Ti_Amo
20-12-2010, 03:50 PM
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày hoà bình thế giới 1-1-2011
VietCatholic News (19 Dec 2010 10:40)
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày hoà bình thế giới 1-1-2011 ( Phần 1)
Tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình
1. Vào đầu Năm Mới, tôi muốn gửi lời chúc mừng đến tất cả và từng người; những lời cầu chúc khang an và thịnh vượng, nhưng nhất là lời cầu chúc an bình. Đáng tiếc là trong năm sắp chấm dứt cũng đã có những cuộc bách hại, kỳ thị và những hành vi kinh khủng bạo lực và bất bao dung về tôn giáo.
Tôi đặc biệt nghĩ đến đất nước Irak yêu quí, trên con đường tiến tới sự ổn định và hòa giải vẫn hằng mong ước, quốc gia này tiếp tục là nơi xảy ra bạo lực và khủng bố. Tôi nghĩ đến những đau khổ mới đây của cộng đồng Kitô, cách riêng là vụ khủng bố hèn nhát chống lại Nhà thờ chính tòa ”Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” của Giáo hội Công Giáo Siri ở Baghdad: tại đây ngày 31-10 vừa qua hai linh mục và hơn 50 tín hữu đã bị giết, trong lúc họp nhau để cử hành Thánh Lễ. Vài ngày sau đó có thêm những cuộc tấn không khác, kể cả tại các tư gia, tạo nên sợ hãi trong cộng đoàn Kitô và làm cho nhiều người muốn xuất cư để tìm kiếm những điều kiện sống tốt đẹp hơn. Tôi bảo đảm với họ sự gần gũi của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Tâm tình này đã được biểu lộ một cách cụ thể trong Thượng HĐGM đặc biệt gần đây về Trung Đông. Công nghị GM ấy đã gửi đến các cộng đoàn Công Giáo tại Irak và toàn vùng Trung Đông, lời khích lệ sống tình hiệp thông và tiếp tục làm chứng tá can đảm về đức tin tại các vùng ấy.
Tôi nhiệt liệt cám ơn các chính phủ đã nỗ lực thoa dịu đau khổ của những anh chị em ấy và mời gọi tất cả các tín hữu Công Giáo hãy cầu nguyện cho anh chị em đồng đạo của mình đang chịu đau khổ vì bạo lực và bất bao dung, và hãy liên đới với họ. Trong bối cảnh ấy, tôi nồng nhiệt cảm thấy cơ hội rất thuận tiện để chia sẻ với tất cả anh chị em một số suy tư về tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình. Thực vậy, thật là đau lòng khi nhận thấy tại một số miền trên thế giới người ta không thể tuyên xưng và tự do biểu lộ tôn giáo của mình, vì có nguy cơ bị mất mạng và mất tự do bản thân. Tại các miền khác, có những hình thức âm thầm và tinh vi hơn qua những thành kiến và chống đối các tín hữu và các biểu tượng tôn giáo. Hiện nay các tín hữu Kitô là nhóm tôn giáo đang phải chịu nhiều cuộc bách hại nhất vì đức tin. Bao nhiêu người hằng ngày phải chịu những xúc phạm và thường sống trong sợ hãi vì sự tìm kiếm của họ đối với chân lý, vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu Kitô và lời kêu gọi chân thành của họ yêu cầu nhìn nhận tự do tôn giáo. Tất cả những điều ấy không thể chấp nhận được, vì đó là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa và phẩm giá con người; hơn nữa, đó là một đe dọa an ninh và hòa bình, và nó ngăn cản việc thực thi sự phát triển toàn diện đích thực cho con người (1).
Thực vậy, chính trong tự do tôn giáo có biểu lộ đặc tính của con người, nhờ tự do ấy con người có thể xếp đặt đời sống bản thân và xã hội của mình theo Thiên Chúa: dưới ánh sáng của Chúa, con người hiểu được trọn vẹn căn tính, ý nghĩa và cùng đích của mình. Phủ nhận hoặc giới hạn tự do tôn giáo một cách độc đoán có nghĩa là nuôi dưỡng một quan niệm hẹp hòi về con người, làm lu mờ vai trò công cộng của tôn giáo có nghĩa là tạo nên một xã hội bất công, vì không hợp với bản chất đích thực của con người; điều này có nghĩa là làm cho sự khẳng định một nền hòa bình chân chính và lâu bền của toàn thể nhân loại trở thành điều không thể thực hiện được.
