dài gần 800m, con đường kia ngắn hơn nhưng phải leo dốc khá cao. Vì đang là mùa mưa nên đường nào cũng trơn như bôi mỡ. Đã quá hẹn gần 30 phút vẫn không thấy Bác đến, cộng đoàn vài chục người kẻ ngồi người đứng dưới tàn cây trong vườn một giáo dân, vì không có nhà nguyện nên thánh lễ sẽ cử hành ngoài trời. Một lúc sau chúng tôi thấy Bác đến. Ai cũng trợn mắt kinh ngạc, nhiều người không kìm được phải phì cười vì thấy Bác như mới đi làm ruộng về, mặt mũi áo quần bê bết bùn. Bác mệt mỏi lắc đầu nói đùa: «Các ông viết đơn xin nhà nước làm đường nhựa để Ơi tới dâng lễ đi. Đường đất trơn trợt nguy hiểm quá. May là chưa què chân». Anh trưởng cộng đoàn đem đến một trái bầu khô đựng nước giúp Bác «làm vệ sinh» ngay tại chỗ. Chỉ lau sơ qua mặt mũi và hai tay, Bác choàng áo lễ che khuất bộ quần áo loang lổ bùn và bắt đầu dâng thánh lễ. Hôm ấy những vết bùn đất như hào quang thiên quốc tô điểm thêm vào lời giảng và lời cầu nguyện của Bác cùng với cộng đoàn làng Plei Jut, và có thể những vết bùn đất ấy đã biến thành những ca khúc chúc tụng Thiên chúa dễ hiểu và dễ thấy, dễ cảm nhận với dân làng hơn, để từ đó cộng đoàn càng ngày càng phát triển đông thêm. Những vết bùn đất đáng yêu và xinh đẹp!

http://www.chuacuuthe.com/wp-content/uploads/2010/05/Picture7.jpg
Một thánh lễ cha Tài dâng với anh em Jrai

Anh công an

Công việc mục vụ của các linh mục thời ấy và cả bây giờ rất bị hạn chế bởi chính quyền, nhất là khi có liên quan đến cộng đồng các dân tộc thiểu số trên Tây nguyên. Mọi sinh hoạt mục vụ đều phải tuân hành theo cơ chế xin-cho. Bác đảm nhiệm gần 100 làng Jrai chung quanh thành phố Pleiku, và chưa bao giờ xin phép ai để đi làm mục vụ. Hôm ấy Bác hẹn tôi cùng tới thăm một cộng đoàn mới, vỏn vẹn khoảng 12 người trong đó ba người đã lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Tôi tới trước ngồi tán gẫu với anh em, một lúc sau Bác đến. Cuộc chuyện trò giữa Bác với nhóm dân làng chưa được 30 phút bỗng thấy một vị khách không được mời nhưng cứ đến: một anh công an. Mọi người lo lắng im tiếng. Bác vẫn cứ nói. Chờ cho anh kia vào nhà Bác quay qua anh ta hỏi thăm đủ thứ chuyện trên đời, từ vợ con, gia đình, quê quán không để cho anh ấy có dịp đặt câu hỏi. Sau cơn bão của những câu thăm hỏi, Bác đứng lên chào anh ta và nói «Cháu ngồi chơi đi, bác ghé thăm mấy người đây xong rồi. Bác đi trước nhé». Miệng nói chân đi ra xe, chỉ sau chưa đầy hai phút Bác và tôi đã biến khỏi làng. Hú hồn

http://www.chuacuuthe.com/wp-content/uploads/2010/05/Picture8.jpg
Một buổi lễ của người Công giáo Jrai tại Gia Lai



Với Đức cha Alexis Phạm Văn Lộc

Dòng Chúa Cứu Thế được Đức cha Paul Seitz trao bài sai tại làng Pleikly thuộc huyện Phú Nhơn ngày nay. Theo tinh thần bài sai, nhóm các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách vùng người Jrai cư ngụ. Cộng đoàn các tu sĩ phân chia nhau địa bàn làm việc: Bác ở vùng Jrai chung quanh Pleiku, Cha Trần sĩ Tín và Thầy Quân ở vùng Pleikly, Cha Nguyễn Văn Phán ở Ayunpa.



