PDA

View Full Version : Tuyển Tập Truyện Ngắn Ðường Về Thượng Trí



mariakieuanh
31-10-2010, 01:01 PM
Tuyển Tập Truyện Ngắn
Ðường Về Thượng Trí


Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vn/thtri.gif




http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vn/vnbyline.gif
ÐẠO là ÐƯỜNG. Ði không đúng đường là lạc lối. Ðúng đường nhưng không đi, sẽ chẳng bao giờ tới. Muốn tới nhưng không biết đường đi, cũng vẫn là lạc lõng.
Ðường chỉ để dẫn tới nơi cư trú. Nếu lấy đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ tới nơi cư trú của mình. Như thế, có lối mà vẫn lạc.
Nói đến đường là nói đến đi. Cuộc đi càng dài càng đong đầy cam go. Ðường lên càng cao càng đòi nhiều phấn đấu, càng cần lắm can đảm. Có nhiều thứ đường đi, có lắm thứ đích tới. Nhưng đường về Thượng Trí, nơi có mây trời cứu rỗi. Ðích tới đỉnh cao, nơi có gió nắng cứu chuộc, là đường đi, đích tới đẹp nhất.
Ðẹp nhất, nhưng... cũng bão bùng nhất!


ÐƯỜNG VỀ THƯỠNG TRÍ chỉ là tưởng tượng.


Nhưng làm sao tưởng tượng nếu không có chủ thể tưởng tượng?
Làm sao sáng tạo nếu không có chất liệu sáng tạo.
Như vậy, có thể nói biên giới giữa tưởng tượng và cuộc sống
thực cũng là một biên giới mù mờ?
Người tưởng tưởng và chất liệu tưởng tượng
không thể đến từ tưởng tượng.
Như vậy, phải chăng trong tưởng tượng cũng có sự thật?
Gọi là truyện ngắn vì viết bằng giấy mực ngắn.

ÐƯỜNG VỀ THƯỠNG TRÍ là về bằng cả cuộc đời. Vì thế, bước chân đi trong truyện chỉ ngắn trong chữ nghĩa mà thôi, chứ sẽ dài bằng hơi thở của một cõi làm người.


http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vn/vnbyline.gif

mariakieuanh
31-10-2010, 01:08 PM
1. CÁNH HỒNG TRÊN ĐỒI TUYẾT



Mỗi lần đọc tập hồ sơ, quan tòa phải nheo mắt khó khăn dù có kính lão. Bên cạnh ông còn hai người trẻ hơn, nhưng tầm độ cũng ngoài bốn mươi. Người ngồi bên phải dáng điệu như còn chưa quen với loại áo cánh rộng của luật sư. Ông ta trịnh trọng đến nỗi vụng về mỗi khi kéo ống tay rộng thùng thình.
Phiên tòa hôm nay không có gì hào hứng, ngoài quan tòa, luật sư buộc tội, chống án, chỉ có dăm bẩy người ngồi ở mấy ghế gỗ phía cuối đợi xem phiên xử. Vị chánh án mở hồ sơ, hỏi bị cáo:
- Ông bị tố cáo là ăn cắp đồ thánh của đền thờ. Ông có điều gì muốn trình bày không?
- Thưa quan tòa tôi không phải là quân gian phi.
Quan tòa quay ra phía kẻ tố cáo hỏi:
- Xin ông kể lại diễn tiến của sự việc.
Vị linh mục tuổi độ ngũ tuần bước ra giữa, tay cầm một tập hồ sơ. Ông đang định mở ra đọc thì quan tòa yêu cầu ông gập tập hồ sơ lại, chỉ kể bằng trí nhớ. Vị linh mục hơi ấp úng một chút, rồi cũng bắt đầu:
- Thưa quan tòa, chính mắt tôi không trông thấy. Khi tôi tới tháp chuông thì bị can đã bị bắt. Nhân chứng nhìn rõ sự việc là ông X. cũng có mặt đây.
Vị linh mục quay về phía ông X. đang ngồi ở hàng ghế thứ hai. Ngài chìa tay về phía ông X. để cho quan tòa biết, rồi lại tiếp tục trình bày:
- Lúc đó khoảng tám giờ tối. Tôi đang ở trên gian cung thánh, sắp sửa khóa cửa nhà thờ, bỗng nghe thấy xôn xao ở tháp chuông. Tôi tới nơi thì thấy ông X. và bị cáo đang giằng co, lớn tiếng với nhau.
Quan tòa hỏi vị linh mục:
- Vậy ngài có đồng quan điểm với ông X. là bị cáo đây đã dự định ăn cắp quả chuông?
Vị linh mục lưỡng lự rồi đáp:
- Tôi nghĩ như vậy! Thưa quan tòa, kể từ mấy tháng nay nhiều vụ mất cắp đã xẩy ra ở nhà xứ. Tuần trước chúng tôi cũng mới mất một bình hương cổ rất quý.
Người luật sư biện hộ cho bị can nóng nẩy đứng dậy đáp trả:
- Xin lỗi linh mục, đó là điều vô lí! Bị can chỉ có một mình, với thân hình tiều tụy, ốm yếu như thế này làm sao bị can có thể ăn cắp được quả chuông nặng cả mấy trăm kí lô!
Vị linh mục chưa tìm được câu trả lời thích hợp thì quan tòa đã gõ chiếc búa xuống bàn ra hiệu cho luật sư biện hộ im lặng:
- Yêu cầu luật sư im để bên công tố trình bày.
Người luật sư trẻ ngồi xuống, tức tối. Quan tòa ra hiệu cho linh mục về chỗ rồi gọi ông X.
- Có phải ông là người đã bắt quả tang bị cáo đây?
- Thưa quan tòa, đúng thế!
- Xin ông trình bày sự việc, yêu cầu ông kể rành mạch từng chi tiết theo thứ tự thời gian từ ban đầu.
- Thưa quan tòa, khi tôi tới tháp chuông thì trông thấy tên ăn cắp này đang tháo dây chuông. Hắn mang theo một con dao găm và một túi vải đồ nghề đủ các thứ kìm, búa, chìa khóa...
Vị quan tòa quay qua phía bị cáo hỏi:
- Ðiều cáo trên đây có đúng không?
Bị cáo buồn phiền nhìn quan tòa, bình thản thưa:
- Thưa quan tòa không! Tôi chỉ có con dao và túi vải, nhưng túi vải là túi đựng quần áo của tôi, tôi không có kìm, búa, và bất cứ chìa khóa nào. Tôi cũng có thêm một khúc dây thép mà ông X. đã không nói tới. Tôi mới leo lên gần tới sàn gác chuông, chưa tới nơi thì ông X. ở trên lầu chuông leo xuống rồi ông đạp tôi ngã từ cầu thang và đổ tội cho tôi ăn cắp, chứ không phải là ông leo ở dưới lên như ông vừa trình bày.
Quan tòa ghi chép rồi quay về phía linh mục hỏi:
- Thưa linh mục, ngài đã về xứ đạo được bao lâu?
- Thưa quan tòa, mười hai năm.
- Có phải ngài là người xây tháp chuông không?
- Không phải tôi, nhưng tôi tu bổ và sửa lại lầu chuông hầu như hoàn toàn.
- Xin linh mục tả cho chúng tôi biết về lầu chuông như thế nào.
- Thưa quan tòa, cả lầu chuông được xây nối liền với nhà thờ ở căn cuối cùng. Muốn lên lầu chuông phải qua cửa nhà thờ, rồi lên gác hát của ca đoàn. Từ gác hát có một cầu thang gỗ nhỏ, đủ để hai người đi, dẫn lên tháp chuông. Còn lầu gỗ, nơi để đặt quả chuông thì rộng bằng hai manh chiếu. Sàn của lầu chuông lát bằng gỗ thông. Ðủ làm chỗ ngủ cho chừng dăm, ba người. Muốn leo lên sàn chuông thì phải mở một nắp như nắp hầm.
Ông X. thêm vào:
- Vì thế lầu chuông có thể là chỗ ngủ đêm của bọn vô gia cư!
Ông ta ngừng nói trước khi quan tòa đập búa ra lệnh cho ông không được nói khi chưa có phép. Vị quan tòa quay lại hỏi bị can:
- Ông lên tháp chuông làm gì vào giữa đêm tối như vậy?
-Thưa quan tòa, cả câu chuyện thì dài dòng, quan tòa có thể cho tôi trình bày hết?
Vị quan tòa để xệ cặp kính lão, nheo mắt nhìn phạm nhân từ đầu đến chân như muốn lục lọi trong con người này những điều kì dị. Ngần ngừ. Ông ra lệnh:
- Hãy trình bày đầu đuôi:
- Thưa quan tòa, ngày còn bé tôi là cậu nhỏ chiều nào cũng giật chuông. Tiếng chuông đã là một phần đời của tôi. Tiếng chuông đã thấm vào trọn vẹn hồn xác tôi. Những buổi chiều không có tiếng chuông cầu nguyện tôi thấy khắc khoải, đời tôi như thiếu vắng một cái gì gần gũi và linh thiêng lắm. Tôi yêu những lầu chuông. Tôi yêu những tiếng chuông đồng. Giã từ tuổi thơ, tôi phiêu bạt khắp nẻo đường nhưng bao giờ cũng nhớ về lầu chuông xưa. Có những chiều tôi thường lẻn lên lầu chuông ngủ qua đêm khi tôi đi đường. Lầu chuông là nơi tôi trú mưa, lầu chuông che tôi khỏi nắng. Khi còn nhỏ thì lầu chuông là nơi tuổi thơ nô đùa. Lớn lên, khi đủ tuổi khôn thì lầu chuông vẫn nhắc nhở tôi về tiếng gọi của Thượng Ðế trên cao. Trong những ngày phiêu bạt, tôi đã dừng lại biết bao nhiêu lầu chuông và tôi đã đánh bóng không biết bao nhiêu quả chuông đồng bị mưa nắng làm sét hoen rỉ. Khi tôi qua đây vào một buổi chiều, tôi cũng ước mong được nghe tiếng chuông, nhưng chiều qua, không gian lặng lẽ hiu hắt. Tôi không hiểu vì sao không ai giật chuông. Tôi đã leo lên lầu gỗ và thấy giây chuông đã bị đứt, quả chuông đã bị mạng nhện chăng kín. Quả chuông đã bị lãng quên từ lâu ngày. Tôi thấy xót xa cho Thượng Ðế trên thập giá. Ngài chẳng có ai chuyện trò, chỉ có mỗi tiếng chuông mà nay lầu chuông cũng im vắng. Vì thế tôi đã tìm khúc giây thép này để mong tìm cách nối lại giây chuông xưa.
Lời nói của gã bị can chỉ lớn đủ để mọi người nghe. Gã ốm yếu. Trông bên ngoài không ai có thể nghĩ là hắn lại có những tư tưởng lạ lùng như thế. Ông già ngồi ở hàng ghế cuối cùng, hai tay cầm gậy tre run run, xúc động vì tâm sự của bị can. Gã luật sư nhìn lơ đãng qua cửa sổ. Vị linh mục cúi đầu trầm tư không nói gì. Ông chánh án ra hiệu cho mọi người chú ý, bỏ chiếc kính lão xuống bàn, ông nhìn tất cả mọi người hỏi:
- Ông ta bị cáo là ăn trộm. Nhưng chỉ có một nhân chứng là ông X. còn ai biết gì nữa không?
Ông X. mừng như bắt được cơ may hiếm có để vội kết tội gã đàn ông đang đứng lo xo trên kia cho xong chuyện. Vừa chợt định giơ tay minh xác là còn một nhân chứng nữa, nghĩ sao ông lại dừng lại. Sau đó ông mới hối hận đã hơi quá vội vàng với ý nghĩ điên rồ ấy. Ông giữ kín nhân chứng thứ hai này không hề nói cho ai hay trong suốt đời ông.
Nhớ lại đêm đó, khi gã tội nhân tới gần sàn chuông thì ông X. ở trên đi xuống mở nắp ván và gã nghe có giọng nói phụ nữ trên gác chuông. Như thế, ngoài ông X. còn nhân vật thứ hai. Nhưng nhân vật này không hề xuất hiện cho dù sau khi ông X. đã túm cổ áo hắn la lối và vị linh mục đã đến.
Im lặng như tờ. Vị quan tòa dáo dác nhìn khắp phòng, gõ chiếc búa gỗ xuống bàn kết luận:
- Không hẳn là đủ điều kiện để buộc tội bị cáo ăn cắp chuông. Nhưng cũng không đủ chứng cớ để chứng tỏ bị cáo là người ngay. Dựa vào lời khai của linh mục, nhà thờ đã bị mất cắp nhiều lần trong những tuần lễ vừa qua. Bị can là người "phiêu bạt" như lời tự thú. Xét theo luật pháp và bị can đã xác nhận là đã lẻn lên lầu chuông hai lần vào đêm khuya. Xâm phạm giáo đường trong đêm vắng không có phép của linh mục quản nhiệm là điều phạm pháp. Quan tòa xin kết thúc: Ba năm cải hóa!
Tiếng búa khô khan đập xuống bàn không gây nổi tiếng động. Riêng ông già dự kiến, chậm rãi cúi tìm cây gậy tre, mò từng bước chậm ra cửa, ánh sáng chiếu rõ hai giọt lệ còn đọng trên gò má nhăn nheo.