Vì vậy, tôi nhắn nhủ những người nam nữ thiện chí hãy canh tân quyết tâm xây dựng một thế giới trong đó tất cả mọi người đều được tự do tuyên ưng tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình và sống tình yêu của mình đối với Thiên Chúa một cách hết lòng, hết linh hồn và tâm trí (Xc Mt 22,37). Đó chính là tâm tình gợi hứng và hướng dẫn Sứ điệp nhân ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 45 với chủ đề ”Tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình”.
Quyền thánh thiêng được sống và có đời sống tinh thần
2. Quyền tự do tôn giáo có căn cội trong chính phẩm giá con người (2), và không thể làm ngơ không biết tới hoặc lơ là bản tính siêu việt của con người. Thiên Chúa đã dựng nên con người nam nữ theo hình ảnh giống Ngài (Xc St 1,27). Vì thế, mỗi người đều có quyền thánh thiêng là có một cuộc sống toàn vẹn về phương diện tinh thần. Nếu không nhìn nhận bản chất tinh thần của mình, không cởi mở đối với siêu việt, thì con người sẽ co cụm vào mình, không tìm được những câu trả lời cho những vấn nạn của tâm hồn mình về ý nghĩa cuộc sống và không thủ đắc được những giá trị và nguyên tắc luân lý lâu bền. Họ cũng không cảm nghiệm được tự do chân thực cũng như không phát triển một xã hội công chính (3).
Kinh Thánh, cùng với chính kinh nghiệm của chúng ta, cho thấy giá trị sâu xa của phẩm giá con người: ”Khi con nhìn trời cao, công trình do tay Chúa dựng nên, mặt trăng và các vì sao Chúa mà đã tạo dựng, thì con người có là chi mà Chúa nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Quả thực, Chúa đã dựng nên con người chỉ kém thần linh, ban vinh quang và danh dự cho họ. Chúa cho con người quyền làm chủ trên các công trình tay Chúa dựng nên, Chúa đặt mọi sự dưới chân con người” (Tv 8,4-7).
Đứng trước thực tại cao cả của bản tính con người, chúng ta có thể cảm nghiệm cùng thái độ ngưỡng mộ như tác giả thánh vịnh. Thực tại ấy được biểu mộ như một sự cởi mở đối với Mầu Nhệm, như khả năng tự hỏi sâu thẳm về chính mình và về nguồn gốc của vũ trụ, như một âm vang sâu xa về Tình Yêu tột đỉnh của Thiên Chúa, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của vạn vật, của mọi người và mọi dân tộc (4). Phẩm giá siêu việt của con người là một giá trị thiết yếu của sự khôn ngoan Do thái Kitô, nhưng nhờ lý trí, mọi người cũng có thể nhận biết được. Phẩm giá này, được hiểu như khả năng vượt lên trên chất thể của mình và tìm kiếm chân lý, cần được nhìn nhận như một thiện ích phổ quát, tối cần thiết cho việc xây dựng một xã hội hướng về sự thực hiện và sự viên mãn của con người. Sự tôn trọng các yếu tố thiết yếu của phẩm giá con người, như quyền sống và quyền tự do tôn giáo, chính là một điều kiện để mọi qui luật xã hội và pháp lý được hợp pháp về luân lý.
Tự do tôn giáo và sự tôn trọng nhau
3. Tự do tôn giáo ở căn cội tự do luân lý. Thực vậy, sự cởi mở đối với chân lý và sự thiện, cởi mở đối với Thiên Chúa, có nguồn cội nơi bản tính con người, mang lại phẩm giá trọn vẹn cho mỗi người và là bảo đảm sự tôn trọng giữa con người với nhau một cách trọn vẹn. Vì thế, tự do tôn giáo phải được hiểu không phải chỉ là không bị cưỡng bách, nhưng trước tiên như một khả năng xếp đặt các chọn lựa của mình theo chân lý.