Sau biến cố chính trị 1975, Đức cha Paul Seitz bị trục xuất về Pháp cùng với các Cha của Hội Thừa sai Paris. Tòa thánh Vatican tấn phong Linh mục Alexis Phạm Văn Lộc làm Giám mục cai quản giáo phận Kontum. Trong thời gian này Thần khí Thiên Chúa đã làm nên những sự việc kỳ diệu lạ lùng: người Jrai tìm hiểu đạo Công giáo và theo đạo càng ngày càng đông. Sự kiện này đã làm cho vị Giám mục Việt nam đầu tiên trên Tây nguyên nghi ngờ những gì cộng đoàn tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã dạy và đã làm với tân tòng Jrai. Sự lo lắng của ĐGM không phải là không có duyên cớ. Ngược dòng lịch sử truyền giáo của giáo phận, từ năm 1840 các linh mục người Pháp cùng với Thầy Sáu Do đã đặt chân lên Tây Nguyên để rao giảng lời Chúa. Các ngài đã đến vùng đất người Bahnar cư ngụ nay là Kontum. Sau nhiều gian lao khổ cực Tin mừng được cộng đồng người Bahnar đón nhận, tuy thế thất bại của các ngài là không thể đến được với người Jrai ở phía Nam, một dân tộc cứng đầu, hiếu chiến và đông đảo, nay bỗng dưng «ùa theo đạo». Hơn nữa, các linh mục DCCT đã làm những việc «lạ lùng» với truyền thống giáo phận: các ngài đã cử hành Bí tích Thanh tẩy trong dòng suối, dìm tân tòng vào dòng nước thiên nhiên. Có thể với «truyền thống» sự kiện này thật sự chướng tai gai mắt nhưng với văn hóa người Jrai, dòng nước là biểu tượng của sự thanh tẩy, gột rửa, đổi mới. Với dòng nước họ sẽ trở thành mạnh khoẻ hơn sau khi được tẩy sạch những mầm mống của sự bệnh hay sự ô uế. Nay theo đức tin và giáo lý Công giáo, qua Bí tích Thanh tẩy trong nước họ sẽ được tái sinh trong Thần khí Thiên Chúa. Trước kia linh mục Jacques Dournes cũng đã bị phê phán là «dị hợm» vì đã đóng khố và mang gùi như người Jrai. Nhưng đã hơn 40 năm, những lời dạy bảo và hình ảnh của ngài vẫn còn in đậm nét trong cộng đồng người Jrai ở Ayunpa.

Thời gian trôi dần cùng với sự lớn nhanh đông đúc của cộng đoàn Công giáo Jrai thúc đẩy Bác mơ ước được ĐGM đến thăm cộng đoàn hay nói đúng hơn là đến «nhận con». Sự trông chờ quá lâu biến dần thành thất vọng. Các tu sĩ DCCT tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin mừng bằng phương cách của mình. Các ngài hòa nhập với cuộc sống đời thường của người Jrai, trân trọng những phong tục truyền thống của họ và nói với họ về Chúa. Một biến cố bất ngờ ngoài dự trù của Bác, ĐGM Alexis đồng ý đến thăm cộng đoàn Jrai và ban Bí tích Thêm sức. Nhận được tin này Bác như sống trên mây, những tổ chức đón tiếp Đức cha Bác giao cho các trưởng cộng đoàn tự lo, riêng Bác cứ loay hoay đi đi lại lại từ nơi này sang nơi khác tâm trí nôn nao lo lắng. Ngày chờ mong của Bác và của mọi người đã đến, ĐGM Alexis tới trong sự hân hoan mừng vui của cộng đoàn Jrai. Đây là lần đầu tiên ngài chính thức đến thăm họ. Tôi còn nhớ ĐGM đã hỏi đùa một vài người: «Biết đọc kinh Lạy cha không? Biết đọc kinh Kính mừng không?». Tuy là câu nói đùa nhưng phảng phất đâu đó sự nghi ngờ của Đức Cha với phương pháp giảng dạy giáo lý của các tu sĩ DCCT vẫn còn in đậm nét trong tâm trí ngài khi thấy giáo dân Jrai cầu nguyện tự phát bằng lời, mắt nhắm hai tay giơ ra trước như cầu xin và nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn, yếu đuối.



Khi ĐGM và Bác bước lên bàn thờ, sau đấy tôi thấy Bác loay hoay tìm kiếm cái gì đó khắp nơi quanh bàn thờ. Vì đứng gần nên tôi thấy mồ hôi của Bác nhỏ giọt, không biết vì nóng hay vì lo lắng nhưng Bác thì cứ lục tìm. Tôi đến hỏi nhỏ: «Bác tìm gì vậy?», «Cuốn sách dâng lễ». Tôi nói: «con thấy ở trong tủ phòng áo». Tôi chạy lấy đem đến cho Bác. Thế đấy, từ lâu nay Bác chỉ dâng lễ bằng tiếng Jrai, các lời đọc được đánh máy trên một xấp giấy mỏng nên ít dùng đến cuốn sách ấy. Bác quên rằng Đức giám mục chỉ biết đọc tiếng Bahnar và tiếng Kinh. Hú hồn!

http://www.chuacuuthe.com/wp-content/uploads/2010/05/Picture6.jpg
Cộng đoàn DCCT Pleiku năm 2009 tại Pleikly và ĐGM Kontum Micaen Hoàng Đức Oanh




Những năm tháng cuối đời

Sau khi Việt nam mở cửa với thế giới, nhiều hội đoàn từ thiện phi chính phủ tìm đến Tây nguyên để chia sẻ sự thiếu thốn nghèo đói của người thiểu số. Những ngày ấy cuộc sống đơn sơ bình dị của Bác bị xáo trộn bởi những lần viếng thăm của các hội đoàn và nhất là việc theo dõi sổ sách các dự án. Được có phương tiện giúp người nghèo Bác rất vui. Nhưng một sự kiện đã làm thay đổi hoàn toàn một con người, thay đổi Bác.