* * *
3 NĂM SAU

Ngoài ba mươi tuổi đời, ba năm tuổi tù. Ba năm tù không phải là thời gian quá dài. Nhưng cái cô đơn của cuộc đời bị xét đoán bất công. Cái xót xa cho sự thật thất bại trước sức mạnh của bóng tối. Cái vắng lặng của lầu chuông là thao thức trong lòng hắn, đã làm hắn cằn cỗi. Rồi nữa, chồng thêm lên mảnh đời độc hành: Cái già nua mang úa mầu thất vọng. Vẫn dáng người dong dỏng cao. Ðôi mắt vẫn đặc biệt. Những suy tư thầm lặng dường như sâu hơn. Trong đôi mắt ấy nỗi buồn thất vọng lớn hơn nỗi buồn oán trách. Nỗi buồn thao thức chìm lắng xuống hơn nỗi buồn bị kết án. Hắn xách túi vải lững thững xuống đồi. Ði được một quãng, hắn quay lại nhìn khu nhà tù chiều nay mới được phóng thích. Dẫu sao, đấy cũng là ngôi trường cho chàng hiểu thân phận làm người. Gởi gắm lại nơi ấy những tháng ngày cảm nhận bóng tối có sức mạnh trong cuộc đời. Và có thực sự ánh sáng công lí là hương thơm có thể bay ngược chiều gió?
Ra tù vào mùa xuân. Trời gió mát. Cảnh vật thiên nhiên cho hắn thêm sức sống, vỗ về hắn bằng lời hứa hi vọng, an ủi hắn bằng mơ ước ngọt của tương lai. Chiếc túi trên vai. Bước chân ngập ngừng. Ði mà chưa biết về đâu. Rải rác đây đó, đàn bò béo tốt đang gặm cỏ trên ven đồi. Những chùm dâu đỏ đang mùa chín tới nằm phơi mình dưới nắng ấm. Chàng thấy ngoài nhà tù, vũ trụ vẫn đẹp, vẫn tha thiết lắm. Những cánh nhạn đang bâng khuâng buông cánh muốn làm quen nhau trên bầu trời bình yên. Thế giới đẹp quá. Thế giới mà Thượng Ðế đã làm cho cỏ hoa đồng nội đẹp hơn áo lụa, gấm vóc của Salomon. Vũ trụ mà Thượng Ðế đã lo chăm sóc để chim muông khỏi lo lắng kiếm ăn hầu có thì giờ ca hót véo von. Chàng ngước mắt nhìn trời cao tin tưởng, cám ơn Thượng Ðế. Một niềm vui nhỏ nở trong tim gã tù nhân mới được vào đời lần thứ hai.
Cặm cụi bước về phố dưới thung lũng, trên đường đi, mấy bác nông phu nhễ nhãi mồ hôi chào hắn những lời chào thân tình. Họ cho hắn những trái dưa chín thơm mùi mật ong. Cánh đồng bình yên. Chàng muốn dừng chân nơi đây lập nghiệp nhưng nhớ lại lời cha của chàng căn dặn. Phải đi. Phải luôn luôn là từ giã. Hắn ngần ngại nghĩ đến những tình thân quen thuộc trên đường đời. Hắn được nhận lời chào nhưng phải quên ngay sau đó. Hắn phải lên đường bước tới chứ không được dừng chân lưu luyến. Ðiều ấy đôi khi làm hắn thấy lẻ loi.
Từng đống rơm còn thơm mùi lúa mới gặt nằm rải rác khắp cánh đồng. Mấy chú bê nhỏ chạy tung tăng bên vú mẹ căng tròn bầu sữa. Dăm ba cô gái gánh những gánh bí ngô vàng rộ lên đường về. Những mớ tóc đen đơn giản lúc lắc sau chiếc cổ trắng nõn nà, bịn rịn mồ hôi. Những đôi mắt bình an, trong sáng như mầu trời trao cho chàng cảm xúc bâng khuâng. Buổi chiều ra tù của hắn hôm nay rất đẹp. Chàng nghĩ về tương lai với một niềm vui kín đáo mang mầu hi vọng mịn màng.
Nửa ngày mới về tới phố. Chung quanh tường đá đã nở mùa hoa leo tím. Ngồi trên bờ đá của ngôi nhà thờ cổ nghỉ chân. Chàng đã bỏ lại cánh đồng đằng sau lưng. Tâm trí chàng vẫn chan chứa những nụ cười giòn giã, lời nói chân tình của mấy bác nhà nông. Ðối với chàng dường như chỉ có những người nhà quê là mến chàng. Từ ngày chàng bỏ làng quê nhỏ ra đi, chàng đã gặp biết bao miệt thị, khó khăn, nhưng chưa lần nào những khó khăn ấy đến từ những bàn tay chỉ biết vui bên vườn đất. Nghĩ lại mấy năm về trước, buổi trưa trước mặt quan tòa, kẻ kết án chàng toàn là những người có địa vị, có chức sắc trong xã hội, trong giáo xứ. Nhớ về đó, thoáng nỗi khổ đau dâng về.
Ngôi nhà thờ hiền hòa như bóng mát cho kẻ mệt vì đường xa có chỗ nghỉ chân. Mầu rêu xanh đậm phủ theo những vết nứt trên tường xi măng già. Nhìn ngôi nhà thờ, ngắm những bông hoa nhỏ, chàng giơ tay vuốt bờ đá rêu mát lạnh. Cõi lòng cung kính như thoang thoảng thấy mùi hương trầm đang kính dâng trong đền thờ. Ðã mấy năm nay chàng xa vắng mùi hương quen thuộc ấy. Ðã mấy năm nay không ngày nào mà chàng không nghĩ đến những hàng nến trắng cháy lung linh trên bàn thánh. Giờ này, bồi hồi sung sướng. Trước mặt chàng, nhà thờ đây, trong ấy có mùi hương, có nến sáng. Người thanh niên tìm lối vào. Chàng lại mân mê vuốt từng phiến đá mát rượi của tường đền thánh. Lúc vừa xoay ổ khóa, cũng là lúc chàng vội rụt tay về. Lời của ông quan tòa năm xưa vẫn còn ám ảnh: Xâm phạm nhà thờ không có phép của cha xứ quản nhiệm là bất hợp pháp! Chàng đứng ngần ngại. Tự nghĩ, biết đâu chẳng lại phải vào tù lần nữa. Ðứng nhìn nhà thờ, chàng ngó tháp chuông cao, nuối tiếc, không dám tìm lối vào. Buồn bã đi về phía phố.
Hàng me xám nặng của một buổi chiều hết nắng. Nửa ngày đường. Chiếc túi trên vai làm chàng mỏi, nhưng vui mỗi khi nghĩ đến tình người mà chàng đã bắt gặp trên cánh đồng. Ði qua một quãng đồng thôi mà chàng được biết bao thương mến. Ổ bánh còn thơm mùi mới nướng. Họ đã cho chàng từng chùm dâu chín đỏ. Những củ khoai nướng còn thơm mùi tro. Chiếc bánh vương mầu lá gói. Ðang nghĩ tới niềm vui ấy, chàng chạnh lòng trông thấy người đàn bà ăn xin.
Hình ảnh người đàn bà im lặng như một bức tranh tĩnh vật. Lặng lẽ. Chẳng thiếu được những thua thiệt trong cuộc sống. Ðời làm sao vắng bóng được nước mắt. Có kẻ giầu, phải có người nghèo. Cuộc đời là vậy. Nhưng bất hạnh cho ai rơi trong dòng đời héo cạn ấy. Có chủ ông, phải có tôi nợ. Vẫn biết mầu sắc nào cũng cần cho bức tranh hoàn hảo. Vẫn hay chẳng thể loại trừ cái mầu xám lặng lẽ khỏi cảnh bình minh huy hoàng. Chính cái lặng lẽ của nó làm rực thêm cái nét vàng. Chính cái hẩm hiu mang số phận xám ngắt ấy làm cho mầu bình minh tươi rực. Nhưng có bao giờ cái mầu rực rỡ của bình minh kia biết cái mảng mầu tối tăm ấy chính lại là vùng đất cần thiết cho mình nương tựa? Cuộc đời là thế. Bất hạnh chen giữa hoan lạc. Ðau khổ tìm lối ngoi lên để cho hạnh phúc sáng giá. Chàng đứng nhìn người đàn bà ăn xin.
Người đàn bà nhăn mặt thảm thiết. Bà cấu đứa bé mắt còn đỏ hoe, đứa bé khóc ré vì đau. Nhặt những đồng tiền sáng như bạc dắt vào chiếc bao cài ở vành quần rồi lại ngồi nhìn lơ đãng, thản nhiên. Mỗi lúc có người tới, bà nhăn nhó ra vẻ nghèo đói, đứa bé lại khóc thét lên vì bị bà lấy chiếc kẹp tóc nghiến vào bắp chân đã tím bầm để gợi lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Thằng bé vô tội trở nên nạn nhân của một kẻ làm tiền. Chàng thấy bà chẳng có tật nguyền gì. Túi tiền bà giấu ở đâu? Nghĩ đến lòng người, chàng thất vọng, chán ngán bỏ đi.
Chàng vào phố, đi vòng quanh khắp cả. Từ khu này lang thang sang khu khác. Rực rỡ đèn mầu, tấp nập người qua lại. Hàng đèn dọi lên những sợi giây chuyền vàng làm sáng một vuông cửa. Trên nền nhung đen, những chiếc nhẫn kim cương gặp ánh điện lóe lên sáng ngời. Người chen người tấp nập. Họ ôm nhau đi trên phố. Những đôi tình nhân trẻ đi tìm bến mơ. Hơi café đượm nóng làm chàng thèm nghỉ chân.
Giầu sang của phố thị đã đưa chàng vào một thế giới quá lạc lõng, đơn côi. Trong đám đông ấy, ở một vỉa hè, chàng sững sờ ngó người đàn bà đang ôm chặt chiếc bóp da rằn ri như da rắn. Bà đang xóc những con lúc lắc trên mặt tấm vải lớn. Chung quanh bà, kẻ ngồi, người đứng. Họ đang sát phạt nhau bằng những canh bạc tham lam. Người chủ sòng chính là người đàn bà ngồi ăn xin ở góc phố hồi ban tối. Chiếc nốt ruồi trên ngón tay cái. Không thể lầm.
Ra khỏi khúc đường nhộn nhịp chàng tìm một ghế đá công viên ngồi nghỉ. Cuộc đời như một vòng tròn, đi mãi không có lối ra. Quyền lực, giầu sang, nghèo khổ, gian dối, yêu thương, hận thù, tất cả quay vòng, dính lẫn vào nhau. Những bước chân long đong hối hả. Những dòng lệ trong đêm. Những tính toán mệt nhừ. Những bàn tay chai cứng vì lao tác. Thở dài. Chàng thấy như con người đang lao đao vất vả quá mà vẫn không gặp cái mà họ kiếm tìm. Họ khổ sở xây những bức tường thành cao rồi than khóc là không có ánh sáng. Họ tất tưởi đi giành giật sự an nhàn bằng vội vã, để rồi càng vội vã, an nhàn càng mù xa.
Hạnh phúc? Sự chết? Tất cả lại đưa chàng vào câu hỏi cũ kĩ nhưng vẫn rất khó trả lời: Ðâu là ý nghĩa cuộc sống? Trên ghế đá công viên mát lạnh, chàng không biết nhân loại đáng thương hay đáng trách. Nghĩ đến công việc của chàng, chàng bắt đầu nguyện cầu:
- Lạy Cha, tay con ngắn quá mà cuộc đời thì như Cha biết đó, bao la, phức tạp, ngổn ngang những bóng tối, con không biết phải làm gì, khởi đầu từ đâu. Con không biết rồi ngày mai ra sao.
- Con cứ làm theo sức con. Hạt giống con đang có trên tay hãy gieo xuống. Ai là người tưới, ai nhổ cỏ, ai là người làm cho nó nên xanh tươi, ai sẽ gặt, đó là việc của Cha.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha.
- Cuộc đời bao la thì con đừng bao giờ xây đắp cho riêng tư nhưng hãy miệt mài đi mãi. Cuộc đời phức tạp, con hãy giữ trái tim đơn sơ. Cuộc đời ngổn ngang, con hãy sống trong sự thật. Cuộc đời đầy bóng tối, con hãy thắp lên một que diêm.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha. Nhưng dường như chẳng có kết quả. Cha bảo nơi nào có chia li thì hãy đem nối chắp vá lại. Nơi nào có tang tóc thì đem ủi an. Nhưng Cha thấy đó, lúc con nối lại giây chuông là lúc con bị kết án ăn trộm. Lúc con định chia sớt nhọc nhằn với người đàn bà ăn xin là lúc con khám phá ra túi bạc và lòng ích kỉ nhỏ nhen. Ðâu là sự thật soi cho con đi hả Cha?
- Con không đi tìm sự thật. Sự thật ở trong con và con đến để làm chứng cho sự thật. Con đem sự thật cho đời. Vì thế, nơi nào có gian dối, Cha gởi con tới. Nơi nào có kết án bất công, Cha bảo con đến.
Người thanh niên ngồi yên trầm mặc. Lời nói trong hồn thao thức, thăm thẳm sâu. Nhẹ nhàng như một lời mời, thách đố như một lệnh truyền. Phải đi. Phải đến. Ðấy là ý nghĩa đời chàng. Một thoáng lại hiện về trong trí nhớ. Nhà tù, vòng sắt, quan tòa. Chàng biết gian dối, bất công có sức mạnh của nó, kẻ dám đương đầu với bất công là kẻ phải can đảm chấp nhận tù đầy, khổ đau. Chàng lại nghĩ tới thân mình. Một thoáng lo âu ngần ngại lướt qua như lời nói khẽ cho chàng hay đời chàng sẽ còn nhiều giông tố phũ phàng vì chàng dám sống cho sự thật. Ý nghĩ ấy làm chàng trầm nét băn khoăn. Nhưng chàng đứng dậy, xách theo túi vải, nói với lòng mình:
- Thức ăn của ta là làm theo Ðấng đã sai ta.
Người đàn bà bên kia đường trông thấy chàng, vội rời hè phố, băng qua lộ, bước qua hàng rào công viên, đến trước mặt chàng:
- Ông có lửa không, cho tôi xin mồi lửa?
Người phụ nữ vừa nói vừa đưa điếu thuốc lên môi. Móng tay nàng dài, sơn mầu huyết dụ. Cặp môi đỏ mọng, mướt lánh như nàng vừa mới thoa son xong. Chàng đưa tay lên túi áo ngực:
-Xin lỗi cô, tôi không có bật lửa.
Người đàn bà như chờ đợi thêm nhưng hắn chỉ nói có thế. Nàng tỏ vẻ thất vọng, hơi bực mình, nhưng người đàn bà kiên nhẫn thêm. Bây giờ nàng đứng sát bên hắn. Gã bối rối vì mùi nước hoa làm chàng xao xuyến. Và dường như ngực người đàn bà cũng vừa chạm vào da thịt chàng. Dưới vùng sáng mờ của ngọn đèn néon ở góc công viên cho chàng thấy chiếc nút áo ngực của người đàn bà đã mở rộng. Da thịt nàng căng tròn, mời mọc. Chàng chưa biết phản ứng làm sao, người đàn bà đến sát chàng thêm nữa. Chiếc quần bó chẽn, mùi nước hoa đẩy đưa người đàn bà vào dáng dấp cám dỗ. Giọng nói phụ nữ đuổi đi cái im lặng ngập ngừng:
- Năm mươi đồng?
Hắn không hiểu gì. Người đàn bà nói thẳng:
- Năm mươi đồng một đêm!
Nàng đợi chờ phản ứng của gã. Hắn có hiểu ý? Hắn nghe không rõ? Im lặng. Hắn không dám hỏi lại. Người đàn bà chỉ tay vào túi vải hắn đang đeo, hỏi thăm rồi bảo chàng:
- Bán cho tôi ít dâu và mấy trái dưa đi, bao nhiêu?
Hắn không biết phải trả lời thế nào. Cuộc gặp gỡ bất ngờ. Chàng có bao giờ mua bán đâu mà biết giá cả. Ðã mấy năm trong tù, chàng chẳng biết gì ngoài xã hội. Chàng nghĩ thầm, mới từ chiều đến giờ mà đã gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ. Chàng cúi mở chiếc túi thì người đàn bà đặt tay lên vai ra hiệu cho chàng hãy đem túi vải ra chỗ có ánh sáng. Hắn xách túi vải theo sau người đàn bà. Nhưng họ đã không dừng lại ở ngọn đèn nơi đầu công viên. Họ tiếp tục đi với nhau dọc dẫy phố. Họ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Ðã có một cánh cửa nào đó mở ngõ cho những câu chuyện có lối đi về. Khi chàng biết được nàng là một gái đêm đang tìm khách, và người khách hàng nàng đang muốn ngủ đêm nay lại là chính chàng, chàng cảm thấy lo âu hồi hộp, nhưng cũng có phiêu lưu. Chàng chưa bao giờ gần gũi đàn bà, đêm nay là đêm đầu tiên chàng ngửi thấy mùi nước hoa ngay bên, da thịt căng đầy trước mặt, Chàng bối rối, và rồi tự nhủ chắc chắn phần thắng sẽ về chàng. Chàng nhớ lại lời nói ban nẫy khi chàng cầu nguyện:
- Nơi nào có bóng tối thì con hãy đốt lên một que diêm.
Ðêm nay chàng đã gặp bóng tối. Thầm nghĩ nhất định chàng phải đem tâm hồn nàng về với ánh sáng. Chàng sẽ đốt lên một que diêm. Ý nghĩ ấy cho chàng can đảm, bình tĩnh theo nàng về căn gác trọ.

* * *
Vị chánh án hỏi bị can:
- Ông có quả bị bắt trong đêm ngày mồng 5 tháng 4 ở căn nhà số 103 không?
- Thưa quan tòa đúng.
- Ông đến đó làm gì?
- Tôi đến để thắp lên một ánh lửa trong bóng đêm.
Ở một góc nọ người đàn bà béo phị vừa cười ngặt nghẽo vừa lớn tiếng trong giọng nói pha trò:
- Ông ấy là thánh đấy!
Mọi người cười ồ. Riêng người phụ nữ bị kết án là gái điếm cúi đầu khóc. Vị quan tòa hỏi nàng:
- Còn cô, cô muốn nói gì không?
Người đàn bà tức giận, không ngần ngại nhìn thẳng vào ông chánh án trả lời:
- Biết bao nhiêu người đàn ông đã đến với tôi, trí thức có, đạo mạo có, họ là những kẻ kết án tôi ban ngày nhưng lại cần tôi ban đêm...
Người đàn bà còn đang nói thì có tiếng đập bàn phản đối của người đàn ông phía sau. Ông chánh án đập chiếc búa gỗ ra lệnh cho tất cả giữ trật tự. Mặt ông đỏ như gấc, tức tối vì câu nói của người đàn bà, như ông thấy trong số những người đàn ông mà bà ám chỉ đã có cả ông:
- Yêu cầu bà chỉ trả lời vào câu hỏi. Bà có muốn khiếu nại gì không?
Người đàn bà chỉ tay về phía gã đàn ông nói:
- Tôi không khiếu nại gì cho tôi, nhưng riêng người này thì vô tội. Ông không tìm tôi như nhiều người đàn ông khác, nhưng tôi tìm ông. Ông nghèo. Ông chỉ có một tâm hồn là giàu có. Ông đã đốt lên một que diêm trong bóng đêm. Ông chỉ cho tôi con đường về nhà cũ mà tôi đã bỏ đi. Ông chính là đấng thánh như lời các người vừa nói!
Cả phòng xử án lại phá lên cười. Vị quan tòa không đập búa nữa nhưng đợi cho mọi người cười xong, ông mở tập hồ sơ rồi tuyên bố vắn gọn:
- Tất cả đã rõ. Những mụn ghẻ trên da thịt xã hội phải được cắt đứt!
Cả phòng xử im lặng vì giọng nói cứng rắn và bực tức của ông. Người đàn ông bị kết án đứng xuôi tay nhớ lại lời từ trời cao đã nói với hắn trong khi cầu nguyện:
- Nơi nào có ngổn ngang thì con hãy sống trong sự thật. Nơi nào phức tạp thì con hãy giữ trái tim đơn sơ. Nơi nào có gian dối thì Cha gọi con tới. Nơi nào có bất công thì Cha bảo con đến.
Chàng cúi đầu chấp nhận tất cả. Riêng người đàn bà bị kết tội là điếm ôm mặt khóc nức nở. Nàng không sợ hãi cho đời nàng nhưng nàng thương người đàn ông vô tội đang đứng trước mặt nàng. Chính nàng là người hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là công lí của xã hội. Cả phòng xử đông người nhưng chỉ có hai kẻ bị kết án là biết sự thật và cùng đau khổ cho sự thật.

SAU NHỮNG NGÀY TÙ

Tất cả trắng bát ngát. Tuyết phủ kín cánh đồng. Hàng táo đứng trơ cành khô khẳng khiu. Gió ào ào như muốn xô ngã tên tù. Hắn ôm túi vải vào ngực, đứng nhìn cánh đồng tuyết lạnh mà thấy cô đơn về mênh mông.
Hắn đã được thả tù sớm hơn bản án cay nghiệt vì sức khỏe hao mòn. Ðã nhiều đêm hắn muốn tắt thở vì cơn ho. Vào những tháng gần đây sức khỏe của hắn giảm sút một cách thảm hại. Gió rét về từng cơn. Hắn đi không vững. Mặt hốc hác, chỉ còn đôi mắt vẫn huyền nhiệm.
Ra tù lần này khác với những năm về trước. Bây giờ là mùa đông băng giá. Chàng xiêu vẹo cầm cự với những cơn gió vô tình nghiệt ngã. Thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống ôm ngực ho. Mỗi lúc gió một nhiều. Dường như có một trận bão ở đâu đó. Hắn tìm lối xuống đồi nhưng tất cả mọi lối mòn đã bị tuyết phủ kín. Hắn chỉ còn căn cứ vào những hàng cây bên đường mà phỏng đoán lối đi. Hắn nhớ lại kì ra tù lần trước có hàng cây anh đào, nhưng hôm nay đã biến mất. Chúng đã bị chặt từ thuở nào? Gió lật ngược tấm vải khoác, chàng phải ngồi xuống tránh gió. Ði đâu bây giờ? Chàng thấy vũ trụ mà Thượng Ðế đã dựng nên lớn quá, nhưng chàng không có chỗ nghỉ chân. Chàng thấy Thượng Ðế đã trang điểm vũ trụ bằng vàng bạc châu báu mà chàng thì không có bữa ăn chiều nay.

mariakieuanh
31-10-2010, 01:10 PM
Trời càng về tối gió càng lạnh. Ði được một quãng xa, đến gần ngọn đồi năm xưa mà bác nông phu đã cho chàng bánh và dâu thơm thì trời chuyển mây, tuyết rơi. Chàng nhớ về những kỉ niệm năm xưa ở khúc đường này mà muốn ứa lệ. Giờ này các bác nông phu ở đâu? Tuyết rơi rất nhanh. Cố gắng bước vội. Ðã thấy ánh đèn phố xa tít dưới thung lũng. Chàng nhớ tới ngôi nhà thờ đã ngồi nghỉ năm xưa. Chàng thầm nghĩ sẽ cố gắng về tới nơi để xin một chỗ trọ đêm nay. Trên đồi tuyết lạnh mà những tưởng tượng ra mùi hương trầm nồng ấm của nhà thờ, lòng chàng nhẹ nở một an ủi êm đềm.
Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi. Tuyết rơi dầy hơn, nhanh hơn. Mỗi lúc tuyết một phủ kín thêm cánh đồng đã trắng lạnh. Trên ngọn đồi, một đống tuyết nhỏ nổi bật lên cao phủ kín tên tù nhân xấu số. Hắn đã ngã chết vì đói trong trời tuyết lạnh.

* * *
Xế chiều, mặt trời mù mờ trong sương. Từ dưới thung lũng đi lên, người ta thấy một bóng người trong chiếc áo khoác màu đen. Ðầu, cổ choàng khăn kín mít. Cánh đồng trắng như một biển muối. Rải rác đây đó những bụi cây nhỏ đứng chơ vơ. Hàng táo ở ven đường càng về chiều càng đen sẫm. Cơn bão tuyết đã dứt từ mấy hôm nay. Gió thổi bay những hạt tuyết đọng trên cành, bây giờ chỉ còn những cành cây trơ trọi, đen đủi, thỉnh thoảng rung rinh khi con gió đến.
Khi đi tới ngọn đồi, người đàn ông ngó về phía đồi tuyết. Ông tần ngần đi chậm lại rồi băng qua ruộng lúa bị tuyết phủ ngập, đi dần lên gò tuyết cao. Tuyết phủ mịn màng như một bãi cát đồng trinh. Bước đi của người đàn ông in từng vết chân thành một vệt ngoằn ngoèo dài. Khi tới gần đồi tuyết thì ông không thể hồ nghi được nữa. Trước mặt ông là cụm hoa hồng!
Vì sao lại có cây hồng giữa mùa đông băng giá? Ðây có phải là cây hồng thật? Ngạc nhiên quá đỗi. Ông cúi xuống, ngồi sát bên cây hồng. Màu lá xanh ngát thỉnh thoảng rung lên theo nhịp gió đẩy. Một bông hồng lớn bằng trái cam, đỏ thẫm. Cánh hồng mướt như nhung. Sương ướt còn long lanh trên những cánh hồng mềm. Người đàn ông đứng ngó sững sờ. Ông lại thắc mắc một mình. Giữa đồi tuyết lạnh sao lại có cành hồng? Tất cả cây cối đều rũ bã chết khô sao lại có cây hồng xanh tươi? Cả rừng cây đứng thua trận mùa đông sao lại có cành hồng thản nhiên? Người đàn ông giơ tay vuốt những cánh hồng xinh. Một cơn gió nhẹ, cánh hồng lao chao nghiêng ngả. Người đàn ông với tay đỡ, che cho bông hồng. Cánh gai nhọn làm tay ông rướm máu, bấy giờ ông mới nhận thấy một điều khác lạ: Những mũi gai nhọn. Gai của cây hồng này không giống những loại hồng khác. Người đàn ông nhìn kĩ hơn vì chưa bao giờ thấy những chiếc gai lạ như thế. Nó dài gấp ba, bốn lấn gai hồng thường và nhọn hoắt như lưỡi dao sắc bén.
Người đàn ông băn khoăn lạ lùng vì cây hồng ngoại lệ trong mùa đông, nhưng không biết giải thích ra sao. Ông định hái bông hoa nhưng rồi lại đổi ý. Gạt tuyết ở gốc hồng, ông tìm cách bứng cả cụm hồng về nhà trồng. Gạt được một mớ tuyết, ông thấy sồn sột của móng tay cào trên nền vải. Ông bới mạnh hơn, lẹ hơn, thay vì đất đen, dưới lớp tuyết phủ là một tấm vải màu vàng ngà. Vừa ngạc nhiên vừa hồi hộp, ông tiếp tục lần theo chiều vải mà cào tuyết. Ðược một lúc, ló ra một khoảng vải lớn. Ông cầm miếng vải kéo mạnh. Tuyết bay mù mịt. Ông hoảng hốt giật bắn người: Một đôi chân! Ông vội vàng lui về phía sau. Rõ ràng một đôi chân người! Ông quay mặt nhìn chung quanh như muốn cầu cứu nhưng cánh đồng vẫn hoang vu vắng lặng. Chênh chếch về phía tây, mặt trời mù đặc trong sương ẩm.
Người đàn ông tháo chiếc túi vải đeo ở vai để xuống bên cạnh. Ðó là chiếc túi da màu đen có in hình thánh giá mạ vàng. Túi da nhắc nhở ông đến một sứ mạng thiêng liêng. Ông lại ngó quanh như mong có người đang đi đường để ông bớt lẻ loi, sợ hãi. Có thể đây là nạn nhân của bão tuyết? Có thể bị cướp đánh? Còn nhiều cái có thể khác đặt ra trong đầu ông. Có thể họ đã chết? Có thể còn sống? Nếu còn sống thì ông phải làm gì? Câu hỏi làm người đàm ông liên tưởng đến túi da bên cạnh có in hình thánh giá ở ngoài. Dường như cây thánh giá ấy cho ông thêm can đảm để bới nạn nhân ra khỏi tuyết.
Hai tay lạnh cóng, ông rút chiếc khăn đang đeo ở cổ cuốn lấy bàn tay phải để làm chiếc găng tay cho đỡ lạnh. Bấy giờ mới ló ra cổ áo dòng đen có chiếc collar màu trắng. Ông là một linh mục đang trên đường đi làm việc mục vụ. Nạn nhân nằm co quắp nhưng người vẫn còn mềm. Linh mục bới sạch tuyết trên mặt nạn nhân thì ông nhăn mặt nghĩ ngợi. Trên khuôn mặt như có nét quen thuộc mà vị linh mục hình như có gặp nạn nhân ở đâu đó. Có thể là bộ râu? Có thể là mái tóc? Hay là sống mũi? Linh mục cố moi móc trong cái trí nhớ bắt đầu già nua theo tuổi tác. Ðôi mắt nạn nhân nhắm nghiền như đang ngủ say. Càng nhìn kĩ, linh mục càng thêm xác tín là đã gặp nạn nhân rồi. Ngài xác định nhưng vẫn còn mơ hồ, lãng đãng chưa tìm được một chứng cớ rõ ràng. Ðang cố gắng lục lọi các ngăn tủ của trí nhớ, ngài lại nhìn thấy một đầu miếng vải khác nữa nhô lên khỏi tuyết ở cách đó không xa, chừng vài bước chân. Vị linh mục kéo mạnh miếng vải, cả chiếc túi bật lên. Ngài ngó đăm đăm vào chiếc áo choàng lớn mà nạn nhân đang mặc. Màu vải của chiếc túi và của chiếc áo khoác giống y như nhau. Thêm một tia sáng soi vào vùng tối của trí nhớ, quay ngược thời gian về khoảng 7 năm trước đây. Chính chiếc áo này, gã đàn ông đã mặc, với túi vải này hắn đã xách theo đứng trước tòa án khi bị tố cáo là ăn cắp quả chuông của nhà thờ. Linh mục nhìn kĩ hơn vào khuôn mặt nạn nhân và càng nhìn kĩ ngài càng thấy điều đó đúng. Chính nạn nhân là kẻ ăn cắp quả chuông của giáo xứ, năm nào!
Nạn nhân còn mềm nhưng không còn dấu hiệu của sự sống. Linh mục ngần ngại lấy chiếc túi da đen, mở nắp tìm cuốn kinh và lọ dầu thánh, thứ dầu để xức cho bệnh nhân. Biết đâu nạn nhân chưa chết hẳn, nghĩ thế, ngài mở một cuốn sách nhỏ, tìm lời kinh nguyện cho kẻ đang hấp hối rồi đọc:
- Lạy Chúa, xin xót thương tôi tớ Chúa đây, vì lòng nhân từ, xin Chúa ban ơn trợ giúp để người tôi tớ Chúa được mạnh sức trung thành với Chúa đến cùng. Xin dấu thánh của Người là ân sủng xóa hết tội khiên...
Linh mục vừa đọc vừa xức dầu lên trán nạn nhân. Trên vừng trán, khi linh mục vén mớ tóc lên cao, ngài thấy những vết sẹo đã lành lâu ngày nhưng còn trông rõ như những vết gai nhọn đâm chằng chịt. Lúc xức dầu vào lòng bàn tay nạn nhân, ngài thấy bàn tay mềm như người còn sống dù là giữa trời tuyết giá băng. Ở lòng bàn tay ưng ửng đỏ rồi máu từ từ rớt xuống nền tuyết trắng tinh. Lòng bàn tay mở ra một lỗ bị đâm thật lớn như dấu bị đóng đinh. Linh mục ngỡ rằng nạn nhân đã bị kẻ cướp đánh. Thế nhưng còn dấu đinh ở bàn tay thì sao? Nếu bị cướp giết thì sao lại để lại chiếc túi? Nạn nhân đã bị tuyết phủ sao vẫn còn máu tươi đỏ? Mà những gì đựng trong túi vải kia? Linh mục lại bắt đầu băn khoăn, linh tính báo cho ngài biết một sự gì khác thường, nhưng ngài không thể xác định được.
Linh mục đổ tất cả mọi thứ trong chiếc túi vải xuống tuyết. Một mớ quần áo cũ. Tất cả chỉ có thế. Chính những quần áo mà ngài đã nhìn thấy mấy năm trước đây khi quan tòa ra lệnh cho hắn lấy ra khỏi chiếc túi trong ngày hắn bị xử án. Linh mục lục lọi kĩ nhưng không có gì. Riêng có một gói nhỏ, bọc kính cẩn bằng miếng vải màu đỏ thẫm. Khi mở xong lớp vải sau cùng, linh mục thất vọng, đây không phải là gói tiền hay nột thứ gì quý mà chỉ là cuốn sách cũ. Ðó là cuốn Thánh Kinh, bìa da bị cong và rách, những mép trang nhàu nát vì bị mở quá nhiều lần. Vị linh mục mở qua, mở lại nhưng cũng chẳng có một thứ giấy tờ gì nói cho rõ nạn nhân là ai.
Riêng ở trang đầu tiên, khi linh mục mở tờ bìa, ở góc phải, phía trên cao có mấy chữ viết như học sinh vẫn đề tên vào góc sách để biết sách nào là của ai. Nét chữ không đẹp, nét mực cũng nhòe, phải nhìn kĩ người ta mới có thể đọc được: Giêsu, Nazareth.

Lời cuối


* Ðọc được tên Ðức Kitô trong cuộc đời không dễ. Người ta hay đọc lộn tên Ngài.
* Hai nghìn năm trước, các thầy thượng phẩm cũng nhân danh Yavê mà kết án Ðức Kitô. Nhân danh công lí mà kết án công lí. Trên đường Jerusalem, những giọt nước mắt khóc thương Chúa thì Chúa bảo hãy khóc thương chính mình.
* Kẻ thắc mắc thì cho rằng người viết không đề cao điều thiện. Sao tác giả không minh oan cho nạn nhân mà lại để chết đơn côi trong chiều tuyết lạnh? Có phải trong lối kết cấu tác giả đã đề cao điều ác? Ðức Kitô cũng đã chết trên đồi máu, vậy sự ác có toàn thắng?




2.CÂY HOA LAN

Gia đình bà Ðiền bắt đầu suy sụp từ khi ông qua đời. Nhưng tình trạng thê thảm thấy rõ nhất, nó như chiếc vòng lăn xuống giốc, phải kể từ ngày 30 tháng 4 năm 75. Vào những năm 70, gia đình ông không dư giả nhưng không phải nợ nần chất đống như những ngày về sau này. Ông làm nghề mộc. Ở vùng căn cứ quân đội Mĩ, dân chúng bám vào những căn cứ ấy như miếng bánh ngọt mầu mỡ: Buôn lậu, làm công. Dân chúng khá giả, đua nhau sắm sửa nhà cửa tươm tất. Nhà nào mà không có một, hai chiếc tủ đứng, tủ chè đựng đồ kiểu. Nghề thợ mộc của ông đắt khách. Dù ông chỉ là người làm thuê cho một chủ tiệm bán bàn ghế nhưng cũng đủ cung ứng mọi chi tiêu cho gia đình.
Thế rồi, cái bánh ngọt mầu mỡ ấy, bỗng một ngày có người nhắc đi. Chỉ sau vài tháng khi quân đội Mĩ rút lui, cỏ mọc xanh lối vào các căn cứ mà đã một thuở rộn rã bóng người. Ðồng tiền khó kiếm. Cái nghề mộc của ông Ðiền bắt đầu lung lay. Ông chủ tiệm đã có tiếng thở dài ế ẩm. Gia đình ông Ðiền thấy bóng dáng mây đen đe dọa ở xa xa. Ba năm sau, gia đình ông bắt đầu là con nợ của nhiều người.
Âu lo về chuyện nhà, thêm vào là bệnh tật, nhưng có lẽ ông không đến nỗi chết sớm nếu không nghe cái hung tin về đứa con trai của ông tử thương ở cao nguyên. Ông đã dốc tất cả số tiền dành dụm để chạy chọt, lo cho thằng con khỏi phải đi lính. Nhưng tiền mất tật mang. Ông đã mất hai cây vàng để mua lầm miếng giấy hoãn dịch giả. Hai tháng sau khi mua mảnh giấy giả ấy, thằng con ông bị bắt. Thương nhớ con, tiếc của bị mất, vì nỗi tức, ông đã nghẹn thở suýt chết mấy lần hồi ông mới bị bệnh. Khi nghe tin con tử thương thì ông xỉu thường bữa. Từ ngày đó, sức khỏe ông trút đi trông thấy.
Vào một chiều u uẩn cuối tháng tám, ông vĩnh biệt cuộc đời khổ đau để lại cho bà Ðiền trông coi sáu đứa con. Tháng tám với mùa nắng hanh nhưng cũng có những cơn giông bất chợt. Cái nắng gian khổ của trời gởi đất. Cái giông tố bất chợt của mưa bão gởi người. Cũng tháng tám, mùa có những giải mây trắng tan loãng bay về nẻo xa như nhắc nhở của chia li cách biệt. Ngày ông chết là cánh cửa đóng lại mảnh vườn gia đình của bà Ðiền và đưa Lan, người con gái lớn của bà, mười chín tuổi vào thế giới của gian khổ, nhọc nhằn.
Lan phải bỏ học phụ mẹ tần tảo nuôi em. Bà Ðiền không còn gì để cậy trông, nhìn sáu đứa con như một đường hầm dầy quánh bóng tối chảy vào tương lai. Trên vai trĩu xuống tình mẫu tử nặng nề, xót xa. Trong nhà đã cạn tiền bạc. Thương chồng, thương con, bà như cây sậy trơ vơ trước giông tố sắp ập xuống. Bà không thể giấu được khổ đau. Những tiếng thở dài muộn phiền, não lòng của mẹ như những mũi kim đâm vào tim Lan đau buốt.
Lan bỏ thi Tú Tài I. Ngày quyết định cất cặp sách vào cuộc đời là ngày Lan đã lặng lẽ khóc. Giã từ sân trường, xa rời thầy cô, bạn bè, bỏ lại sau lưng những mộng mơ thơm mùi hoa học trò. Những cánh phượng, những trang lưu bút vấn vương kỉ niệm trôi về vùng biệt tăm. Lan như mất đi một phần đời. Nhìn đám bạn bè vô tư với chữ nghĩa, với những tiếng cười giòn vang, Lan thấy mình già đi. Những sáng trông tà áo bay, những vành nón nghiêng bên cặp sách, Lan thấy mình thiệt thòi, xót xa. Nỗi tiếc thương của tuổi học trò vừa mất, thêm vào những vất vả của mẹ làm tuổi thời gian mới mười chín của Lan đã phải hằn lên bằng lo âu của tuổi đời, chập chùng bằng thao thức của tuổi sống. Ánh mắt Lan đọng trên bờ mi những đăm chiêu. Trong đôi mắt ấy, bay về những chân trời thoang thoáng mây tím lặng lẽ, đơn côi.
Vì ế ẩm, bà Ðiền bỏ nghề tráng bánh. Lan theo mẹ về các xóm quê mua gà đem lên chợ bán. Tuy vất vả nhưng nếu gặp may thì bà Ðiền cũng có thể cầm cự được với cuộc sống khó khăn. Nhưng không phải lúc nào cũng êm xuôi, có những ngày Lan rối bời ruột gan nhìn bầy gà ốm. Gặp những chuyến gà toi là lỗ vốn nặng. Mỗi con gà là một dòng máu của gia đình. Nhìn nó đi, nó nhẩy như chính cuộc đời của Lan. Thấy bóng gà ủ rũ mà Lan lo âu từng giây, từng phút. Nhưng lo âu cũng chẳng có phép mầu cứu vãn được tình thế. Chẳng bao lâu bà Ðiền kiệt vốn vào một mùa gà toi. Gà chết, dòng máu cạn, chết đi cả gia đình. Trống không, hai tay xơ xác. Nhà hết gạo ăn. Lan giấu mẹ những chiều ngồi một mình rưng rưng lệ. Làm sao bây giờ? Không câu trả lời. Lan chỉ biết nhìn lên trời tìm yên ủi ở một niềm tin. Nhưng niềm tin ở xa xôi quá.
Trong những ngày kiệt quệ ấy, thằng Ngân, đứa em kế của Lan được ông Sáu Vượng mượn làm thuê. Tờ mờ sáng, nó sửa soạn sang nhà ông Sáu theo xe lam của ông về miệt Vũng Tàu buôn cá khô. Ông buôn cá về phơi, xay nhỏ rồi bán cho mấy công ti làm đồ ăn cho heo. Từ ngày thằng Ngân góp tay vào giúp gia đình, bà Ðiền cũng bớt được đôi chút lo âu.
Thời gian bỗng dưng nổi sóng gió. Biến cố tháng Tư năm bẩy lăm đảo ngược tất cả mọi sinh hoạt của miền Nam. Sau biến cố, ông Sáu Vượng bị tịch thu chiếc xe lam. Thằng Ngân mất việc làm. Cuộc sống đảo lộn, rối bời trong cơn lốc xoáy. Nhiễu nhương ấy đẩy con người vào hải đảo cô lập, thủ thân. Bà con hàng xóm bỗng một ngày trở nên xa lạ. Niềm tin phai màu. Nhìn nhau bằng mặt, xa nhau lòng thành. Tình thân thành nghi ngờ. Không ai còn dám cho nhau mượn tiền bạc, lo sợ đủ điều. Chính vì vậy mà Lan đã cám ơn Chúa vô cùng, nàng coi như một ơn đặc biệt Chúa ban cho gia đình nàng. Ðó là chuyện một gia đình dám cho bà Ðiền mượn tiền mua chiếc máy may. Thấy hoàn cảnh đáng thương nên khi chủ tiệm may Tân Thái muốn bán bớt máy để tránh cảnh dòm ngó của công an phường, gia đình này đã sẵn sàng giúp vốn cho Lan mua chiếc máy để lấy kế sinh nhai.

* * *
Bà Ðiền biết mình sắp ngã nhưng không sao chống lại được. Bà biết rõ là hai chân bà đang ríu lại. Cái cảm giác đầu tiên bà thấy là người nhẹ đi, rồi những vật chung quanh bắt đầu di chuyển, ban đầu chầm chậm, rồi nhanh hơn, nhanh hơn. Bà còn biết rõ, mới đầu chúng chạy vòng vòng, rồi một lúc sau, hỗn độn, tứ tung. Trên đầu bà, mái nhà như chạy ngược về phía sau. Ðến giai đoạn đó là bà thấy muốn ói mửa, xây xẩm mặt mày muốn té ngã. Bà cố gượng hết sức nhưng không làm thế nào chống lại được, như người thủ môn chạy ra khỏi khung gỗ, thấy đối thủ sút trái banh, nhìn đường bay vào khung gỗ mà đành chịu bó tay, không sao níu kéo được. Nghe tiếng đổ nước ngoài sân, bà biết Lan đã cắt rau cho heo về. Bà lại càng lấy hết sức mình bước về phía cái phản gỗ để giấu không cho Lan biết bà đang bị chóng mặt. Bà nhủ thầm là bà không thể để cho đứa con gái biết bà yếu sức đến như thế, không thể để cho Lan thấy bà ngã ở đây được. Với ý tưởng ấy, bà cố gắng gượng thêm, nhưng bà chóng mặt rồi, không còn nhìn thấy gì nữa. Tất cả quay tít. Hai chân ríu lại. Trời đất sụp xuống. Bà có cảm giác như đang đứng trên cây thang, bỗng dưng có người rút mất khỏi chân. Lảo đảo, mặt tối sầm, bà quỵ ngã xuống nền nhà.
Nghe tiếng người ngã, Lan vội bỏ gánh rau heo đang rửa nửa chừng chạy vào. Bà Ðiền nằm sõng soài, miệng hẵn còn bọt trắng. Lan kêu thét lên chạy đến ôm mẹ. Bà Ðiền chóng mặt nhưng tâm trí vẫn tỉnh, biết Lan ở bên cạnh, bà ráng sức nói cho con gái yên tâm:
- Mẹ không sao đâu, đưa mẹ lên phản.
Mắt Lan đầm đìa lệ vì đây không phải là lần đầu bà Ðiền ngã. Và Lan biết lí do tại sao mà mẹ chóng mặt. Ðiều ấy lại càng làm Lan đau khổ vô cùng:
- Mẹ! Mẹ lại bán máu nữa rồi!
Nàng nức nở hỏi bà Ðiền:
- Mẹ, Mẹ có sao không, người ta rút bao nhiêu máu của mẹ?
Bà Ðiền nói lãng :
- Hôm nay trời đất đổi gió làm mẹ hơi nhức đầu.
Nhưng lời nói ấy chẳng làm Lan yên tâm mà chỉ làm nàng đau khổ thêm. Lan bỗng nhiên tức mình với mẹ. Lan dìu mẹ lên phản mà chỉ muốn xô cho mẹ ngã lần nữa, quá tức vì bà không chịu nghe lời mình. Lan biết bà đang dối Lan. Nàng biết mẹ mình không phải trúng gió mà vì thiếu máu. Tức mẹ, nhưng càng tức lại càng thương làm nước mắt Lan chảy thêm. Nàng khóc thút thít, bật thành tiếng nấc. Khi bà Ðiền nằm lên phản rồi, Lan vạch tay áo của mẹ lên nhìn. Ðúng như nàng đã nghĩ. Tay bà Ðiền vẫn còn vết rỉ máu. Một chấm đỏ, hơi sưng, lớn hơn đầu tăm. Vết thương của một mũi kim chích.
Ðây là lần thứ tư bà đã bán máu trong vòng khoảng hai tháng nay. Lần thứ nhất, nhờ số tiền bán máu bà đã trang trả được một phần nợ, dù số nợ chẳng lớn nhưng vì đã quá lâu, người chủ nợ hỏi hoài vì sợ bà quỵt mất. Lần bán thứ hai thì bà yếu hẳn đi nhưng bà vui vì đã trả được tiền thuốc cho thằng Ngân bị thương hàn. Lần thứ ba thì người ta phải gọi Lan lên nhà thương dìu bà về. Lúc đó Lan mới biết mẹ đã bán máu đến lần thứ ba rồi. Trong nhà chẳng còn gì để bán. Vào lúc cùng quẫn ấy, ông Ngọ mách cho bà biết là ông cũng đã bán máu tuần trước. Bà Ðiền thấy như chiếc phao đang trôi lại gần trong lúc sóng dập đang đưa gia đình bà chìm xuống. Nhưng đến lần thứ tư thì bà không còn máu để bán nữa. Một tháng trời mà bà đã bán hai lần rồi. Ăn uống không đủ, bữa cháo, bữa ngô, bữa đói thì lấy đâu ra máu mà bán. Lần cuối cùng này bà Ðiền đã xỉu ngay lúc người ta rút mũi kim chích ra khỏi tay. Họ đã phải cho bà một li nước đường để uống hầu bù vào số chất lỏng bị thiếu hụt. Nhưng sau cùng họ cũng phải quyết định trả lại số máu mới rút ra. Bà nhất định không chịu. Nghĩ đến số tiền họ đã trả trước đang nằm chặt trong túi áo đã cài kỹ bằng chiếc kim băng, bà nhất định bảo cô y tá là bà còn khỏe, bà chỉ chóng mặt một lúc là khỏi, bà chỉ cần nghỉ một lúc là có thể đi được. Nhưng cái "một lúc" của bà đã kéo dài hàng giờ. Cứ khi bà tưởng mình đi được, bà đứng dậy cố bước thì trời đất lại như lún xuống, hụt hẫng. Bà bước chân trước chân sau, dập dềnh. Sau cùng thì cả hai bên đều kì kèo, bà muốn bán, người ta muốn trả, nên giải đáp cuối là bơm lại một nửa để bà có đủ sức bước về.
Dìu mẹ lên giường xong, Lan lặng lẽ ra bờ giếng ngồi nghĩ đến hoàn cảnh nghèo của gia đình mà khóc một mình. Nàng nghĩ đến chiếc máy may, lại tức giận với chính mình hơn. Ðối với nàng, cái quyết định sai lầm lớn nhất trong đời là đã bán chiếc máy may. Từ ngày bán chiếc máy rồi, nàng thấy như một cánh cửa gỗ nặng, dầy kín đè sập xuống không còn tia hi vọng để soi sáng nữa. Lan trách mình sao mà ngu quá. Nhưng nghĩ lại thì Lan cũng lại thương mình. Ðêm trước khi bán máy, nàng đã suy tính hơn thiệt, nàng cũng đã nhìn thấy cánh cửa gỗ dầy đặc, tàn ác đó sẽ sập xuống. Nàng biết còn chiếc máy, còn có thể kiếm được tiền, bán đi sẽ mất vĩnh viễn. Nhưng làm sao cứu nổi bà Ðiền trong cơn bệnh nguy kịch. Mất máy may hay là mất mẹ. Câu hỏi sau cùng ấy đã quyết định số phận cái máy may. Lan còn nhớ rõ là Lan nói với chính mình rằng đành liều vậy, rồi sẽ xoay xở vì phải giữ mẹ. Mẹ là tất cả. Nàng ngồi bên bờ giếng nhớ lại vụ bán máy, thấy mình hành động đúng chứ không ngu dại như vừa tự trách. Nước mắt lăn dài, im lặng của một kẻ độc hành.
Cả buổi chiều đó Lan không cầm được nước mắt vì thương mẹ quá. Tối về, trên giường ngủ, Lan úp mặt vào gối khóc thổn thức một mình. Ngoài trời phủ mưa giăng. Tiếng mưa đập vào miếng giấy cứng che cửa sổ bồm bộp. Ánh đèn dầu lao chao trên bàn thờ, mở một vùng sáng nhỏ. Chân tượng Chúa gầy trên cây thập giá bụi mốc. Mưa nặng hạt, mưa lạnh quá, mưa đang rơi vào hồn. Gió đêm bay tan tác con tim, gió đem mưa về bơ vơ trống trải. Tất cả mọi lối tới tương lai đều nghẽn đường. Lan chỉ nhìn thấy bóng tối. Bóng dầy đặc như những tảng khói sền sệt làm nàng không thở được. Bóng tối có sự chết, bóng tối chập chùng những chán nản, âm u. Tư tưởng muốn chết, sợ hãi sự sống, oán trách Chúa làm Lan lạnh người. Lan vội xua đuổi như một thứ yêu tinh. Ngoài trời đêm nay đen thăm thẳm, gió ào ào xé nát những đọn chuối non. Mưa cứ từng cơn đổ về. Lan lặng lẽ khóc. Trong cơn mệt, nàng đi vào giấc ngủ không bình yên, có những cơn mộng mị khô héo. Trong cơn mơ ấy nàng thấy thánh lễ Chúa Nhật thật đông. Cha phó làm lễ rất sốt sáng. Tất cả ca đoàn đứng trên gác hát trong bộ đồng phục áo dài vàng tha thướt. Riêng nàng ngồi ở một góc tường. Cô độc. Nàng đã mất bạn bè rồi. Những dẫy ghế dành cho ca đoàn còn đó, bỗng dưng nay sao xa lạ. Nàng không còn thuộc về khung trời ấy nữa, như kẻ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi. Ðứng đó, bơ vơ. Chỉ có chiếc áo dài, mà từ ngày bán nó, Lan trở thành mồ côi. Càng ngày Lan càng hiểu rằng chỉ có tâm hồn nhiều khi cũng chưa đủ. Trong cuộc sống, có những lằn mức mà đức tin chẳng thể xóa mờ. Chưa lúc nào tâm hồn Lan gần gũi ca đoàn như lúc này. Nhưng chỉ có tâm hồn thôi. Không có chiếc áo đồng phục, Lan chẳng thể thuộc về thế giới ấy. Trong cái lẻ loi, Lan dần dần mới thấy Chúa là người luôn luôn đi ngược dòng đời. Môn đệ Chúa chẳng có áo đồng phục. Kẻ theo Ngài chẳng có phù hiệu. Nghĩ tới đó, Lan ôm mặt:
- Chúa ơi, đấy là thế giới của Chúa. Còn cuộc sống của chúng con, khác lắm, vì nghèo đói mà cuộc sống mất phẩm giá của con người. Chúng con chẳng thể nhận ra giá trị niềm tin nếu niềm tin không được may mặc bằng gấm vóc.

mariakieuanh
31-10-2010, 01:14 PM
Cha phó, người mà nàng vẫn đến để tâm sự, nay cũng mất luôn rồi. Nàng không dám gặp mặt cha, sợ cha hỏi tại sao lại bỏ ca đoàn, biết trả lời thế nào, chẳng lẽ lại nói cho cha biết sự thật, chiếc áo đã bán? Thức dậy nửa đêm, Lan nhớ lại cơn mơ, nàng thấy tủi thân quá, thương mình quá, Lan lại úp mặt xuống khóc trong lặng lẽ.

* * *
Cha phó đứng nhìn gốc lan đã bị nhổ, ném ra xa. Cây lan mới trồng đây, mầm non đang đâm chồi, hôm nay nằm héo úa, chết dần như một người nhợt nhạt ra đi vì bị rút máu khỏi cơ thể. Ngài cho rằng con chó hoang đã đào vì nó thấy vết đất mới nên nghĩ là có gì chôn ở dưới. Chả có gì là quan trọng, sẽ trồng gốc lan khác.
Bên kia ruộng khoai, bà quản Thông hé tấm phên che cửa nhìn qua. Lòng rộn lên sung sướng vì bà bắt gặp chính lúc cha phó đứng nhìn gốc lan bị nhổ. Kết quả do chính công trình tay bà tạo nên. Thấy mình là kẻ chiến thắng, có sức mạnh làm cho cha phó phải khổ lụy. Bà hài lòng mãn nguyện. Khi thù oán, người ta mừng lúc thấy đối phương sa cơ lỡ vận. Bà quản Thông cũng không ra ngoài tâm trạng ấy, trong đầu bà vẽ ra bao nhiêu hình ảnh về cha phó. Cha phó càng tức bao nhiêu, bà càng sung sướng bấy nhiêu. Nỗi đau của cha tỉ lệ nghịch với niềm vui của bà nên để cho niềm vui ấy say sưa thêm, bà tưởng tượng ra nào là khuôn mặt cha nhăn lại tức tối vì không biết ai nhổ cây lan, nào là cha phó đang lẩm bẩm chửi thề, tức một mình mà không làm gì được. Thế mới đáng. Bà đứng đó nhìn cha phó cho đến khi cha đi khỏi mới sập phên cửa lại.
Ngày cha phó về nhận xứ, bà quản Thông là người đầu tiên biếu cha gói quà mà về sau cha phó cứ nhắc mãi vì nó là kỉ niệm, gói quà thứ nhất ngày cha về xứ mới. Sau khi khép lại phên cửa, bà quản đứng tần ngần nhớ lại cái "kỉ niệm" ấy. Bà còn nhớ rõ hộp kem đánh răng Colgate của đứa con gái ở Mĩ gửi về. Cha phó bảo kem của nhà nước toàn là bọt. Nhưng cái tình nồng nàn của bà quản dành cho cha phó giảm dần từ ngày cha mượn bà Ðiền vào giúp việc nhà xứ. Ðến hôm nay thì cảm tình ấy đã trở thành tức giận. Bà nghĩ lại mà tiếc rẻ lọ kem đánh răng đã biếu ngài. Riêng cha phó, chẳng hay biết gì, ngài vẫn thấy nụ cười của bà quản thân tình như ngày nào.
Sự có mặt của bà Ðiền trong khu nhà xứ là một cái gai trước mắt bà quản. Nhất là cái duyên dáng của cô Lan. Bà quản đã nhiều lần so sánh giữa Lan và con gái của bà, Thu Cúc. Giữa Lan và Cúc thì Lan có cái đẹp kín đáo để người ta phải tìm kiếm, khám phá. Nét đẹp ở Lan là cái duyên không ào ạt như những cơn mưa mà là những làn gió nhẹ, những cụm mây trời lãng đãng. Lan hiền. Cúc cũng đẹp, Cúc có sắc đẹp nổi bật, gợi cảm. Ðôi mắt Cúc có cái nhìn để kẻ nói chuyện phải nôn nao. Nhưng đời Cúc và Lan khác nhau nhiều. Ðời sống vất vả, nghèo khổ làm Lan có những suy tư, nhìn đời trầm lặng hơn Cúc. Cúc thì mặn mà, tươi trẻ, nhí nhảnh. Cúc đẹp nên bà quản rất hãnh diện về cô con gái, hãnh diện bao nhiêu thì lại đau bấy nhiêu nếu có ai khen người con gái khác. Ðối với bà quản thì Cúc phải trổi vượt hơn Lan, hơn bất cứ người con gái nào. Và trong thâm ý của bà quản thì Cúc phải có một "chỗ đứng" đặc biệt trong trái tim cha phó hơn bất cứ người con gái nào trong ca đoàn.
Bà quản khó chịu khi thấy cha phó nói chuyện với Lan. Mới đầu, cái khó chịu ấy chỉ là những nỗi tức suông, nhưng dần dà, nó có lí do của nó. Bà cho rằng có thể Lan là dịp cám dỗ nguy hiểm cho cha phó! Ban đầu bà không để ý đến Lan, bà chỉ khó chịu vì sự có mặt của bà Ðiền mà thôi. Chính Cúc là người hay ra vào nhà xứ nhiều hơn cả vì nhà sát ngay bên. Nhưng cơn ganh tị có những giả thuyết riêng của nó. Và nỗi ghen của bà quản đã được bọc một lớp đường thánh thiện là: Bảo vệ cho cha phó khỏi sa chước cám dỗ! Mới đầu bà quản cũng biết đấy chỉ là những ngụy biện. Bà xấu hổ vì cái ghen tức vô cớ của bà với sự có mặt của bà Ðiền. Nhưng dần dà, bà mất dần cái ý thức tự nhận ấy, nỗi ghen từ từ trở nên đích thực và chính đáng. Bà thấy tất cả việc làm của bà chỉ là làm sáng danh Chúa chứ chẳng phải là tức tối với ai. Trên con đường mòn đầy cỏ dại nghi ngờ, đố kị ấy, bà đã đi. Những bước chân ban đầu làm cắn rứt lương tâm, bàn chân đau. Nhưng trên lối mòn bất chính đó, vết chân dẵm lên nhiều lần, nay dần dà sắp thành chính lộ.
Khu nhà xứ đã là mảnh đất "bất khả xâm phạm" của bà quản từ bao lâu nay rồi. Khi cha phó mượn bà Ðiền vào làm thì bà quản thấy như mình bị hất ra. Như cái tình của cha phó dành cho bà đã bị chia sẻ. Bà thấy như mình bị giảm mất ảnh hưởng. Cái giai đoạn đầu ấy đưa bà đi xa hơn trong lối phán quyết. Bà nhìn cha phó với con mắt nghi ngờ đủ điều. Có thể vì thương cô Lan mà cha phó mượn bà Ðiền chăng? Biết đâu đấy chẳng là cái cớ cho Lan có dịp vào nhà xứ giúp mẹ để gặp cha nhiều hơn? Những câu hỏi ấy biện minh cho nỗi ghen của bà, rồi từ đó, bà quản thấy rõ là việc làm của mình cần thiết và chính trực. Thực sự đôi lúc bà cũng nhận rằng Lan không vào nhà xứ, lí do bà đưa ra không vững. Nhưng nếu không tìm được lí do thì bà cảm thấy bà tức tối chỉ vì ghen. Ðiều đó làm bà thấy mình tầm thường, nên từ tiềm thức sâu thẳm đẩy bà đi tìm mọi thứ nghi ngờ hầu biện minh cho việc làm và tình cảm bất an trong tâm hồn bà. Vì thế, lí do bà chưa bắt gặp Lan nói chuyện riêng với cha phó lại được tiềm thức bà đi đến những sáng tạo mạnh bạo hơn: Biết đâu Lan chẳng gặp lén? Nếu vậy thì bà lại càng phải để ý nhiều hơn! Những ý nghĩ ấy cho bà quản thêm xác tín về hành động của bà, trấn an lương tâm và đẩy bà bước tới.
Nghe tiếng gõ cửa, cha phó lên tiếng gọi:
- Ai đó. Xin mời vào.
Sau khi thấy cha phó đứng trầm ngâm nhìn cây lan bị nhổ, bà quản Thông muốn sang tận nơi để nhìn mặt cha phó xem phản ứng của cha thế nào về cây lan. Bà nở một nụ cười thật tươi trước khi bước vào phòng:
- Bẩm cha! con đây ạ!
Cha phó vui mừng:
- Ấy! bà quản đấy à, tôi đang định qua tìm bà thì bà tới! Tôi có việc phải nhờ bà đây. Thật đúng bà quản là người được thiên thần Chúa sai đi!
Bà quản Thông, trong giọng nói rất đon đả, trả lời lại câu nói dỡn của cha phó:
- Con có là quỷ thì có chứ thiên thần thiên thánh gì!
- Chết! Sao bà quản lại nói thế.
Thấy bà quản vui, rất tự nhiên, cha phó cũng vui lây, ngài nói dăm ba câu pha trò. Hai người cùng cười. Bà quản Thông hỏi cha:
- Bẩm cha, cha tìm con có việc chi?
Cha phó không trả lời nhưng lại hỏi bà quản:
- Bà quản này, con Cúc nó có nhà không?
- Bẩm cha, cháu ở trên hợp tác xã chiều mới về, cha có điều chi dạy cháu?
- Tôi có việc khá cần. Sắp đến dịp lễ quan thầy xứ, tôi muốn nhờ nó may cho tấm khăn trải bàn thờ. Mới có người dâng nhà thờ ít vải đẹp lắm. Cũng vải lụa từ Mĩ gởi về đấy bà quản ạ.
Nói đến từ Mĩ gởi về, bà quản lại nhớ đến lọ kem đánh răng Colgate đã "lỡ" biếu cha phó làm bà thêm bực mình. Bà quản Thông đã biết hoàn cảnh của bà Ðiền từ lâu. Bà biết Lan đã bán máy may nhưng đây là lúc được dịp để bà nói dăm ba câu xiên xỏ mà bà ít thấy có cơ hội:
- Gớm! Cha dạy cháu quá điều. Con Cúc nhà con nó vụng tay lắm cha ạ! Sao cha không nhờ cô Lan có hơn không, cô ấy vừa khéo tay lại vừa...đạo đức!
Việc nhờ vả của cha phó chẳng ăn nhằm gì đến vấn đề đạo đức nhưng khi chợt nhớ ra hai tiếng "đạo đức" ấy, bà lấy làm thú vị là đã khen Lan đạo đức một cách mỉa mai trước mặt cha phó. Cha Phó quay sang nhìn bà quản, vô tư:
- Con Lan nó bán máy may rồi bà quản ạ.
Bà quản Thông làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Gớm! Bán máy may rồi hả cha?
Cha phó vô tình kể lể:
- Ừ, nó bán máy rồi. Tội nghiệp cho con nhỏ, nó bán máy hồi bà Ðiền bị bệnh nặng. Con Lan đảm đang quá, vất vả lo cho mẹ, lo cho em vậy mà Hội Con Ðức Mẹ có điều gì nhờ vả là nó làm ngay chẳng nề hà.
Bà quản nghe những lời khen mà như lửa đốt trong tim. Bà hầm hầm nhìn cha phó bỉu môi. Cha phó chẳng hay biết gì.
Ra khỏi phòng cha phó, bà quản tới cuối hành lang tìm gói đồ. Bà đã cẩn thận để thật xa, chỉ sợ cha phó nhìn thấy. Bà xách chiếc túi giấy đi về phía phòng cha xứ.
- Bẩm cha, cha có nhà không ạ?
Nghe tiếng gọi, cha xứ biết ngay là ai:
- Bà quản đấy hả, mời bà vào.
Bà quản Thông sẽ sàng mở cánh cửa đang khép hững hờ bước vào với gói quà:
- Bẩm cha, con có chút quà mọn biếu cha!
- Bà quản nói thế chứ quà mọn của bà cũng bằng...
Nói đến đây cha xứ không biết so sánh thế nào, ngài vội lấp:
- Thế bà quản có gì đấy?
- Bẩm cha, chẳng nói giấu gì cha, nhà con mới đi Vũng Tầu về, có ít nhãn gọi là chút quà...
- Ồ! Nhãn Vũng Tầu thì nổi tiếng ngọt!
Vừa nói cha xứ vừa kéo ra một chùm nhãn. Ngài trầm trồ khen:
- Nhãn lớn quá! Chưa bóc vỏ đã thấy mùi thơm!
Bà quản lấy làm sung sướng:
- Vâng, nhãn lồng đấy cha ạ. Nhiều cùi mà hột thì nhỏ chứ không như thứ nhãn miệt Phước Thành. Con biết cha thích nhãn nên đã dặn nhà con là thế nào cũng phải nhớ mua cho cha vài kí.
Bà cố ý nhấn mạnh chữ "cha" chứ không nói "hai cha" vì bà muốn loại cha phó ra khỏi tình cảm lúc ban đầu mà bà đã hối hận vì biếu cha lọ kem Colgate. Cha xứ đặt gói nhãn xuống bàn, ra chiều cảm động vì sự săn sóc của bà quản. Trời hâm hấp nóng. Cha xứ vừa với chiếc quạt giấy vừa hỏi bà quản:
- Thế ông nhà mới đi Vũng Tầu về đấy à, đi vì chuyện làm ăn hay là chuyện gì?
- Bẩm cha, chẳng nói giấu gì cha, chuyện cho cháu Cúc đấy ạ!
- Thế à! Vậy ông bà tính đến bao giờ thì cho tôi ăn cỗ đây.
- Gớm! Cha nói vậy chứ cũng chưa biết thế nào.
- Con Cúc vừa đẹp lại vừa nhanh nhẹn, chắc là ông bà kén rể lắm nhỉ.
Bà quản Thông sung sướng đến xúc động khi nghe cha xứ khen Cúc đẹp. Bà làm ra vẻ bẽn lẽn:
- Gớm! Cha nói quá điều, con Cúc nhà con nó ra cái gì đâu!
Bà quản luôn có cái tật hay mở đầu bằng câu "gớm". Nào là "gớm" con Cúc nhà con nó vụng tay lắm. "Gớm" cha khen quá điều. Ðề cập đến chuyện cưới gả cho Cúc, bà quản thấy đây là dịp thuận tiện cho bà "đánh" cha phó một đòn mà bà đã thầm nghĩ nhiều lần là chỉ khi nào có bàn tay của cha xứ, bà mới thành công. Bà mở đầu câu chuyện như đã chuẩn bị kĩ lưỡng:
- Gớm! có con gái lớn cũng khổ cha ạ. Con cứ lo ngay ngáy. Thôi thì được người ta thương thì gả cho xong. Chứ như cô Lan bây giờ thì...cũng khó... mà có khi ...mất linh hồn cũng không biết chừng! Có người nói là có bầu! Có người nói là phá rồi!
Cha xứ chưng hửng, ngạc nhiên. Cô Lan nào? Lan con bà Ðiền đang giúp việc nhà xứ ấy à? Lời phán quyết của bà quản như trái bom. Câu chuyện hấp dẫn. Ngài nóng lòng hỏi bà:
- Cô Lan nào?
- Thì cô Lan con bà Ðiền ấy, cha không nghe gì hết à?
Nhíu mày suy nghĩ, ngài không hề biết, cũng chẳng nghe gì về câu chuyện. Càng ngạc nhiên, Cha xứ hối bà quản:
- Vậy à, chuyện như thế nào bà kể cho tôi nghe.
Bà quản mừng thầm vì thấy cha xứ như con cá đang mắc phải lưỡi câu. Bằng kiểu nói khôn ngoan, bà rào đón trước sau:
- Bẩm cha con cũng không biết rõ. Nói ra chỉ sợ mang tội xét đoán oan cho người ta. Con chỉ nghe thấy tiếng đồn thôi. Con cũng định nói với cha nhưng ngại quá. Vì câu chuyện không đơn giản như những câu chuyện khác, những đứa con gái khác. Nhưng không nói thì con thấy lương tâm không bình an, cứ cắn rứt, như là Chúa bảo phải nói cho cha hay...
Bà quản im lặng một chút như ngần ngại, cha xứ càng thấy câu chuyện trở nên quan trọng. Bà làm ra vẻ điều bà sắp nói đây là điều rất khó nói, chậm rãi bà quản kể tiếp:
- Bẩm cha, lâu nay, từ ngày bà Ðiền được cha phó mượn làm thì cô Lan cũng lấy cớ vào phụ mẹ mà ra vào phòng cha phó luôn. Con nghe mấy đứa Hội Con Ðức Mẹ xì xèo... Giáo dân cũng nói ra nói vào. Chuyện cha phó và cô Lan. Rõ khổ! Mấy bà bên Hội Dòng Ba cũng nói lắm. Mấy bà cứ xúi con vào trình cho cha hay. Con bảo là con không dám đâu. Nhưng mấy bà hối quá là hối, bảo rằng dù sao thì con cũng là bà quản, cũng là người chức sắc trong xứ chứ họ thì lấy quyền gì mà trình bày cho Cha. Nên hôm nay con phải lấy hết can đảm nói cho cha hay. Nếu có điều gì không nên, không phải thì xin cha dạy, con chỉ vì lòng thành mà thưa cha thôi.

* * *
Chiều hôm đó cha xứ dò hỏi và bực tức vì biết cha phó đã trả cho bà Ðiền số lương khá hậu hĩnh.
Bà quản Thông cặm cụi viết thơ. Bà chỉ viết khi nào tất cả nhà đã đi vắng. Bà thấy công việc tấn công cha phó bắt đầu hiệu nghiệm từ khi có bàn tay cha xứ nhúng vào. Nhất là bà trở nên như một nhân vật quan trọng trước mặt cha xứ. Bà thấy rõ, cha xứ niềm nở hơn, tin tưởng bà hơn nữa. Cầm lá thư đang viết gởi cho cha phó, bà đọc lại:



Kính thưa cha,
Con không biết làm sao để nói cho cha, nên đành mượn trang giấy này tâm sự với cha vậy. Bẩm cha, ruột gan con rối như tơ vò khi nghi người ta xì xào về chuyện giữa cha và cô Lan. Người ta bảo vì cô Lan mà cha mượn bà Ðiền vào làm trong nhà xứ để cho cô Lan có dịp gặp gỡ cha...Con nghe thấy người ta đồn thổi quá, nào là cô Lan kì này rất xanh xao... nào là cô Lan gầy rạc hẳn đi...có người con nói là cô phá thai...

Ðọc đến đó, bà quản cảm thấy mắt như hoa lên, mặt nóng bừng. Lời thơ táo bạo quá, nó ác độc đến tận cùng rồi. Bà thấy áy náy, nhưng bà cất bỏ lá thư vào ngăn tủ rồi lấy lá thư khác, lá thư viết cho Lan. Với tay lấy chiếc nón lá, bà cầm lá thư đi về phía nhà bà Ðiền.
Bà quản Thông đứng chờ ở bên bụi chuối cho đến khi chính mắt bà nhìn thấy Lan lấy lá thư cài ở khe cửa thì bà mới yên trí về.
Buổi chiều hôm ấy Lan như người mất hồn. Nàng không còn sức nào rửa gánh rau heo mới vớt về. Bùn lấm đầy tóc nàng cũng chẳng gội. Tất cả trước mặt nàng là tan tác. Trái tim nàng là một nghĩa trang với những ngôi mộ lạnh lùng. Bạc phếch. Khổ hạnh. Âm u. Nàng không khóc được khi xem xong lá thư. Ngồi ở thành giếng nhìn lên trời. Hết rồi. Tất cả là cạn máu, là đêm đen.
Lan đứng trước gương soi, nhìn hai gò mó. Lặng lẽ nói với chính mình. Ừ, Lan ơi, mày xanh xao quá mà! Mày gầy quá mà! Mày không phá thai sao mày xơ xác thế! Nói đến đây Lan mới bật khóc được. Nàng ôm mặt héo rũ cơn đau, ra vườn cải đứng thẫn thờ. Ngồi bên bờ đất lặng lẽ nàng lại không khóc tiếp được. Cả buổi chiều nàng thơ thẩn vì lá thư ngoài tầm hiểu biết của kẻ vô danh gởi cho nàng. Những tin đau quá đột ngột, quá nặng nề thường làm người ta chai lì không phản ứng kịp. Lan cũng thế, phải mãi đến nửa đêm mới đủ thời gian cho lá thư ấy thấm vào hồn, mới đủ thời gian cho lòng bình tĩnh để nhìn cơn đau, bấy giờ nàng mới khóc. Nước mắt như một nguồn cơn không thể dứt. Nghĩ đến cha phó, người mà nàng thương mến, nghĩ đến chính mình, nàng không thể hiểu được vì sao những kẻ vô tội lại phải chịu những hình phạt nặng nề đến thế. Nàng lo âu về lá thư, nếu tin đồn tung ra, người ta sẽ nhòm ngó, theo dõi, nàng sẽ cô đơn cùng cực, sẽ chẳng bao giờ dám gặp cha phó. Lan tưởng tượng thấy mình bị cô lập trong một vỏ ốc tối đen, chật hẹp đến ngạt thở. Trong đêm dài tịch mịch, Lan khóc tủi thân một mình:
- Chúa ơi, Con có làm gì nên tội tình đâu mà Chúa để con khổ thế. Ba con chết sớm. Cả đời ba con phải vất vả làm ăn, dành dụm được ít tiền thì bị lừa gạt, để rồi em con tử thương không lấy được xác chôn. Nhà con chẳng còn gạo ăn để mẹ con phải bán máu nuôi lũ con. Chúa ơi, Chúa có biết những chuyện ấy không? Dầu sao thì ngày xưa Ðức Mẹ cũng chẳng phải khổ như mẹ con, Chúa cũng chẳng phải từng đêm thao thức lo âu vì không có cơm cho ngày hôm sau...
Kể lể tới đó. Lan không nói được nữa. Nàng ôm chặt chiếc gối úp lên mặt nén tiếng khóc. Căn nhà vắng vẻ đìu hiu. Thỉnh thoảng nàng nghe tiếng thở khò khè của bà Ðiền vì bị suyễn. Bóng tối dầy đặc. Ánh đèn dầu leo lét trên bàn như một ngọn đèn nhang thắp canh người chết. Vắng lặng quá. Lan khóc thút thít.
Chúa có nghe lời con cầu nguyện không? Con có làm gì nên tội đâu sao đời con khổ quá vậy hả Chúa?
Những giọt nước mắt tròn trên mi vỡ dàn dụa. Chúa nói với nàng:
- Cha đâu có làm con khổ. Chính Cha cũng khổ mà con. Nhìn con đau đớn, nhìn gia đình con trằn trọc lo từng miếng ăn lòng Cha cũng tan nát. Con đã chẳng nhớ rằng Cha đã dựng nên tất cả giàu sang của vũ trụ chỉ vì loài người thôi hay sao? Cha cũng khổ tâm lắm. Nỗi đau của con là của Cha.
Lan lại khóc nhiều hơn. Lời nói của Chúa tội nghiệp quá. Nàng giận Chúa, muốn trách Chúa. Nhưng Chúa đã chẳng trách, lại còn thương, còn nhân từ, an ủi. Lan thấy Chúa cũng tội nghiệp, cũng một mình chịu cô đơn, sầu muộn. Ðời Chúa cũng hiu hắt lắm, có mấy ai hiểu. Lan thầy mình nhẫn tâm đã oán trách Chúa, chẳng chịu hiểu cho Ngài. Những ý nghĩ ấy, làm nước mắt càng chảy thêm, không ngăn được. Nàng mếu máo hỏi Chúa:
- Nhưng Cha có quyền năng sao Cha không can thiệp!
Nàng chỉ nghe thấy tiếng im lặng vì nghĩ rằng Chúa cũng thua cuộc nên mới bị đóng đinh trên thập giá. Ðau khổ quá, Lan không còn tâm trí nào để nghĩ thêm về tình thương hay những mầu nhiệm trong cuộc đời mà Chúa chưa dọi sáng cho người ta hiểu. Nhớ đến cha phó, đến người đã hỗ trợ tinh thần cho nàng, đã cho nàng bao nhiêu lời khuyên khi nàng thấy cuộc đời là bóng tối tư bề. Nàng đau đớn nghĩ rằng bây giờ nàng đã mất cha rồi. Trong dòng nước mắt Lan gọi thầm:
- Giờ này chắc cha đang ngủ yên. Cha có biết con đang gục khóc đêm nay không? Trong những giờ nguyện của cha, cha có van Chúa cho con xin một lời kinh?
Ðêm vẫn mênh mông. Trên bàn thờ gỗ của gia đình bà Ðiền có cây thập giá, Chúa của cây thập giá ấy cũng bị đóng đinh như thập giá của hai nghìn năm trước đây trên đồi máu.
Câu chuyện cô Lan phá thai vì cha phó làm xôn xao ca đoàn. Chỉ sau buổi chiều ca đoàn khám phá ra thì tin loan đi khắp xứ. Lá thư bà quản Thông cố ý viết cho cha phó nhưng ngài chẳng bao giờ đọc được. Bà đã cẩn thận để ở ghế của cha vẫn quỳ đọc sách nguyện. Bà đã tính toán kĩ và nhủ thầm rằng thế nào cha phó cũng nhận được cánh thư. Bà muốn cha phó đọc lá thư nặc danh ấy như một lưỡi dao cho tâm hồn ngài rối bời để cha hết dám mượn bà Ðiền làm việc trong khu nhà xứ. Ðối với bà, đây là một cách gây đau khổ, mà gây được khổ đau thì bà mới cảm thấy mình có quyền lực trong tay. Nhưng Bà đã quên một điều quan trọng là hôm ấy Hội Con Ðức Mẹ quét dọn nhà thờ, trước giờ cha vẫn ra nhà thờ nguyện kinh. Lá thư dán kín chỉ gợi thêm tò mò của những cô gái đang tuổi thắc mắc. Những cô gái luôn luôn nhìn vào cha phó với con tim chinh phục và con mắt theo dõi.
Cha xứ vào bàn ăn bực bội. Cha phó vẫn vô tư như mọi ngày, ngồi vào bàn ăn vui vẻ không hề để ý đến nét mặt cha xứ hằm hằm. Vì lịch sự. Ngài cũng trả lời khi cha phó hỏi chuyện nhưng trong lòng thì hậm hực. Ðối với ngài, khuôn mặt cha phó hôm nay thật là trá hình. Bữa cơm gần xong, cha xứ quyết định:
- Cha phó này, tôi thấy không cần người làm. Tôi xin cha cho bà Ðiền nghỉ việc. Tôi thấy cha trả cho bà số tiền hơi vô lí!
Nhìn mặt cha xứ nghiêm trang với giọng nói cứng rắn, cha phó biết có chuyện chẳng lành. Ngài phân trần:
- Thưa cha vâng, cha nói đúng. Riêng mình con cũng có thể làm tất cả công việc được, chẳng cần người làm. Con mượn bà Ðiền chỉ vì muốn giúp gia đình bà mà thôi, vì thế mà con trả lương hơi cao. Nhưng đó là tiền của con chứ con đâu lấy tiền nhà xứ. Gia đình bà túng thiếu quá. Không đủ gạo nấu cháo. Bà đã lên nhà thương quận bán máu bốn lần trong vòng hai tháng. Con cũng giúp gia đình ông Ất một số tiền cách đây vài tháng, nhờ thế mà gia đình ông đã qua được một cái tang lớn. Ông biết ơn con quá, cứ mỗi khi gặp con là khúm núm, nói dăm ba câu là nước mắt lại chảy. Vì thế, khi nghĩ đến việc giúp bà Ðiền con không muốn cho bà Ðiền tiền sợ rằng bà cũng sẽ mang ơn. Khi người ta chẳng còn chạy đến với ai được mà có người giúp thì ơn nào mà chả nặng. Con không muốn bà nghĩ đến việc phải mang ơn quá như ông Ất. Vả lại nếu cho bà tiền mà người khác biết được thì có khi câu chuyện lại phức tạp lắm. Vậy cha có giải pháp nào tốt hơn không xin cha chỉ cho con.
Nghe xong cha xứ bối rối. Câu trả lời của cha phó ngoài dự đoán của ngài. Giọng ngài lại nhỏ nhẹ, kính nể, phục tùng quyền bính của ngài. Không còn lí do cho một tức giận. Nhưng chuyện cô Lan phá thai thì sao? Trên nét mặt cha phó, ngài thấy dường như có thánh thiện mà cũng như đang lừa gạt ngài. Ðể đánh tan cái bối rối hầu che kín những ý nghĩ khó giải đáp về cha phó, cha xứ hỏi bâng quơ:
- Còn con Lan làm sao nó lại bỏ ca đoàn?
- Thưa cha con cũng không biết rõ. Nhưng con để ý thì không thấy nó mặc áo dài đi lễ nữa, cả lễ Chúa Nhật. Vì thế con nghĩ nó đã bán áo dài rồi. Bà Ðiền đã phải bán máu thì còn gì nữa mà không bán. Mà ca đoàn thì có đồng phục áo dài vàng. Nếu nó không có áo thì làm sao mà ở trong ca đoàn được. Chứ con Lan từ trước đến giờ nó có nề hà việc gì của nhà xứ đâu.

* * *
Mặt trời đang lên. Sương đang vén dần, tan loãng, đưa một buổi sáng mát tươi vào đời. Cha xứ cầm cuốn sách dầy toàn là những lời nguyện thánh. Ngài nhớ tới câu chuyện trong bữa cơm chiều hôm qua mà áy náy. Chính ngài là người phải giúp bà Ðiền mới đúng. Còn ông Ất nào? Ngài không hề biết gì về tình trạng gia đình ông. Nhìn cuốn sách nguyện, cha xứ thấy mình là chủ chăn mà chẳng biết rõ chiên của mình, chẳng biết con nào đau, con nào cần săn sóc. Ðể cho cha phó mới ra trường chưa được hai năm làm việc ấy, ngài thấy hổ thẹn với lương tâm. Nhưng chuyện thực hư thế nào? Còn vụ con Lan, sao học được chữ ngờ? Ngài lưỡng lự. Cuốn sách nguyện trên tay mà ngài không dám đọc một cách bình thản như mọi ngày.
Bà quản Thông lại hé cánh cửa nhìn sang nhà xứ. Thấy cha phó cúi nhặt cành lan đã bị bẻ gẫy, lòng bà rộn lên niềm vui thỏa mãn. Bà đứng núp sau tấm phên, theo dõi. Hôm nay thì bà xác tín rằng không phải vì ghen tương gì cả mà chỉ vì Chúa mà bà phải nhổ gốc lan. Bà tin chắc cha phó thương cô con gái bà Ðiền nên mới trồng cây mộc lan. Tại sao không trồng thứ hoa khác mà lại phải là hoa lan? Nếu không thương con Lan thì trồng lan làm gì? Trồng đấy để mà nhớ nó à? Những xét đoán ấy làm bà vững chí để nhất định bẻ cây lan cho tới cùng.
Cha phó không còn nghi ngờ gì nữa, không phải là con chó khoang bới, nhưng là dấu người bẻ và nhổ hẳn hoi. Sau trận mưa đêm qua, cát mướt mịn, cha thấy vết chân đi từ phía bờ rào, băng qua dẫy khoai lang đến gốc lan. Rõ ràng là vết chân người lớn. Cha phó mới trồng lại cây lan chưa được hai tuần. Ngài chau mày nhìn cây lan bị nhổ rễ, dập gẫy mấy khúc. Ai đã bẻ cây lan? Vì sao họ lại làm như vậy?
Ngài chưa hay gì những lời đồn thổi trong xứ về chuyện giữa ngài và cô Lan. Mấy cô trong ca đoàn khi thấy cha phó thì bấu tay nhau ra dấu hiệu ngầm, cha vẫn nhìn như những nụ cười thân thiện, trong sáng, lòng cha cũng nở niềm vui. Sự vắng mặt của Lan trong ca đoàn càng làm cho xét đoán của các cô là đúng. Các cô càng xác tín với lời trong lá thư đã khám phá ra. Nhiều cô tò mò muốn đi qua nhà Lan để xem mặt Lan xanh như thế nào, gầy rạc làm sao. Chẳng còn kính nể nữa, họ nhìn cha phó bằng nửa con mắt. Mới có mấy ngày mà dân xứ xôn xao về tin cô Lan phá thai với cha phó. Một cơn bão tố sắp ập xuống để chào đón những năm đầu đời của một linh mục trẻ. Cha phó chưa hay biết gì, nghe tiếng chim hót trên cành, ngài se sẽ ngó, tìm cánh chim, trên tay vẫn cầm khúc cây hoa lan bị bẻ gẫy. Trên ngọn đu đủ có con chim nhỏ đứng một mình, đang nhìn trời, hót líu lo. Giọng hót trong như suối mát, tiếng chim cao vút làm cha phó thấy tâm hồn bát ngát, thênh thang.
Trời lồng lộng, xanh ngắt. Từ sâu thẳm trong cõi lòng, dào dạt thiên ân như những nụ hoa dưới mưa xuân, êm đềm. Cha phó nhìn trời cao, tâm hồn lâng lâng trong buổi sáng ngập nắng ban mai. Con chim lại cất tiếng hót, chỉ có một mình, nhưng giọng nó trong vắt như những giọt sương, say sưa gởi vào bầu trời bài ca buổi sáng. Cha phó cũng huýt sáo nho nhỏ, vui với cánh chim một bài ca mà ca đoàn đã hát cho ngài trong ngày lãnh chức linh mục.



Từ ngàn xưa Cha đã yêu con
Cha gọi con giữa muôn người.

Lời cuối



* Có kẻ cho rằng chuyện không có kết. Chuyện chấm dứt như là bâng quơ! Nếu hiểu bâng quơ nghĩa là không xác định, thì đi tìm một cái kết xác định là lại phải thắc mắc: Tựa đề truyện là CÂY HOA LAN, nhưng ai là nhân vật chính? Cây hoa Lan? Người trồng Lan? Hay kẻ bẻ gẫy cây Lan?
Trong một sáng mai hồng, con chim cứ hót một mình. Nó không biết giông tố đang xẩy đến. Ðó là lời hót khờ dại hay tiếng hót rất trong mà không phải trái tim nào cũng có?

mariakieuanh
31-10-2010, 01:17 PM
ÐƯỜNG LÊN NÚI CAO

Chàng dũng sĩ thắng cương ngựa. Con ngựa mầu nâu, lông mướt mịn, ngước cao đầu lắc mấy cái cho đỡ mỏi cổ rồi thong thả bước xuống khu cỏ xanh. Chiếc bờm bay theo gió mỗi khi nó chồm về phía trước. Bốn chiếc cẳng cao cuồn cuộn bắp thịt chắc nịch. Nó hí một tiếng rồi tung vó như muốn băng mình vào một khoảng tự do bát ngát. Ðồi cỏ non xanh ngợp mắt chạy dài từ chân đồi xuống mãi thung lũng phía xa. Thỉnh thoảng có những bụi hoa lau mầu trắng bạc lấp lánh khi nắng ngả. Chàng dũng sĩ nhìn con ngựa tung vó trên thảm cỏ mà thấy lòng mở ra, đón tới một tiếng gọi thật cao cả như thảm cỏ mênh mông và vó ngựa là chính chàng đang đắm mình trong tiếng gọi đó.
Chàng chỉ khoảng hai mươi. Khuôn mặt hơi hình trái soan. Ðôi mắt sáng tin tưởng. Trong sáng của ánh mắt với nụ cười yêu đời trên nét mặt làm tỏa ra một sức sống hoạt bát, lanh lẹn. Vùng trán biểu lộ thông minh. Mái tóc bay theo gió chiều phiêu bạt. Ống tay áo rộng bay phành phạch trước gió mạnh. Áo choàng xanh mầu nước biển in đậm lên nền cỏ đang nẩy mầm xanh mơn mởn như mầu xanh chuối non. Chàng chống tay lên thanh gươm dài đeo bằng sợi giây vải mầu vàng sậm. Chiếc chuôi gươm bằng bạc thỉnh thoảng phản chiếu ánh sáng mặt trời lóe lên những ánh sao sáng ngời.
Chàng dũng sẽ trẻ đứng một mình bên lưng đồi thoai thoải. Tâm hồn chàng rộn lên ước mơ của hi vọng. Chàng đang sống những ngày đẹp nhất trong đời chàng. Lí tưởng căng phồng như con thuyền no gió đang ra khơi. Gió núi về thênh thang. Trời lồng lộng mây bay. Và mầu cỏ ngút ngút chạy về phía cuối chân trời. Lòng chàng cũng mở ra như thế. Tim chàng đang ấp ủ một giấc mơ phi thường. Chàng đang trên đường đi tìm giấc mơ đó. Chàng đã bỏ lại phố phường, từ giã bạn bè, xin kiếu mẹ cha. Chàng đang lên đường cho một giấc mơ kì diệu của mười lăm năm về trước.
Chàng nhớ ngày chàng chỉ là cậu bé lên bốn, lên năm. Một hôm cậu đang đứng ngẩn ngơ bên đường cát bụi bay mịt mù. Cậu bé thấy chân tay dơ bẩn, đầu tóc rối bù cát lấm. Chiếc áo loang lổ những vết nhơ lấm lem. Cậu chỉ là đứa bé thích nghịch đất cát như bao tuổi thơ khác. Cậu đang đứng lẻ loi một mình bên đường, thì có ông già hiền từ đến dẫn cậu đi. Ông già phúc hậu, mái tóc bạc phơ, chòm râu dài đẹp như đuôi con sóc bông. Cậu để ông dắt tay. Rồi trong khoảnh khắc cậu thấy hiện ra một con suối trong. Cỏ và hoa nở khắp rừng. Chim hót líu lo như mùa xuân có vũ tiệc. Tiếng chim vút lên cao như con diều gặp gió mạnh rồi thả mình lững lờ, có lúc tiếng chim lại chìm xuống như con diều đứt giây, lao chao. Cậu chưa bao giờ thấy cảnh thần tiên như thế. Trong phút chốc, cậu quên hết tất cả quá khứ và khu làng nhỏ của cậu. Những cánh bướm rực rỡ rủ cậu vào cuộc chơi đuổi bắt thú vị. Bên bờ suối là đá sạch cỏ non mọc ở giữa những khe đá như giải nhung xanh. Cậu cúi đầu nhìn xuống dòng suối. Từng đàn cá nhỏ mầu vàng óng tung tăng trong hạnh phúc. Ðuôi cá ngũ mầu xanh xanh, đỏ đỏ xòe ra như giải quạt nan ve vẩy dưới suối êm.
Ông tiên nhân hậu nhắc bổng cậu lên rồi thả cậu xuống dòng suối. Cậu thấy dòng suối trở nên đục. Ðất cát dơ bẩn của cậu làm thành những làn nước đen như có khói. Nhưng con suối đem những làn nước dơ ấy chảy xuôi về một nơi nào đó mà cậu không biết. Dòng suối lại trở nên trong vắt và lúc ông tiên đem cậu lên bờ thì chiếc áo thành mới tinh. Da cậu trắng hồng. Cậu bé thấy mình đẹp hẳn ra. Những ngón tay mũm mĩm chứ không đen đủi nữa. Móng tay không còn cáu ghét và lòng bàn tay hồng hào như tay thiên thần. Cậu bé đang sung sướng thì tự nhiên cảnh vật thần tiên từ từ mờ nhạt rồi biến mất. Tỉnh dậy khỏi giấc chiêm bao cậu bé thấy mình xấu xí chứ không đẹp như trong giấc mơ.
Theo thời gian cậu lớn dần. Bao nhiêu giấc mộng cậu đều quên hết chỉ nhớ riêng có giấc chiêm bao đêm đó thôi. Cậu tin tưởng rằng con suối đẹp ấy hiện diện ở đâu đó trên cõi đời này. Nuối tiếc bóng hình đẹp đẽ sau khi được ông tiên đưa xuống suối tắm. Cậu ước mơ đi tìm dòng suối kì diệu.

* * *
Bây giờ, mười lăm năm sau, cậu đã là một thanh niên tuấn tú. Chiều nay, dừng chân bên đồi cỏ với con tuấn mã là một trong những buổi chiều cậu đang rong ruổi đi tìm dòng suối ấy.
Con tuấn mã vừa chạy vừa hí rộn ràng. Nó không giấu nổi nỗi vui đang dâng lên như sóng. Mỗi lúc gió càng mạnh. Bên cạnh rừng phi lao, một người, một ngựa tung vó hướng về phía mặt trời. Tiếng vó ngựa đập trên bờ đá nghe rộn ràng như khúc nhạc hùng của đoàn binh đang lên đường.

* * *
Thời gian rơi xuống theo bóng những hoàng hôn. Lại một chiều nữa dừng chân. Ðây là lần đầu tiên con ngựa nâu thấy biển. Gió biển lành lạnh mang theo hơi nước, một cảm giác nó chưa từng bao giờ có trong đời. Những khu vườn rộng, những đồi cỏ đã cho nó một cảm giác nao nao vì nó có thể chạy nhẩy mà không sợ vấp ngã. Nhưng khu vườn vẫn còn cây. Ðồi cỏ rộng cũng vẫn còn lắm giây leo vướng víu. Biển thì hoàn toàn khác hẳn. Biển vô tận. Nó chưa bao giờ thấy mầu xanh hùng tráng như thế. Nó tưởng tượng rằng nó có thể nhắm mắt mà chạy. Chạy về phương bắc, chạy về hướng nam, chạy khắp cả mà không có gì cản lối. Lòng nó nôn nao hồi hộp. Ý nghĩ về tự do đó làm sức sống căng đầy bắp thịt. Gần đến biển, nó đứng giơ hai chân lên trời. Bờm lông bay tơi bời vì gió mạnh như rừng cờ của đoàn binh ra trận. Nó hí vang cả khu rừng phi lao. Trên bờ đá mầu xám tro và vàng nâu, áo người dũng sĩ nổi lên như bức tranh. Rừng phi lao phía sau ào ào như bão tố mỗi khi gió đổ về.
Gió mạnh quá làm chàng phải giữ chặt vạt áo. Tóc chàng trôi nổi bềnh bồng. Chàng có vẻ đẹp của một sĩ quan đang đứng quan sát trận địa để thúc quân. Biển vô tận. Mầu xanh của biển chập chùng, ngút ngút. Mặt trời đang lên bừng bừng. Bờ đá. Gió. Sóng. Chàng dũng sĩ đứng đó cho gió thổi. Nghe sóng vỗ lời thề. Nhìn biển mặc khải những điều huyền nhiệm. Và đón nhận Ý thâm sâu của mặt trời.

BÀI CA CỦA BIỂN

Hãy cúi đầu khuất phục vì chẳng có quyền uy nào không bị biển cả xóa nhòa. Biển bao la như tình thương thập giá. Mà biển cũng tàn bạo như lửa cháy đốt thành Sôđôma. Có tiếng than sau cơn động đất kinh hoàng. Có đổ vỡ ngổn ngang. Nhưng ít nhất cũng còn chút chứng tích để nhớ, để thương. Biển thì lạnh lùng. Biển dửng dưng. Biển không có xót thương. Chỉ một cái rùng mình nhẹ biển chẳng để lại dấu vết của đớn đau. Những cánh buồm ngạo mạn nhất, những lòng người sỏi đá nhất, biển không cần thách thức, một làn sóng ập đổ. Chìm sâu. Biển lại bình thản trở về khuôn mặt của biển. Lặng lẽ. Không dấu vết. Dửng dưng lạnh lùng. Biển nuốt trửng cả mặt trời huyền bí. Sâu lòng biển là những nấm mồ trân châu ngọc quý!
Nhưng cũng hãy ngợi ca biển vì chỉ có biển mới có quyền năng thanh tẩy. Biển thiết tha như thập giá. Biển có tâm hồn chúc phúc cho trong ngắt nở giữa vẩn đục phù sa. Thập tự vẫn nghìn năm giang tay chịu đọa đầy cho hồn nhân loại nhẹ bớt sầu thương tội lỗi. Biển vẫn mãi mãi trung thành mở tay đón nhận những dòng sông ngàu đục rác rưởi hôi tanh. Chẳng có tội đời nào về với thập giá mà không được biến đổi thành ngọc ngà. Chẳng có dòng sông phù sa nào về với biển mặn mà không thành sương trời trắng nõn trên đồi xa. Cánh tay thập giá đã giang thẳng giữa mùa hạ cho hồn tôi có bóng mát nghỉ chân. Biển đã sai đi những dòng mưa mùa cho rừng khô lá nở nụ, ươm hoa.
Thập giá ngàn đời yêu thương. Biển mãi mãi là con đường mời dòng sông đi về.

LÍ TƯỞNG CỦA ÐÁ

Người có sự sống nên người đã chết. Ðá không cần sự sống vì đá vĩnh cửu ngàn năm. Chiều đông. Tháng hạ. Rừng thu. Nắng xuân. Lòng người rung lên hạnh phúc như sợi tơ vào lúc gió xuân sang nhưng lại chùng xuống như giây đàn sai nhịp vào lúc cõi vắng ủ dột của mùa mưa. Ðá cứ muôn đời là đá. Sinh ra làm người nhưng ai đã sống trọn vẹn tiếng gọi phải sống là người. Ðá cứng lòng đá không lỗi phạm.
Mưa phùn gõ những phím lặng và rừng hoa héo hắt. Khi đông về là sầu giăng bay rối là rừng cây trầm ngâm cúi mặt. Khi tiếng thu thở dài là rừng cây u buồn tiễn đưa. Ly biệt. Tan tác chia phôi. Có thương nhớ muộn phiền. Ðá cứ vuốt xuôi thời gian đi qua, cứ lớp lớp ngìn sau đổ tới. Ðá ngàn năm vẫn là đá. Ðá không cảm lạnh vì gió mùa thu. Ðá không buồn vì nắng quái mùa hạ.
Tôi ẩn náu bên bờ đá cho mũi tên độc của kẻ thù bắn gẫy. Ðá là thành lũy che chở tôi. Ðá không sợ hãi trước bão tố quyền uy. Ðá không thách đố nhưng không nhượng bộ. Khốn cho kẻ nào giơ chân đạp đá nhọn.

LỜI THỀ CỦA SÓNG

Còn giáo đường thì còn lầu chuông. Còn biển thì còn sóng vỗ. Rì rào. Hơi thở của biển gởi về vũ trụ. Sóng chẳng bao giờ mỏi mệt vỗ khúc ru ngái ngủ, biếng nhác. Tháp chuông có thể u buồn vì không có lời chuông phổ khúc nhạc thương. Sóng cứ rì rào. Ðêm. Ngày. Sóng vẫn mãi mãi ngàn đời. Nắng. Mưa.
Lòng người có thể bỏ lối lên cao, quên lầu chuông hoang vắng. Lòng người có thể để lửa tin yêu trong tim lịm tắt, có thể u hoài thất vọng dâng lên. Lòng người có thể lạc lối đi xa. Lòng người có thể ngẩn ngơ rối bời đứng nhìn lựa chọn phân vân.
Sóng cứ ru lời viên miễn. Sóng chỉ chọn lựa một lần cho được làm sóng rồi sóng ngàn năm trung tín với lời thề. Lòng người có thể đam mê. Sóng ngàn năm trong lòng biển cả. Sóng thật thà đem lời thủy triều gởi lên vũ trụ làm điệu trầm ca. Hãy học ở sóng lòng thủy chung. Hãy nhìn chiều sóng với dáng đổ trung thành.

Í CỦA MẶT TRỜI

Như lời thiên đàng rải xuống nhân gian, cho người khôn ngoan, cho kẻ bất hạnh. Mặt trời chiếu sáng nhưng không khoe khoang. Ðịa đàng thủa xưa chưa có lời dụ dỗ của Evà, địa đang hôm nay với gian nan của Ađam vẫn chỉ có một mặt trời. Mặt trời vẫn chỉ có một thứ ánh sáng.
Thập giá yêu tất cả. Mặt trời không xa lạ với gã ăn mày, không ngại làm quen với kẻ trắng tay. Mặt trời không sa ngã mà chọn là của riêng ai. Mãi mãi là lửa. Trọn đời vô tư.
Như thập giá kiên nhẫn đợi chờ. Mặt trời thở ấm cho đời, cho tôi. Như thập giá nghìn năm không bao giờ tăm tối. Mặt trời nghìn năm chẳng bao giờ lầm lỗi. Có thập tự nên có cứu rỗi. Có mặt trời nên mới có tôi, có đời.
Như thập giá khiêm tốn giã từ bào thai của trời, sinh xuống làm người đi chân đất. Mặt trời đã chân tình cúi đầu cầu kinh, đã xin biển cả rửa tội mỗi ngày lúc mới hừng đông. Như thập giá đã đem sự sống đi trên cõi chết. Mặt trời đã phá bóng đêm đốt cháy ngọn đuốc cho tôi biết đường đi lên.
Một mặt trời mà mỗi ngày một khai sinh. Xin cho hôn nhân cũng thế. Một người yêu mà mỗi ngày một tình yêu. Hãy về cùng thập giá. Xin được như mặt trời.

* * *
Con tuấn mã đứng nhìn biển mà không yên chân, mầu xanh của biển như thúc dục nó chạy tới. Thỉnh thoảng nó lại hí vang trời. Chàng dũng sĩ lắng nghe biển cả. Cúi đầu nhận ý của sóng. Trầm tư về lí tưởng của đá. Và cầu kinh với mặt trời. Những chân lí đơn sơ mà chàng thấy khó học quá. Nhỏ bé mà lại thênh thang rộng lớn. Trái tim chàng không chứa hết. Trí tuệ chàng không lãnh hội đủ. Tất cả đều cao vượt tầm tay ngắn. Chàng thấy mình nhỏ như con ốc sên bò từng bước lần mò bên rừng phi lao quá thăm thẳm. Ðây mới là bước đầu đi tìm dòng suối. Ðây mới chỉ là lời nói của một góc nhỏ trong vũ trụ bao la. Người dũng sĩ bước từng bước chậm, suy tư.
Trăng sáng vằng vặc. Ðêm ở biển thật diệu huyền. Rừng sao lấp lánh ở rất cao. Ngàn sao cũng óng ánh ở rất thấp. Trên trời cao. Trên mặt biển. Trăng đổ ánh vàng xuống bờ đá. Trăng rải sáng xuống sóng biển nhấp nhô. Sóng bạc đã thành những giải lụa vàng, sáng ngời nối đuôi nhau đến vô tận ngả nghiêng theo lời ru của gió.
Ðã mấy mùa trăng? Mầu biển có nhạt phai? Rừng phi lao có thay lá? Chàng không nhớ rõ. Lãng đãng. Phiêu du bồng bềnh. Thời gian chập chùng. Chàng nghe như có những biến đổi trong hồn. Lời nói của biển quá trầm ngâm. Ý của mặt trời làm cho chàng già dặn. Miệt mài của sóng cũng làm cho chàng biết dè dặt khi mơ ước. Tâm hồn chàng đã khác xưa. Và nghe như cả thể xác cũng đã biến đổi.

MƯỜI NĂM SAU

Mới thoáng đó lắng nghe lời nói của vũ trụ. Mới thoáng đó chưa thuộc bài học thứ nhất của đá, chưa hiểu cạn ý của sóng, chưa bắt được lời ca của biển mà đã gần mười năm trời qua. Chàng hôm nay không còn là chàng thanh niên trẻ dắt ngựa ngồi nghỉ ở ven đồi nữa. Chiếc áo choàng màu xanh cũng đã lốm đốm vết tích thời gian. Phải mất mười năm dừng chân học bài vỡ lòng trên đường tìm về núi cao.
Một sáng bình minh rực nắng hồng, chàng lên đường tiếp tục cuộc rong ruổi trường chinh. Bài học vỡ lòng đã gợi ý cho chàng chất liệu để suy tư. Ðể nhìn mình, để kiếm tìm hàm số liên hệ giữa chàng và vũ trụ. Trên đường đi, chàng bắt đầu độc thoại:
- Tôi là ai trong vũ trụ?
- Ngươi là kẻ đến từ cát bụi của vũ trụ, rồi lại trở về với bụi cát. Vũ trụ là tất cả, là tuyệt đối, là vô biên, là quyền năng, là tình thương.
- Vì sao tôi lại sinh ra?
- Ðể lãnh ân lộc của vũ trụ.
- Vì sao tôi lại chết đi?
- Ðể vũ trụ ban tặng hạnh phúc.
- Trong thời gian giữa sinh ra và chết tôi được kêu gọi để làm gì?
- Lắng nghe lời của vũ trụ:
Phá đi một đập ngăn gian dối để dòng nước thành dòng sông thật thà luân chuyển.
Cắt đi vòng kẽm gai ích kỉ để đàn bò gầy khỏi đứng nhỏ lệ nhìn cánh đồng cỏ non bát ngát ngoài kia.
Rỡ xuống một mái ngói tham lam cho ánh sáng bình yên dọi vào căn hầm tối. Hãy gọi mặt trời. Hãy xin chút lửa đem xuống vực sâu cho người hành khất tìm lối đi ra.
Phá đi hàng rào thô bạo cho bầy bướm thơ ngây vào thăm những luống cúc vàng.
Hãy pha mật ong trong li nước đầy.
Hãy biến nhà tù trở thành trường học.
Chàng dũng sĩ thúc con tuấn mã phi nhanh hơn. Con ngựa nâu không mệt mỏi nhưng còn hứng chí tung vó hồng đua theo lá rừng, theo gió mà lướt tới. Những lời độc thoại tựa như những đốm lửa tí tách báo hiệu một cánh đồng rực lửa sẽ bùng cháy nơi đầu núi. Lí tưởng tìm về non cao hứa hẹn những giọt sương ngọt, một dòng suối kì diệu. Chàng xiết chặt giây cương. Mắt sáng ngời tin yêu. Cuộc đời chung quanh chàng đẹp quá. Ðúng ra, không phải cuộc đời chung quanh chàng mà là cuộc đời trong hồn chàng. Khi cuộc đời ấy đẹp thì tất cả đều đẹp.

* * *
Chàng đi xa lắm. Thời gian chảy, thời gian trôi đưa chàng vào một khúc đường mới. Ðường mới nhưng cũng chỉ là một nối tiếp trên lối về đỉnh núi cao. Chàng thấy thoang thoáng mùi hương rất lạ, mà cũng như đã quen thân. Lạ, vì đã lâu rồi chàng không cảm thấy. Quen, vì một thủa chàng đã gần gũi, đã bắt gặp. Trên khúc đường mới có lấm tấm mưa phùn. Ðôi lúc chàng đã run run vì gió lạnh. Rừng cây trước mặt hình như không còn là rừng phi lao vi vút mà có gai thấp cao, gai dầy mỏng.
Bước chân ngựa cũng bắt đầu chậm. Một chiều chàng dừng chân lắng nghe và chàng đã thực sự thấy gió, mưa, nỗi nhớ của hương, rừng và gai.

CÔ ÐƠN CỦA MƯA

Có lời ca bảo giọt mưa là những giọt lệ rơi lã chã trên xác con lạnh giá. Mưa rơi đầm đìa, mưa rơi trên lá, mưa làm ướt áo mẹ già. Mưa mang sầu giăng mắc đó đây. Mưa trong hồn hay mưa ngoài trời, nếu mưa không dứt vẫn là những tiếng mưa che tiếng nụ cười.
Mưa nhạt nhòa. Mưa làm dòng sông nổi sóng xô đẩy bóng thuyền nan. Mưa làm hoa lá tơi tả. Ðêm mưa tí tách là đêm mưa vào hồn từng giọt sầu.
Ánh lửa bập bùng. Ðống than hồng nổ lắp bắp reo vui trong lò sưởi. Nhìn những tàn than đỏ bay từng vệt dài theo ống khói. Một li trà nóng. Một bàn tay thân thương. Ấm cúng quá! Êm đềm quá! Có ai mà muốn lên đường trong gió bụi mưa sa với những chiều ảm đạm như thế. Có ai mà không ngại ngùng. Mưa rơi cản lối ngăn.
Ðường của chàng đi đã vắng trời quang mây tạnh. Bây giờ lại còn gió bay, lại còn ướt sũng vai gầy thì nó còn hiu hắt đến đâu. Mưa làm chim ướt cánh. Mưa làm rừng già thôi vang tiếng hót. Mưa ngăn lối chim bay về tổ. Mưa đem về tan tác cô đơn.

THỬ THÁCH CỦA GAI

Có người đi gieo lúa, rồi hạt rơi bên vệ đường, hạt rơi trong đất tốt. Hạt được một trăm, hạt được sáu chục. Có những hạt rơi trong bụi gai. Phấn đấu mà ngoi lên. Chằng chịt bó gai già phủ xuống. Gai là hàng rào giới hạn. Họ thích tặng nhau những cành hồng có gai vì cho đi nào cũng không thể là dâng hiến hết lòng. Tặng vật kỉ niệm dấu ái đến đâu thì cũng chỉ là một phần đời chứ chưa là cả cuộc đời. Gai của những đóa hồng ý nghĩa là đó. Cho đi đấy mà vẫn giữ lại. Mời nhau vào chơi mà vẫn có hàng rào.
Gai trên lối đi. Gai trong lòng người. Người ta không thể tìm được những cành hồng không có gai. Ðành vậy, cho nhau màu hồng của hoa, nhưng cũng cho nhau đau đớn của gai. Nhận của nhau tấm lòng cũng là đón những mũi tên. Gai là hàng rào, thì chối từ gai cũng là chối từ bước vào khu vườn quý hóa mà gai gìn giữ. Chối từ gai thì cũng mất hoa. Gai cản ngăn cho bàn tay ngại ngùng rút lại. Gai chằng chịt phủ xuống cho gai tỏ sức quyền uy.
Chàng dũng sĩ nhìn lối đi trổ nhánh gai dài. Gai mầu nhiệm nhất là gai trên vòng đầu Ðức Kitô. Chàng thấy cả hai, gai trên lối đi trước mặt và gai trong tâm trí.

NỖI NHỚ CỦA HƯƠNG

Thoang thoảng như có hương của một loài hoa quen. Ðã lâu rồi chàng dũng sĩ tưởng là bóng hình loài hoa đó đã nhạt nhòa. Hôm nay gió lại đem hương về. Gió len lén vào hồn, gió tỉ tê bảo chàng dừng bước để đi về một vùng kí ức xa mơ. Gốc hoa trắng bên tường đá. Những chiếc bông trắng nho nhỏ chàng đã một lần cài lên tóc của một người thiếu nữ năm chàng mười bẩy tuổi. Năm chàng nghe tiếng gọi bảo chàng đi tìm dòng suối nhiệm mầu. Dừng chân bên đường, nẻo rừng trước mặt thấp thoáng từng chùm phong lan đây đó. Hương nhẹ nhàng như những giọt nước mắt êm làm chàng mềm lòng. Nỗi nhớ gọi chàng trở về với bàn tay đã một thủa làm chàng xao xuyến. Chàng đã dũa móng tay mềm cho nàng, để móng tay cấu tình yêu cho thêm sâu, thêm kỉ niệm ngọc ngà, cho nhớ đầy hồn thơ.
Bâng khuâng. Hương lãng đãng như khói mà làm vướng víu bước chân. Hương nhẹ nhàng như mây mà chàng phải vất vả chống đỡ. Chàng cảm nghiệm sâu xa rằng hương không bao giờ chết. Hương chỉ quay mặt nhưng hương vẫn ở đó. Vắng bóng hương trong không gian không có nghĩa là chàng đã hoàn toàn tự do. Chàng cũng nhìn thấy bước đường gian nan làm sao để hòa đồng mà không bị đồng hóa. Bắt tay nhưng không nắm giữ.

LỜI NGĂN CỦA RỪNG

Trước mặt là rừng già. Bóng tối chởn vởn. Rừng già im lìm nhưng có đe dọa. Hết rồi, những thời chàng thổi sáo bên khu rừng phi lao vi vu gió reo. Hết rồi, thời chàng cưỡi ngựa thong thả lên đồi hái sim. Rừng bây giờ là chắn lối bước qua. Gai làm rách áo người đi. Giây leo làm vấp ngã chân nai. Từ rừng già có lời cảnh cáo nghiêm khắc:
- Hãy lui về mảnh vườn non mà yên phận bên vườn cà, luống cải!
- Nhưng ta muốn đi tìm dòng suối có làn nước trong mơ.
- Bóng tối!
- Nhưng ta có đèn lí tưởng đang sáng trong hồn.
- Gian nan!
- Nhưng ta có kiên nhẫn chịu đựng.
- Rừng già còn dài!
- Nhưng đời ta chỉ có một hướng đi tới.
- Nếu ngươi không bao giờ tới?
- Ta sẽ chết trên đường ước mơ!
Chàng dũng sĩ quất ngựa băng mình vào rừng. Ngàn cây trút lá xào xạc. Con tuấn mã sợ sệt chùn bước. Chàng dũng sĩ giơ tay sờ thanh gươm chưa bao giờ xử dụng tới.

* * *
Thấm thoát thế mà chàng đã bỏ lại xa ngôi làng nhỏ có hương hoa bưởi hoa cau. Ðã cách xa người thiếu nữ xuân thì ấy mười mấy năm rồi. Trên đường gian nan, lúc đơn côi là lúc chàng nhớ thương nhiều về những gì đã bỏ lại. Những ngày đầu trên đường đi tìm dòng suối là những quãng ngày đẹp. Những ngày thỉnh giáo với vũ trụ là dòng thời gian êm đềm nhất. Mặt trời soi cho chàng biết ý. Biển nói cho chàng bí mật của chiều sâu. Sóng nhắc nhở cho chàng một lời thề không bao giờ phôi pha. Và đá chỉ cho chàng lí tưởng phải đi. Giai đoạn ấy có ánh sáng, có mây che mát, có trời cao. Hồn chàng ngập ứ hi vọng. Mắt lúc nào cũng sáng ngời nhìn về tương lai với bàn tay sẵn sàng giơ lên, với bàn chân sẵn sàng bước tới.
Nhận lời chỉ giáo của vũ trụ vừa xong thì quãng thời gian êm ả ấy cũng lui bước. Bây giờ là gai, não lòng của mưa, nuối tiếc của hương, và muộn phiền vì bóng của rừng. Trận chiến trên đường lên núi cao bắt đầu gian nan. Sau tiếng nói của biển, của đá, của mặt trời thì mưa phùn đối diện. Có lời ngăn cản của rừng. Phũ phàng của thương nhớ gọi giao tranh tới. Ðời chàng dũng sĩ thương đau từ đây.
Lời gọi đi tới của mặt trời hòa vào nỗi nhớ của hương bảo quay về.
Lời thề của sóng hòa vào cô đơn của mưa giăng mắc lo âu.
Lời cao thượng của biển hòa vào bóng tối yếu đuối của rừng.
Lí tưởng của đá hòa vào nỗi đau của gai bảo chàng hãy so đo tính toán hơn thiệt.
Chàng dũng sĩ không ngờ trên đường về núi cao lại có những gian nan lớn thế. Không bao giờ có giao tranh giữa xum họp và tạ từ, giữa cô đơn và yêu thương, giữa thánh thiện và tội lỗi nếu không có con người. Lầm lẫn và hoàn hảo không bao giờ hiện hữu nếu không có con người. Vì sự có mặt của chàng nên chúng mới có mặt. Nếu chàng vắng bóng, lập tức chúng cũng mất dạng. Ngay khi có mặt của chàng thì tham lam và nhân ái cũng có mặt, hạnh phúc và đau khổ cũng nẩy sinh. Chỉ vì chàng mà tất cả được sinh ra nên khi có giao chiến giữa các đối nghịch thì cũng chỉ là giao chiến vì chàng và ở trong chàng. Không có giao chiến nào độc lập, xẩy ra ngoài tâm hồn con người.
Mặt trời và biển, mưa và gai, đá và sóng, và rừng có mặt chỉ vì chàng có mặt, bởi đó, chàng thấy mình giữ vai trò quan trọng chủ thể của nhiều thứ hiện hữu chung quanh. Không có con người thì không có suy tư, không có vũ trụ. Mà cho dù vũ trụ có hiện hữu đi nữa, nếu không có con người thì hiện hữu của vũ trụ chỉ là chết khô vì tự chúng không biết sự hiện hữu của mình. Biển hiện hữu nhưng ý nghĩa của biển chỉ hiện hữu khi có con người. Mưa có thể hiện hữu nhưng nỗi cô đơn của mưa chỉ hiện hữu trong tâm hồn con người. Ðá có thể hiện hữu nhưng lí tưởng của đá, ý nghĩa của đá là do chính con người ban cho nó. Gạt bỏ con người, tất cả mọi hiện hữu thành mờ nhạt ý nghĩa. Mà không còn ý nghĩa thì sự có mặt chỉ là thừa.
Ý tưởng đó cho chàng xác tín sự có mặt của chàng mang một ý nghĩa vô cùng thâm sâu. Cuộc đời ở trong chàng. Vũ trụ ở trong chàng. Thánh thiện và tội lỗi, gai và biển, mặt trời và mưa, tất cả không có gì ở ngoài chàng. Như thế thì chàng cũng có thể bước tới mà cũng có thể quay về. Vì đi tới hay ở lại cũng đều ở trong chàng. Mùi hương của đóa lan rừng làm chàng nhớ về một bờ tóc xa xưa. Chàng quay lại nhìn lối đi đã bỏ sau lưng. Hình ảnh thương mến lãng đãng, dạt dào.
Ðang khi chàng bâng khuông thì giữa rừng già im lặng có tiếng nói:
- Kẻ tra tay vào cày mà còn ngoảnh lại đàng sau thì không xứng đáng ước mơ mùa gặt!
Dường như lời nói ấy có vẻ nặng quá. Rồi có âm vang sửa lại như sau:
- Kẻ tra tay vào cày mà còn ngoảnh lại đàng sau thì khó mà mong mùa gặt.
Chàng dũng sĩ cảm thấy bớt đau vì âm vọng đó đã đổi lại từ "không xứng đáng" thành "khó mà mong mùa gặt." Lời nói sửa lại đó cho chàng đỡ xót xa dù rằng vẫn còn trách cứ. Chàng hỏi:
- Mùa gặt ở đâu?
Có tiếng đáp lại:
- Ở đàng trước mặt. Ở con đường đi tới. Vì thế mỗi lần quay mặt lại chỉ làm chậm bước chân, làm mùa gặt càng xa thêm.
- Khi nào thì tôi có mùa gặt?
- Khi mà đôi tay người nông phu sưng lên vì lao tác!
Chàng ngạc nhiên khi con tuấn mã bước vào lối rẽ mòn. Chàng thấy như đây không hoàn toàn là rừng già hoang dại. Dường như có lối đi. Thì ra trước chàng cũng đã có nhiều người qua lại nơi đây. Phải có nhiều bước chân tới khu rừng này nên mới làm thành đường đi. Nhưng lối đi đã bị bỏ hoang lâu ngày. Cỏ phủ kín, có nhiều khúc không làm sao tìm được dấu vết là đã một thời dập dìu vó ngựa. Ðiều ấy chứng tỏ đã lâu lắm rồi không còn bước chân đạt tới nữa. Hoặc cho dù có thì chắc cũng lẻ loi như chàng chiều nay.

* * *

mariakieuanh
31-10-2010, 01:23 PM
Con tuấn mã như có linh tính báo trước một điều gì sắp xẩy ra. Nó chạy nhanh hơn. Thỉnh thoảng lại hí lên sau bao nhiêu ngày im lặng. Nó có vẻ hân hoan rõ ràng. Chàng dũng sĩ cũng thấy hồi hộp. Ðường càng tiến tới càng thu hút vó ngựa hồng. Lòng chàng cũng càng thêm phấn khởi. Lá cỏ chung quanh hình như cũng đổi khác.
Chàng không nhận ra thay đổi đã bắt đầu từ chỗ nào, nó từ từ, nó dần dần giống như chiếc áo ướt phơi dưới nắng. Làm sao biết được lúc nào là khởi điểm của khô? Khó mà trả lời. Ðường về thượng trí là một tiến tới liên lỉ, không đứt đoạn. Thánh thiện phải chắp nối từng điểm nhỏ, và những điểm nhỏ ấy làm nên sợi giây dài. Bóng mầu đen sậm của rừng già chuyển sang màu xanh nhạt rồi xanh non mơ màng. Áo của chàng đã hết ẩm ướt vì mưa phùn, gió bạc. Trời chỉ còn sương mát chứ không còn những trận mưa xối xả. Thoang thoảng bóng chim đã bay ngân nga trên lưng trời. Càng đi tới thì đường càng có nhiều đá cuội trắng. Những viên đá nhỏ như hạt bắp làm vó ngựa kêu dâng khúc nhạc xào xạc, đều đặn. Hoa ở đây cũng khác. Gió cũng nhẹ nhàng.
Sắp tới đỉnh núi rồi sao? Sắp gặp ngọn suối diệu kì rồi sao? Chàng dũng sĩ vui mừng và chàng biết chắc chắn khu đất này rất lạ, khác tất cả những đoạn đường chàng đã đi qua là sự thay đổi trong chính hồn chàng. Một sự thay đổi như ý mong muốn. Càng đi lên cao nắng càng hồng. Chàng đã nghe tiếng nước chảy róc rách, êm êm ở đâu đó. Nhạc rì rào văng vẳng, chàng cũng thấy mùi mật ong thơm ngọt. Bên lối đi hoa nở xanh tươi. Tiếng chim hót mỗi lúc mỗi giòn dã, cao vút. Con tuấn mã cũng như nghe được những tiếng vó ngựa khác đang tiến về khu rừng này nên nó luôn luôn hí như để báo hiệu cho đồng chủng biết sự có mặt của nó ở đây, đang mong ngày gặp gỡ. Tất cả cảnh vật đều thần tiên. Cánh lá mầu nhung đỏ thẫm rơi nằm đầy trên lối đi lót đá cuội trắng. Ðẹp nhất là những đóa hoa vàng. Mỗi khi gió thổi những tầu lá nhỏ, dài như lá lúa xanh non múa tít rối vào nhau. Chiếc hoa vàng ở giữa làn cỏ biếc nổi lên, huy hoàng lên như người thiếu nữ thủa xa xưa phơi áo lụa giữa trời tháng hạ, gió tháng năm lùa rối tà áo bay vờn quanh nàng. Hoa nhiều quá. Càng đi lên, hoa khắp cả. Những sợi giây leo giống như hoa tóc tiên cuốn bên gốc cổ thụ cao rợp bóng mát. Từng chùm hoa phong lan leo trên bờ đá rêu xanh.
Chàng xuống ngựa, dẫm trên cát mịn. Ðường bây giờ không còn đất nữa mà là cát trắng ngần. Con tuấn mã được nghỉ ngơi, nằm vươn mình trên cỏ xanh mượt. Sau bao nhiêu ngày đi tìm dòng suối của lí tưởng, bây giờ chàng đã sắp đến nơi. Người dũng sĩ ngồi mơ màng nhìn trời cao trong vắt không một gợn mây.
Tiếng chân trên sỏi của một vó ngựa khác mỗi lúc một gần. Chàng dũng sĩ hồi hộp, giờ đây chàng lại sắp có thêm người bạn đồng hành. Tiếng ngựa mỗi lúc mỗi gần. Chàng sốt ruột đứng lên nghe ngóng xem tiếng ngựa đang đến từ phía nào. Dưới đường lên thung lũng có cát bụi bay. Một con bạch mã đang trên đường về phía chàng. Bầy chim hoảng sợ vụt vào gió mỗi khi con bạch mã phóng như một lời chào hội ngộ. Áo của chàng tráng sĩ cỡi con bạch mã bay như cờ trong chiều gió. Nghe tiếng ngựa hí, con tuấn mã của chàng cũng nhẩy chồm dậy ngơ ngác tìm đồng chủng. Người tráng sĩ giơ tay chào chàng nhưng tiếng nói của gã bị tiếng gió đang reo lấn át:
- Lên đường!
Con bạch mã vút qua chỗ chàng đang đứng. Chàng cũng vội lên ngựa đuổi theo con bạch mã. Hai con ngựa hồng đổ dồn dập bước chân trên đá sỏi trắng. Chàng đã có một bạn đồng hành.

* * *
Người tráng sĩ cỡi con bạch mã vừa mới tới mặc chiếc áo khoác nâu. Khi người tráng sĩ đứng trước mặt ông già gác cổng chàng dũng sĩ áo xanh mới thấy rõ chiếc áo nâu của người tráng sĩ kia đã phai mầu, tay áo đã bạc phếch, gấu áo rách tua tủa. Nước da của chàng sạm nắng mặt trời. Khuôn mặt cũng rắn đầy nghị lực phi thường. Trên bờ vai phía sau, áo rách một khoảng để lộ ra vết thương còn trầy da như bị té ngựa. Cánh tay cũng có vết máu. Trên trán, vết thương cũng chưa lành hẳn.
Nghe ông già nói. Tráng sĩ rút thanh gươm đưa ra trước mặt ông già. Chàng dũng sĩ áo xanh thấy thanh gươm của người tráng sĩ nọ đã bị sứt mẻ. Ðầu gươm bị gẫy. Thanh gươm mang nhiều vết loang lổ của đất cát, có những vết đen như nhựa thông khô. Chiếc chuôi gươm cũng rạn nứt. Dấu tích của một thời giao tranh ác liệt. Lúc người tráng sĩ tra thanh gươm vào vỏ, chàng dũng sĩ mới để ý đến chiếc bao, nó đã bị đập vỡ để lộ nguyên một khoảng gươm dài ra ngoài. Chàng tráng sĩ áo nâu đứng nghiêm như tác phong của một sĩ quan trong quân kỉ. Ông già lại nói điều gì đó. Chàng tráng sĩ giơ hai bàn tay ra trước mặt ông. Bây giờ chàng dũng sĩ áo xanh mới thấy hai tay sưng vù, tím bầm. Lòng bàn tay tím đỏ, nát dập như bị hai vết chém đâm qua. Những ngón tay sưng húp làm chàng dũng sĩ chỉ nhìn thôi mà cũng có cảm tưởng đau nhức. Chàng rùng mình vì không hiểu đôi tay sưng như thế thì làm sao mà người tráng sĩ có thể cầm cương ngựa được suốt cuộc hành trình dài.
Cánh cửa mở rộng. Con bạch mã hí lên sung sướng. Tiếng hí vang động khắp núi đồi, rồi nó chồm vó phóng vút vào phía trước mặt.
Có tiếng kèn trổi lên và như có những cung nhạc rất lạ. Máu trong tim chàng đổ dồn dập. Dập dìu đó đây nghe như xôn xao. Núi đồi cũng như say trong mật ong rừng. Chàng có linh cảm rằng ở rất gần đây đang có vũ tiệc. Có ánh sáng và hoa, có trầm hương và những li rượu nạm vàng. Có bình yên vô tận. Có nắng hồng rải hạnh phúc. Có gió hiền đong đưa từng giải lụa, từng tơ vàng óng ả. Chàng hồi hộp quá đỗi cho một chờ mong sắp bắt gặp.
Bây giờ đến lượt chàng dũng sĩ áo xanh. Ông già cũng bảo chàng giơ thanh gươm như chàng tráng sĩ áo nâu lúc nẫy đã làm. Thanh gươm của chàng tuy cũng có vết tích giao chiến nhưng vẫn mới, lấp lánh như một thỏi bạc.
Ông lại bảo chàng giơ tay. Ðôi tay đẹp như tay của tiểu thư chỉ biết đến sách vở chứ không bao giờ phải cày sâu cuốc bẫm. Trên ngón tay áp út có chiếc nhẫn vàng rất xinh. Ông già không nói nhưng từ từ như có mây sương phủ, bóng ông mờ phai dần. Chàng hốt hoảng gọi. Màn sương lại loãng tan và hình ông già lại hiện ra rõ ràng như trước. Chàng linh cảm như sắp có điều gì chẳng lành xẩy đến. Chàng nói với ông:
- Dạ thưa ngài xin để tôi đi qua cổng Ðịnh Mệnh này.
Ông già lắc đầu bảo chàng:
- Không ai được vào nơi đây nếu không phải là kẻ được Thượng Ðế chọn.
- Tôi đã được gọi và tôi đã bỏ tất cả để tìm lên đây.
- Nhưng ta không thấy dấu hiệu nào bảo cho ta biết ngươi là kẻ thuộc về khu vườn hạnh phúc này.
Chàng dũng sĩ rút trong túi áo ra một cây thánh giá bằng vàng ròng. Ðấy là cây thánh giá đi sản từ ba, bốn đời truyền lại. Ông già từ chối:
- Không phải thập giá là dấu hiệu của vương quốc Kitô. Không phải ai có thập giá là được vào đây.
- Vậy dấu hiệu của kẻ được chọn là gì?
Ông già lại bảo chàng giơ bàn tay ra. Tay chàng trắng trẻo dễ thương. Chiếc nhẫn trên ngón áp út làm bàn tay chàng càng thơ mộng và có mầu lãng mạn nữa.
Ông già lắc đầu từ chối:
Dấu của kẻ được chọn là có thương tích vì cùng chịu đóng đinh với Ngài. Vết đinh chứ không phải đinh, vết thương thập giá chứ không phải thập giá.
Nói xong ông già biến mất. Chiếc đèn đã bị thổi tắt. Bóng tối nghẽn đường ước mơ. Khi ông già mất dạng thì chung quanh chàng hoang vắng khô cằn. Không còn chim hót thảnh thơi. Chàng khát nước, mong một li nước trong cơn mệt nhưng tiếng róc rách của con suối thì ở quá sâu. Ðất đá gồ ghề, những con đường sỏi trắng không còn nữa. Mùi ngai ngái của đất ẩm, mùi hăng hắc của nấm rừng làm chàng khó chịu. Cả khu rừng chỉ phất phơ vài bông hoa dại lẻ loi. Chàng lên đường. Lá ở đây mục nát, những con bọ đen bò lầm lũi trên đống rác mục. Cô đơn về trong tim. Chàng muốn gọi nhưng chỉ có mình chàng, chẳng có ai để tìm một chút ủi an. Chung quanh là vắng vẻ mênh mông. Mất. Lạc lối. Người dũng sĩ không còn nhận ra đây là đâu nữa. Cái hoang dại mà chàng phải đối diện không phải là vắng bóng người, vì bao năm nay chàng đã rong ruổi một mình. Hoang dại bây giờ lại tuyệt vọng, nó mở ra như một hố thẳm không đáy. Sự hoang dại của con tim trở thành đối thủ với chính mình. Không còn ai để mà than trách thì than trách chỉ là cay nghiệt với mình. Chàng muốn đâm thanh gươm vào ngực nhưng không đủ can đảm. Chàng muốn chẻ thanh gươm vào mặt nhưng không đủ can đảm. Và chính cái nhát đảm ấy cũng là một cay đắng. Chàng muốn oán trách nhưng oán trách ai, vì có ai ở đây đâu. Chàng muốn gọi một lời nhưng gọi về đâu. Tất cả chỉ là hoang vu. Chàng hiểu hỏa ngục chính là nơi mình đay nghiến mình, nơi biết mình vĩnh viễn là kẻ thù của chính mình.
Trên khu đồi khô cằn, vất vưởng một bóng người lạc lõng.

(Tôi muốn kết câu chuyện ở đây. Mỗi người có thể tự tìm cho mình một lối kết khác, nhẹ nhàng hơn? Nếu lối kết trên đây bi đát thì tôi có thể mở ra một lối ngõ như sau)

Con ngựa đã già. Chàng dũng sĩ ngồi đau khổ trên gò đất mối. Thất vọng nghẽn lối như ngập khói dầy đặc trong hồn. Ðưa tay vuốt ngực. Khó thở. Cô độc. Chàng lững thững đi về phía có tiếng róc rách. Dòng suối ở vực sâu, oan kiên. Chiếc nhẫn trên ngón tay chỉ dầy vò cho oan trái càng thêm khổ sở. Chàng tháo chiếc nhẫn vàng xinh, đưa lên nhìn lần cuối rồi thả xuống vực sâu. Một âm thanh nhỏ vang lên khi chiếc nhẫn chạm mặt nước.
Từ âm thanh nhỏ trong dòng suối có tiếng vọng trong hồn bảo chàng nhìn lên đồi:
- Mùa gặt ở đàng trước mặt.
- Khi nào thì tôi có mùa gặt?
- Khi tay người nông phu sưng lên vì lao tác.
Ðiệp khúc ấy mơ hồ cho chàng một hi vọng mong manh. Ngước lên, chàng thấy ngọn núi không còn xa. Nhưng còn gì nữa đâu mà cố gắng? Cửa đã đóng? Chàng nhìn bàn tay phân vân. Lại ngó lên núi cao. Ðường nào đi mãi rồi cũng đến nơi? Sông nào chảy mãi rồi cũng ra biển? Nhưng làm sao lên được núi cao.
- Hãy trung thành như sóng vỗ! Hãy bền bỉ như thủy triều!
Ði nữa sao? Chàng nhớ về bài học của biển. Gian nan? Chàng nhớ đến bài học của gai, và đôi hoa tai của người thiếu nữ. Nhan sắc và vết thương của gai không thể tách rời. Chàng lại nhìn bàn tay trắng trẻo. Nghĩ ngợi vô chừng.
- Dấu của kẻ được chọn là thương tích của đinh chứ không phải đinh, là thương tích của thập giá chứ không phải thập giá.
Lời của ông già đã xác định. Bấy giờ chàng nghe như chàng đã tránh né nhiều lần trong đời chàng. Chàng lên đường nhưng tâm hồn chưa trọn vẹn siêu thoát. Bàn tay chàng vẫn chưa có dấu vết của lao tác nhọc nhằn. Chàng nhận thức một điều kiện tàn khốc là phải chấp nhận đớn đau như người thiếu nữ muốn có nhan sắc phải chấp nhận cành gai. Ðến lúc đó chàng mới nhìn ra con người thật của chàng. Chàng đã ca ngợi khổ đau bằng văn chương chứ không phải bằng cuộc sống niềm tin. Chàng đã viết những bài thơ ca ngợi đồi máu với thập tự cho đời mà lãng quên chính mình. Rong ruổi tìm ngọn suối của chàng sẽ mãi mãi là ảo tưởng cho đến khi chàng nắm chặt những mũi gai nhọn trong tay.
Những ý tưởng trên vừa làm chàng xót xa nhưng cũng cho chàng hơi ấm. Chàng biết vẫn còn hi vọng ở phía xa. Hi vọng nằm ở cành gai nhọn chứ không phải chỉ ở trong ước mơ. Mơ ước chỉ là khởi điểm. Tim chàng ấm dần, máu chàng đỏ dần mầu náu nóng. Chàng nhìn rõ chứ không còn mơ hồ. Chàng không còn lựa chọn nào khác. Chàng không còn tránh né nào khác. Ðường lên núi cao là đường không nhượng bộ. Tuyệt đối không có nhượng bộ. Tuyệt đối không có thay thế. Những suy tư về tuyệt đối dứt khoát ấy đẩy chàng đến một quyết định sau cùng. Chàng nhìn lên ngọn núi, mơ hồ thấy những ngọn than hồng từ từ rực sáng rồi thành biển lửa cháy bùng dữ dội. Nhưng biển lửa ấy chỉ cháy bùng khi chàng lao mình đi tới với tất cả thương đau, gian nan. Nhìn biển lửa của thách đố mời gọi, chàng xốc ngựa, che giấu nỗi đau, thúc ngựa lên đường.
Ði chưa được nửa ngày thì đường trở nên gồ ghề toàn đá nhọn. Chàng phải xuống dắt ngựa theo. Lần đầu mới xuống khỏi ngựa chàng đã trượt chân té ngã, ê ẩm cả đầu gối. Trèo qua được một quãng thì bàn tay chàng đã xước da vì phải bám chặt vào đá mà bò. Chân chàng rớm máu. Giờ gian nan đã điểm. Một con suối sâu hoắm trước mặt. Con ngựa già không thể vượt qua được nữa. Người dũng sĩ thương con tuấn mã đến ứa lệ. Chàng phải từ giã con tuấn mã. Chàng phải dẫm lên đá nhọn mà đi. Ðến ôm con ngựa lần cuối. Chàng thấy như xé ruột gan khi phải dứt lìa một thân mến sau cùng. Chàng nhìn con ngựa lần cuối, giơ tay vẫy chào vĩnh viễn rồi tìm theo lối đi nhỏ dẫn xuống vực sâu. Nước ở bên dưới chảy như thác lũ. Thấy một chỗ an toàn nhất, chàng lấy hết sức mình nhẩy qua. Bờ đá vỡ lở rơi xuống ầm ầm. Toàn thân chàng lơ lửng trên không. Bờ bên kia chưa tới. Chàng kinh hoàng rụng rời khi biết mình không thể đặt chân được lên bờ bên kia. Vực đá sâu thẳm. Chàng hét lên sợ hãi, đập mạnh tay bám vào gốc tre già đã bị chặt cụt nhọn hoắt. Một mũi đâm ngọt lịm, gốc tre sắc như dao đâm xiên qua lòng bàn tay treo chàng lơ lửng giữa bờ đá. Toàn thân run lên vì đau đớn, sợ hãi. Mồ hôi và máu chảy đầm đìa. Sức nặng của toàn thân xé rách dần bàn tay. Máu chảy dốc theo cánh tay. Nhưng nếu không có gốc tre xuyên qua bàn tay để giữ lại, chàng đã rơi xuống vực sâu nát bấy. Ðôi chân co quắp giữ lấy bờ đá. Khi chàng leo lên được thì bàn tay như toạc ra. Chàng không còn bước vững nữa. Lảo đảo cố té. Còn lại bàn tay duy nhất vội giơ ra chống đỡ. Chồng đá rung động sập xuống, máu chảy chan hòa nhuộm đỏ một vùng đá cứng. Con ngựa hí lên đau thương nhìn chủ nó thân yêu gục chết.
Khi có điệu nhạc vô thường trổi lên thì Vườn Hạnh Phúc biết là sắp có một dũng sĩ đến. Cả Vườn Hạnh Phúc xôn xao chờ đón. Chàng tráng sĩ áo nâu nheo mắt nhìn và chàng nhận ra ngay vị dũng sĩ đang đến trong tiếng đàn sáo hoan ca tưng bừng là người đã từng bị từ chối ở cổng thành.

Lời suy tư:

Ðường lên núi cao của Phaolô:
Những điều gì bất cứ người ta dám làm, thì, thật tôi nói như nổi khùng, tôi cũng dám làm. Họ là người Hippri ư? Tôi cũng thế! Họ là người Israel ư? Tôi cũng thế! Họ là dòng giống Abraham ư? Tôi cũng thế! Họ là tôi tớ Ðức Kitô ư? Tôi nói rất mực điên khùng là tôi còn hơn gấp mấy! Hơn nhiều bởi công lao, hơn nhiều bởi tù rạc, đòn vọt, lắm lần hầu đã vong mạng. Năm lần tôi bị người Do Thái đánh đòn ba mươi chín trượng, ba lần tôi bị tra tấn, một lần tôi bị ném đá, ba lần tôi đã đắm tầu, và đã qua một ngày một đêm chơi vơi trong lòng biển. Tôi chịu nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm nơi những anh em giả. Lao đao vất vả bởi thao thức thường bữa, bởi đói khát, bởi nhịn ăn lắm bận, bởi lạnh rét, bởi mình trần (2 Cor. 11:22-27).
Ðường lên núi cao của người thanh niên:
- Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?
- Nếu ngươi muốn nên trọn lành, thì hãy đi bán hết những gì ngươi có mà cho người nghèo, ngươi sẽ được kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta. Nghe lời đó người thanh niên cúi mặt bỏ đi buồn rầu (Mt. 19:23-24).

Lời cuối

* Chuyện chỉ là tưởng tượng. Nhưng đường về cõi vĩnh hằng là có thật. Kẻ được chọn sẽ là người mang thương tích của thập giá chứ không phải kẻ chỉ ca ngợi thập giá, điều ấy có thật. Mặt trời và biển là điều có thật. Gai và đau khổ là điều có thật. Ðơn độc trong mưa là điều có thật. Gian nan để theo đuổi lí tưởng là điều có thật. Trong những điều có thật này, Phaolô bảo rằng ông không quản ngại gian nan, vì "gian nan trong hiện tại gây nên cho ông đời đời một khối vinh quang siêu vời tuyệt đỉnh, miễn sao đừng dán mắt vào những điều trông thấy được, vì hữu hình là phù vân, vô hình mới trường cửu" (2 Cor. 4:16-18).
* Nếu những điều trông thấy là phù vân, vô hình mới trường cửu, thì, có phải những gì vô hình trong tưởng tượng cũng chưa chắc là tưởng tượng phù vân?