Có một mối liên hệ không thể tách rời giữa tự do và tôn trọng; lý do vì, ”luật luân lý bó buộc mọi người và mọi nhóm xã hội, khi thi hành các quyền của mình, phải để ý tới các quyền của người khác, cũng như tới những nghĩa vụ của mình đối với người khác và công ích của mọi người” (5).
Một tự do thù nghịch và dửng dưng đối với Thiên Chúa rốt cục sẽ chối bỏ chính tự do và không bảo đảm sự tôn trọng hoàn toàn đối với tha nhân. Một ý chí tin rằng mình hoàn toàn không có khả năng tìm sự thật và sự thiện thì không có những lý do khách quan và những động lực để hành động, ngoài những động lực do lợi lộc nhất thời và phụ thuộc của mình, ý chí ấy không có ”một căn tính” phải bảo tồn và xây dựng khi thực hiện những chọn lựa thực sự tự do và có ý thức. Vì thế, không thể đòi sự tôn trọng từ phía những ”ý chí” khác, và những ý chí này cũng bị tách rời khỏi bản chất sâu xa nhất của họ, và do đó không thể nại tới những ”lý do” khác, hoặc thậm chí không có lý do nào. Ảo tưởng theo đó người ta có thể tìm thấy trong sự duy tương đối về luân lý một chìa khóa để sống chung hòa bình, trong thực tế nó là nguồn gốc gây ra chia rẽ và phủ nhận phẩm giá của con người. Vì thế, ta hiểu tại sao cần phải nhìn nhận cả hai chiều kích trong con người: chiều kích tôn giáo và chiều kích xã hội. Về vấn đề này, không thể chủ trương các tín hữu ”phải loại bỏ một phần của mình, tức là đức tin của họ, để trở thành những công dân tích cực; không bao giờ cần phải phủ nhận Thiên Chúa để có thể hưởng các quyền của mình” (6)
Gia đình, trường dạy tự do và hòa bình
4. Nếu tự do tôn giáo là con đường dẫn đến hòa bình, thì giáo dục tôn giáo là con đường ưu tiên để giúp giới trẻ có khả năng nhìn nhận tha nhân là anh em, chị em của mình, cùng tiến bước và cộng tác để tất cả mọi người cảm thấy mình là những phần tử sinh động của cùng một gia đình nhân loại, và không ai bị loại khỏi gia đình này.
Gia đình dựa trên hôn nhân, biểu lộ sự kết hiệp thân mật và bổ túc giữa người một người nam và một người nữ, được tháp nhập vào bối cảnh chung như trường học đầu tiên để huấn luyện và làm tăng trưởng con cái về mặt xã hội, văn hóa, luân lý và tinh thần, chúng phải luôn luôn có thể tìm được nơi cha mẹ những chứng nhân đầu tiên về một cuộc sống hướng về sự tìm kiếm chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Chính các cha mẹ phải luôn được tự do và với tinh thần trách nhiệm thông truyền gia sản đức tin, các giá trị và văn hóa của mình cho con cái mà không bị cưỡng bách. Gia đình, tế bào đầu tiên của xã hội loài người, vẫn là môi trường đầu tiên để huấn luyện về những quan hệ hòa hợp ở mọi cấp độ của sự sống chung giữa con người, quốc gia và quốc tế. Đây là con đường phải theo một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội vững chắc và liên đới, để chuẩn bị người trẻ đảm nhận trách nhiệm của họ trong cuộc sống, giữa một xã hội tự do, trong một tinh thần cảm thông và an bình.
Một gia sản chung
5. Ta có thể nói rằng, trong số các quyền và tự do cơ bản có căn cội trong phẩm giá con người, tự do tôn giáo có một qui chế đặc biệt. Khi tự do tôn giáo được nhìn nhận, thì phẩm giá con người được tôn trọng trong căn cội của nó và luân lý cũng như các định chế của các dân tộc được củng cố. Trái lại, khi tự do tôn giáo bị chối bỏ, khi toan tính ngăn cản việc tuyên xưng tôn giáo hoặc tín ngưỡng và cuộc sống phù hợp với tôn giáo, thì người ta xúc phạm đến phẩm giá con người, và đồng thời đe dọa công lý và hòa bình, là những điều dựa trên trật tự ngay thẳng của xã hội được xây dựng dưới ánh sáng của Sự Thật và Sự Thiện Tối Cao.
Tự do tôn giáo theo nghĩa này cũng là sự thủ đắc nền văn minh chính trị và pháp lý. Nó là một thiện ích thiết yếu: mỗi người phải có thể tự do thi hành quyền tuyên xưng và bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, một cách cá nhân hoặc cộng đồng, công khai hoặc riêng tư, trong việc giảng dạy, trong việc thực hành, qua việc ấn loát, trong việc phụng tự và tuân giữ các lễ nghi. Họ không phải gặp chướng ngại nếu họ muốn đi theo một tôn giáo hoặc hoặc không tuyên xưng tôn giáo nào. Trong lãnh vực này, các qui định quốc tế là điều tiêu biểu và là ví dụ quan trọng cho các quốc gia, chúng không chấp nhận vi phạm nào đối với tự do tôn giáo, ngoại trừ những đòi khỏi chính đáng của trật tự công cộng được thi hành theo công lý (7). Qui định quốc tế nhìn nhận rằng các quyền về tôn giáo có cùng qui chế như quyền sống và tự do cá nhân, vì chúng thuộc về nòng cốt các quyền con người, thuộc về các quyền phổ quát và tự nhiên mà nhân luật không bao giờ có thể chối bỏ.
Tự do tôn giáo không phải là một gia sản độc quyền của các tín hữu, nhưng của toàn thể gia đình các dân tộc trên trái đất. Đó là một yếu tố không thể thiếu trong một Nhà nước pháp quyền; người ta không thể phủ nhận quyền tự do này mà không đồng thời làm thương tổn tất cả các quyền và tự do cơ bản, bởi vì nó là tổng hợp và là tột đỉnh của tất cả các quyền đó. Tự do tôn giáo là phương thế để kiểm chứng xem tất cả các nhân quyền khác có được tôn trọng hay không” (8). Tự do tôn giáo tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực thi các khả năng tiêu biểu nhất của con người, đồng thời tạo nên tiền đề cần thiết để thực hiện sự phát triển toàn diện, một sự phát triển toàn con người trong mọi chiều kích (9).
( còn tiếp )
VietCatholic News (19 Dec 2010 10:40)
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày hoà bình thế giới 1-1-2011 ( Phần 1)
Tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình
1. Vào đầu Năm Mới, tôi muốn gửi lời chúc mừng đến tất cả và từng người; những lời cầu chúc khang an và thịnh vượng, nhưng nhất là lời cầu chúc an bình. Đáng tiếc là trong năm sắp chấm dứt cũng đã có những cuộc bách hại, kỳ thị và những hành vi kinh khủng bạo lực và bất bao dung về tôn giáo.
Tôi đặc biệt nghĩ đến đất nước Irak yêu quí, trên con đường tiến tới sự ổn định và hòa giải vẫn hằng mong ước, quốc gia này tiếp tục là nơi xảy ra bạo lực và khủng bố. Tôi nghĩ đến những đau khổ mới đây của cộng đồng Kitô, cách riêng là vụ khủng bố hèn nhát chống lại Nhà thờ chính tòa ”Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” của Giáo hội Công Giáo Siri ở Baghdad: tại đây ngày 31-10 vừa qua hai linh mục và hơn 50 tín hữu đã bị giết, trong lúc họp nhau để cử hành Thánh Lễ. Vài ngày sau đó có thêm những cuộc tấn không khác, kể cả tại các tư gia, tạo nên sợ hãi trong cộng đoàn Kitô và làm cho nhiều người muốn xuất cư để tìm kiếm những điều kiện sống tốt đẹp hơn. Tôi bảo đảm với họ sự gần gũi của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Tâm tình này đã được biểu lộ một cách cụ thể trong Thượng HĐGM đặc biệt gần đây về Trung Đông. Công nghị GM ấy đã gửi đến các cộng đoàn Công Giáo tại Irak và toàn vùng Trung Đông, lời khích lệ sống tình hiệp thông và tiếp tục làm chứng tá can đảm về đức tin tại các vùng ấy.
Tôi nhiệt liệt cám ơn các chính phủ đã nỗ lực thoa dịu đau khổ của những anh chị em ấy và mời gọi tất cả các tín hữu Công Giáo hãy cầu nguyện cho anh chị em đồng đạo của mình đang chịu đau khổ vì bạo lực và bất bao dung, và hãy liên đới với họ. Trong bối cảnh ấy, tôi nồng nhiệt cảm thấy cơ hội rất thuận tiện để chia sẻ với tất cả anh chị em một số suy tư về tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình. Thực vậy, thật là đau lòng khi nhận thấy tại một số miền trên thế giới người ta không thể tuyên xưng và tự do biểu lộ tôn giáo của mình, vì có nguy cơ bị mất mạng và mất tự do bản thân. Tại các miền khác, có những hình thức âm thầm và tinh vi hơn qua những thành kiến và chống đối các tín hữu và các biểu tượng tôn giáo. Hiện nay các tín hữu Kitô là nhóm tôn giáo đang phải chịu nhiều cuộc bách hại nhất vì đức tin. Bao nhiêu người hằng ngày phải chịu những xúc phạm và thường sống trong sợ hãi vì sự tìm kiếm của họ đối với chân lý, vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu Kitô và lời kêu gọi chân thành của họ yêu cầu nhìn nhận tự do tôn giáo. Tất cả những điều ấy không thể chấp nhận được, vì đó là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa và phẩm giá con người; hơn nữa, đó là một đe dọa an ninh và hòa bình, và nó ngăn cản việc thực thi sự phát triển toàn diện đích thực cho con người (1).
Thực vậy, chính trong tự do tôn giáo có biểu lộ đặc tính của con người, nhờ tự do ấy con người có thể xếp đặt đời sống bản thân và xã hội của mình theo Thiên Chúa: dưới ánh sáng của Chúa, con người hiểu được trọn vẹn căn tính, ý nghĩa và cùng đích của mình. Phủ nhận hoặc giới hạn tự do tôn giáo một cách độc đoán có nghĩa là nuôi dưỡng một quan niệm hẹp hòi về con người, làm lu mờ vai trò công cộng của tôn giáo có nghĩa là tạo nên một xã hội bất công, vì không hợp với bản chất đích thực của con người; điều này có nghĩa là làm cho sự khẳng định một nền hòa bình chân chính và lâu bền của toàn thể nhân loại trở thành điều không thể thực hiện được.
Vì vậy, tôi nhắn nhủ những người nam nữ thiện chí hãy canh tân quyết tâm xây dựng một thế giới trong đó tất cả mọi người đều được tự do tuyên ưng tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình và sống tình yêu của mình đối với Thiên Chúa một cách hết lòng, hết linh hồn và tâm trí (Xc Mt 22,37). Đó chính là tâm tình gợi hứng và hướng dẫn Sứ điệp nhân ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 45 với chủ đề ”Tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa bình”.
Quyền thánh thiêng được sống và có đời sống tinh thần
2. Quyền tự do tôn giáo có căn cội trong chính phẩm giá con người (2), và không thể làm ngơ không biết tới hoặc lơ là bản tính siêu việt của con người. Thiên Chúa đã dựng nên con người nam nữ theo hình ảnh giống Ngài (Xc St 1,27). Vì thế, mỗi người đều có quyền thánh thiêng là có một cuộc sống toàn vẹn về phương diện tinh thần. Nếu không nhìn nhận bản chất tinh thần của mình, không cởi mở đối với siêu việt, thì con người sẽ co cụm vào mình, không tìm được những câu trả lời cho những vấn nạn của tâm hồn mình về ý nghĩa cuộc sống và không thủ đắc được những giá trị và nguyên tắc luân lý lâu bền. Họ cũng không cảm nghiệm được tự do chân thực cũng như không phát triển một xã hội công chính (3).
Kinh Thánh, cùng với chính kinh nghiệm của chúng ta, cho thấy giá trị sâu xa của phẩm giá con người: ”Khi con nhìn trời cao, công trình do tay Chúa dựng nên, mặt trăng và các vì sao Chúa mà đã tạo dựng, thì con người có là chi mà Chúa nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Quả thực, Chúa đã dựng nên con người chỉ kém thần linh, ban vinh quang và danh dự cho họ. Chúa cho con người quyền làm chủ trên các công trình tay Chúa dựng nên, Chúa đặt mọi sự dưới chân con người” (Tv 8,4-7).
Đứng trước thực tại cao cả của bản tính con người, chúng ta có thể cảm nghiệm cùng thái độ ngưỡng mộ như tác giả thánh vịnh. Thực tại ấy được biểu mộ như một sự cởi mở đối với Mầu Nhệm, như khả năng tự hỏi sâu thẳm về chính mình và về nguồn gốc của vũ trụ, như một âm vang sâu xa về Tình Yêu tột đỉnh của Thiên Chúa, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của vạn vật, của mọi người và mọi dân tộc (4). Phẩm giá siêu việt của con người là một giá trị thiết yếu của sự khôn ngoan Do thái Kitô, nhưng nhờ lý trí, mọi người cũng có thể nhận biết được. Phẩm giá này, được hiểu như khả năng vượt lên trên chất thể của mình và tìm kiếm chân lý, cần được nhìn nhận như một thiện ích phổ quát, tối cần thiết cho việc xây dựng một xã hội hướng về sự thực hiện và sự viên mãn của con người. Sự tôn trọng các yếu tố thiết yếu của phẩm giá con người, như quyền sống và quyền tự do tôn giáo, chính là một điều kiện để mọi qui luật xã hội và pháp lý được hợp pháp về luân lý.
Tự do tôn giáo và sự tôn trọng nhau
3. Tự do tôn giáo ở căn cội tự do luân lý. Thực vậy, sự cởi mở đối với chân lý và sự thiện, cởi mở đối với Thiên Chúa, có nguồn cội nơi bản tính con người, mang lại phẩm giá trọn vẹn cho mỗi người và là bảo đảm sự tôn trọng giữa con người với nhau một cách trọn vẹn. Vì thế, tự do tôn giáo phải được hiểu không phải chỉ là không bị cưỡng bách, nhưng trước tiên như một khả năng xếp đặt các chọn lựa của mình theo chân lý.
Có một mối liên hệ không thể tách rời giữa tự do và tôn trọng; lý do vì, ”luật luân lý bó buộc mọi người và mọi nhóm xã hội, khi thi hành các quyền của mình, phải để ý tới các quyền của người khác, cũng như tới những nghĩa vụ của mình đối với người khác và công ích của mọi người” (5).
Một tự do thù nghịch và dửng dưng đối với Thiên Chúa rốt cục sẽ chối bỏ chính tự do và không bảo đảm sự tôn trọng hoàn toàn đối với tha nhân. Một ý chí tin rằng mình hoàn toàn không có khả năng tìm sự thật và sự thiện thì không có những lý do khách quan và những động lực để hành động, ngoài những động lực do lợi lộc nhất thời và phụ thuộc của mình, ý chí ấy không có ”một căn tính” phải bảo tồn và xây dựng khi thực hiện những chọn lựa thực sự tự do và có ý thức. Vì thế, không thể đòi sự tôn trọng từ phía những ”ý chí” khác, và những ý chí này cũng bị tách rời khỏi bản chất sâu xa nhất của họ, và do đó không thể nại tới những ”lý do” khác, hoặc thậm chí không có lý do nào. Ảo tưởng theo đó người ta có thể tìm thấy trong sự duy tương đối về luân lý một chìa khóa để sống chung hòa bình, trong thực tế nó là nguồn gốc gây ra chia rẽ và phủ nhận phẩm giá của con người. Vì thế, ta hiểu tại sao cần phải nhìn nhận cả hai chiều kích trong con người: chiều kích tôn giáo và chiều kích xã hội. Về vấn đề này, không thể chủ trương các tín hữu ”phải loại bỏ một phần của mình, tức là đức tin của họ, để trở thành những công dân tích cực; không bao giờ cần phải phủ nhận Thiên Chúa để có thể hưởng các quyền của mình” (6)
Gia đình, trường dạy tự do và hòa bình
4. Nếu tự do tôn giáo là con đường dẫn đến hòa bình, thì giáo dục tôn giáo là con đường ưu tiên để giúp giới trẻ có khả năng nhìn nhận tha nhân là anh em, chị em của mình, cùng tiến bước và cộng tác để tất cả mọi người cảm thấy mình là những phần tử sinh động của cùng một gia đình nhân loại, và không ai bị loại khỏi gia đình này.
Gia đình dựa trên hôn nhân, biểu lộ sự kết hiệp thân mật và bổ túc giữa người một người nam và một người nữ, được tháp nhập vào bối cảnh chung như trường học đầu tiên để huấn luyện và làm tăng trưởng con cái về mặt xã hội, văn hóa, luân lý và tinh thần, chúng phải luôn luôn có thể tìm được nơi cha mẹ những chứng nhân đầu tiên về một cuộc sống hướng về sự tìm kiếm chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Chính các cha mẹ phải luôn được tự do và với tinh thần trách nhiệm thông truyền gia sản đức tin, các giá trị và văn hóa của mình cho con cái mà không bị cưỡng bách. Gia đình, tế bào đầu tiên của xã hội loài người, vẫn là môi trường đầu tiên để huấn luyện về những quan hệ hòa hợp ở mọi cấp độ của sự sống chung giữa con người, quốc gia và quốc tế. Đây là con đường phải theo một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội vững chắc và liên đới, để chuẩn bị người trẻ đảm nhận trách nhiệm của họ trong cuộc sống, giữa một xã hội tự do, trong một tinh thần cảm thông và an bình.
Một gia sản chung
5. Ta có thể nói rằng, trong số các quyền và tự do cơ bản có căn cội trong phẩm giá con người, tự do tôn giáo có một qui chế đặc biệt. Khi tự do tôn giáo được nhìn nhận, thì phẩm giá con người được tôn trọng trong căn cội của nó và luân lý cũng như các định chế của các dân tộc được củng cố. Trái lại, khi tự do tôn giáo bị chối bỏ, khi toan tính ngăn cản việc tuyên xưng tôn giáo hoặc tín ngưỡng và cuộc sống phù hợp với tôn giáo, thì người ta xúc phạm đến phẩm giá con người, và đồng thời đe dọa công lý và hòa bình, là những điều dựa trên trật tự ngay thẳng của xã hội được xây dựng dưới ánh sáng của Sự Thật và Sự Thiện Tối Cao.
Tự do tôn giáo theo nghĩa này cũng là sự thủ đắc nền văn minh chính trị và pháp lý. Nó là một thiện ích thiết yếu: mỗi người phải có thể tự do thi hành quyền tuyên xưng và bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, một cách cá nhân hoặc cộng đồng, công khai hoặc riêng tư, trong việc giảng dạy, trong việc thực hành, qua việc ấn loát, trong việc phụng tự và tuân giữ các lễ nghi. Họ không phải gặp chướng ngại nếu họ muốn đi theo một tôn giáo hoặc hoặc không tuyên xưng tôn giáo nào. Trong lãnh vực này, các qui định quốc tế là điều tiêu biểu và là ví dụ quan trọng cho các quốc gia, chúng không chấp nhận vi phạm nào đối với tự do tôn giáo, ngoại trừ những đòi khỏi chính đáng của trật tự công cộng được thi hành theo công lý (7). Qui định quốc tế nhìn nhận rằng các quyền về tôn giáo có cùng qui chế như quyền sống và tự do cá nhân, vì chúng thuộc về nòng cốt các quyền con người, thuộc về các quyền phổ quát và tự nhiên mà nhân luật không bao giờ có thể chối bỏ.
Tự do tôn giáo không phải là một gia sản độc quyền của các tín hữu, nhưng của toàn thể gia đình các dân tộc trên trái đất. Đó là một yếu tố không thể thiếu trong một Nhà nước pháp quyền; người ta không thể phủ nhận quyền tự do này mà không đồng thời làm thương tổn tất cả các quyền và tự do cơ bản, bởi vì nó là tổng hợp và là tột đỉnh của tất cả các quyền đó. Tự do tôn giáo là phương thế để kiểm chứng xem tất cả các nhân quyền khác có được tôn trọng hay không” (8). Tự do tôn giáo tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực thi các khả năng tiêu biểu nhất của con người, đồng thời tạo nên tiền đề cần thiết để thực hiện sự phát triển toàn diện, một sự phát triển toàn con người trong mọi chiều kích (9).
( còn tiếp )