Hôm ấy các em bé đến nhà thờ học giáo lý, các em ở độ tuổi 10-12. Đang đùa chơi trong sân bỗng các em hô hoán la to: «xem kìa, lạ quá. Đẹp quá». Một số em chạy vào gọi Bác ra xem. Bác nhìn theo tay bọn trẻ chỉ lên mặt trời nhưng chẳng thấy gì lạ cả. Bác hỏi chúng: «Các cháu thấy gì nói cho Ơi nghe coi». Bọn trẻ tranh nhau nói: «Mặt trời có màu đẹp lắm». «Có chữ gì đó ở giữa cháu không biết. Mặt trời quay tròn nhiều màu đẹp lắm». Bác hỏi: «chữ gì nói Bác nghe xem». «Chữ H, chữ S còn chữ gì đó cháu không biết, nó giống cái lưỡi câu». Em bé ngồi vẽ xuống đất cho Bác xem: chữ J. Xem xong Bác bần thần xúc động khi nối kết ba mẫu tự lại với nhau: JHS = Jésus. Bác nói với bọn trẻ: Phép lạ Chúa cho các con thấy đấy. Các con hãy cầu nguyện đi. Bọn trẻ chạy vào nhà thờ cùng cầu nguyện.



Một tuần sau, sự kiện trên lại tái diễn và vị linh mục vẫn không thấy gì cả, chỉ nghe bọn trẻ tranh nhau nói về sự lạ. Lần thứ ba, Bác tâm sự rằng Bác đã thấy những gì bọn trẻ nói. Từ ngày ấy Bác ít nói hơn. Ít quan tâm đến dự án từ thiện và không bao lâu sau Bác đề nghị ngưng bỏ tất cả. Hằng ngày Bác im lặng nhiều hơn, trong tay luôn cầm tràng hạt. Nhóm anh em giáo phu đến học mỗi thứ Bảy hàng tuần phát hiện ra Bác rất lạ, khác xưa rất nhiều. Những lần dâng thánh lễ Bác cũng khác xưa, khuôn mặt đắm chìm vào một thế giới khác. Thời gian im lặng càng ngày càng dài thêm trong ngày để rồi cuối cùng Bác như sống ở cõi trên, mất trí nhớ. Tình trạng kéo dài cho đến ngày Bác ra đi vĩnh viễn. Câu hỏi vẫn còn đó: Bác mất trí nhớ hay khi «ngộ» Bác đã không còn thuộc về cõi đời này nữa?



Bác đã ra đi nhưng hình ảnh Bác vẫn luôn hiện diện trong cộng đoàn Jrai. Dĩ nhiên Bác là «người đời» chứ không phải là «người trời» nên không thể không có những thiếu sót của con người. Bác đã trung thành với sứ vụ Linh mục và đã hy sinh cả cuộc đời để nói về Chúa và đem Tin mừng cứu độ đến cho người Jrai. Bác đã chung thủy với cuộc tình duyên Jrai cho đến hơi thở cuối cùng. Những gì Bác để lại không phải là những ý tưởng cao vợi, những vết tích hùng tráng diễm lệ nhưng là tình yêu thương chân thành xuất phát từ con tim và cũng được cất giữ mãi mãi trong tim của người Jrai.

Đôi dòng tiểu sử : cha Antôn Vương Đình Tài, DCCT

- sinh ngày 12/06/1930, tại Đức Ninh, Đức Thọ, Nghệ Tĩnh

- Rửa tội : 14/06/1930

- Thêm sức : 21/02/1942

- tháng 6/1942 : vào Đệ tử DCCT Huế

- 14/08/1951 – 14/08/1952 : Tập viện DCCT Đà Lạt

- Khấn Dòng ngày 15/08/1952

- 1952 – 1959 : Học viện DCCT Đà Lạt

- 05/09/1959: thụ phong Linh mục tại Đà Lạt

- 1960 – 1961: Thừa sai Đại phúc tại Huế và Quảng Trị

- 1961 – 1969: truyền giáo cho người K’ho tại vùng Fyan

- 1969 – 2005: truyền giáo cho người Jrai tại Gia Lai

- 27/05/2005: về với Chúa




Truyền thông Chúa Cứu thế

:118: :118: :118: :118: :118: