PDA

View Full Version : TÌM HIỂU THÁNH LỄ



Ti_Amo
17-09-2010, 09:42 AM
Tâm Linh - Tôn Giáo (http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=subject&is=6)http://www.dunglac.org/upload/article/1284676112.jpg (http://javascript<b></b>:showpopup('file=article/1284676112.jpg')) TÌM HIỂU THÁNH LỄ




Thánh lễ là gì?


“Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế Thập giá, vì tưởng niệm và ban phát hiệu quả của hy tế nầy.” (GLGHCG 1366)


Thánh lễ là việc Chúa Giê-su nhờ tay Linh Mục dâng Ngài cho Đức Chúa Cha, như xưa chính Ngài đã dâng mình trên thánh giá.
Thanh lễ là việc chủ tế diễn lại cái chết và phục sinh của Chúa Giê-su nhưng không đổ máu.

Chúa Giê-su đóng vai trò gì trong Thánh Lễ?


Chúa Giê-su vừa là lễ dâng, vừa là người dâng chính Ngài cho Đức Chúa Cha.


“Trong Thánh lễ, không phải con người dâng lên, mà chính Đức Giê-su Ki-tô dâng lên Chúa Cha lễ vật tinh tuyền là chính Mình Máu thánh của Người. Con người chỉ dâng lên lễ vật của trần gian, lễ vật thuộc vật chất, để Đức Kit-tô biến vật chất đó thành Mình Máu thánh Người.” (Lm. Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ Thánh lễ, trang 316)

Linh mục Chủ tế đóng vai trò gì trong Thánh Lễ?


Chủ tế thay mặt Chúa Giê-su diễn lại cái chết của Giê-su nhưng không đổ máu.


Chủ tế là đại diện cho dân Chúa, là khí cụ hành động nhân danh Chúa Giê-su đang hiện diện giữa cộng đoàn.

Thánh Lễ có mấy phần?


Thánh lễ có 2 phần: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể.

Phụng vụ Lời Chúa từ đâu đến đâu?


Phụng vụ Lời Chúa từ đầu lễ đến hết lời nguyện giáo dân.

Phụng vụ Thánh Thể từ đâu đến đâu?


Phụng vụ Thánh Thể từ dâng lễ vật cho đến hết lễ.



Phần Một


PHỤNG VỤ LỜI CHÚA




Phụng vụ lời Chúa gồm những phần nào?


Phụng vụ Lời Chúa gồm 2 phần: Nghi thức đầu lễ và Phụng vụ lời Chúa.

Nghi thức đầu lễ gồm những phần nào?


Nghi thức đầu lễ gồm:


Hát Nhập lễ
Chủ tế hôn bàn thờ
Dấu Thánh giá và lời chào của chủ tế
Nghi thức sám hối gồm kinh “Tôi thú nhận” và kinh “Xin Chúa thương xót.”
Kinh Vinh danh
Lời nguyện đầu lễ.


Mục đích bài hát Nhập lễ là gì?


Để mở đầu Thánh Lễ.
Để giúp giáo dân thêm hiệp nhất.
Để hướng tâm hồn họ vào mầu nhiệm mùa Phụng vụ hay ngày lễ mừng.

Phải hát Nhập Lễ thế nào?


Hát khi chủ tế đang tiến ra bàn thờ. Khi chủ tế đã đến bàn thờ rồi thì thôi hát.
Bài Nhập lễ nhạc phải vui tươi, ý phải hợp mùa và hợp ngày lễ.

Việc Chủ tế hôn bàn thờ có ý nghĩa gì?


Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Giê-su.
Hôn bàn thờ là tỏ dấu tôn kính và yêu mến Ngài.

Đâu là ý nghĩa dấu thánh giá đầu Thánh Lễ?


Dấu thánh giá nhắc ta nhớ việc Chúa Giê-su chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc ta.
Dấu thánh giá nhắc ta nhớ đến mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi.
Dấu thánh giá vẽ trên người nhắc ta nhớ mình là con cái Chúa nên phải luôn sống tốt.
Dấu thánh giá làm đầu và cuối mỗi công việc nhắc ta luôn nhớ rằng mình phải vì Chúa mà làm tốt mọi việc, dù đó là việc nhỏ hay việc lớn.

Đâu là ý nghĩa tiếng AMEN?


Amen là tiếng Do Thái.
Cuối mỗi lời nguyện thì Amen có nghĩa là “Ước được như vậy.”
Amen sau câu “Mình Thánh Chúa Ki-Tô” thì có nghĩa “Con tin đây là Mình Thánh Chúa.”

Ta hiểu gì về Nghi thức sám hối khi đọc kinh “Tôi thú nhận” và kinh “Xin Chúa thương xót”?


Nghi thức sám hối nói lên thân phận tội lỗi của con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa tối cao và thánh thiện.
Trong sự kiện bụi gai cháy sáng, Môi-sen che mặt không dám nhìn Thiên Chúa, ý nói đến thân phận tội lỗi nên không xứng đáng nhìn mặt Chúa (Xh 3, 1-6)
Sau phép lạ bắt được nhiều cá, Phê-rô thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi.”

Trong kinh “Tôi thú nhận”, có câu nói đến “tội thiếu sót” là tội gì?


Đó là tội không làm điều mình có thể làm. Ví dụ: Mình thấy người ta làm việc xấu mà không nhắc bảo, hoặc thấy người ta quá túng thiếu mà không chia sẻ.

Kinh Vinh danh gồm mấy phần?


Kinh Vinh danh gồm 3 phần:


Một là lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời…”
Hai là lời tôn vinh Thiên Chúa (Chúng con ca ngợi Chúa, chúng con chúc tụng Chúa…)
Ba là lời kêu cầu với Chúa Giê-su (Chúa xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con…)

Ta biết gì về lời nguyện Nhập lễ?


Thầm thỉ trong tâm hồn, mỗi người cầu nguyện riêng, lòng hướng về Chúa.
Sau đó, Chủ tế thâu gom mọi ước nguyện ấy mà dâng lên Thiên Chúa.
Lời nguyện Nhập lễ (còn gọi là kinh Tổng nguyện) nói lên đặc tính của buổi lễ, và qua tiếng nói của Linh Mục, lời kêu xin hướng về Chúa Cha, qua Đức Ki-Tô, trong Chúa Thánh Thần (QC 32)

Phụng vụ Lời Chúa gồm những phần nào?


Phụng vụ Lời Chúa gồm:


Bài đọc 1
Đáp ca (Ý am hợp với bài đọc 1)
Bài đọc 2
Alleluia (Lời tung hô trước Phúc Âm)
Bài đọc Phúc Âm
Bài giảng
Kinh Tin Kính
Lời nguyện giáo dân.

Ta biết gì về bài đọc 1?


Bài đọc 1 thường trích sách Cựu Ước (trừ mùa Phục sinh thì đọc sách Công vụ Tông đồ)


Bài đọc Cựu Ước kể cho chúng ta nghe công trình của Thiên Chúa trước khi Chúa Giê-su giáng trần.

Ta biết gì về bài hát Đáp ca?


QC 1970, số 36: “Sau bài đọc thứ nhất là Thánh vịnh đáp ca, cũng gọi là ca tiến cấp. Bài nầy là thành phần trọn vẹn của Phụng vụ Lời Chúa.”
“Người hát Thánh vịnh hát tại giảng đài, hay tại một nơi thuận tiện.” (id)
Phải hát đúng theo thứ tự từng số câu Thánh vịnh đã ghi sẵn trong mỗi bài Đáp ca.

Ta biết gì về bài đọc 2?


Thường đọc các trích đoạn thư thánh Phao-lô hay của một tông đồ khác.

Ta biết gì về Alleluia?


Alleluia là tiếng Do Thái và có nghĩa là hãy chúc tụng, hãy ngợi khen Thiên Chúa.


Alleluia được hát trong các mùa ngoài mùa Chay.
Alleluia nói lên sự vui mừng hân hoan.

Ta biết gì về Bài ca tiếp liên?


Đó là bài hát đi liền sau Alleluia.
ĐGH Pi-ô thứ năm chỉ giữ lại 5 bài ca Tiếp liên. Đó là: Victimae Pascali laudes dành cho lễ Phục sinh; Veni Sancte Spiritus dành cho lễ CTT hiện xuống; Lauda Sio dành cho lễ Mình Thánh; Stabat Mater dành cho lễ 7 sự thương khó Đức Bà; Dies irae dành cho lễ cầu hồn.

Ta biết gì về bài Phúc Âm?


Bài Phúc Âm được tôn kính hơn các bài đọc khác vì đó là chính lời Chúa Giê-su giảng dạy.
Ta đứng nghe Phúc Âm để tỏ lòng tôn kính.
Ta quay mặt hướng về người đọc Phúc Âm và chăm chú lắng nghe.
Ta không nên cầm sách đọc theo khi nghe Phúc Âm.

Ta biết gì về việc ghi dấu Thánh giá trên sách Phúc Âm?


Ý nghĩa ban đầu của việc ghi dấu thánh giá trên sách Phúc Âm là xin Chúa trợ giúp để có thể tiếp xúc với Lời Chúa.
Ngày nay, ý nghĩa là xin cho Lời Chúa khai mở tâm trí chúng con để biết đón nhận (vẽ thánh giá trên trán) để biết tuyên xưng (vẽ trên miệng) và biết gìn giữ trong tâm hồn (vẽ trên ngực)

Ta biết gì về bài giảng?


Rm 10, 17: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.”
“Bài giảng dựa vào Thánh Kinh để trình bày trong suốt năm Phụng vụ các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc của đời sống Ki-Tô giáo.” (SC 52)
QC 1970, số 42: “Phải diễn giảng và không được bỏ, trừ khi có lý do quan trọng.”

Ta biết gì về Kinh Tin Kính?


QC 1970, số 43: “Kinh Tin Kính cũng gọi là lời tuyên xưng đức tin, trong khi cử hành Thánh Lễ, nhằm làm cho giáo dân chấp nhận và đáp lại lời Chúa mà họ đã nghe trong các bài đọc và bài giảng.”
Hiện nay, có 2 bản Kinh Tin kính được phép dùng trong nhà thờ là kinh Tin kính của các thánh Tông đồ (Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng) và kinh Tin kính của hai công đồng Ni-xê và Công-tăng-ti-nóp (Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng)

Ta biết gì về kinh Tin kính của các thánh Tông đồ?


Sách Giáo Lý toàn cầu viết: Kinh Tin kính được chia làm ba phần:


Trước hết nói về Thiên Chúa Ngôi Nhất và công trình sáng tạo kỳ diệu
Kế đến Thiên Chúa Ngôi Hai và mầu nhiệm cứu chuộc con người
Sau hết Thiên Chúa Ngôi Ba, cội nguồn và nguyên lý thánh hóa chúng ta. (GL 190)

Ta biết gì về kinh Tin kính của hai công đồng Ni-xê và Công-tăng-ti-nóp?


Nền tảng của kinh Tin kính nầy vẫn là kinh Tin Kính của các thánh tông đồ, cộng với những bổ túc của công đồng Ni-xê về thiên tính của Đức Giê-su và của công đồng Công-tăng-ti-nóp về thiên tính của Chúa Thánh Thần.
Năm 325, công đồng Ni-xê tuyên xưng Đức Chúa Con “đồng bản thể” với Đức Chúa Cha.
Năm 381, công đồng Công-tăng-ti-nóp tuyên xưng: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra.”

Ta biết gì về lời nguyện giáo dân?


Sau đây là 4 ý cầu nguyện thường được nhắc đến:



Xin cho các nhu cầu của Hội Thánh.
Xin cho toàn thế giới được ơn cứu độ.
Xin cho các người đang gặp các khó khăn.
Xin cho cộng đoàn địa phương.


Đâu là phương pháp để soạn lời nguyện giáo dân?


Trước hết ta nêu hoàn cảnh, tiếp đến ta cầu xin. Ví dụ:


(Nêu hoàn cảnh): Chúa dạy chúng ta phải tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên ông bà cha mẹ, vì các ngài đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người như ngày hôm nay.
(Cầu xin): Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho các ngài được an khang trường thọ.
(Giáo dân): Xin Chúa nhậm lời chúng con.


Lưu ý: Chúng ta không đọc “Chúng ta hãy cầu nguyện” vì đã có câu “Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa…”





Phần Hai



PHỤNG VỤ THÁNH THỂ




Phụng vụ Thánh Thể gồm mấy phần?


Phụng vụ Thánh Thể gồm 3 phần:


Chuẩn bị lễ vật
Kinh nguyện Thánh Thể (hay kinh Tạ ơn là phần quan trọng nhất)
Nghi thức Hiệp lễ (hoặc Rước lễ)

Chuẩn bị lễ vật gồm những phần nào?


Chuẩn bị lễ vật gồm 4 phần:


Sửa soạn bàn thờ và dâng lễ vật.
Xông hương của lễ và bàn thờ.
Rửa tay.
Lời nguyện dâng lễ.

Ta biết gì về việc dâng lễ vật?


Thứ nhất, việc dâng lễ vật nói lên sự chuẩn bị đầy ý thức vào một việc rất quan trọng là dọn bánh rượu sẽ trở thành Mình Máu Thánh Chúa.


Thứ hai, việc dâng lễ vật nói lên ước muốn chia xẻ với những người túng thiếu… qua việc mỗi người cùng đem bánh trái đến góp phần chia xẻ cho những người khác.
Khi tiền thay thế cho lễ vật thì phát sinh 2 chuyện mới. Đó là bỗng lễ và tiền giỏ (tiền thau)

Ta biết gì về bổng lễ?


Việc dâng lễ vật có 4 chức năng là dùng trong Thánh lễ, nuôi sống hàng giáo sĩ, giúp người nghèo và phục vụ cho nhu cầu của nhà thờ.
Vào thế kỷ thứ XI, tiền thay thế cho lễ vật nên tiền bảo đảm 4 chức năng của lễ vật. Bỗng lễ là cách giáo dân giúp cho Linh Mục, thay cho lễ vật.

Ta biết gì về việc xin lễ?


CIC 945: § 1. “Theo tập tục đã được Giáo Hội công nhận, một tư tế cử hành hay đồng tế Thánh lễ được phép nhận bổng lễ để áp dụng theo một ý chỉ rõ rệt.”
CIC 946: “Khi dâng bổng lễ để Thánh lễ được áp dụng theo ý chỉ của mình, các tín hữu đóng góp vào thiện ích của Giáo Hội: Bằng việc dâng cúng ấy, họ góp phần nâng đỡ các thừa tác viên và các hoạt động của Giáo Hội.”

Ta biết gì về việc xin tiền giỏ, tiền thau?


Tiền thau cũng như bổng lễ, giữ chức năng của lễ vật là giúp giải quyết nhiều vấn đề về nhân sự cũng như cơ sở.
GLHTCG 2041-2043: “Điều răn thứ năm Hội Thánh dạy các tín hữu có bổn phận chu cấp cho những nhu cầu vật chất của Hội Thánh, tùy theo khả năng mỗi người.”

Ta phải dùng loại bánh nào?


Đầu thế kỷ IX, chỉ dùng bánh không men để dâng lễ mà thôi.
Ngày nay, người ta thiên về việc dùng bánh không men là thứ bánh Chúa Giê-su dùng trong bữa Tiệc ly.

Ta phải dâng loại rượu nào?


Ta dâng rượu nho tự nhiên và không pha trộn các loại khác.
Trước thế kỷ XIV, người ta dùng rượu nho đỏ. Nay, người ta thích rượu nho trắng vì ít để lại vết bẩn trên khăn thánh.

Đâu là ý nghĩa việc pha nước vào rượu?


Ngày xưa, người ta pha nước vào rượu để làm giảm nồng độ của rượu.
Dần dần, ý nghĩa được hiểu sâu sắc hơn qua lời đọc sau đây của chủ tế: “Cũng như giọt nước hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con.” Ý nói con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô.

Ta có được phép đặt sẵn bánh rượu trên bàn thờ ngay từ đầu không?


QC 1970, số 49: “Bắt đầu Phụng vụ Thánh Thể thì đưa lên bàn thờ các lễ phẩm sẽ trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô.”
“Ta không được phép để sẵn trên bàn thờ chén thánh, bánh rượu và các thứ khác.” (RM 73)

Ta hiểu gì về việc xông hương của lễ và bàn thờ?


Việc xông hương nhắc đến lời cầu nguyện và lễ vật của dân Chúa như hương trầm bay lên trước nhan thánh Chúa.
Việc xông hương nói lên sự kính trọng.

Tại sao chủ tế rửa tay cuối phần Dâng Lễ?


Chủ tế cần tay sạch để cầm Mình Thánh Chúa.
QC số 52: “Nghi thức nầy biểu lộ lòng ước ao được thanh tẩy trong tâm hồn.” Do đó, khi rửa tay, chủ tế đọc: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm, xin Ngài thanh tẩy.”

Ta biết gì về lời nguyện dâng lễ?


Lời nguyện dâng lễ kết thúc phần chuẩn bị lễ vật để dẫn vào việc cử hành Thánh Thể.
Lời nguyện dâng lễ nói lên tâm tình tạ ơn và xin Chúa thương nhận bánh rượu sẽ trở nên Mình Máu Chúa.

Ta biết gì về Kinh nguyện Thánh Thể (hoặc kinh Tạ ơn)?


QC 1970, số 54: “Bây giờ bắt đầu điểm trung tâm và cao nhất của toàn bộ việc cử hành.”
GLHTCG 1377: “Đức Ki-tô hiện diện trong Thánh lễ bắt đầu từ lúc Truyền phép và kéo dài bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại.”


11. Chúa Giê-su ngự trong hình bánh hình rượu như thế nào?


- “Trong hình bánh cũng như trong hình rượu, Đức Ki-tô hiện diện trọn vẹn.”


- “Và trong bất cứ phần nhỏ mọn nào cũng có trót Mình và Máu Chúa. Việc bẻ bánh không phân cjia Đức Ki-tô.” (GLHTCG 1374)


12. Kinh nguyện Thánh Thể gồm những phần nào?


Kinh nguyện Thánh Thể gồm 8 phần:


Đối thoại và kinh Tiền tụng
Kinh Thánh Thánh Thánh
Kinh “Xin Chúa Thánh Thần xuống thánh hóa lễ vật.”
Bài tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể.
Kinh Tưởng niệm (tức lời tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua)
Lời nguyện dâng tiến (xin Chúa đón nhận)
Các lời chuyển cầu (cho kẻ sống, cho người qua đời và cho chính chúng ta)
Vinh tụng ca

Chúng ta biết gì về kinh Tiền tụng?


QC 1970, số 54: “Bây giờ bắt đầu điểm trung tâm và cao nhất của toàn bộ việc cử hành nghĩa là chính kinh tạ ơn, gồm việc tạ ơn và thánh hóa… Ý nghĩa lời cầu nguyện nầy là toàn thể cộng đoàn tín hữu kết hiệp với Đức Ki-tô mà tuyên xưng những kỳ công của Thiên Chúa và hiến dâng hy lễ.”


Kinh Tiền tụng bắt đầu bằng đối thoại:


“Chúa ở cùng anh chị em - Và ở cùng Cha / Hãy nâng tâm hồn lên – Chúng con đang hướng về Chúa…)


Kinh Tiền tụng có mục đích nói lên việc tạ ơn về công trình cứu chuộc, hoặc về lý do khác (như sáng tạo, ban ơn…)
Phần một của kinh Tiền tụng là công thức dâng lời tạ ơn Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô. Phần nầy giống nhau cho các mẫu kinh Tiền Tụng. Chúng ta chỉ có thể dâng lời tạ ơn nhờ Chúa Giê-su vì Ngài là Đầu, là Trung Gian duy nhất của chúng ta: “Vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.”
Phần hai nêu lý do để tạ ơn Chúa.
Phần ba là câu dẫn vào kinh Thánh Thánh Thánh.

Ta biết gì việc tung hô qua kinh Thánh Thánh Thánh?


Kinh Thánh Thánh Thánh là lời tung hô của các thiên thần (Is. 6, 3)
Kinh nầy vừa tung hô Thiên Chúa, vừa chúc tụng Chúa Giê-su: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa.”


15. Ta biết gì về kinh nài xin Chúa Thánh Thần?


- Kinh nầy nài xin Chúa Thánh Thần thánh hóa của lễ vì chỉ có Ngài mới đủ quyền năng biến đổi bánh rượu.


- Chủ tế đặt tay trên bánh rượu và đọc: “Chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa mà thánh hóa những của lễ nầy để trở nên cho chúng con Mình và Máu Chúa Giê-su Ki-Tô.”


16. Ta biết gì về phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể?


- Phần tường thuật nầy là phần quan trọng nhất trong Thánh lễ vì Hội Thánh thực hiện ý muốn của Chúa Giê-su “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy” và vì phần nầy có lời Truyền phép.


- Linh Mục lặp lại những lời Chúa Giê-su đã đọc trên bánh và rượu trong bữa Tiệc ly: “Nầy là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn – Nầy là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống.”


- Trong phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể, nhờ hiệu lực của lời và cử chỉ Đức Ki-tô, cũng như quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô, lễ vật chính Ngài đã dâng trên thánh giá.” (GLHTCG 1353)


17. Ta biết gì về kinh Tưởng niệm? (Đây là mầu nhiệm đức tin)


- Tưởng niệm, tức nhắc lại công trình cứu chuộc của Chúa Giê-su : “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến.”


- Đây là lời tuyên xưng về sự hiện diện đích thực của Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể.


- Đây cũng là lời Hội Thánh công bố về mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô và niềm trông đợi Ngài lại đến trong vinh quang.


18. Ta biết gì về lời nguyện dâng tiến hy lễ? (Vì vậy lạy Chúa, khi kính nhớ Con Chúa chịu chết và sống lại, chúng con dâng lên Chúa bánh trường sinh và chén cứu độ để tạ ơn Chúa…Chúng con tha thiết nài xin Chúa cho chúng con, khi thông phần Mình và Máu Đức Ki-tô, được qui tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần)


Mọi người không những chỉ dâng của lễ, nhưng còn phải dâng chính mình.
Mục đích là để kết hiệp với Chúa và với nhau hơn.

Ta biết gì về Lời chuyển cầu?


GLHTCG, số 1354: “Các lời chuyển cầu cho thấy hy lễ tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh cả thiên quốc lẫn trần gian, Hội Thánh của những kẻ sống cũng như người đã qua đời.”
Cầu cho chính mình và cho mọi người (Cầu cho Hội Thánh, cho Đức Giáo Hoàng, cho hàng Giáo sĩ và giáo dân, cho dự tòng, cho tín hữu được hiệp nhất, cho người Do Thái, cho người ngoài Ki-tô giáo…)
Cầu cho người đã qua đời: “Xin Cha cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ chờ ngày sống lại, và những người đã qua đời, mà chỉ còn biết nhờ vào lòng thương xót của Cha. Đặc biệt, xin Cha nhớ đến các bậc tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đã lìa cõi thế. Xin cho hết thảy được vui hưởng ánh sáng Tôn Nhan.”

Ta biết gì về “Vinh tụng ca” kết thúc kinh Tạ ơn? (Chính nhờ Người, với Người…):


Vinh tụng ca là lời tung hô chúc tụng vinh quang Chúa.
Vinh tụng ca ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa hoặc một trong Ba Ngôi.

Nghi thức Hiệp lễ gồm những phần nào?


Nghi thức Hiệp lễ gồm:


Kinh Lạy Cha
Lời chúc bình an
Nghi thức bẻ bánh và kinh Đây Chiên Thiên Chúa
Hiệp lễ ( hay Rước lễ)

Ta biết gì về kinh Lạy Cha?


Đó là kinh duy nhất chính Chúa Giê-su dạy chúng ta dùng để cầu nguyện.
GL 2771: “Trong Thánh Lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung. Kinh Lạy Cha đúng là kinh nguyện của “thời sau hết.”
Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết nguồn gốc của chúng ta là ở trên trời. Chúng ta là con cái của Cha trên trời và chúng ta sẽ về trời chung hưởng hạnh phúc với Ngài.

Ta biết gì về ý nghĩa kinh Lạy Cha?


Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng: Xin cho nhiều người nhận biết Chúa.
Nước Cha trị đến: Xin cho mỗi người chọn Chúa làm Chúa của mình.
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời: Ý Chúa là muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Xin mọi thành phần dân Chúa trên trời dưới đất hợp lực giúp mọi người sống tốt để được cùng lên thiên đàng.
Cho chúng con lương thực hằng ngày: Bánh ta xin là của ăn phần xác, nhưng cũng ám chỉ Thánh Thể nuôi dưỡng phần hồn.
Và tha nợ chúng con: Tha cho nhau đã khó. Tha như Chúa tha lại càng khó hơn. Nhưng vì Chúa mà ta vẫn phải tha.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: Xin ơn tránh dịp tội.
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ: Xin ơn không theo ma quỉ, tội lỗi.


Ta biết gì về nghi thức chúc bình an?


Chủ tế: “Xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời – Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.”
Rm 16, 16: “Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.”
Giáo dân cầu bình an và hợp nhất cho Hội Thánh, cho toàn thể gia đình nhân loại trước khi thông phần cùng một bánh.

Ta biết gì về việc bẻ bánh?


Đó là cử chỉ Chúa Giê-su đã làm khi bẻ bánh trao cho các môn đệ.
Đó là hành vi chứng tỏ Chúa Giê-su là người ban phát sự sống cho chúng ta.

Ta biết gì về việc bỏ miếng bánh thánh vào chén thánh?


Chủ tế: “Xin Mình và Máu Chúa Giê-su hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận, cho chúng con được sống muôn đời.” Ý nói Đức Ki-tô phục sinh không còn chết nữa, thân xác của Ngài không bị tách rời. Người sống lại với thân xác toàn vẹn, nhưng đã được đổi mới.
Ý nghĩa thứ hai nói đến sự kết hợp Đức Hi-tô và người tín hữu.
Trong khi chủ tế bẻ bánh thì cộng đoàn đọc hoặc hát kinh Lạy Chiên Thiên Chúa.

Ta biết gì về cách thức rước Mình Thánh Chúa?


Tay mặt sẽ cầm Mình Thánh để ở dưới như để làm nền. Tay trái đặt chồng lên trên tay mặt. Khi chủ tế đặt Mình Thánh vào tay trái thì đương sự dùng tay mặt để cầm lấy Mình Thánh bỏ vào miệng.
Khi đăt Mình Thánh vào tay người rước lễ, chủ tế đọc “Mình Thánh Chúa Ki-tô” và người rước lễ thưa “Amen.”

Tiếng Amen trong câu đáp trên đây có nghĩa là gì?
Tiếng Amen lúc nầy có nghĩa: “Con tin đây là Mình Thánh Chúa.”
Rước lễ thì được những ơn ích nào?
Rước lễ được 4 ơn ích:

Một là kết hợp với Chúa và anh em.
Hai là được tha tội nhẹ.
Ba là được thêm sức mạnh để tránh xấu làm tốt.
Bốn là bảo đảm được rỗi linh hồn.

Nghi thức kết lễ gồm những phần nào?


Phép lành cuối lễ: “Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con, và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.” Chủ tế chúc cho ta có sự sống của Chúa Ba Ngôi tức bình an, hạnh phúc.
Lời giải tán: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.” Giải tán nhưng không phải là chấm dút hoạt động, mà thực sự là mở ra, tiếp tục trở nên dấu chỉ của Đức Ki-tô tại nơi mình sống thường xuyên, như gia đình, trường học, đoàn đội…



THƯ MỤC


Lm. Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ Thánh Lễ
Lm. Vinh Sơn Nguyễn thế Thủ, Giải đáp các vấn nạn về Phụng vụ.
Ban Giáo Lý Nha Trang, Cử hành Mầu nhiệm Ki-tô giáo.
Lm. Nemeshegyi, SJ. Ý nghĩa Ki-tô giáo – Bản dịch của Lm. Đoàn sĩ Thục, trang 77-79.
Denis Metzinger, Phục vụ bàn thờ.
Lm. JB. Trần ngọc Quỳnh, Cử hành Mầu nhiệm Tạ ơn.






Tác giả Mi Trầm, Lm.
dunglac.net